1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Danh nhân xứ Nghệ (Tổng hợp các bài viết về những người con tiêu biểu của Nghệ Tĩnh)

Chủ đề trong 'Nghệ Tĩnh' bởi natna, 06/02/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. natna

    natna Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/05/2003
    Bài viết:
    1.411
    Đã được thích:
    0
    Danh nhân xứ Nghệ (Tổng hợp các bài viết về những người con tiêu biểu của Nghệ Tĩnh)

    Vẫn biết là đã có chủ đề [topic]74682[/topic], nhưng nội dung của topic đó chủ yếu là giới thiệu về địa lý, về văn hóa ẩm thực và gia phong xứ Nghệ mà ít có các bài nói về các văn nhân, các khoa học gia - những người con tiêu biểu của xứ Nghệ. Vì vậy để khích lệ lòng tự hào của chúng ta về quê hương và cũng để cho các thành viên tiện sưu tầm và post các bài viết về những người con tiêu biểu của Nghệ Tĩnh, tôi xin lập chủ đề "Văn nhân xứ Nghệ". Mong nhận được sự đóng góp nhiệt tình của bà con.


    The Soul of NgheTinhIIR
  2. natna

    natna Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/05/2003
    Bài viết:
    1.411
    Đã được thích:
    0
    THỜI THƠ ẤU VÀ THANH NIÊN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH (1890-1911)
    Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 nZm 1890 tại quê ngoại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nhà nho.

    Ông Nguyễn Sinh Sắc
    Bà Hoàng Thị Loan
    Hồ Chủ Tịch
    Thân phụ Chủ tịch Hồ Chí Minh là ông Nguyễn Sinh Sắc, sinh nZm 1862 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ nhưng ông sớm có ý chí tự lập, thông minh, ham học.
    NZm 1901 Nguyễn Sinh Sắc thi Hội và đậu Phó bảng. Tuy đỗ cao nhưng ông vẫn sống rất thanh bạch, khiêm tốn, ghét thói xu nịnh, cam phận của các quan lại trong triều đình Huế. Ông chỉ làm quan trong một thời gian ngắn và sau đó sống bằng nghề dạy học, bắt mạch bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Ông đã đi nhiều nơi, liên lạc với những người yêu nước, tuyên truyền đoàn kết, kêu gọi nhân dân sống có tình nghĩa thủy chung. Tư tưởng yêu nước tiến bộ, nhân cách cao thượng của ông đã ảnh hưởng rất sâu sắc đến những người con. Ông qua đời tại thị xã Cao Lãnh (Đồng Tháp) vào nZm 1929, thọ 67 tuổi.
    Thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh là bà Hoàng Thị Loan sinh nZm 1868 trong một gia đình nho học. Bà là một phụ nữ thông minh, cần cù chịu khó, thương yêu chồng con và giàu lòng nhân ái. Bằng nghề làm ruộng và dệt vải bà đã hết lòng chZm lo cho chồng và các con. Cuộc đời của bà tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại hình ảnh về một phụ nữ Việt Nam sống có tình nghĩa và có ảnh hưởng rất lớn tới tư cách của các con mình. Bà Hoàng Thị Loan qua đời tại Huế nZm 1901, lúc 33 tuổi.
    Chị gái Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Thị Thanh, sinh nZm 1884. Chị đã tham gia nhiều phong trào yêu nước, nhiều lần bị thực dân Pháp và triều đình phong kiến bắt giam. Nguyễn Thị Thanh qua đời tại quê hương nZm 1954, thọ 70 tuổi.
    Anh trai Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Khiêm, sinh nZm 1888. Từ tuổi thanh niên, Nguyễn Sinh Khiêm đã đi nhiều nơi truyền thụ kiến thức, mở mang vZn hoá. Do tham gia các hoạt động yêu nước chống thực dân và phong kiến nên Nguyễn Sinh Khiêm đã từng bị tù đày nhiều nZm. Nguyễn Sinh Khiêm qua đời nZm 1950, thọ 62 tuổi.

    The Soul of NgheTinhIIR
    Được natna sửa chữa / chuyển vào 13:49 ngày 06/02/2004
  3. natna

    natna Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/05/2003
    Bài viết:
    1.411
    Đã được thích:
    0
    BÌNH DỊ NHỮNG NƠI Ở
    Sau chặng đường dài, hơn ba mươi nZm, dấu chân Người in trên 25 quốc gia của thế giới đầy biến động trong những nZm đầu của thế kỷ 20. Ngày 28-1-1941, Bác Hồ dừng chân bên cột mốc 108, lòng bồi hồi xúc động, nhìn về phía trước, nơi đó là Tổ quốc, là đất mẹ. Từ giờ phút lịch sử dó, Người sẽ cùng cả dân tộc Việt Nam hướng về tương lai, sắp xếp lại trật tự xã hội với một ý chí mãnh liệt: Dân tộc Việt Nam phải được hồi sinh, phải trở về chính mình như ông cha đã từng gìn giữ trong suốt 4000 nZm lịch sử.
    Thật là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nơi Bác chọn dừng chân đầu tiên khi trở về Tổ quốc là nơi Đầu nguồn tiếng Tày là Cốc Bó, từ đây như dòng nước mát tuôn chảy mãi về xuôi, đem về sự sống trường tồn.
    Những ngày đầu vất vả gian truân với cảnh tĩnh mịch ẩm ướt của núi rừng, Bác vận động anh em, dọn dẹp sửa sang nơi ở cho thoáng mát. Nơi hoang sơ của núi rừng mà Bác như thấy một giang sơn hùng vĩ nên thơ.
    "Đại bản doanh" đầu tiên được bố trí thật giản dị, phía trong hang là chỗ ngủ kê mấy thanh gỗ ghép lại, đêm nằm vừa đau lưng, vừa lạnh, phải đốt lửa để bớt đi giá lạnh và ẩm ướt. Những ngày đầu Bác làm việc trong hang nhờ ánh sáng yếu ớt chiếu từ khoang trống nhỏ trên đỉnh hang. Đêm đêm để xua đi nỗi vất vả, thiếu thốn, Bác thường kể chuyện cho anh em nghe về lịch sử các thời kỳ ông cha dựng nước và giữ nước, cũng nếm mật nằm gai mưu cầu nghiệp lớn, Bác kể chuyện thế giới, chuyện chiến tranh, chuyện cổ tích và cả chuyện tiếu lâm, để trong hang có tiếng cười vui. Ǎn uống kham khổ, rau rừng nấu cháo ngô, bắp chuối chấm với muối trắng. Những bữa "cải thiện" là khi bắt được con cá, sZn được con thú về kho muối mặn Zn dần.
    Khi phía ngoài hang được dọn dẹp sạch sẽ gọn gàng, ban ngày Bác thường ra phiến đá phía ngoài làm việc, sau giờ làm việc Bác ra ngồi câu cá cạnh gốc cây si bên bờ suối. Để bảo đảm tuyệt đối bí mật chỗ ở, Bác cho làm thêm một cơ sở khác cách đó không xa, nơi có mái núi đá. Bác thường nói vui là một vườn Bách thú, vì ở đây có nhiều rắn rết, bọ rừng. Rồi sau đó Bác còn cho làm tiếp mấy lán nhỏ nữa ở Khuổi Nậm, để đề phòng khi có động. Dẫu ở hang, ở mái đá hay ở lán, Bác cũng luôn sắp xếp nơi ở gọn gàng, sạch sẽ và bí mật. Khi rời đi không để lại dấu vết. Bác tự bố trí nơi nghỉ, nơi làm việc, Bác nhặt từng phiến đá nhỏ xếp thành từng bậc cạnh chỗ nằm, trên các bậc đó Bác để sách, tài liệu, giấy viết, bút mực, máy chữ... mỗi loại quy định chỗ để riêng, ngZn nắp, gọn gàng, khi cần với tay có thể lấy được, lúc đầu anh em ở với Bác chưa có thói quen gọn gàng nên khi có việc là lúng túng, lộn xộn. Bác luyện dần thành thói quen cho anh em.
    Buổi sáng Bác thường dậy sớm hơn tập thể dục, trước cửa hang Bác chọn một nền phẳng nhỏ vừa chỗ đứng tập thể dục, dụng cụ tập đơn giản với hai hòn cuội trắng Bác thường bóp để luyện gân bàn tay (sau này khi đọc sách Bác cũng thường bóp hai hòn cuội ). Bác dùng hai hòn "tạ" to nhỏ bằng đá, thay đổi khi tập. Sau mấy phút tập cho ấm người, Bác tắm suối hoặc leo núi. Bác tập leo núi nhiều nên Bác có một sức chịu đựng dẻo dai, khi leo núi anh em trẻ cũng khó mà theo kịp Bác. Buổi sáng Bác vận động anh em tập thể dục để có sức khoẻ chống lại bệnh tật nơi rừng núi hang động ẩm ướt.
    Trong bộ quần áo Chàm, quần xắn cao, Bác cùng anh em kiếm củi, hái rau rừng, tZng gia trồng rau trồng hoa bên bờ suối. Cạnh hang có dòng suối nước chảy trong mát Bác cùng anh em tạo cảnh hòn non bộ, có đá tai bèo, có cây có nước, Bác lấy cây lau làm một chiếc cầu nhỏ, bên cầu có con thuyền gọt bằng thân gỗ trắng, đang cắm sào đứng đợi trông thật sinh động. Có dồng chí khéo tay lấy hòn đá gan gà đẽo con cò đặt cạnh hồ nước như đang mò tép, in bóng xuống mặt nước trông thật nên thơ. Một thế giới sinh vật cảnh nơi núi rừng hoang vu, thiếu thốn, tạo nên cảm giác thanh tao, mãn nguyện, như để quên đi cái đói cái rét của thực tại mà hướng về công việc cho tương lai, bình sinh của cuộc đời mới.
    Trong hang có khối thạch nhũ cao quá đầu người Bác dùng dao đẽo, gọt, tạo dáng hình người rồi lấy mực nho vẽ mắt và miệng, ai cũng bảo trông giống ông Tây, Bác bảo đấy là tượng Các Mác. Bác hỏi anh em địa phương tên dòng suối, được biết là suối Giàng, còn ngọn núi cao có tên là núi Khỉ, vì ở đây khỉ rất nhiều, hay còn gọi là núi Đào vì có tích là Tiên Cô đã xuống đây.
    Bác cười vui và nói:
    - Xưa có tiên cô xuống, nay có tiên cậu, tiên ông đến thật là hay. Rồi Bác nói tiếp - Cụ Các Mác là người muốn tất cả loài người thành tiên, nay ta đặt tên cho núi là núi Các Mác. Cụ Lênin là người thực hiện chủ trương của Cụ Các Mác nên ta đổi tên suối Giàng thành suối Lênin. Từ đó hai địa danh đã đi vào lịch sử của dân tộc.
    Từ hang Cốc Bò, mái đá Lũng Lãn hay dưới những mái lán dọc dòng Khuổi Nậm, từ khu Lam Sơn (Nguyên Bình) về Lũng Cát hay chuyển về hang Pác Tẻng, nơi đâu Bác cũng tạo nên một không khí bình thản, tự tại, một cuộc sống đầm ấm mang nặng tình đồng chí để vượt qua thử thách, gian nan thiếu thốn của buổi đầu dựng nước. Từ nZm tháng đời thường toát lên một sức mạnh tiềm ẩn mãnh liệt, nơi đây Bác đã triệu tập Hội nghị Trung ương Tám, thành lập Mặt trận *********, ra báo "Việt Nam Độc lập", huấn luyện cán bộ toả ra trZm ngả đường của đất nước để chỉ đạo cách mạng... Bác dịch sách, viết báo, làm thơ, ngày cũng như đêm, mưa cũng như nắng, lúc ở hang động hay dưới tán lá cây rừng, ánh sáng bắt nguồn từ Bác - từ Pắc Bó nơi thánh địa của cách mạng, nơi xuất phát cuộc hành trình cách mạng của cả dân tộc trên đường Thiên lý hướng về tương lai.
    Cách mạng phát triển nhanh chóng, thời cơ đã đến, Bác chuyển về lán Nà Lừa, lấy Tân Trào triệu tập Quốc dân đại hội, phát lệnh Tổng khởi nghĩa cướp chính quyền trong cả nước. Trên đường về Hà Nội, Bác ghé làng Gạ rồi về 48 Hàng Ngang viết bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Cách mạng thành công nhưng khó khán trZm bề, thù trong giặc ngoài, thế nước "nghìn cân treo sợi tóc", Bác phải chuyển chỗ ở nhiều nơi để tránh nguy hiểm, luôn luôn cải trang, lúc đi sớm khi về tối lúc ở số 8 Lê Thái Tổ, khi ở Bắc Bộ phủ, lúc ngủ ở Quần Ngựa khi về Bưởi... Nhiều nơi đã để lại những kỷ niệm không quên về Bác, trong buổi đầu cách mạng gian nan, vất vả, hiểm nguy. Kháng chiến bùng nổ, Bác lại lên đường mở cuộc trường chinh. Bác về Vạn Phúc viết lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, về Chùa Trầm chúc tết Quý Hợi 1947, vai đeo balô lên núi rừng Việt Bắc đi kháng chiến, dưới mái lán lá rừng vách nứa bên Làng Sảo, Bác triệu tập hội nghị Trung ương chỉ đạo đường lối trường kỳ kháng chiến, rồi đến Khuổi Tấu viết "Việt Bắc anh dung" về trận thắng Pháp đầu tiên trong cuộc kháng chiến; có phút thư giãn về huyện lỵ Sơn Dương "Đi thuyền sông Đáy" làm thơ; hay về -hang Bòng chỉ đạo chiến dịch Biên giới; trở lại Kim Bình dự Đại hội Đảng lần thứ 2; đến Khuôn Điền cùng Trung ương chỉ đạo chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử - trận quyết chiến cuối cùng chấm dứt chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới. Hơn 3000 ngày hành quân đi kháng chiến, vượt qua bao gian khổ khó khZn, lãnh đạo toàn Đảng toàn dân làm nên trận thắng oanh liệt ghi mãi nghìn nZm và chứng minh cho thế giới một chân lý: một dân tộc dù nhỏ bé nếu biết đoàn kết có thể chiến thắng một đế quốc to, mạnh hơn nhiều lần về vũ khí.
    Cuộc sống đời thường đạm bạc nơi chiến khu Việt Bắc, theo Bác suốt ngàn ngày kháng chiến là mái lán đơn sơ của cây rừng Việt Nam. Đồng chí Lê VZn Nhương (Bác đặt tên cho là Cần) tham gia trong đội dân công hoả tuyến Nghệ An, khéo tay, biết nghề mộc, được cùng một đồng chí nữa chuyên làm lán cho Bác ở, kể lại rằng: Bác yêu cầu tìm chỗ ở cho Bác, nơi yên tĩnh, bí mật, nơi có bóng cây thoáng mát và có đất để tZng gia, gần nguồn nước, phía sau có núi để dễ làm hầm trú ẩn, thuận lợi cho liên lạc dễ dàng di chuyển khi có động. Làm lán cho Bác không to quá, diện tích bằng khoảng hai chiếc chiếu, đủ cho Bác kê chiếc bàn nhỏ làm việc và nơi nghỉ. Lán cao vừa tầm Bác, không cao quá 2m. Làm không cầu kỳ mà giản di, vật liệu sẵn có xung quanh, 3 phía có vách nứa, lán đặt trên 4 cọc tre, lối lên lán làm một cái thang bằng tre khoảng 3 bậc, mặt lán không cao quá, cách mặt đất khoảng nửa mét, tuỳ theo địa hình. Phên vách, sàn làm bằng tre, luồng hoặc nứa. Đồ dùng bày biện phía trong lán lại càng đơn giản hơn. Bố trí một bàn, một ghế bằng gỗ tạp đủ để cái máy chữ nhỏ, một ít sách, tài liệu cần thiết, những thứ đồ dùng vặt như bút giấy, hai hòn sỏi bóp luyện tay... để cạnh. Một hòm nhỏ đựng tư trang để phía dưới. Chân giường đóng thẳng xuống đất cho chắc chắn, trên vách treo cái quạt bằng lá cây rừng. Cái tẩu thuốc, Bác thường nói vui đấy là Têlêpôn của Bác, khi cần Bác gõ vào cột tre theo tín hiệu quy định là người giúp việc có mặt. Thời gian rỗi Bác cùng anh em trong cơ quan chơi bóng chuyền, tập thể thao, tZng gia sản xuất, trồng bí trồng bầu, nuôi gà, nuôi bò. Trong thời gian này Bác nảy sinh ra tư tưởng quan lý kinh tế theo phương thức khoán sản phẩm. Bác bảo các đồng chí, giao bò cho dân địa phương nuôi, khi bò phát triển thì một phần để lại cho nhân dân còn một phần cho tập thể. Trồng được nhiều bí, cả một bãi rộng dày đặc quả, khi thu hoạch anh em kiểm số lượng quả vì nhiều nên bị lẫn liên tục. Bác bày cho cách, đếm xong quả nào cắm một que tre khi cắm hết chỉ cần gom số que là ra số quả tZng gia được và giao cho người quản lý.
    Kháng chiến thắng lợi, Bác về Thủ đô Hà Nội, lúc đầu Trung ương có ý định mời Bác về ở trong ngôi nhà Toàn quyền cũ, vì ở đấy có đủ tiện nghi sinh hoạt, bảo đảm tốt cho sức khoẻ của Bác, tiện việc tiếp khách và mọi công việc của một vị lãnh tụ, nhưng Bác không chịu. Bác bảo, Bác chứ không phải viên Toàn quyền, không phải vua, Chủ tịch một nước còn nghèo, chưa có quyền hưởng thụ quá mức trung bình của người dân, nên Bác quyết định chọn cho mình ngôi nhà của người thợ điện ngày trước, một ngôi nhà bình dị như bao ngôi nhà khác, mái ngói, nền đất, nơi mà mùa nóng thì nhiệt độ cao hơn hẳn xung quanh, ngày thiếu ánh sáng phải thắp đèn. Chỉ có điều tiện duy nhất là gần với anh em phục vụ trong không khí ấm cúng gia đình.
    NZm 1958, Trung ương quyết định xây nhà cho Bác, nhưng Bác chỉ nhất trí khi làm theo ý Bác. Bác cho gọi kiến trúc sư Nguyễn VZn Ninh để trao đổi việc làm nhà. Bác dặn kiến trúc sư làm theo kiểu nhà sàn của đồng bào Việt Bắc, nơi Bác đã từng sống trong sự đùm bọc, bảo vệ của đồng bào các dân tộc trong những ngày đầu kháng chiến. Ngôi nhà sàn dưới bóng cây cạnh hồ nước, xung quanh có vườn hoa cây cảnh vừa đẹp lại vừa mát là môi trường tốt cho sức khoẻ, lại thuận lợi cho công việc, vừa không tốn nhiều tiền của nhân dân. Bác dặn gỗ dùng làm nhà cho Bác, chỉ dùng loại gỗ như đồng bào thường dùng. Tầng dưới bố trí một chiếc bàn lớn và mười một chiếc ghế (số ghế đủ cho các đồng chí trong Bộ Chính trị lúc bấy giờ) xung quanh nhà xây một bờ tường thấp, trên lát gỗ làm ghế cho các cháu thiếu nhi ngồi khi các cháu vào với Bác. Xung quanh nhà làm một dãy hành lang vừa phải để khi Bác ngồi đọc sách có ai qua lại không bị ảnh hưởng, vừa nói Bác vừa bê chiếc ghế mây ra, Bác ngồi giơ tay làm cữ, áng chừng độ rộng của hành lang cho đồng chí kiến trúc sư biết. Bác dặn đi dặn lại là phải hết sức tiết kiệm. Khi Bác đi thZm một số nước về thì nhà sàn đã làm xong Bác lấy tiền riêng của mình tổ chức bữa liên hoan ngọt Bác gọi là "tiệc liên hoan khánh thành công trình". Bác mời đồng chí Ninh và những anh em công nhân tham gia làm nhà sàn cho Bác, đến dự liên hoan. Buổi liên hoan vui vẻ, Bác đi đến chỗ đồng chí Ninh và khen công trình làm nhanh, tốt, rồi ân cần phê bình nhẹ. Bác nói chân tình, nước ta chưa giàu, dân ta còn chưa có đủ nhà ở cần phải tiết kiệm. Khi chụp ảnh lưu niệm, Bác vẫy tay gọi đồng chí Ninh:
    - Ông "Kiến..." đến đứng gần đây.
    Tất cả cười vui vẻ, Bác gọi "ông Kiến" bớt đi hai chữ "trúc sư" vừa vui lại vừa nhắc nhở kiến trúc sư phải tiết kiệm, mà nghĩa đen "kiến" là con vật hay leo, như đồng chí Ninh đã leo thang trong việc làm nhà sàn cho Bác, không làm đúng như ý Bác là phải tiết kiệm, mà leo thang hơi quá.
    Bác ở nhà sàn với thời gian dài nhất trong quãng đời còn lại của Bác. Trong nhà sàn bố trí đơn giản, chỉ có những đồ dùng rất gần gũi với Bác. Một chiếc giường đơn trải Chiếu cói, cái tủ nhỏ, bộ bàn ghế, trên bàn để đèn, lọ hoa, cái máy thu thanh, cái quạt nan, mấy quyển sách cần thiết hàng ngày: Chiếc bàn nhỏ và chiếc ghế mây ở cuối hành lang là nơi Bác ngồi làm việc những buổi chiều hè. Bác thường ngồi đọc báo ở đây, dưới tán lá cây vú sữa rì rào trước gió như tiếng nói của đồng bào miền Nam bên Bác. Những vật bình thường đã ở bên Bác đến suốt cuộc đời và sẽ ở mãi với nhà sàn cùng non sông đất nước như một huyền thoại về một con người.
    Hàng nZm đến ngày sinh nhật Bác, nhiều đoàn thể cơ quan, khách trong nước, khách nước ngoài đến chúc mừng sinh nhật Bác. Khách đến Bác rất vui, nhưng sau Bác bảo sinh nhật Bác là ngày riêng cá nhân mà làm ảnh hưởng nhiều đến thời gian và tiền bạc của tập thể. Bác gặp đồng chí phụ trách công tác bảo vệ, nhờ tìm cho Bác một chỗ yên tĩnh, gần núi, làm một ngôi nhà nhỏ chỉ độ 2 đến 3 người làm việc, nhưng nhớ là không lấy đất trồng trọt của dân. Khi tìm được một địa điểm trên núi Ba Vì, Bác đồng ý. Thế là gần đến ngày sinh nhật, Bác "tạm lánh" lên làm việc trên đó. Bác dặn ở nhà báo với mọi người Bác đi công tác xa. Lên đó yên tĩnh thoáng mát gần với thiên nhiên. Ngày sinh nhật, các đồng chí bảo vệ phục vụ tìm một bó hoa rừng đến chúc mừng Bác, Bác cháu vui trong nỗi niềm gia đình đầm ấm, Bác đặt tên cho ngôi nhà là "ngôi nhà cần kiệm" vì ở đó Bác làm việc được nhiều hơn, phục vụ được nhiều hơn và tiết kiệm hơn cho dân, cho nước.
    Cuộc đời Bác gắn liền với những nơi ở thật bình dị bình dị như con người Bác. Từ ngày dựng nước gian lao vất vả đến khi làm ************* Bác vẫn giữ lối sống bình dị, không đòi hỏi một sự ưu tiên, một vinh hoa cho riêng mình. Bác chọn nơi ở là nơi gần với người lao động. Bác đi thZm các địa phương xa, phải ở lại qua đêm, các đồng chí địa phương thường bố trí cho Bác nơi ở tốt nhất, nhưng Bác không chịu. Bác tự chọn cho mình chỗ ngủ, có khi bố trí trên bãi biển, có lúc trên trận địa pháo. Bác là vậy tư tưởng tác phong của Bác là gần dân, luôn luôn giữ mức sống như của người dân bình thường, hoà cùng nhịp sống, nỗi niềm của người dân. Ngay khi chuẩn bị cho mình về cõi vĩnh hằng "đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin", Bác cũng dặn hoà thân mình khắp ba miền Tổ quốc, nơi tưởng niệm trên ngọn đồi toả mát bóng cây. Gần dân là cuộc sống đời thường hàng ngày của Bác, là ý tưởng vĩnh cửu của tư tưởng Bác.

    The Soul of NgheTinhIIR
  4. natna

    natna Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/05/2003
    Bài viết:
    1.411
    Đã được thích:
    0
    HÀNH TRANG GIẢN DỊ
    Tư trang của một vị ************* như ở Bác Hồ thật đặc biệt, bởi nó quá giản dị. Có lẽ những thế hệ mai sau khi nghe kể có thể tin được đó là huyền thoại. Đôi dép cao su làm từ lốp cũ xe hơi, Bác dùng đến mòn vẹt phải đóng đinh bao lần mà Bác vẫn dùng, đôi tất vá đến hai, ba lần, cổ áo sờn rách đã mấy lượt lộn lại trong ra ngoài...
    Nếp sinh hoạt, cách Zn mặc của Bác đã thành thói quen, Người luôn có ý thức trước những việc làm đó. Từ những nZm tháng hoạt động cách mạng ở nước ngoài, lúc ở Thái Lan, khi về Trung Quốc, về nước thời kỳ bí mật ở Cao Bằng hay khi làm *************. Những nZm tháng đi kháng chiến, lúc về thZm nông dân gặt hái hay làm thượng khách ở nước ngoài, Bác luôn luôn với một tư thế giản dị, ung dung, tự tại, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh. Dù ở đâu lúc nào Bác cũng để lại ấn tượng tốt đẹp, một phong cách mẫu mực của một lãnh tụ. Hành trang Bác mang theo tự nói lên một điều chân thực: Làm chức càng cao càng phải giản dị. Làm ************* Bác nhận lấy cho mình được cái quyền sống giản dị, bằng mức sống bình thường của người dân. Các đồng chí được giao việc phục vụ Bác, tìm mọi cách lo cho Bác được chu tất về mọi mặt. Nhưng Bác luôn có cái lý của Bác, thời kỳ chiến khu gian khổ Bác bảo chưa cần thiết, khi làm ************* Bác bảo dân còn nghèo.
    Nhớ thời kỳ về nước ở hang Cốc Bó, Bác thường vào các bản làng thZm đồng bào, với bộ quần áo Chàm, chân đi giày vải, trông như một ông Ké thực thụ. Khi về Thủ đô Hà Nội đọc Tuyên ngôn độc lập, các đồng chí Trung ương may cho Bác bộ quần áo bằng vải Kaki. Thời kỳ kháng chiến, Bác có thêm bộ "quân phục màu xanh" Bác thường mặc lúc hành quân đi lẫn trong đoàn quân ra trận. Bác còn có thêm chiếc áo len cho ấm về mùa đông, chiếc áo khoác tránh mưa là chiến lợi phẩm của một đơn vị bộ đội tặng Bác. Trời nắng Bác thường dùng bộ "gụ Hà Đông".
    Đồ dùng của Bác có chiếc va ly nhỏ đựng sách, tài liệu và cái máy chữ, quần áo tư trang cho vào một túi nhỏ. Các đoàn thể tặng Bác nhiều tư trang, đồ dùng. Bác thường đem làm tặng phẩm cho cá nhân, tập thể có thành tích, hoặc đem bán đấu giá lấy tiền cho cách mạng.
    Tư trang của Bác bao giờ cững ở mức cần thiết cho sinh hoạt, nhưng Bác lại luôn luôn lo cho sự thiếu đủ của từng người. Bác đến thZm thương binh, Bác lo từng chiếc áo ấm cho họ lúc vào trại tù binh thấy tù binh thiếu áo, Bác cũng lo áo cho họ, cử nghĩa đó làm bớt đi sự cZng thẳng hận thù của con người với con người, của hai dân tộc. Trong gian khổ kháng chiến, Bác cùng chịu đựng đói, no, giá lạnh như người chiến sỹ. Không để lại gì cho riêng mình mà lo cho chiến sỹ trước. Bác là người khởi xướng phong trào "mùa đông binh sỹ", vận động nhân dân không những lo cái Zn mà còn lo cái mặc cho chiến sỹ. ở hậu phương ai có thành tích lo cho chiến sỹ mặc ấm Bác đều gửi thư khen ngợi.
    Kháng chiến thắng lợi Bác trở về Thủ đô, Zn mặc của Bác cũng không thay đổi lắm. Bác thường dặn các đồng chí phục vụ khi giặt áo cho Bác thấy chỗ nào rách thì vá lại cho Bác dùng, cho nên việc khâu vá quần áo cho Bác các đồng chí phục vụ cũng tự làm lấy. Khi cần lắm các đồng chí không làm được mới xuống nhà máy nhờ làm giúp. Bác mặc số lượng ít nên phải thay đổi luôn. Bác đi nhiều nơi. Khi xuống đồng ruộng gặt lúa, chống hạn với bà con nông dân, quần áo thường vấy bùn. Khi thZm nhà máy Bác thường xuống tận nơi làm việc của công nhân nên dầu mỡ, chất xút thường vấy vào quần áo Bác, những chỗ đó dẫu giặt sạch ít lâu sau cũng bị bủng. Thay cái mới Bác không chịu, Bác bảo khâu vá lại cho Bác để Bác dùng. ở những bộ quần áo đó những vết mạng, những miếng vá đều gắn với những kỷ niệm. thời kỳ Bác đi kháng chiến, trong bộ quần áo xanh, trên đường hành quân, Bác như một người lính, vai thắt bao gạo ngang lưng, mũ cài lá nguỵ trang, khZn vắt ngang vai hoà vào nhịp bước hành quân của bộ đội, dân công đi chiến dịch. Trên đường gặp một ông cụ trong đoàn dân công. Hai người chuyện trò tâm đầu hợp ý. Bác khen ông cụ "Cụ già còn phục vụ tiền tuyền làm gương cho con cháu noi theo". Cụ kia khen Bác: "Tôi làm sao bì được với Cụ, Cụ râu tóc đã bạc mà vẫn "chiến sỹ Bạch đầu quân". Hai Cụ vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ. Khi lội qua suối, cụ dân công trượt chân, Bác vội đỡ kịp thời nên cụ không bị ngã, nhưng chiếc đinh ở đầu đòn gánh đã vướng làm rách áo Bác. Cụ dân công vội cảm ơn "thật là em ngã anh nâng". Cả hai cụ cùng cười vui vẻ. Còn vết mạng ở đầu gối là kỷ niệm ở Ngòi Thia, gần Tân Trào. Hôm đó Bác đi ngựa, khi đến chỗ vòng ngoặt gấp có cây tre chắn ngang lối đi, ngựa phi nhanh Bác chưa kịp ghìm cương, ngựa dừng đột ngột Bác mất đà bị ngã, nhưng may Bác phản xạ nhanh nên chỉ xước đầu gối, vết xước làm rách vải và chảy máu. Khi mọi người chưa kịp đến thì Bác đã đứng dậy, chân đi cà nhắc. Còn vết khâu ở gần gấu áo là lần Bác về chống hạn. Bác cùng đồng chí Tỉnh ủy tát nước gàu dai, nhưng đồng chí Tỉnh uỷ không biết tát nước, cứ lóng ngóng chân tay, làm dây gàu vướng vào làm gấu áo Bác bị rách, sau phải vá lại, Bác bảo: "Làm cán bộ lãnh đạo nông nghiệp thì phải biết cách lao động của nông dân", rồi Bác tập cho đồng chí tát nước. Có lần Bác đi thZm một nhà máy, Bác xuống tận tổ công nhân đang cho chạy máy, Bác đến hỏi han công việc: chất xút bắn vào áo, tạo thành nhiều vết khác màu áo, Bác bảo đồng chí phục vụ khắc phục làm cho máu áo và màu vết xút gần giống nhau, và áo lại dùng được bình thường. Tất cả những áo quần đó vì đã mang vết nên không thể giấu Bác để thay cái mới được, thay cái khác lá Bác biết, Bác phê bình ngay.
    Đồng chí Cần, chuyên lo Zn uống, quần áo cho Bác thời kỳ ở Hà Nội. Đồng chí tầm cỡ người như Bác, nên khi may quần áo cho Bác đồng chí mặc vừa là Bác mặc vừa. Quần áo thường ngày Bác thích màu gụ, nên khi may xong đồng chí mang sang xí nghiệp Tô Châu nhuộm gụ. Bộ nào hơi cũ là đồng chí thay bộ khác cùng kiểu cùng màu nên lúc đầu Bác không biết. Một thời gian sau Bác thấy quần áo vẫn mới, Bác bèn đánh dấu rất kín và phát hlện ra là đồng chí đã đổi quần áo của Bác. Bác liền phê bình, từ đó rất khó thay đổi quần áo của Bác. A''o Bác dùng lâu giặt đi giặt lại nhiều lần nên cổ áo bị sờn và rách dần, khi mọi người đề nghị Bác cho thay cái khác~ Bác bảo: "Cả cái áo chỉ sờn chỗ cổ, mà vứt đi thì không được, chú chịu khó tháo rồi lộn trong ra ngoài, may lại vẫn lành "như mới". Làm theo ý Bác được mấy lần, sau không thể "khắc phục" được nữa Bác mới cho thay cái mới. Đôi bít tất Bác đi cũng vậy, bị thủng ở đầu ngón chân Bác bảo khâu lại cho Bác dùng, vì không biết làm nên phải xuống xí nghiệp may mặc của Bộ Nội vụ nhờ các cô giúp. Các cô đề nghị thay đôi khác cho Bác, nhưng Bác đã dặn là bít tất của Bác chỉ hỏng mũi, còn mọi chỗ vẫn lành nguyên, chỉ nhờ các cô khâu lại, nếu đem đổi đôi khác là Bác không dùng đâu. Khi Bác dùng lại đôi tất, khen các cô khéo tay, Bác nói: "Chú xem, chỉ chịu khó một tý là có đôi bít tất như mới". Lần sau đôi bít tất đó thủng hai lỗ trước và sau, rồi lại lần nữa, các cô phải khâu vá đôi bít tất đến ba lần. Bác thường dùng khZn mặt vuông, vì dùng khZn mặt vuông tiết kiệm hơn khZn mặt chữ nhật, mỗi khi dùng xong Bác có thói quen phơi lên dây, luôn giữ hai mép dưới bằng nhau. Bác tìm mấy hòn cuội nhỏ xếp vào trong hộp đựng xà phòng, khi dùng xong Bác để xà phòng lên những hòn cuội, xà phòng mau khô, nên tiết kiệm.
    Chị Liên là người được đồng chí Cần nhờ may vá giúp Bác. Chị kể lại, khi làm việc này mới thực sự hiểu Bác giản dị và tiết kiệm đến chừng nào. Bác có chiếc áo gối vải màu xanh hoà bình, miếng vá này chồng lên miếng vá kia, mỗi lần cầm chiếc áo gối vá lại cho Bác mà chị không cầm nổi nước mắt, không cầm kim vững để khâu lại được chị nói với đồng chí Cần: "Anh đừng bắt tôi vá áo gối cho Bác nữa. Tôi thương Bác lắm, anh có cách nào thay áo gối khác cho Bác". Đồng chí Cần nói: "Tôi đã nhiều lần đề nghị Bác cho thay cái khác, nhưng Bác chưa đồng ý Chị chịu khó vá giúp tôi". Cầm kim mà lòng chị không cầm nổi nước mắt. Những lúc đó chị hình dung Bác như thấu hiểu nỗi lòng người mẹ hiền thôn quê tần tảo lo cho đàn con nhỏ miếng Zn, manh áo trong cảnh túng thiếu. Bác hiện thân của Người mẹ Việt Nam, đối với ai đó dẫu ở cương vị công tác nào Bác cũng giáo dục tinh thần biết quý trọng con người là ở thái độ đối với tiết kiệm, đó là thước đo đạo đức của cán bộ. Đối với anh em phục vụ Bác chân tình mà nghiêm khắc khi giáo dục tiết kiệm.
    Đôi dép cao su của Bác đã đi vào thơ ca nhạc hoạ, hiện thân trong đời sống nhân dân như một huyền thoại, gắn liền với cuộc đời vĩ đại, đức tính giản dị, ý chí kiên cường, bền bỉ cùng với dân tộc trên dặm đường trường chinh vạn dặm vì độc lập tự do của Tổ quốc. Đôi dép của Bác được cắt từ chiếc lốp ôtô quân sự, chiến lợi phẩm của trận phục kích địch tại Việt Bắc, đôi dép được cắt vừa chân Bác, hai quai trước to bản kiểu quai vắt chéo, vừa êm vừa chắc chắn cho khi lội suối, trèo đèo, vượt đường trơn, dốc cao. Thấy tiện, dễ sử dụng lại hiệu quả, Bác cho phổ biến trong toàn mặt trận, thay thế dần giày vải, dép rơm, dép mo cau... Nhân chuyến hành quân đi chiến dịch, Bác thấy ai cũng đi đôi dép cao su vượt suối bZng đèo thoZn thoắt, Bác nói vui: "Như vậy Bác cháu chúng ta có đôi hài cao su vạn dặm, chúng ta muốn đi đâu cũng được".
    Về Hà Nội, Bác vẫn dùng dép cao su. Đôi dép Bác dùng lâu ngày vẹt cả đế, quai bị tuột luôn, đóng đinh gZm quai nhiều lần mà vẫn tuột, có kiên trì và khéo tay mới làm lại được, khi sửa xong thấy vẫn dùng được là Bác cứ dùng. Thấy dép Bác cũ, hỏng nhiều, các đồng chí phục vụ đề nghị thay đôi khác, Bác không chịu. Anh em bàn "kế hoạch" làm một đôi khác thật giống đôi dép Bác đang đi chỉ có khác là chắc, bền hơn, lợi dùng thời cơ thay vào. Hôm đầu Bác đi Bác không nói gì, anh em tưởng việc đã êm, nào ngờ sáng hôm sau Bác hỏi sao lại đổi dép của Bác, anh em đành thưa thật với Bác, Bác ôn tồn bảo:
    "Các chú biết lỗi nhận lỗi là tốt, đôi dép cũ của Bác nếu chịu khó sửa vẫn còn dùng được, lần sau mua sắm cái gì cho Bác, các chú phải báo cho Bác biết". Anh em tưởng Bác nói thế là đã chấp nhận đổi dép, nhưng Bác vẫn giữ đôi dép đó mặc dầu đã sửa nhiều lần, vì nó là kỷ niệm bên Bác từ những ngày gian khổ. Bác còn có một ước mơ duy nhất nữa là cùng đôi dép đó vào thZm đồng bào miền Nam là Bác thoả mãn ước nguyện. Bác nói thật cảm động. Một lần Bác đến thZm một đơn vị hải quân, các chiến sĩ lần đầu gặp Bác, ai cũng muốn được gần Bác nên chen chúc nhau làm tuột quai dép của Bác. Bác bảo chú nào khéo tay sửa lại cho Bác. Ai cũng muốn giành lấy để giúp Bác, thế rồi đôi dép được chuyền tay nhau, nhưng không ai sửa được vì dép đã quá vẹt mòn, đã đóng đinh mấy lần rồi, xâu vào nó lại tuột ra. Có người nhanh chân kịp lấy búa và đinh sửa lại giúp Bác, Có người yêu cầu Bác đổi dép khác. Bác bảo: "Dép đã sửa xong khi nào không sửa được hẵng hay, giờ mua chiếc khác không cần thiết, vẫn dùng được sao vứt nó đi, dân ta còn nghèo, mỗi người kể cả ************* cũng phải tiết kiệm".
    Có mẩu chuyện vui về đôi dép của Bác, lần đó xem phim, tất cả đều ngồi bệt xuống nền nhà gỗ, Bác để dép bên cạnh phía trước để khi về cho tiện lấy và không nhầm lẫn. Xem phim xong, Bác cùng mọi người chụp ảnh, cô gái ngồi cạnh Bác, thấy đôi dép đã quá cũ, không biết dép Bác, sợ làm xấu mất ảnh, cô vươn người với tay định cất đi, Bác nhanh tay hơn với trước, vội cất ra sau và nói vui, ờ đúng rồi, phải giấu nó đi, chứ vào ảnh hỏng mất ảnh.
    Bác có thói quen, khi đã đi dép là cúi xuống kéo quai hậu cẩn thận, vừa dễ đi, chắc chắn, dép không kêu lẹt bẹt, làm mất tác phong của người đứng đắn, và dép mòn cũng mòn đều, không mòn vẹt một bên, hai quai trước cũng đỡ hỏng. ở Bác đi dép cũng là một nét vZn hoá.
    Đầu nZm 1958, Bác đi thZm Â''n Độ, Bác vẫn đi đôi dép thường ngày. Mọi người trong đoàn thấy thế, rất ái ngại nên bàn nhau mang theo một đôi giày vải. Lên máy bay nhân lúc Bác ngủ, thay đôi dép bằng đôi giày vải, khi thức giấc Bác hỏi dép, anh em trả lời Bác là đôi dép đã để dưới khoang máy bay. Khi xuống sân bay, Bác yêu cầu lấy dép để Bác đi. Bác bảo đừng lo gì cả, đất nước Â''n Độ cũng nghèo như mình, mới có độc lập nên nhiều vất vả. Bác đi dép có bít tất thế là tốt, họ không chê mình đâu. Nhân dịp này Bác muốn gần gũi với nhân dân lao động Â''n Độ. Hôm sau trên các trang báo lớn Â''n Độ đều hết lời ca ngợi Bác là vị ************* dân chủ nhất thế giới. Ca ngợi đôi dép Bác Hồ là một huyền thoại của một con người huyền thoại. Hôm Bác đến thZm một ngôi chùa, Bác vừa cởi dép ở ngoài để vào nhà chùa, các phóng viên được dịp tha hồ quay phim, chụp ảnh đôi dép huyền thoại đó.
    Bác lo cho dân không chỉ ngồi ở bàn giấy rồi nghe báo cáo, mà Bác trực tiếp xuống tận cơ sở, đến với từng người lao động để hiểu hơn tình hình thực tế. Đi đâu Bác chỉ dùng một chiếc xe "Pabêđa" do nhân dân Liên Xô gửi tặng. Xe dùng đã lâu ngày nên cũ và hay hỏng vặt, vZn phòng đề nghị Bác cho đổi xe khác tốt hơn, Bác không đồng ý Bác bảo: "Ai thích đi nhanh, thích êm thì đổi. Còn Bác thì không". Có hôm đến giờ đi công tác, xe không nổ máy được, Bác ôn tồn bảo đồng chí lái xe: "Máy móc có lúc trục trặc. Chú cứ bình tĩnh sửa, sửa xong Bác cháu đi cũng kịp" mấy phút sau xe mới nổ máy được, Bác cười vui và nói: "Thế là xe vẫn còn tốt".
    ở Bác, tiết kiệm là hành trang trong cuộc đời. Thật cảm động khi biết rằng bản di chúc của Bác đã đi vào lịch sử dân tộc được Bác viết, ở mặt sau tờ tin hàng ngày của Việt Nam Thông tấn xã. Hành trang của Bác - của một vị lãnh tụ, giản dị như hành trang của một người dân bình thường, bởi Bác sống không chỉ cho riêng mình.

    The Soul of NgheTinhIIR
  5. natna

    natna Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/05/2003
    Bài viết:
    1.411
    Đã được thích:
    0
    TẤM GƯƠNG RÈN LUYỆN
    Cuộc đời của Bác là một mẫu mực về tự rèn luyện. Bác đã làm thơ nói rõ con người tốt hay xấu là do rèn luyện mà nên. Từ tuổi học trò, đến lúc trở thành *************, Bác không ngừng đấu tranh gian khổ, vươn lên tự hoàn thiện mình. Mỗi hành vi của mình, Bác như đã hoá thân trong quảng đại quần chúng. Muốn đạt tới sự hoàn thiện đó phải dày công khổ luyện, khổ luyện đến mức thành nếp sống, thành thói quen. Bác nói thật chí lý: "Việc gì trong đời sống cũng khó khZn cả, vì chưa thành thói quen khi đã có thói quen thì việc gì cũng không khó". Bác có kiến thức uyên Bác, kết tinh trí tuệ Đông Tây kim cổ là nhờ công khổ luyện. Bác hoàn thiện nhân cách của mình, tự tại, hoà mình, lich sự, ân cần, nồng nhiệt tạo nên sức mạnh cảm hóa mọi nhân cách cũng do rèn luyện mà nên.
    Những nZm tháng hoạt động cách mạng ở nước ngoài, vừa lao động kiếm sống, vừa tìm mọi cách để học tập, Bác tận dụng công việc để có thể học được, nhất là học tiếng nước người. Hàng ngày trước khi thức dậy, Bác viết lên cánh tay mấy từ mới để khi vừa làm vừa nhẩm học, đến khi chữ mờ hết thì Bác cũng đã thuộc. Bác dùng ngoại ngữ làm phương tiện để đấu tranh. Bác tập viết báo rồi trở thành chủ bút tờ báo của thợ thuyền, Bác đọc nhiều, viết nhiều với mục đích thật đơn giản là đem kiến thức đó về giải phóng dân tộc.
    Trên cương vị cao nhất của Đảng, của Nhà nước, Bác dù bận trZm công nghìn việc, sau này dù tuổi cao, sức khoẻ kém, Bác vẫn không ngừng học tập đọc thêm nhiều tài liệu, sách báo trong nước và nước ngoài. Thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, ta có nhiều cơ quan nghiên cứu có cả một bộ máy chống chiến tranh thế mà thật ngỡ ngàng khi Bác nhắc phải chú ý đề phòng loại máy bay mới của Mỹ đã xuất hiện trên bầu trời nước ta. Bác nhắc nhở phải quan tâm nghiên cứu các số liệu như tỷ lệ người da đen trong giặc lái, mỗi lần xuất kích ném bom miền Bắc, phi công được thưởng bao nhiêu tiền. Bác quan tâm đến "lý thuyết xếp hàng", khi thấy nhân dân lao động rồng rắn xếp hàng dài...
    Thời gian bị giam giữ ở nhà tù của Tưởng Giới Thạch, chế độ lao tù hà khắc đến sức lực tuổi trẻ như Dương Đào cũng phải bỏ mạng. Bác sống được là nhờ ý chí rèn luyện thân thể. Thời kỳ ở núi rừng, hang động thiếu thốn trZm bề, Zn uống kham khổ nhờ tự rèn luyện mà Bác và nhiều đồng chí đã vượt qua.
    Thói quen làm việc đúng giờ, Bác luôn giữ, dẫu ở đâu, lúc nào, nên anh em phục vụ gọi Bác là "cái đồng hồ" chính xác. Bác đã hẹn ai là Bác đến đúng giờ. Một lần xe đưa Bác đi trên đường, trời đỗ bão, cây cối ngổn ngang, xe không đi được, Bác vẫn tìm cách đến đúng hẹn. Bác luôn giữ nếp sinh hoạt và rèn luyện. Khi về Hà Nội, hàng ngày đúng gìơ Bác tập thêm môn quyền để nâng cao sức khoẻ và trí tuệ. Bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến, đi xe ôtô không tiện Bác đi xe đạp, đi ngựa, để khi đi công tác hay hội họp được chủ động.
    Bác rèn luyện để có thói quen làm việc khoa học. Nước nhà mới được Độc lập, công việc nhiều, Bác sắp xếp thời gian hợp lý nên công việc bảo đảm đúng thời gian đặt ra. Bác vẫn dành thời gian để gặp mặt, tiếp xúc với đồng bào, các đoàn thể, viết báo tuyên truyền cách mạng, vẫn có phút giây thanh thản thả tâm hồn với những vần thơ. Ung dung tự tại một phong cách, một lối sống Hồ Chí Minh. Trí tuệ mẫn tiệp ở Bác cũng do dày công khổ luyện mới có. Sau cách mạng Tháng Tám, thế nước "nghìn cân treo sợi tóc" mỗi quyết định của Bác có ảnh hưởng đến sự sống còn của sự nghiệp cách mạng, tồn vong của dân tộc. Việc quản lý một nhà nước đối với Bác cũng như những người đồng sự chưa có truyền thống kinh nghiệm nhưng nhờ có kiến thức tổng hợp tin dân và dựa vào dân, nên con thuyền cách mạng vượt qua thác ghềnh cập bến thắng lợi Nhờ dày công rèn luyện đã hình thành ở con người Bác một sức mạnh cảm hoá mãnh liệt, tự nhiên. Cảm hoá mọi trái tim, mọi tính cách con người. Những người đứng về phe chống đối cũng phải thừa nhận "Ông Hồ là người đối thủ chứ không phải kẻ thù. Giáo sư Pôn-muýt người nhận sứ mệnh đến thuyết phục Bác cũng bị chính sức mạnh cảm hoá của Bác thuyết phục. NZm 1945 những tình báo chiến lược của Mỹ vào Việt Nam để thuyết phục "lực lượng *********" của Hồ Chí Minh vào quỹ đạo hoạt động của họ, nhưng rồi chính họ lại trở thành những người tuyên truyền cho *********. Một chí sĩ cách mạng "bất hợp tác với cộng sản" khi gặp Bác rồi trở thành người tri kỷ với lý tưởng mà dân tộc Việt Nam đang thực hiện. Hiện thân Bác là da là thịt, nhưng các tín đồ tôn gláo tôn vinh Bác như vị Thánh hiền của họ. Bác có được thiên nZng đó là do rèn luyện mà nên.
    ở Bác sống là một cuộc đấu tranh. Khi ốm đau Bác tự chịu đựng, không làm phiền đến người khác, ngược lại còn động viên những người xung quanh. Hồi ở Tân Trào Bác ốm nặng, thuốc thang cứu chữa một phần nhưng điều quan trọng là ý chí, sức chịu đựng và lòng tin đã giúp Bác vượt qua cơn hiểm nghèo. Bác ốm mê man nhưng khi tỉnh dậy Bác nói chuyện hỏi han những người xung quanh, nếu ngồi được là Bác gượng ngồi, tập khởi động rồi làm việc. Có những cuộc họp quan trọng Bác không đi được phải cáng, Bác cùng yêu cầu đến dự phát biểu ngắt quãng trong hơi thở, nhưng Bác nói rõ ràng, rành mạch. Họp hội đồng Chính phủ, tuy rất, mệt nhưng Bác vẫn đến dự, suốt cuôc họp Bác phải ngồi tựa vào cột nhà. Khi đau ốm nhẹ không ai biết Bác ốm. Chỉ khi Bác không đi lại được mới biết Bác ốm nặng. Không bao giờ Bác kêu ca phàn nàn bộc lộ vẻ mệt nhọc ra ngoài. Chỉ có bộc lộ niềm vui phấn khởi sự đồng cảm để truyền thêm sức mạnh tinh thần cho đồng chí, đồng bào.
    Bác tự nhận Bác có thói quen xấu là hút thuốc lá. NZm 1966, do sức khoẻ giảm sút, bác sỹ đề nghị Bác bỏ thuốc, Bác nói "Bác hút thuốc từ lúc còn trẻ nay đã thành thói quen, bây giờ bỏ thì tốt nhưng không dễ, các chú phải giúp Bác bỏ tật xấu này". Rồi Bác tự đề ra chương trình bỏ thuốc dần dần, lúc đầu giảm số lượng điếu hút trong ngày trong giờ. Khi thèm hút lắm Bác làm một việc gì đó để thu hút sự chú ý, tập trung tư tưởng để bớt đi cơn nghiện. Tuổi già làm việc đó thật quá vất vả, tập một thói quen, bỏ một thói quen không dễ chút nào, phải có một nghị lực phi thường như Bác mới làm được. Bác tìm một lọ thuỷ tinh nhỏ để trên bàn, lấy một điếu hút một nửa, còn nửa kia Bác dụi vào lọ thuỷ tinh, có lúc Bác nói vui: "gái một con thuốc ngon nửa điếu". Dần dần một điếu Bác chỉ hút một hơi rồi dụi vào lọ thuỷ tinh. Bác hút thưa dần rồi sau bỏ hẳn. Còn chuyện uống rượu cũng vậy. Rượu Bác uống không nhiều, không uống rượu quá mạnh uống một ít, trước bữa Zn cho ngon miệng hoặc khi có khách quý, khi tuổi già sức khỏe yếu, Bác tập bỏ thuốc và bỏ luôn cả rượu, cung như bỏ thuốc, bỏ rượu, Bác cũng làm từ từ Bác để chai nước uống trên bàn, Bác nói vui: chai "Vốt ka" của Bác đấy. Khi bỏ được thuốc, được rượu Bác làm thơ kỷ niệm:
    Thuốc kiêng rượu cự đã ba nZm
    Không bệnh là tiên sướng tuyệt trần...
    Tuổi cao thường run tay khó viết, nhưng Bác viết nhiều viết khoẻ là nhờ rèn luyện thường xuyên, Bác có thói quen vừa đọc sách vừa luyện gân bàn tay bằng cách bóp hai hòn cuội trắng có từ ngày chiến khu.
    Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng Bác đi nhiều nên rèn luyện cho mình một sức khoẻ dẻo dai, nhanh nhẹn. Có lần đi thZm núi Tam Đảo, đồng chí dẫn đường muốn Bác đi theo con đường dễ đi, biết ý Bác đi nhanh lên trước, đến chỗ khó đi Bác cởi dép, mặc quần ngắn đi đỡ vướng, Bác leo dốc, cánh thanh niên theo không kịp. NZm 1958, Bác sang thZm Â''n Độ. Có ngọn tháp cao chưa có nguyên thủ quốc gia nào dám lên đến đỉnh. Bác leo nhanh lên đến đỉnh trước, Bác vẫy tay chào mọi người trước sự ngạc nhiên thán phục về sức dẻo dai của Bác.
    Hàng ngày Bác dành thời gian nghỉ ngơi, đi bách bộ, Bác đi nhanh, đồng chí bảo vệ đi với Bác cũng khó theo kịp. Những nZm cuối đời, chân bị tê thấp, Bác tập đi từng bước, đến một ghế đá Bác nghỉ tạm bằng cách ngồi toạ tĩnh tập khí công, rồi lại từng bước đi tiếp. Bác tập nhảy cao. Bác trồng một bờ cây dâm bụt hàng ngày Bác tập nhảy qua, ngày ngày cây lớn cao dần và Bác cũng nâng dần sức bật độ cao. Kiên trì tập nên Bác nhảy được khá cao, thanh niên nếu không tập nhảy cao chắc chắn thua Bác. NZm 1960 Bác bị rối loạn tuần hoàn não mức độ nhẹ nửa người bên phải bị liệt. Bác kiên trì luyện tập, kết hợp xoa bóp nên đỡ dần. Bác dùng gậy tập đi, điều độ, đúng mức, đúng phương pháp nên chức nZng thần kinh dần dần được phục hồi. Khi có thể đi lại được Bác ít dùng gậy vì theo Bác dùng gậy hay có thói quen ỷ lại. Khi tay bị yếu giơ lên khó khZn, Bác lấy bức tường làm chuẩn tập nâng dần mỗi ngày một ít, dần dần tay giơ được cao. Bác tập phản xạ bằng cách ném, bắt bóng. Bác để cái rổ xa rồi ngồi tập ném bóng vào rổ, lúc đầu gần sau tập ném xa hơn.
    5 giờ chiều ngày 12- 8-1969, gió và mưa lất phất, Bác bảo đi Hồ tây thZm các đồng chí vừa ở hội nghị Pari về, các đồng chí bảo vệ sức khoẻ can ngZn, đề nghị Bác mời các đồng chí đến, Bác bảo các chú vừa mới về đang mệt ta lên thZm và luôn tiện hỏi tình hình Hội nghị và tình hình miền Nam. Hôm đó Bác về đến nhà thì ho và sốt. Các bác sỹ chẩn đoán Bác bị viêm phổi và quyết định dùng thuốc kháng sinh liều cao để dứt viêm phổi. Nhưng do tuổi già, đến tối 24-8 Bác bị cơn đau vùng tim. Ghi điện tim biết được Bác bị nhồi máu cơ tim thành sau. Bệnh tình ngày một nặng thêm. Các đồng chí trong Bộ Chính trị đến thZm, ngày nào Bác cũng nói sức khoẻ Bác khá hơn hôm qua. Hàng ngày khi đồng chí Võ Nguyên Giáp vào báo cáo tình hình miền Nam Bác mới yên tâm. Tuy mệt nằm một chỗ, khi nào mỏi ở vai Bác mới yêu cầu xoa bóp, Bác không hề kêu ca. Những ngày cuối ai vào thZm cũng lo lắng.
    Muốn phá tan không khí lo lắng đó, Bác bảo cả phòng không có lọ hoa, anh em đưa vào bó hoa hồng, Bác không thích. Chị Hà, vợ đồng chí Võ Nguyên Giáp đưa vào bó hoa Huệ, loại hoa Bác yêu thích thường ngày. Bác bảo các cô y tá thay phiên hát cho vui. Bác dặn ngày 2-9 tổ chức long trọng, đốt pháo hoa để đồng bào vui. Bác biết ngày mình mất nhưng vẫn truyền niềm vui lạc quan cho người khác. Cả cuộc đời Bác là thế, không chỉ đem độc lập tự do, cơm no áo ấm về cho dân tộc mà còn cả niềm vui trọn vẹn cho mọi người. Bác mãi mãi trường tồn trong lòng nhân dân là thế.

    The Soul of NgheTinhIIR
  6. natna

    natna Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/05/2003
    Bài viết:
    1.411
    Đã được thích:
    0
    TÀI ỨNG KHẨU CỦA BÁC
    Bác là một lãnh tụ, nhưng khi hoà mình với nhân dân, không chỉ bằng những lời giáo huấn đơn điệu, mà là sự kết hợp hài hoà giữa tác phong quần chúng, những lời nói bình dị, dễ hiểu và khả nZng gây cười , sự dí dỏm tự nhiên. Phản xạ, ứng đáp nhanh nhạy trước mọi tình huống ở Bác có nét đặc trưng riêng, đã trở thành thói quen phù hợp với từng đối tượng tiếp nhận, thích ứng với mọi hoàn cảnh xung quanh. Đó là kết quả của một trí tuệ mẫn tiệp của thái độ, phong cách quần chúng. Bác luôn tạo nên một không khí hoà đồng, một mối liên hệ gần gũi giữa người nói, người nghe, xoá đi những cách biệt, những suy nghĩ tự ty của người dân trước lãnh tụ và đưa lại không khí tự nhiên vốn có giữa con người với con người. Nó không dừng lại ở nghệ thuật ứng xử mà là phản xạ tự nhiên của lãnh tụ rất nhân dân.
    Một lần tại bữa tiệc do Hầu Chí Minh (người góp phần đưa Bác ra khỏi nhà tù của Tưởng Giới Thạch) chủ nhiệm Cục chính trị đệ tứ chiến khu chiêu đãi, hôm đó có Bác và Nguyễn Hải Thần cùng dự. Nguyễn Hải Thần rất tự phụ về vốn Hán học của mình và nhân dịp này đã ra một vế đối: "Hầu Chí Minh - Hồ Chí Minh, lương vị đồng chí, chí giai minh" (Hầu Chí Minh - Hồ Chí Minh hai vị đồng chí, chí đều sáng). Khi mọi người còn đang nghĩ vế đáp, thì Bác ứng khẩu: "Nhĩ cách mệnh ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh tất cách (anh cách mạng tôi cách mạng, mọi người cách mạng, mạng phải cách). Chỗ khó và hay của về đối là hai chữ "chí và minh" là tên của hai nhân vật chính trong bữa tiệc, cái tài tình của vế đáp của Bác là vừa kịp thời, hợp cảnh và chuẩn chỉnh cả ý lẫn từ nhưng nâng tầm nhận thức, tư tưởng cao hơn, mang tính cách mạng hơn. Hầu Chí Minh hết lời ca ngợi người đối đáp "đối tuyệt lắm, tuyệt lắm". Nguyễn Hải Thần cung kính thốt lên: "Hồ Tiên sinh, tài trí mẫn tiệp, bội phục, bội phục". NZm 1946 Bác sang Pháp, người phụ trách làm hộ chiếu xin phép Bác làm thủ tục. Bác vui vẻ nói: "Chú cứ hỏi, Bác trả lời đầy đủ". Đến câu thân sinh Bác là gì? Bác cười, trả lời hóm hỉnh: "Bác là Hồ Chí Minh thì, ông cụ thân sinh là... Hồ Chí Thông!". Mọi người nhìn nhau cười vui vẻ. Một lần có nhà báo nước ngoài hỏi Bác: "Có phải Hồ Chí Minh là Nguyễn A''i Quốc không?". Bác trả lời: "Ông cứ đến ông Nguyễn A''i Quốc mà hỏi". Lần khác nhà báo nước ngoài xin phỏng vấn Bác, ông ta đặt câu hỏi: "Thưa Chủ tịch, trước hoạt động ở nước ngoài, vào tù ra khám, nay làm *************. Chủ tịch thấy có thay đổi trong đời mình không?" Bác trả lời hóm hỉnh: Không, không có gì thay đổi cả, lúc bị tù ở Quảng Tây luôn luôn có hai lính gác giải đi, lúc trong tù mỗi ngày 5 phút được hai người lính bồng súng dẫn ra dạo chơi. Nay làm ************* đi đâu cũng có hai đồng chí mang súng lục đi theo, ông thấy có gì thay đổi không nào?"- NZm 1946, trên đường từ Pháp về Việt Nam đến vùng biển Cam Ranh, Bác nhận đươc bức điện của Đô đốc Đác-giZng-li-ơ xin gặp Bác trong cảng, mục đích của chúng là giễu võ dương oai để uy hiếp tinh thần Bác. Trong bộ quần áo giản dị Bác ngồi giữa một bên là Đô đốc hải quân Pháp, bên kia là Thống soái lục quân Pháp ở Viễn đông với những bộ quân phục sáng loáng các thứ bội tinh, quân hàm, quân hiệu. Đác giZng-li-ơ giọng mỉa mai bóng gió: "Thưa ông Chủ tịch ông đã được đóng bộ khung rất đẹp của hải và lục quân đó"- Bảc thản nhiên mỉm cười: "Đô đốc biết đó, giá trị là ở bức họa chứ không phải bộ khung. Chính bức hoạ đem lại giá trị cho bộ khung". Bất ngờ và cay cú trước tài ứng xử thông minh của Bác, cả hai không dám nói xách mé nữa mà to ra rất lịch lãm và kính phục. Lần khác, Bác lên tàu đàm phán với Đô đốc Đác-giZng-li-ơ ở Vịnh Hạ Long, khi gặp Bác chủ động ôm hôn Đô đốc, các đồng chí đi theo thắc mắc, Bác nói: "Đánh nhau thì đánh nhau, mình hôn nó một cái thì có mất gì". Hôm sau báo chí đưa ảnh và bình luận... "Hồ Chủ tịch ôm hôn Đô đốc chính là ôm chặt để bóp chết". Khi bàn về quy định các phù hiệu đi lại trên xe của ủy ban liên hiệp thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, phía Pháp đề nghị trên xe có hai lá cờ một bên của ta một bên của Pháp, còn phía dưới là cờ chính quyền Bảo Đại. Việc được hỏi ý kiến Bác. Bác bảo cứ chấp nhận đi rồi sẽ có những diễn biến lý thú. Đúng như Bác nói, khi xe đi đến đâu dân cũng chế giễu lá cờ Zn theo ngoại bang. Chuyện tếu lan khắp nơi "3 cột 3 cờ" có ý nhạo báng cờ Bảo Đại. Bọn bù nhìn nguỵ quyền phản đối đòi thay đổi. Ta lấy cớ, đó là ý của Pháp nêu ra. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, có một cán bộ cao cấp nước ngoài khi đứng trước hàng quân cứ nói thao thao bất tuyệt nào là chê ta cái này cái nọ, cứ yêu cầu làm theo họ thế này thế kia. Bác nghe, rất bực nhưng không nói gì. Đến giờ nghỉ, cùng ngồi uống nước Bác giới thiệu đồng chí Hoàng Đạo Thuý trước đây là hướng đạo sinh, nay là cán bộ phụ trách công tác thông tin của quân đội. Vị cán bộ nọ hết sức thắc mắc vì sao lại giao một nhiệm vụ quan trọng như thế cho một hướng đạo sinh, Bác bảo, "Nước chú khác, nước chúng tôi khác", Ông ta chắc hiểu ý Bác.
    Đầu nZm 1950, Chính phủ nước "anh cả" mở tiệc chiêu đãi trọng thể ************* láng giềng của ta. Hôm chiêu đãi có mời Bác đến dự. Khi chuyện trò Bảc hỏi đồng chí ************* "anh cả": "Các đồng chí đã ký hiệp ước với nhau, nhân dịp tôi ở đây chúng ta cùng ký một hiệp ước với nhau". Chuyến đi của Bác lúc đó là đi bí mật, nên đồng chí Chủ tịch trả lời Bác là: "Người ta sẽ nói đồng chí ở đâu đột ngột đến thì không tiện". Bác trả lời: "Cái đó dễ thôi, đồng chí cho một chiếc máy bay, đưa tôi bay một vòng trên trời, sau đó cho người ra đón, rồi quay phim chụp ảnh đưa tin là ổn". NZm 1967 Liên Xô quyết định tặng Bác huân chương Lênin. Nếu Bác từ chối không nhận thì không thuận cho quan hệ ngoại giao. Bác vốn xưa nay chưa bao giờ nhận huân chương, lần này Bác có cách từ chối khéo. Bác viết thư chỉ xin hoãn việc trao huân chương, chờ khi nào giải phóng hoàn toàn Tổ quốc lúc đó Bác sẽ thay mặt nhân dân Việt Nam, nhận huân chương cao quý đó - Hôm sau các báo ở Liên Xô đZng trang trọng trên trang nhất quyết định tặng huân chương của Bác. Qua đó nhân dân Liên Xô càng yêu quý Bác hơn. Nhớ lần Bác đến thZm một nông trường ngoại ô Ki-ép, Bác đi xuống nơi công nhân đang lao động, thấy Bác Zn mặc giản dị ai cũng quý, cũng muốn đến gần. Khi đó có một cô công nhân đứng cạnh Bác mạnh dạn hỏi: "Thưa Bác, cháu trộm nghĩ một mình Bác chắc không tiêu hết lương *************?". Bác nhẩm tính và vui vẻ trả lời:"Thế tính ra lương cháu gấp đôi lương Bác đấy". Hồi kháng chiến chống Pháp, Bác thường đi xuống thZm các đơn vị cơ sở. Một lần đi thZm xưởng quân giới Lê Tổ. Bác trả lời các câu hỏi của anh chị em ngắn gọn dễ hiểu. Có người hỏi, khi nào thì đồng tiền Việt Nam trở lại giá trị như khi nó mới có, Bác trả lời: "Khi các cô các chú tZng gia sản xuất tZng hai lần thì nó trở lại hai lần tZng ba lần nó trở lại ba lần". Có người hỏi, Đảng ta sắp ra công khai, vậy Bác có ra không, tên thật Bác là gì? Khi nói đến Bác có ra không? Cả hội trường cùng cười. Bác nói: "Đấy, cười là trả lời rồi đấy". "Tên thật Bác là Bác". Có câu hỏi: "Khi nào thì Bác có Bác gái?" toàn thể reo cười, Bác trả lời:"Khi nào có thì Bác sẽ trả lời" Câu hỏi tiếp: "Phụ nữ các nước dân chủ họ làm gì ạ?". Bác trả lời: "Họ cũng lao động tZng gia sản xuất, và học hát, các cô các thím thua họ ở chỗ học hát"...
    NZm 1948, nhân ngày phong Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp, Bác vui vẻ ra câu đối "Giáp phải giải Pháp", Các vị có mặt gặp thế bí vì câu vế đối nói lái này gói gọn ý Đại tướng Giáp phải giải giáp được thằng Pháp. Ông Tôn Quang Phiệt nhìn Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê VZn Hiến đọc vế đối "Hiến tài, hái tiền" Bác khen vế đối hay, đạt cả ý lẫn lời, nên Bác tặng tác giả một quả cam. Sau một cuộc họp lớn, giữa trưa hè nắng đẹp, mọi người đề nghị ra sân chụp chung ảnh với Bác, mọi người đứng đâu vào đấy cả rồi, thợ ảnh cứ chạy bên này bên kia chọn góc chụp, Bác đứng cạnh nhà thơ Tú Mỡ Bác nói vui: "Chú chụp nhanh không thì tất cả bọn này thành Tú Mỡ cả," Mọi người được phen cười vui vẻ. Bác vừa nói theo nghĩa tiếng Pháp (Tout là tất cả, mỡ là mồ hôi) vừa theo nghĩa tiếng ta, ngụ ý dí dỏm, vui vẻ. Đồng chí Nguyễn ĐZng Bảy, thời kỳ kháng chiến là phóng viên nhiếp ảnh thông tin Trung ương, khi chụp được một số ảnh của Bác, anh em bàn đưa ra trưng bày triển lãm. Hôm đó Bác tình cờ vào xem. Đồng chí- đang hý hoáy trang trí, Bác hỏi: "Chú treo được bao nhiêu bức ảnh tất cả?". Đồng chí Bảy trả lời Bác là được tất cả 20 tấm ạ, Bác nói: "Hơn chứ, chú đếm lại xem thử". Đồng chí đếm đi tính lại cũng chỉ có 20. Lúc ấy, Bác cười, chỉ vào mình và nói: "Còn đây là chiếc thứ 21 chứ". Hôm khai mạc lớp chỉnh huấn có vui vZn nghệ. Có đồng chí xung phong lên đọc thơ của Huy Cận, Bác hỏi vui "Cái tác thật (tác giả bài thơ) có ở đây không?". Nhà thơ Huy Cận thưa có "Thế thì mời tác thật lên đọc thơ của mình cho nó thật hơn". Sau Bác hỏi "Có chú nào dân tộc Mường lên hát một bài tiếng Mường cho mọi người thưởng thức". Có đồng chí xung phong đọc bài thơ lục bát tiếng Kinh, đọc lơ lớ bỏ hết dấu, Bác bảo "đấy không phải tiếng Mường".
    Bác đến thZm nhà chị Loan (người kéo cờ ở quảng trường Ba Đình ngày 2-9) ở chiến khu vào đến nhà thấy đông con nhỏ, Bác nói vui? "ồ tưởng đây là nhà cô Loan, hoá ra mình vào nhầm nhà trẻ". Biết Bác phê bình khéo, chị gượng cười vả báo cáo: "Thưa Bác đây là "tiểu đội" của vợ chồng cháu đấy ạ", Bác vui vẻ bảo chị tập trung "tiểu đội", cứ lần lượt bé nhất đứng trước để Bác chia kẹo, chị đang loay hoay sắp xếp đội hình, Bác bảo "Tiểu đội trưởng cũng đứng vào hàng chứ", Bác chia kẹo cho các cháu và cho cả chị nữa. Khi đến lượt chị, Bác nói vui: "Bác khen là cô đã có công nuôi dạy các cháu ngoan".
    Nhớ lần Bác đến thZm một gia đình cán bộ, thấy ba cháu gái xinh xắn ra chào Bác, Bác hỏi vợ chồng chủ nhà tên các cháu là gì, chị chủ nhà thưa Bác tên các cháu là Thu Thuỷ, Thu Thảo, Thu Vân, Bác cười hiền lành và nói: "Sao đặt "vZn chương": thế, gọi là Thu Ngô, Thu Sắn, Thu Khoai có hay không". Khi ra về Bác bảo "Nói vui thế thôi, chứ những tên Việt Nam ấy rất đẹp". Đồng chí Tạ Quang Bửu sinh cháu trai đầu lòng, Bác có chai mật ong, Bác gửi tặng cháu, tự tay Bác viết "nhãn hiệu" tặng cháu Quang. Thời gian sau, Bác ghé vào thZm nhà đồng chí Bửu, Bác gọi âu yếm "Thằng Quang đâu? Tháng :"xã xệ" đâu ra ông bế nào". Rồi Bác chụp ảnh với cháu và không quên gửi tặng ảnh cho cháu.
    Một lần đến dự cuộc họp Trung ương thấy một cô gái đứng cạnh đường, chào Bác, Bác hỏi, cháu đứng đây làm gì, được biết cô là lính bảo vệ, Bác hỏi vui: "Thế cháu bảo vệ Bác thì ai bảo vệ cháu?". Có lần Bác đến thZm một địa phương, đồng chí Bí thư tỉnh ủy đứng lên thưa với Bác, có câu "Thưa Bác Hồ, vị cha già dân tộc", Bác ngoảnh lại nói với mọi người "Bác chưa già đâu". Buổi đó Bác được tặng ba bó hoa, Bác hỏi đồng chí Bí thư: "Theo chú thì Bác nên tặng hoa cho ai?". Đồng chí trả lời Bác? "Thưa Bác, Bác tặng cho phụ nữ, thanh niên". Bác cười và nỏi vui: "Phụ nữ, thanh niên không tặng Bác thì thôi". Bác xuống sân tặng một cụ già cao tuổi nhất, một cháu thiếu nhi và cho bộ đội.
    Lần Bác tiếp các anh hùng quân đội, Bác hỏi: "Chú nào hạ đựợc nhiều máy bay nhất?". "Thưa Bác đồng chí Cốc ạ". Mọi người đồng thanh trả lời. Bác gọi:"Chú Cốc lên đây Bác bắt tay". Bác nói: "NZm nay mong chúng ta có nhiều Cốc hơn nữa". Đến thZm đại hội chiến sỹ thi đua toàn quốc, Bác đến gần một cô gái và hỏi: "Đơn vị cháu có mấy người trong đoàn?" Cô gái lúng túng trả lời: "Thưa Bác, chỉ một mình cháu được đi thôi ạ", Bảc dí dỏm: "Thế đơn vị cháu nhiều người tiêu cực thế à, chỉ được một mình cháu?". Một đoàn cán bộ vào gặp Bác, Bác mời Zn kẹo, nhưng ai cũng nghe Bác nói chuyện chứ không muốn Zn, thấy thế Bác bảo "Không ai Zn kẹo thì Bác cho mang về". Lúc đó Bộ trưởng Nguyễn VZn Huyên; hóm hỉnh nói "Bác cho ta đưa cả về", Bác cười vui nói ngay:" Bác cho đưa kẹo về, đĩa phải để lại Bác còn tiếp khách chứ".
    Nhớ lần đi "dã ngoại" bữa Zn mang theo có thịt bò, đến bữa Zn đồng chí Vũ Kỳ chỉ vào đĩa thịt, hỏi đồng chí bảo vệ: "Đố biết là thịt gì?". Đồng chí này trả lời là thịt bò, đồng chí Vũ Kỳ hỏi tiếp: "Nhưng mà thịt bò gì chứ? ", đồng chí bảo vệ đang bZn khoZn chưa kịp trả lời, đồng chí Vũ Kỳ nói tiếp: "Đây là thịt bò rừng, loại này đặc biệt lắm, người ta không bắn được nó mà phải dùng muối bỏ vào bẫy rồi mới bắt được nó". Đang lúc lúng túng lại nghe kể có vẻ ly kỳ nên đồng chí bảo vệ chZm chú lắng nghe, tưởng như thật. Thấy vậy, Bác vỗ vai vừa cười, vừa hỏi:"Thế Bác đố chú một cân sắt nặng hơn hay một cân bông nặng hơn". Nghe Bác đố, lúc đầu đồng chí định trả lời là cân sắt nặng hơn, nhưng nhìn ánh mắt vui vẻ của Người, đồng chí bình tĩnh cân nhắc khi trả lời là nặng bằng nhau. Bác nói đùa vui: "Cân sắt chắc nặng hơn chứ" như muốn nói thịt bò nào mà chẳng giống nhau, cái chính là phải trả lời dứt khoát để khỏi người ta vặn vẹo, quanh co.
    Một lần đến thZm đơn vị bộ đội, đi đường xa trời nắng, nhưng tới nơi Bác đi thZm anh em ngay, Bác đến thZm nơi Zn chốn ở, thZm nơi sinh hoạt vZn hoá, thấy tờ báo tường viết câu "Hồ Chủ tịch muôn nZm" kẻ đẹp nắn nót nhưng không có dấu, Bác bảo vui "Ư` đúng Bác đi mệt, Hồ Chủ tịch muốn nằm", rồi Bác hỏi: "Sao viết không có dấu người đọc có thể đọc sai ý", có dồng chí trả lời Bác là thêm dấu nó mất đẹp đi, Bác nói: "Các chú viết đẹp nhưng chưa đúng nên mất đẹp đi đấy, chữ Việt ta rất đẹp khi đúng đủ dấu càng đẹp hơn". Lần đến thZm xã Sài Sơn, thấy tấm biển treo trên trụ sở ********* xã có dòng chữ không dấu "TRU SO *********" Bác liền đọc... "Sô viết mình", rồi Bác bảo các chú viết thế ai mà đọc đúng được. Tấm biển được thêm dấu nên rõ ràng hơn, ai mới biết chữ cũng đọc được. Bác vào thZm nông trường Sông Hiếu, cùng đi với đồng chí giám đốc vào trung tâm nông trường, Bác chỉ câu khẩu hiệu viết không dấu, Bác hỏi: "... LAM TRA NOI SONG" là gì? Đồng chí thưa Bác câu khẩu hiệu là "hưởng ứng chiến dịch Lam Trà nổi sóng". Bác bảo: "Thế thì chú phải cho một người đứng đây để đọc dịch câu khẩu hiệu đó chứ". Khi Bác thZm xong nông trường thì câu khẩu hiệu cũng được sửa xong. Lần Bác đi qua nhà máy cơ khí Gia Lâm, đến trước cổng nhà máy thấy dòng chữ to chạy dài trên cổng nhà máy "NHA MAY CO KHI GIA LAM", Bác bèn đọc "nhà mày có khỉ già lắm'', Bác phê bình chữ viết phải có dấu để người đọc khỏi nhầm.

    The Soul of NgheTinhIIR
  7. natna

    natna Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/05/2003
    Bài viết:
    1.411
    Đã được thích:
    0
    NHỮNG LỜI DẠY DỄ HIỂU
    (Phần 1)
    Bác đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người, với nhiều nên vZn hoá khác nhau, Bác tích luỹ được vốn kiến thức uyên thâm, kết tinh tinh hoa trí tuệ loài người, nhưng khi đến với cán bộ, quần chúng nhân dân, những tinh hoa trí tuệ được Bác chuyển hoá tới đối tượng phục vụ một cách nhẹ nhàng dễ hiểu, tầm hiểu biết của Bác luôn ở đỉnh cao của trí tuệ, nghệ thuật, tâm linh trong mối thiên tư giao cảm với con người, cho nên ai cũng ngạc nhiên bởi vì khi tiếp xúc với Bác, Bác không gây nên một sự ngạc nhiên nào cả, rất bình dị, ân cần gần gũi.
    Đầu nZm 1946, có cuộc họp cán bộ từ Trung ương đến các địa phương. Bác đến thZm và nói chuyện, khi giải thích mối quan hệ giữa chính sách của Chính phủ với nhân dân thông qua đội ngũ cán bộ địa phương, Bác dùng một tấm bìa hình tam giác cân. Bác hướng tấm bìa đáy lên trên, đỉnh xuống dưới mà nói, đây là chủ trương của Chính phủ (vừa nói Bác vừa chỉ tay dọc đáy trên của tấm bìa) có nhiều vấn đề lớn, rồi Bác chỉ tay xuống đỉnh tam giác phía dưới và nói, nhưng những chủ trương đó qua nhiều cấp, nhiều cán bộ yếu kém đến khi xuống dân thì bé lại chỉ còn chừng này. Rồi Bác lật tấm bìa đáy xuống dưới đỉnh lên trên và giải thích, chiều đáy là nguyện vọng của nhân dân, có rất nhiều, rất phong phú được phản ánh từ cơ sở nhưng khi qua nhiều cấp, nhiều cán bộ lên đến Trung ương thì chỉ còn bé chừng này, Bác chỉ tay vào đỉnh trên, xong Bác kết luận: "Vậy thì chúng ta phải làm gì để cho Chính phủ gần dân". Ai dự họp cũng đều thấm thía lời dạy của Bác và tự tìm ra câu trả lời đúng với công việc của mình.
    Trong một cuộc họp Hội đồng Chính phủ ở chiến khu Việt Bắc, Bác tặng mỗi thành viên Chính phủ một cái bút "anh hùng". Khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong một cuộc họp Hội đồng Chính phủ, Bác lại tặng mỗi thành viên một cái bút "chống quan liêu". Mỗi loại bút một thời như nhắc nhở nhiệm vụ chính của mỗi thành viên Chính phủ. Một lần có lớp tập huấn cán bộ quân dân chính, Bác đến thZm và nói chuyện, Bác nói ngắn gọn, so sánh dễ hiểu: "Cuộc kháng chiến như nồi cơm, quân dân chính như ba ông Táo, thiếu một ông, hoặc ba ông không đồng tâm nhất trí thì không bắc được nồi cơm, do vậy kháng chiến muốn thành công thì quân dân chính phải đồng lòng".
    Trong thời kỳ kháng chiến nhiều cán hộ đi tuyên truyền về đường lối "trường kỳ kháng chiến", khi nhân dân chất vấn "kháng chiến khi nào thành công?" nhiều người không giải thích được bèn về hỏi Bác. Bác bảo: "Các chú biết rằng đồng bào ta phần lớn là nông dân thì pha lấy hình ảnh cụ thể, để đồng bào dễ hiểu, các chú lấy chữ nghĩa, nào là "phụ thuộc", "khách quan", "chủ quan" thì dân ít người hiểu, mà phải lấy những ví dụ như muốn có khoai Zn lúa Zn cũng phải chờ đến 3 tháng hoặc 6 tháng mới có thu hoạch, người phụ nữ có thai cũng phải hơn 9 tháng mới sinh con. Có đồng chí khi đọc bài của Bác, đề nghị Bác thay mấy chữ "cần, kiệm, liêm, chính" vì thấy mấy chữ này nó "cũ" quá, Bác bảo? "thế cơm Zn nước uống xưa nay người ta vẫn dùng sao không thấy cũ". Đồng chí Chủ tịch Huyện Thanh Hà, lên gặp Bác, Bác hỏi công việc huyện nhà tiến bộ thế nào kể Bác nghe. Đồng chí báo cáo thành tích nào là phá hết chùa chiền, bao nhiêu tượng Bụt cho hạ xuống hết. Một phút lặng đi, Bác chưa kịp nói, đồng chí kể tiếp: "Thưa Bác, bây giờ muốn tiến bộ nhanh phải phá hết cái cũ đi, xây thay toàn bộ cái mới vào". Bác nghiêm nét mặt nói: "Thế ông cụ thân sinh chú còn không?", đồng chí trả lời Bác: "Dạ thưa Bác, cụ vẫn khoẻ ạ". "Thế chú về xử ông cụ ấy đi, ông ấy cũ lắm đấy, cổ hủ đấy", Bác nói từng tiếng với thái độ nghiêm khắc, chỉ chừng ấy, không giải thích gì thêm, đồng chí giật mình như sực nhớ ra một lỗi lầm nghiêm trọng. NZm 1946, cách mạng phải đối phó với nhiều kẻ thù trong giặc ngoài, bọn Việt cách Việt quốc gây cho ta bao khó khZn, gian nan. Nhiều người lên yêu cầu Bác cho quét sạch chúng đi, Bác cười bảo. "Các chú đừng "nồi da nấu thịt" các chú giữ sức đánh Tây?", rồi Bác giải thích "dòng nước đang chảy có cây gỗ chắn ngang, làm rác rưởi, lá cây đọng lại, các chú cứ vứt từng cái rác, từng cái lá thì không xuể mà phải tìm cách gạt cây gỗ đi thì dòng nước sẽ thông thoát". Trước khi sang Pháp đàm phán hoà bình và mở rộng đối ngoại, Cụ Huỳnh Thúc Kháng - người được Bác giao quyền *************, đến hỏi Bác kế nước nên sao, Bác nói: "dĩ bất biến ứng vạn biến!". Trong nội bộ các đảng anh em có thời kỳ xây ra bất đồng quan điểm. Đại hội các đảng nhằm thống nhất quan điểm được tiến hành. Trong thời gian Đại hội, đoàn đại biểu nước bạn láng giềng của ta, do không nhất trí với Đại hội nên bỏ ra về. Tình hình trở nên khó xử, nếu bỏ Đại hội về nước thì ảnh hưởng quan hệ với các đảng anh em, nếu tiếp tục tham dự Đại hội thì quan hệ với đảng bạn láng giềng? Bác quyết định không bỏ Đại hội để về nước vẫn ở lại nước sở tại trong thời kỳ Đại hội, viện lý do sức khoẻ, Bác không tham gia tiếp Đại hội mà đi nghỉ ở nơi khác. Nhờ quan điểm đúng, suốt thời kỳ dài ta chống Mỹ, dầu các đảng có mâu thuẫn với nhau, nhưng rất thống nhất và hết lòng ủng hộ ta đánh Mỹ. Có một học giả nước ngoài ví, Bác như một người tài giỏi gánh một gánh nặng đi trên một sợi dây thép luôn luôn giữ một sự thZng bằng tuyệt đối, nếu chỉ cần một sợi tóc rơi xuống một bên gánh sẽ đổ vỡ hoàn toàn. Tháng Hai nZm 1958 Bác sang thZm hữu nghị ấn Độ, trước đấy 2 tháng, Ngô Đình Diệm cũng đến thZm ấn Độ, Tổng thống họ Ngô cũng cố gần dân để che đậy bộ mặt độc tài phản dân. Khi Bác sang, thì những hoạt động "nịnh bợ" của họ Ngô bị lột tẩy, mà nhường chỗ cho những tình cảm chân tình của nhân dân Â''n Độ dành cho Bác. Hết lời ca ngợi Bác, là "vị Chủ tịch dân chủ nhất thế giới", Bác đi tàu hoả, khi tàu dừng bánh, Bác đi bộ đến ôm hôn và cảm ơn người lái tàu. Trong lễ chiêu đãi trọng thể dành cho Bác chiếc ghế sang trọng nhất, Bác từ chối và yêu cầu thay chiếc ghế khác như của mọi người. Biết đoạn đường không xa Bác đi bộ lẫn trong nhân dân đến chỗ họp báo. Trong buổi họp báo, Bác nói chuyện bằng tiếng Anh, Người tự xưng với các nhà báo là "bạn đồng nghiệp". Khi cần tài liệu Người rời bục nói chuyện xuống để đón từ tay người giúp việc, chứ không chờ sẵn. Khi nhận tấm thảm do nhân dân ấn Độ tặng, Bác không chỉ nhận tượng trưng mà tự cúi xuống vác tấm thảm và nói "Tôi vác cả tình cảm của nhân dân ấn Độ trên vai". Lúc chiếc máy chữ mang theo của Bác không may rơi vỡ. Bạn định tập trung những người thợ giỏi để sửa. Bác chỉ yêu cầu một người thợ thế rồi Bác cùng người thợ "vật lộn" với chiếc máy chữ mấy giờ đồng hồ. Có lần ta rất cần vận tải hàng không của một chiến dịch, nước bạn giúp ta cử đội trực thZng sang. Khi xong chiến dịch đồng chí đội trưởng bạn đề nghị Bác xin Chính phủ bạn số trực thZng trên, Bác rất cảm ơn va gợi ý nếu như Chính phủ bạn tuyên bố tặng lại Việt Nam, Bác sẽ gửi thư cảm ơn, như vậy về mặt ngoại giao sẽ tốt hơn cho cả hai bên. Việt Nam đã được giúp đỡ bây giờ lại xin số máy bay đó thì bất tiện cho cả hai bên, ý kiến Bác được Chính phủ bạn hoàn toàn ủng hộ. Sách lược đối ngoại của Bác dù hoàn cảnh nào, đối tượng nào cũng mềm dẻo, uyển chuyển nhưng có nguyên tắc, có lý, dựa trên tình cảm trọn vẹn, thuỷ chung.
    (còn tiếp)

    The Soul of NgheTinhIIR
  8. natna

    natna Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/05/2003
    Bài viết:
    1.411
    Đã được thích:
    0
    NHỮNG LỜI DẠY DỄ HIỂU
    (Phần 2)
    Khi đến với nhân dân, với đồng chí, Bác ở bên họ như người thân, không có sự cách biệt giữa lãnh tụ với dân, Bác hoà mình cùng vui chung ca múa tập thể, cũng làm "trùm lửa" trong đêm lửa trại của hướng đạo quân, cùng "hái hoa dân chủ" với ngày vui liên hoan vZn nghệ "cây nhà lá vườn", cùng lẩy Kiều, làm thơ ứng khẩu, kể chuyện tiếu lâm. Con người Bác, phong cách Bác, tư tưởng Bác toát lên một chân lý dễ hiểu: dân dã mà thanh cao, cụ thể dễ hiểu mà uyên bác, tinh tuý.
    ở Bác lời nói không cầu kỳ, kiểu cách. Lời nói đơn giản, cụ thể nhưng chứa đựng một nội dung giáo dục. Nhớ đợt tập huấn ở Việt Bắc, có nhiều ý kiến thắc mắc hỏi Bác nếu Mỹ can thiệp vào Việt Narn thì thế nào, kháng chiến dài hay ngắn... Bác bảo: "Chú cầm gậy đánh Bác, chú sẽ không thắng được Bác vì Bác sẽ phản công lại, các chú xung quanh sẽ ủng hộ Bác vì Bac là chính nghĩa, chú là phi nghĩa. Mỹ đánh ta ta đánh lại, các nước sẽ ủng hộ ta". Bác giải thích cuộc kháng chiến dài hay ngắn, Bác cầm một cây gậy, Bác hỏi dài hay ngắn, có người bảo dài, có người bảo ngắn. Bác nói dài hay ngắn tuỳ thuộc từng người Cuộc kháng chiến dài hay ngắn tuỳ thuộc nhân dân ta, tuỳ thuộc ở tất cả mọi người, nhân dân đoàn kết, cán bộ gương mẫu, gần dân, hướng dẫn nhân dân kháng chiến thì kháng chiến sẽ không dài. Một lần, đến thZm lớp học cán bộ dân vận, Bác hỏi một học viên: "Ai to nhất việt Nam?", người học viên trả lời: " Dạ thưa Bác, Bác to nhất ạ" Bảc ôn tồn giải thích: "Chú thế là đang còn "phong kiến" đấy, này nhé chú nhớ câ"Việt Nam dân chủ cộng hoà" thế ai là chủ đây nào? dân là chủ, dân là to nhất chứ, Bác cháu ta chỉ là công bộc của dân mà thôi". Trước khi đoàn cán bộ vào Nam công tác, Bác đến thZm, Bác cZn dận thật dễ hiểu, ngắn, gọn: "Các chú luôn nhớ cách đánh của ông cha ta, phải làm sao bắt chúng đánh theo cách đánh của ta, ví như bắt thằng Tây ngồi cầm đũa Zn với ta, chắc nó chỉ ngồi mà nhìn ta gắp món này đến món khác. Các chiến sĩ ta rất dũng cảm nhưng các chú phải tiết kiệm xương máu đồng đội mình, tiết kiệm từng hạt gạo, giọt mồ hôi của nhân dân. Ta thắng địch là chỗ đó." Một lần Bác đến dự Hội nghị báo cáo thành tích của dân quân, Bác gọi cô dân quân bé nhất vừa báo cáo thành tích của quê hương, Bác khen thành tích tốt, đến khi cô kết luận: "Có thành tích vì ở địa phương cán bộ thì bám dân, du kích thì bám địch". Bác cười và sửa lại: "Cán bộ gần dân du kích, còn du kích thì bám địch mà đánh chứ". Gặp một cô khác, Bác hỏi; "Cháu làm gì?" Cô thưa với Bác: "Dạ thưa Bác cháu là anh nuôi ạ" Bác vui vẻ nói: "Cháu là gái sao lại bảo là anh nuôi?".
    NZm 1961 , chị Tuất được cừ đến làm nhiệm vụ bảo vệ Bác và đoàn đại biểu phụ nữ quốc tế. Hôm đó, Bác đến hội trường sớm hơn mọi người, gặp chị Tuất, Bác hỏi về công việc của chị. Chị trả lời là công an giao cảnh Bác hỏi: "Giao cảnh là gì?". Chị trả lời là công an chỉ đường. Bác cười nói: "Thế thì cháu nói là công an chỉ đường chứ". Cháu có biết bắn súng không, cháu đến đây làm gì... Chị trả lời Bác chị là xạ thủ, đến đây làm công tác cảnh vệ. Bác sửa lại: "Tiếng ta dễ hiểu các cháu nên dùng tiếng ta từ "xạ thủ", "cảnh vệ" nên thay bằng "bắn súng" và "bảo vệ"". Có đồng chí cán bộ lên báo cáo tình hình công tác, Bác quy định chỉ báo cáo trong 30 phút. Hôm đó báo cáo hết 45 phút. Bác nói chân tình: "Sở dĩ kéo dài thời gian vì cháu xin ý kiến Bác nhiều quá, như vậy là chưa chủ động, chưa sáng tạo, lần sau cháu cố gắng làm tốt hơn". Đồng chí Aléo, Chủ tịch phong trào dân tộc Tây Nguyên, ra miền Bắc đến báo cáo tình hình Tây Nguyên với Bác. Đồng chí đề nghị Bác tZng cường thêm nhiều cán bộ giỏi cho Tây Nguyên. Bác cười và hỏi lại "Đồng bào ta có nuôi gà không?", đồng chí trả lời là nuôi nhiều lắm ạ. Bác bảo: "Đồng bào nuôi gà lúc đầu đẻ 5 trứng sau đẻ mười, rồi hơn nữa, những quả trứng đó sẽ nở thành con. Chính những con gà nở ra trong vùng đó mối thích hợp với hoàn cảnh đó Bác giải thích bồi dưỡng cán bộ tại chỗ là tốt nhất kháng chiến của ta lấy tự lực cánh sinh là chính". Thời kỳ đầu thành lập Chính phủ mới, Bác phân công ông Cù Huy Cận về bộ canh nông, vì việc mới sợ làm không được nên đề nghị Bác cho làm việc khác, Bác bảo: "Việc gì mà chẳng mới, thế chú tưởng rằng Bác làm Chủ tịch là việc cũ à? Chú cứ làm đi rồi sẽ tiến bộ". Trong thời kỳ kháng chiến, Bác rất quan tâm đến phong trào thi đua ái quốc", ''''thông qua phong trào vận động toàn dân tập trung nhân tài vật lực cho kháng chiến. Khi giao nhiệm vu cho người phụ trách phong trào, Bác tặng chiếc quạt mà nhân dân gửi tặng Bác và dặn, "Bác tặng lại chiếc quạt này để quạt cho phong trào lớn mạnh" Trong thời kỳ kháng chiến, khi phát động đẩy mạnh công tác phê bình và tự phê bình, có đồng chí sợ phê bình chỉ nói về khuyết điểm của cán bộ, đảng viên thì kẻ địch sẽ lợi dụng phản tuyên truyền. Bác bảo "Muốn thế thì cán bộ phải tránh khuyết điểm, phải nhớ rằng "rừng có vạch, vách có tai" không thể bưng bít khuyết điểm trước quần chúng được, cán bộ sợ khuyết điểm không giám sửa khuyết điểm không xứng là cán bộ". Đến nói chuyện với lực lượng công an, Bác bảo: "Các chú tuy được tZng cường mạnh về số lượng, tinh thông về nghiệp vụ, có hàng vạn đôi mắt đôi tai để canh gác biên giới Tổ quốc nhưng không xuể, cho nên phải dựa vào dân, vì dân có hàng triệu đôi mắt đôi tai". Bác hỏi: "Các cô các chú nhận biết tình hình chung bằng cách nào?" Có đồng chí trả lời Bác là thông qua quần chúng nhân dân Bác nói: "Như thế chưa đủ, cần đọc sách báo hàng ngày để nắm bắt tình hình thêm" rồi Bác dặn: "Không phải vì bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền mà ngZn cản dân không cho dân tiếp xúc với lãnh đạo, Bác biết có nhà báo đến cuộc mít tinh để đưa tin, chụp ảnh nhưng công an không cho vào kỳ đài, lo bảo vệ an toàn là đúng, nhưng để người khác hỏng việc là không tốt". Bác cZn dặn những người thay mặt nhân dân thực hiện "cán cân công lý", phải luôn luôn nêu cao đạo đức "làm oan một người vô tội không còn lẽ sống của người công an" hoặc gặp trường hợp đối tượng "bắt cũng được không bắt cũng được thì cương quyết không bắt". Luôn luôn phải quý trọng con người, Bác nói chân tình "Các chú thử ngồi trong nhà giam xem" nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại". Khi Mỹ dùng thuỷ lôi phong toả cảng sông, cảng biển của ta, Bác biết tin ở Bến Thuỷ các chiến sĩ của ta đã dũng cảm lái ca nô chạy qua bãi thuỷ lôi để tiêu diệt thuỷ lôi, rất nguy hiểm đến tính mạng, Bác gặp cán bộ có trách nhiệm cZn dặn: "Ta đánh địch ta thừa dũng cảm, nhưng Phải tiết kiệm xương máu, các chú tìm phương pháp để điều khiển ca nô tự động không người lái chạy qua bãi thuỷ lôi, chứ dùng người lái thì quá nguy hiểm. Ngay lúc đó chương trình ca nô tự động điều khiển mang tên T.5 được triển khai nhanh chóng có kết quả. Một lần có đồng chí vào báo cáo Bác tình hình chiến sự miền Nam, báo cáo về trận đánh lớn ta tiêu diệt dược nhiều sinh lực địch, đồng chí hết lời ca ngợi trận đánh rất, đẹp, Bác với vẻ suy nghĩ và hỏi: "Chú hiểu thế nào là trận đánh đẹp".
    (còn tiếp)

    The Soul of NgheTinhIIR
    Được natna sửa chữa / chuyển vào 14:38 ngày 06/02/2004
  9. natna

    natna Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/05/2003
    Bài viết:
    1.411
    Đã được thích:
    0
    NHỮNG LỜI DẠY DỄ HIỂU
    (Phần 3)
    Bác quan tâm lo lắng đến sự tiến bộ mọi mặt của cán bộ, nhưng Người kiên quyết đấu tranh chống lại những biểu hiện quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lãng phí của công, tha hoá đạo đức ở cán bộ. Khi được biết ở một đơn vị có một số cán bộ có tệ tham ô, Bác đến nói chuyện, Bác hỏi: "ở đây, có ai có vợ con rồi", một số người đứng lên, Bác chỉ một đồng chí gần và hỏi: "Bác hỏi thật chú, chú có bao giờ Zn bớt phần cơm của vợ con không?", "Dạ thưa Bác không ạ", cả hội trường lắng xuống khi Bác nghiêm khắc phê bình: "Thế thì tại sao có một số cán bộ, thấy tài sản của nhân dân, tiêu chuẩn của bộ đội cứ hễ sảnh ra một chút là tìm cách bỏ túi". Vào mùa nước sông Hồng đang lên, Bác cho gọi đồng chí Thứ trưởng Bộ Thuỷ lợi lên hỏi:"Chú cho Bác biết mực nước sông Hồng lên bao nhiêu?" , "Thưa Bác tối qua mực nước là..." Bác ngắt lời:"Tối qua Bác biết rồi, Bác muốn biết lúc này là bao nhiêu?". Đồng chí thứ trưởng không trả lời được: Bác nghiêm giọng nói: "Thuỷ-hoả-đạo-tặc, giặc lụt tai hại bao nhiêu chắc chú đã biết rõ, vậy sao chú nắm tình hình không sát, phải như bộ chỉ huy nắm địch". Khoảng giữa nZm 1945, Bác đang nóng lòng chờ đợi tin từ phía lực lượng quân Đồng minh, bỗng đồng chí thông tin viên vội vàng vào báo cáo Bác là 4 giờ có máy bay Đồng Minh tới, Bác hỏi lại: "Chú nói 4 giờ là 4 giờ nào?", rồi Bác nói thêm: "Báo cáo quân sự là phải chính xác, nếu không sẽ sai lầm nghiêm trọng. Chú cần nói rõ 4 giờ chiều hay 4 giờ sáng mai". Lần Bác về thZm Bắc Cạn, các đồng chí bảo vệ làm một hàng rào dây xung quanh lễ đài, khi Bác đến nhân dân ào lên ai cũng muốn được gần Bác, các đồng chí bảo vệ cứ lo giữ chặt rào dây không cho dân đến gần Bác, thấy vậy Bác bảo: "Các chú dỡ bỏ hàng dây ngZn này đi", vừa nói tay Bác vừa nhổ hai chiếc cọc gần rồi Bác tươi cười dang tay ra hiệu cho đồng bào ngồi xuống, thế là hàng trZm người như một ai cũng ngồi xuống theo hướng dẫn của Bác. Nhớ lần Bác về thZm quê, nhân dân đổ ra hai bên đường đông nghịt đón Bác, các đồng chí công an lo quá vì xe chỉ nhích từng tý một, Bác vui vẻ bảo: "Nhân dân có quý Bác mới ra đông thế, các chú phải mừng chứ", Bác lên nông trường Đông Hiếu, các đồng chí cán bộ nông trường mang mật ong, cà phê, cam ra tặn Bác, Bác hỏi: "Những sản phẩm này là của ai?", các đồng chí thưa; "Thưa bác do nông trường làm ra, xin biếu Bác làm quà", Bác liền nói: "Của nông trường mà các chú đem biếu Bác, tham ô à, hãy cất đi". Bác chỉ lấy 3 quả cam, đến chân cầu thang máy bay Bác tặng cam cho hai đồng chí phi công và nói: "Chú này có vợ Bác biếu 2 quả, chú này chưa vợ Bác biếu một quả". Bác vào thZm cơ quan Tỉnh uỷ, thấy quang cảnh mới dọn dẹp, trước phòng làm vlệc có bồn hoa, có nhiều hoa mới, giờ nghỉ trưa trời nầng Bác ra xem vườn hoa thấy nhiều bông đã héo, Bác liền nhổ mấy bông héo lên xem thì ra là những cành hoa không rễ mới được cắm xuống, Bác phê bình cách làm Zn chuộng hình thức. Bác xuống nhà Zn thấy tường mới quét vôi trắng, Bác dùng ngón tay quệt vào tường rồi giơ cao ngón tay đầy vôi mới và nói với mọi người: "Nghe tin Bác về các chú mới làm lại chứ gì?". Vào thZm nhà Zn thấy được quét dọn sạch sẽ, Bác hỏi chị cấp dưỡng: "Hàng ngày có được sạch như thế này không?" Chị trả lời Bác: "Dạ thưa Bác nghe tin Bác về thì chị em quét dọn sạch hơn trước", Bác khen là nói thật thà. Về thZm Tỉnh ủy Hà tĩnh, từ chỗ vZn phòng làm việc đến hội trường một quãng khá xa, các đồng chí mời Bác lên xe, Bác bảo: "Thôi, "cuốc" quen rồi, tất cả "toàn cuốc" cả cho vui", có đồng chí thợ ảnh chạy lên trước để chụp hình Bác đi bộ, Bác nói vui: "Chú đi lên trước Bác, người khác chụp được khi vào ảnh người ta tưởng chú to hơn Bác, Bác đi đón chú", tất cả đều cười vui vẻ Bác về thZm Quảng Ninh, đồng chí Phó Chủ tịch tỉnh trong bộ comlê cổ thắt caravát màu đỏ chói trang trọng ra đón Bác. Khi gặp, Bác nói: "Chú Zn mặc đẹp đấy chứ, thế chú thắt cái gì đo đỏ trên cổ vậy" mọ~ người cười, đồng chí mặt đỏ gay bèn trốn đi chỗ khác để tháo caravát. Lần sau Bác xuống thZm lần này đồng chí Chủ tịch tỉnh ra đón Bác, rút kinh nghiệm đồng chí Phó chủ tịch lần trước, lần này đồng chí chỉ mặc áo sơ mi ngắn tay. Khi gặp Bác hỏi: "Chú làm gì?" đồng chí thưa là Chủ tịch tỉnh, Bác nói ngay: "Thế Chủ tịch tỉnh ra đón ************* mà chỉ Zn mặc đơn giản thế này thôi à? Cái gì quá thái thì không nên cầu kỳ quá, cẩu thả quá đều sai". NZm 1963, về thZm tỉnh Lai Châu, Bác gặp các cán bộ tỉnh, Bác thấy có đồng chí Zn mặc trau chuốt, sang trọng, khi nói chuyện Bác ân cần hỏi thZm sức khoẻ gia đình, phong trào quê hương sau Bác nói khẽ: "Chú là người dân tộc, có trình độ mà lại là lãnh đạo thì cần phải giản dị hơn nữa, ta còn nghèo? đặc biệt nhân dân vùng cao còn thiếu thốn nhiều thứ". Một lần đồng chí Nha người dân tộc được phân công bảo vệ Đại hội Đảng, đồng chí đứng gác một vị trí đặc biệt. Thấy một cụ già chân đi dép cao su, đầu đội mũ đã cũ, vai mang một túi vải đang đi vào khu vực đồng chí bảo vệ, đồng chí Nha đến gần và hỏi: "Thưa cụ, cho cháu xem cái giấy ra vào ạ", đồng chí bảo vệ Bác đến nói: "Bác đấy sao lại hỏi giấy Bác". Nha lúng túng, rồi trả lời: "Bác cũng phải có cái giấy mà, có giấy mới được vào". Lúc đó đồng chí cận vệ Bác tỏ thái độ bực mình, Bác ôn tồn bảo: "Chú phải đi tìm chỉ huy của chú ấy mới được. Bác cháu mình quên giấy rồi". Một lát sau đồng chí chỉ huy vội chạy đến bảo: "Bác Hồ đấy, sao lại không để Bác vào". Lúc đó đồng chí Nha mới biết ông cụ là Bác Hồ, Nha sung sướng quá, nhưng rồi ân hận đứng đờ ra, Bác vui vẻ bảo Nha: "Chú làm nhiệm vụ bảo vệ như vậy là tốt". Sáng hôm sau Nha cùng đồng chí chỉ huy được Bác cho gọi vào. Bác lấy ra tấm ảnh và nói: Chú Nha mới vào đơn vị chưa biết Bác, khi thấy người không có giấy không cho vào nơi quy định là đúng, đáng khen, Bác thưởng chú Nha chiếc ảnh này. Còn các chú cán bộ khi giao nhiệm vụ cho chiến sĩ mới chưa giới thiệu về Bác, trở ngại công việc Bác phê bình". Được biết một số đồng chí khi tập thể giao công tác cấp dưỡng thì tỏ thái độ không bằng lòng, nhân dịp nói chuvện với đơn vị Bác kể chuyện ngày xưa Bác làm nghề cấp dưỡng ra sao: "Bác phải nấu nướng cho bọn quan lại, tư sản Zn, không được như các cô các chú cấp dưỡng bây giờ, được phục vụ nuôi nấng cán bộ của cách mạng, cán bộ là vốn quý của cách mạng cán bộ có khoẻ công việc mới chạy đều, nuôi cán bộ là một việc rất quan trọng, là góp công chZm lo cho sự nghiệp cách mạng". Nghe Bác nói chuyện, ai cũng thấy an tâm tự hào về công việc cấp dưỡng mình làm, từ đấy không ai kêu ca nữa. Bác đến thZm một đơn vị bộ đội, đơn vị chào đón Bác theo điều lệnh quân đội. Bác ân cần đến gần một chiến sĩ rồi cúi xuống sửa lại chiếc áo len chỗ thò ra ngoài quân phục. Khi vào xem nội vụ? Bác đến gần giường của một chiến sĩ thấy phía đầu giường dán hình cô gái đẹp, Bác hỏi: "Thím đấy à?", đồng chí ấp úng trả lời,"Dạ thưa Bác không ạ, cháu cắt ở hoạ báo ra đấy ạ". Bác nói: "Sao chú không treo hình thím ấy? Nếu chú về nhà thấy thím ấy treo hình người khác đầu giường thì chú nghĩ thế nào?", Bác đến thZm bộ đội thử vũ khí mới, đồng chí sỹ quản trực chỉ huy chạy đến nghiêm chỉnh dõng dạc báo cáo khẩu lệnh, xong Bác nói với đồng chí cán bộ cấp cao của quân đội cùng đi với Bác hôm đó: "Trông chú ấy dữ tợn quá, Bác nghĩ phong thái bộ đội Việt Nam nghiêm nhưng hiếm hơn, Bác muốn bộ đội Việt Nam phải giữ phong cách đặc biệt Việt Nam, điều chú đi học nước ngoài một thời gian đã Âu hoá thiếu. Có lần Bác đến Bộ Tổng tham mưu nhắc các đồng chí không nên giam giữ giặc lái Mỹ ngoài Hà Nội vì địch có thể đột nhập đường không để giải thoát, theo lời Bác ta bí mật di chuyển giặc lái ngay, quả nhiên sau đó chúng tổ chức đột nhập và bị thất bại. Sau ngày giải phóng, tình hình tỉnh Quảng Ninh còn rất phức tạp. Bác xuống thZm, các đồng chí bố trí nơi nghỉ có bảo vệ nghiêm ngặt- Bác bảo ở gần đây có đơn vị bộ đội nào đóng quân không, được biết trên đồi cao có một đơn vị, Bác đề nghị lên đó vì trên đồi cao gió mát, Bác nói: "Bác nằm giường gỗ quen, thoải mái hơn, lên đó với anh em bộ đội cho vui lại bí mật, các chú lại đỡ công tác bảo vệ". Bác đi đâu Bác không muốn cho mọi người biết rộng ra vì vừa đỡ tốn thời gian đón tiếp, vừa công tác bảo vệ đơn giản hơn, đặc biệt nắm tình hình sâu sát hơn. Đến một địa phương Bác thấy đón Bác quá rờm rà, hình thức. Khi gặp các đồng chí cán bộ có trách nhiệm Bác kể câu chuyện thời Nga hoàng: "Thời đó Nga hoàng đi đâu đều báo trước, một lần đến địa phương để xem dân chúng ra sao, tên quan quản vùng bèn bố trí mọi cách để nịnh hót vua, nó thuê hoạ sĩ vẽ nhiều tranh rực rỡ, sửa sang nhà cửa đường sá nơi bố trí cho vua đi qua, dọc đường bố trí những người béo tốt giả vờ đóng dân địa phương lấp ló đâu đó để cho vua tình cờ trông thấy, nó bố trí một quang cảnh như thật để bịp ông vua vốn cũng rất quan liêu, Nga hoàng thấy thế khen ngợi và trọng thưởng tên quan đó" Bác dặn: "Các chú đừng bắt chước tên quan kia". Cuối nZm 1946, Bác từ Pháp về đến Hải Phòng, để bố trí Bác về Hà Nội cho an toàn các đồng chí đã tìm một người cải trang giống Bác rồi đưa công khai về Hà Nội còn Bác sẽ đi theo con đường bí mật, biết được, Bác không nhất trí: "Lỡ ra có chuyện gì không hay đối với người đóng Bác thì các chú tưởng Bác bằng lòng chZng, phải tin tưởng ở nhân dân, có nhân dân bảo vệ kẻ xấu không dám làm gì Bác đâu. Các chú đừng làm theo kiểu Hít le đánh lừa nhân dân". Bác bình thản lên tàu về Hà Nội, dọc đường khi tàu dừng bánh Bác nói chuyện với nhân dân giữa đám đông và không có chuyện gì xẩy ra. Cách mạng mới thành công, tình hình phức tạp, nhiều người đề nghị Bác cho bắt giam một người để đề phòng hậu hoạ. Bác hỏi: "Các chú bắt người ta để làm gì?". Có đồng chí trả lời: "Dạ thưa Bác, bắt để cho họ sợ, để..." Bác nghiêm nét mật nhưng giọng ôn tồn: "Thế chú có biết làm cho người ta sợ hơn hay là làm cho người ta kính trọng hơn, người ta yêu mình hơn. Các chú nên nhớ rằng: không sợ người ta không theo mình, mà chỉ sợ lòng mình không rộng". Khi Bác hỏi về xử trí bọn phỉ ở Kỳ Sơn (Nghệ An) thế nào, đồng chí có trách nhiệm báo cáo Bác là những tên có nợ máu sẽ đem xử tử hình. Bác bảo: "Thế là sai to rồi, các chú giết họ một thì họ sẽ theo giặc mười, giết họ mười thì họ sẽ theo giặc trZm, các chú phải phân biệt đâu là giặc, đâu là ta, họ lỡ theo giặc ngoại xâm làm việc phi nghĩa, ta phải tìm cách vận động để họ trở về với nhân dân, phải hiểu được âm mưu của giặc ngoại xâm, phân tích cho họ rõ âm mưu chúng là muốn ta "nồi da nấu thịt", vận động họ, ai trở về với nhân dân sẽ được khoan hồng và có thưởng". Theo lời Bác, ta mở chiến dịch tuyên truyền vận động nhân dân cô lập tối đa lực lượng kẻ thù, cho nên âm mưu gây rối của chúng bị thất bại.
    (còn tiếp)

    The Soul of NgheTinhIIR
  10. natna

    natna Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/05/2003
    Bài viết:
    1.411
    Đã được thích:
    0
    NHỮNG LỜI DẠY DỄ HIỂU
    (Phần 4)
    Khi làm việc gì Bác cũng tôn trọng ý kiến tập thể, tinh thần dân chủ của Bác thể hiện trên nhiều mặt hoạt động. Có lần Bác viết bài đZng báo. trước khi đZng báo, đồng chí phụ trách tuyên huấn đến đề nghị Bác đổi lại trật tự đầu đề là "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân", Bác hỏi thêm ý kiến của đồng chí khác cũng theo ý kiến như đồng chí tuyên huấn. Bác nói: "ý kiến các chú cũng có lý, nhưng theo Bác thì ví như gia đình các chú mua được bàn ghế giường tủ mới, trước khi kê vào phòng các chú phải quét dọn sạch sẽ hay cứ để rác rưởi bẩn thỉu". Rồi Bác nói luôn: "Vì các chú đều có ý kiến vậy, Bác đồng ý đổi lại trật tự ở đầu bài, còn nội dung cứ giữ nguyên ý Bác là "quét sạch chú nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng" ý và tứ của Bác ở một bài báo dạy về đạo đức cách mạng là vậy. Biết một đồng chí cán bộ chỉ huy rất nóng tính đối với anh em, cho nên anh em không kính phục, Bác cho gọi lên, trên bàn Bác đặt một cốc nước lạnh, một cốc nước nóng, Bác chỉ vào cốc nước nóng: "Chú uống đi". Đồng chí thưa là nước đang nóng chưa uống được, Bác nói: "Thế đấy đối với Bác cũng nóng, đối với chú cũng nóng có ai uống được nước nóng đâu, sao chú lại nóng với anh em?". Sau này mỗi lần khi nóng với anh em đồng chí định quát tháo ầm ĩ nhưng nhớ lời Bác đồng chí lại thôi, dần dần đồng chí bỏ được chứng bệnh nóng. Anh em hay phàn nàn về một đồng chí chỉ huy thường hay vô cớ phê bình anh em. Biết chuyện, hôm Zn cơm với Bác, Bác hỏi: "Bánh ga-tô Zn có ngon không?" đồng chí thưa với Bác là rất ngon, Bác hỏi tiếp: "Nhưng khi chú Zn no rồi, mời chú Zn bánh chú thấy có ngon không?" đồng chí thưa là sẽ mất ngon, Bác nói ngay: "Chú nhớ phê bình và tự phê bình là cần thiết và đáng quý nhưng không đúng lúc, đúng chỗ mà bắt người ta phải nghe, phải nhận thì người ta không ai chấp nhận được, và khi phê bình phải có tình thương yêu đồng chí, anh em", từ đó đồng chí hết phê bình bừa bãi. Một lần có đồng chí cán bộ cao cấp đi tắm biển cùng, Bác biết đồng chí này là người vùng biển. Khi ra đến bãi biển thấy nhân dân kéo lưới đông vui, Bác hỏi đồng chí: "Chú có biết kéo lưới rùng và cầm chèo không?" đồng chí trả lời Bác tuy là dân biển nhưng chỉ làm công việc trên cạn, Bác nói vui:"Có lẽ Ban tổ chức nên thêm mục thành phần lý lịch "ngư dân không biết nghề biển".
    Khi ra thZm đảo Cô tô, Bác xắn quần lội xuống ruộng thZm bà con nông dân. Đến ruộng khoai Bác lấy tay đào một gốc khoai giơ lên rồi nói với đồng chí Bí thư đảo: "Khoai rất nhiều củ nhưng vì thiếu phân và thiếu nước nên củ nhỏ". Bác cZn dặn nên xây kè, hồ để giữ nước, trồng nhiều cây vừa chống gió lại giữ được nước. Nhìn thấy bà con đi giữa đường cát nóng, Bác bảo đồng chí Bí thư: "Hẹn chú ba nZm nữa phải có cây xanh, có bóng mát cho dân". Lần Bác về thZm một hợp tác xã, Bác nói chuyện với bà con giữa trời nắng nóng, đồng chí cán bộ xã vội lấy ô che nắng cho Bác, Bác bảo: "Sao chú lại lấy ô của các cụ che cho Bác, trời nắng chú có tìm đủ ô che cho các cụ đang ngồi dưới nắng với Bác không?". Có lần Bác đến thZm và nói chuyện với một lớp học, trời nóng, hội trường chật, Bác và các học viên đều ướt đẫm mồ hôi, có đồng chí cán bộ vội lấy chiếc quạt quạt cho Bác, Bác bảo: "Ai nhờ chú quạt cho Bác, anh em ngồi dưới cũng nóng như Bác". Lần Bác về thZm tỉnh Thái Bình, các đồng chí chuẩn bị bài phát biểu cho Bác. Bác xem qua trước Bác không nhất trí đoạn nói về việc xoá mù chữ, Bác nói: "Nếu lát nữa Bác phát biểu trước đồng bào, nhỡ còn có người mù chữ, thì họ đánh giá Hồ Chủ tịch cũng mắc bệnh quan liêu thì sao?". Đến thZm một trường học khi nghe báo cáo về nhiều mặt tốt Bác khen ngợi, đến đoạn trồng cây, mỗi người trong nhà trường từ sinh viên đến cán bộ mỗi người đều trồng 3 cây. Bác bảo: "Chỉ nên trồng một cây thôi nhưng phải chZm sóc cho nó sống". NZm 1961, Bác trở lại thZm Pắc Bó, khi lên thZm hang, thấy đường vào hang được phát quang sạch sẽ, dễ đi, Bác bảo: "Các chú làm thế này thế hệ sau tưởng hồi xưa đường đi lối lại cũng dễ dàng, nếu muốn sửa sang để đón khách, nhất là khách quốc tế thì các chú làm con đường bên cạnh, để khách thZm thấy được đúng hoạt động khó khZn gian khổ hồi xưa". Hồi ở chiến khu khi đến địa điểm mới là Bác bảo với mọi người tZng gia sản xuất, khi biết cơ quan sắp chuyển đi chỗ khác có đồng chí thưa với Bác là không nên trồng nữa, Bác bảo: "Ta trồng nếu ta không thu hoạch thì để lại cho nhân dân, nếu sau này có trở lại thì đã có rau Zn rồi". Đơn vị thông tin cải thiện được món tươi, cử một đồng chí mang thư dán kín ngoài đề "hoả tốc" đến để mờl Bác cùng dự liên hoan, khi đồng chí trở về mang theo lá thư của Bác vẻn vẹn mấy chữ "Cái gì đáng hoả tốc thì hoả tốc, nếu không thì đi bằng "thuỷ tốc" nhé, chào thân ái, Bác Hồ". Một lần các đồng chí thông tin mắc điện thoại cho Bác, Bác mời hút thuốc, có đồng chí rút liền 3 điếu, Bác nói vui: "Sao chú lấy nhiều thế" đồng chí thưa Bác là lấy phần cho đồng chí khác, Bác khen, rồi lấy ra một điếu nữa đưa cho đồng chí và nói: "Ưu tiên biếu chú thêm một điếu nữa vì biết nghĩ đến người khác". Khi giặc Mỹ tZng cường bắn phá ra miền Bắc, Bác tham dự cuộc họp bàn về tình hình cách mạng mới. Có đồng chí phát biểu: "Mỹ ném bom ra miền Bắc thì tình hình cũng không có gì thay đổi cả, chúng ta vẫn tiến công...". Bác bình tĩnh nói. "Sao chú lại nói tình hình không có gì thay đổi cả. Ta không sợ địch, nhưng Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc tất nhiên gây nhiều khó khZn cho ta, cần phải thấy hết khó khZn để có biện pháp khắc phục...".
    (còn tiếp)

    The Soul of NgheTinhIIR

Chia sẻ trang này