1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đảo Giấu Vàng - R.L. Stevenson

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Milou, 23/02/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    XI
    Hội đồng quân sự
    Mọi người rầm rập chạy lên boong. Tôi vội chui ra khỏi thùng lê, lẩn sau cột buồm rồi đi vòng lại. Một dải sương mù đã lên cao. Vừa lúc ấy vầng trăng cũng nhô lên. Xa xa về phía tây nam, hai cái gò thấp cách nhau chừng hai dặm; đằng sau một cái nữa cao hơn, đỉnh gò 53 54 còn khuất trong sương mù. Cả ba đều nhọn như hình chóp nón. Tôi nhìn cảnh ấy như trong một giấc chiêm bao. Tiếng ông thuyền trưởng hỏi:
    -Có anh nào biết đảo này không?
    Gã Xin-ve lên tiếng ngay:
    -Có, tôi đă đến đó khi tôi còn làm bếp cho một chiếc tàu buôn.
    -Chỗ bỏ neo ở phía nam, sau cái đảo con phải không?
    -Thưa ông phải. Người ta vẫn gọi đảo ấy là đảo Hình Người. Cái gò phía bắc gọi là gò Cột Cái. Còn cái gò lớn có mây phủ kia là gò Vọng Viễn. Người ta gọi thế, vì ở trên ấy có thể trông xa trong khi thả neo để rửa tàu.
    -Có bản đồ đây, anh xem thử có đúng không?
    Khi cầm bản đồ, mắt Xin-ve long lanh, nhưng kịp trông màu giấy còn mới, gã phải thất vọng vì đó chỉ là bản sao lại. Tuy thất vọng, nhưng gã tinh khôn, không để lộ ra mặt. Gã bảo:
    -Thưa ông! Chính phải! Vẽ khéo lắm!
    Tôi rất lấy làm lạ về cử chỉ bình tĩnh của gã khi gã nhận có biết khu đảo. Thú thật lúc thấy gã lại gần tôi, tôi hơi rợn. Dĩ nhiên là gã không biết tôi ngồi nấp trong thùng lê, nhưng tôi ghê sợ cái tính ác độc và cái sức mạnh đen tối của gã. Vì thế khi gã chạm đến tay tôi, tôi rùng mình như chạm phải miệng rắn độc. Gã nói với tôi:
    -Chà! Cái đảo này tuyệt đẹp! Trẻ tuổi như cậu mà lên chơi đó thì thật sướng. Tha hồ mà trèo nhảy, thung thăng như con thỏ rừng. Tôi được đến những chỗ này cũng thấy mình như trẻ ra. Khi nào có lên chơi thì bảo tôi, tôi có ít đồ ăn lót dạ cho cậu dùng.
    Nói xong, hắn vỗ vai tôi rồi chống nạng đi xuống. Tôi thấy ông thuyền trưởng đứng nói chuyện với bác sĩ và ông Chi ở đằng lái. Tôi không dám cắt đứt câu chuyện của ba ông. May sao bác sĩ vừa thấy tôi đă vẫy lại, bảo tôi đi lấy cái tẩu thuốc. Đến gần, tôi nói ngay:
    -Tôi có nhiều chuyện cấp bách muốn báo với ba ông.
    Nét mặt bác sĩ hơi khác, sau trở lại như thường. ông nói to lên một cách tự nhiên:
    -Cám ơn cậu Dim! Chỉ có thế!
    Xong ông quay lại, chuyện trò với hai ông kia. Một chốc sau thuyền trưởng cho thổi còi tập hợp. ông nói:
    -Hỡi các bạn, chúng ta đă tới đích. Tất cả anh em đều làm tròn việc.
    ông Chi có lòng tốt đem rượu cho anh em uống để mừng. Chúng tôi cũng sắp xuống phòng dưới uống với nhau vài cốc. Nếu các anh đồng ý, chúng ta nên hoan hô cảm ơn ông Chi.
    Mọi người đều hò reo vui vẻ. Ba ông xuống phòng. Lúc tôi bước vào thì ba người đương ngồi quanh bàn, trên có chai rượu và vài chùm nho. Trông thấy tôi, ông Chi bảo ngay:
    -Cậu Dim muốn nói gì, nói đi!
    Tôi vội vàng thụât lại những lời của Xin-ve. Trong khi tôi nói, mọi người ngồi im phăng phắc, mắt dán vào tôi. Tôi nói xong, bác sĩ rót cho tôi một cốc rượu và giúi vào tay tôi rất nhiều nho. Cả ba cùng nâng cốc uống mừng về sự quả cảm và nhanh trí của tôi. Uống xong, ông Chi nói trước:
    -ông thuyền trưởng, trước nay tôi đối với ông rất không phải. Bây giờ tôi mới biết tôi lầm. Tôi quả là đồ ngốc.
    -Tôi đây mới ngốc chứ! Cả một vụ âm mưu cướp tàu ở ngay dưới mắt tôi mà tôi không hề biết! Bây giờ thì tôi có mấy ý kiến xin phép tỏ bày...
    -Vâng, ông cứ nói.
    -Điều thứ nhất là chúng ta phải tiếp tục đi, vì nếu quay về là lập tức chúng sẽ khởi loạn! Điều thứ hai là từ nay cho đến khi tìm thấy của, ta còn có thời giờ chuẩn bị. Điều thứ ba là ta còn có những người trung thành. Bây giờ ta sẽ đợi cơ hội bất ngờ là hành động. Nếu ông thuận, tôi cứ việc cho tàu chạy nhưng sẽ bố trí đề phòng!
    Bác sĩ Ly nói:
    -Cậu Dim có thể giúp ta được nhiều việc. Chúng không nghi cậu mà cậu lại có óc nhận xét. Từ nay trở đi cậu nhớ luôn luôn theo sát lăo Xin-ve.
    ông Chi nói thêm:
    -Cậu Dim, cậu là một cậu bé rất gan dạ, chúng tôi hy vọng ở cậu nhiều.
    Tôi nghe nói thế cũng thấy tự hào. Tôi mong có cơ hội là cố gắng làm theo lời dặn của bác sĩ Ly. Nhưng tự xét tôi cũng chẳng tài cán gì, mà hiện nay, trong số bảy người của chúng tôi thì tôi lại là một đứa trẻ! Như thế là chỉ có sáu người mà phải chống chọi với mười chín tên lực lưỡng trong bọn chúng.
  2. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    XII
    Bước chân lên đảo
    Sáng hôm sau, đứng trên boong nhìn ra, tôi thấy cảnh tượng khu đảo khác hẳn. Những dãy núi phơn phớt màu xám chiếm gần hết khu đảo. Lác đác có những dải cát vàng và những khóm thông cao. Tất cả một màu ảm đạm. Núi gò nhô hẳn lên phơi những tảng đá trơ trụi. Cái nào cũng hình thù cổ quái. Gò Vọng Viễn là gò cao nhất trong đảo. Hình dáng nó cũng kỳ khôi, bốn bề dốc ngược, trên đỉnh như bị tiện ngang, trông giống cái đế một pho tượng. Tàu phải đi ngoắt ngoéo men theo đảo để đến cái lạch sau đảo Hình Người. Neo vừa bỏ, một đàn chim đă bay vù lên, rồi cảnh vật trở lại yên tĩnh. Chung quanh, rừng cây mọc um tùm. Bờ biển thấp, những gò cao đằng xa trông từng bậc như bậc thang. Hai con sông vẩn bùn chảy vào vũng ấy. Không một rẻo gió. Ngoài tiếng sóng vỗ bờ cách xa nửa dặm, chẳng nghe tiếng gì khác nữa. Mùi thân cây ruỗng thối và lá cây mục xông lên nồng nặc. Tôi thấy bác sĩ Ly cứ khìn khịt mũi như người ngửi phải trứng thối...
    Lúc ấy mặt trời nóng bức. Không khí trên tàu cũng bừng bừng. Trong đám thủy thủ đă có nhiều dấu hiệu đáng lo ngại. Họ túm tụm với nhau từng đám, thầm thì to nhỏ. Mắt họ gườm gườm, mặt họ đầy sát khí. Việc nổi loạn đă rõ rệt. Nó bao phủ chúng tôi như cơn dông sắp đến. Tên Xin-ve có lẽ cũng nhận thấy thế nên hắn chạy lăng xăng cố lấy lời phải chăng khuyên nhủ mọi người. Lệnh vừa truyền, hắn đă xung phong làm trước. Có lúc hắn cố hát to và bông đùa để làm khuây lãng nỗi uất ức của đồng bọn. ông thuyền trưởng gặp riêng chúng tôi và bảo:
    -Chúng ta bây giờ như ở vào cái thế của người cưỡi hổ. Nếu tôi bắt họ tuân lệnh thì họ nổi xung ngay. Nếu im lặng, thì Xin-ve tất sinh nghi. Bây giờ tôi định cho họ lên bờ nghỉ. Nếu họ đi, ta giữ lấy tàu. Nhược bằng không đi, ta giữ lấy mấy gian phòng mà chống cự. Nhưng muốn cho công việc được ổn thỏa, ta có thể trông cậy vào một người.
    ông Chi hỏi ngay:
    -Ai?
    Thuyền trưởng đáp:
    -Thưa ông, Xin-ve! Chính hắn cũng muốn êm chuyện. Như lời cậu Dim, hắn muốn đợi khi ta tìm xong của mới ra tay, nên hắn có thể dàn xếp yên được.
    Thế là kế hoạch bắt đầu được thực hiện. Những súng lục nạp đạn đều phân phối trong bọn chúng tôi. Những người thân tín như Hun-tơ, Do-sơ, lăo Ri đều được biết chuyện. Họ chẳng hề ngạc nhiên hay sợ sệt. Trái lại, họ tỏ ra rất bình tĩnh và gan dạ. Thật là một sự khích lệ. ông thuyền trưởng lên boong tuyên bố cho phép thủy thủ lên bộ chơi. Trước khi mặt trời lặn sẽ bắn đại bác báo hiệu về. Nói xong, ông bỏ đi xuống để cho Xin-ve tự nhiên trở thành người đứng ra chỉ huy công việc. Kết quả là có người ở lại và mười sáu người xuống thuyền đi chơi, trong đó có Xin-ve. Nhớ lời bác sĩ Ly căn dặn là luôn luôn phải theo sát Xin-ve, tôi bỗng nảy ra ý định xuống thuyền đi theo d'i Xin-ve. Tôi nghĩ rằng Xin-ve chỉ để lại sáu người thì không thể chiếm tàu mà đi được. Tôi ở lại tàu cũng bằng thừa. Cứ đi theo chúng xem sao. Thế là trong nháy mắt tôi lần xuống thuyền, ngồi thụp xuống. Kịp khi Xin-ve biết thì thuyền tôi đi trước đă cập bờ. Tôi nhảy tót lên lẩn vào bụi rậm, còn nghe tiếng Xin-ve gọi với đằng sau: ?oDim, Dim!" Lánh được Xin-ve, tôi khoan khoái lạ lùng. Cảnh lạ làm tôi vui mắt. Rừng ở đây liễu mọc chen chúc, lau sậy um tùm. Có những cây sên lùn tịt thấp lè tè như bụi rậm, cành xoắn lại, lá rậm sin sít như mạ xanh. Rắn bò lúc nhúc. Lần đầu trong đời, tôi được nếm cái thú vị của người thám hiểm khi đặt bước lên miếng đất hoang vu chưa có dấu chân người. Thốt nhiên, có tiếng động trong khóm lau. Một con le, rồi cả đàn le bỗng bay vù lên, tiếng kêu inh ỏi. Tiếp đó, tôi nghe rõ tiếng người. Tiếng ấy làm tôi hoảng sợ vì tôi biết ngay là tiếng nói của gã Xin-ve. Tôi đã định bỏ chạy, nhưng sau tôi nghĩ lại. Mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Đã có gan đi theo chúng, sao lại không có gan lại gần chúng để xem chúng làm gì? Thế là tôi bò lại chỗ có tiếng người, bò thật cẩn thận. Tôi thấy rõ Xin-ve và một người nữa trong bọn đang ngồi đối diện trên bãi cỏ xanh. ánh nắng chiếu thẳng vào mặt hai người. Tiếng Xin-ve đương nói:
    -Có tin cậy anh lắm thì tôi mới cất công đến đây bảo với anh. Giá phải người khác... anh thử nghĩ đối với họ tôi sẽ xử trí như thế nào?
    Người kia đáp lại, mặt đỏ gay, giọng khàn khàn, run run:
    -Anh Xin-ve! Tôi không ngờ anh lại đi theo bọn khốn nạn kia! Chẳng thà tôi chịu chặt tay còn hơn phải làm chuyện ấy.
    Xin-ve bỗng chống nạng vụt đứng lên, đôi mắt ti hí sáng chói như mắt rắn độc rình mồi, hỏi gặng:
    -Thế là anh nhất quyết không nhập bọn với tôi phải không?
    Người kia bỗng tức giận quát to:
    -Xin-ve! Khi xưa anh là bạn của tôi. Từ nay tôi xin từ mặt anh ra. Nếu có giỏi, anh cứ giết tôi. Tôi thách anh đấy!
    Nói xong, người kia bỏ đi. Xin-ve hét to một tiếng, nhấc cái nạng ở nách, nhặt một cành cây lao theo. Đầu cành cây trúng ngay giữa lưng người kia. ạng ta giơ hai tay lên, lảo đảo rồi ngã gục. Người đó chưa kịp nhỏm lên thì Xin-ve đã chạy lại, cưỡi lên, rút dao hạ thủ. Xong, con quỷ dữ ấy lại bình tĩnh đội mũ lên, chống nạng đi lững thững. Cảnh tượng xung quanh vẫn không thay đổi. Mặt trời vẫn thản nhiên chiếu xuống mặt hồ đương bốc hơi. Nhìn phong cảnh ấy, khó lòng mà tin rằng có một việc giết người rất tàn ác vừa xảy ra. Tôi đưa tay xoa mắt, bàng hoàng cả người. Tôi bỗng muốn rời ngay, rời tức khắc cái nơi giết người gớm ghiếc này. Tôi bò nhanh ra rừng rồi cắm đầu cắm cổ chạy.
  3. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    XIII
    Người trong đảo
    Đến gần một cái đầm, tôi đứng dừng lại. Tôi bỗng thoáng thấy sau một gốc thông, có một vật gì nhảy nhanh lạ thường. Tôi chỉ biết hình thù nó đen và lông lá. Sợ quá, tôi quay gót lui về phía tàu đỗ. Thoáng cái, cái bóng lúc nãy lại hiện ra, nó đi một vòng dài rồi đến chặn ngang trước mặt tôi. Con quái vật ấy nhảy từ gốc cây nọ qua gốc kia như một con nai. Hắn chạy hai chân như người. Mà quả là người thật. Tôi chợt nhớ có lần tôi đã nghe nói đến giống người ăn thịt người. Tôi định kêu cứu. Nhưng đă là người, thì chắc cũng không đến nỗi như tên Xin-ve gớm ghiếc kia. Nghĩ thế tôi trở lại bình tĩnh. Vụt nhớ đến khẩu súng lục trong mình, tôi đâm vững dạ. Tôi quay về hắn, mạnh bạo tiến lại. Hắn cũng nhô ra, bước lại phía tôi. Nhưng hắn hơi ngần ngại, lùi lại một lúc mới tiến lên. Rồi hắn bỗng quỳ xuống, giơ hai tay ra như van xin, làm tôi vừa lạ lùng vừa bối rối. Tôi hỏi:
    -Anh là ai?
    -Tôi là Ben-gun. Tôi là kẻ khốn nạn đã ba năm nay chưa được gặp một người.
    Tiếng hắn rè đặc như tiếng khóa gỉ. Mặt hắn trông cũng dễ coi. Da hắn phơi nắng nên chỗ nào cũng cháy sém. Đôi mắt xanh trên khuôn mặt đen mò. Hắn ăn mặc rách rưới lổ đổ như tổ ong. Hắn đính vào người đủ các thứ mảnh buồm cũ, vải sơn, khuy đồng, dây rợ. Hắn đeo quanh mình một chiếc thắt lưng bằng da đă cũ. Xem ra, trong bộ quần áo của hắn, thứ này còn lành lặn hơn cả. Tôi hỏi hắn:
    -Anh ở đây đă ba năm rồi ư? Anh bị đắm tàu giạt vào đây phỏng?
    -Không! Tôi bị đày. Người ta đày đọa tôi ở đây, tôi phải săn dê, tìm quả, mò ốc hến để ăn. Này ông bạn ơi! ạng có miếng phó-mát nào đấy không? Chắc không rồi! Lâu nay tôi chỉ mơ tưởng được ăn miếng phó-mát. à quên! Tên anh là gì nhỉ?
    -Dim!
    -Dim, Dim!
    Hắn nhắc lại, ra vẻ bằng lòng lắm.
    -Anh Dim ạ! Nói ra thật xấu hổ. Anh trông tôi thế này, tất không đoán được tôi còn có mẹ già. Mẹ tôi là người ngoan đạo. Mà trước kia tôi cũng là đứa trẻ rất ngoan đạo. Tôi đọc kinh làu làu. Vậy mà bây giờ ra thế này. Thôi! Chính Chúa Trời đã phạt tôi ở đây. ở trên hoang đảo này, tôi có thì giờ nghĩ kỹ rồi. Tôi sẽ tu tỉnh làm ăn...
    Bỗng mặt hắn sa sầm, rồi hắn chỉ vào tôi và hỏi:
    -Anh phải nói thật cho tôi biết, anh có phải là người của Phơ-linh không?
    Tôi bỗng nảy ra một ý hay. Tôi chắc hắn có thể là một tay cộng tác tốt với chúng tôi. Tôi đáp:
    -Tôi nói thật cho anh rõ: Phơ-linh chết rồi. Hiện chỉ còn mấy tên thủ hạ khốn nạn của lão ấy trên tàu chúng tôi thôi.
    Hắn ấp úng hỏi:
    -Thế có đứa nào cụt chân không?
    Tôi bảo:
    -Xin-ve phải không?
    Hắn nói như đuối hơi:
    -Nếu Xin-ve sai anh lại đây thì tôi nguy mất.
    Tôi thuật lại tất cả chuyện của chúng tôi cho hắn nghe. Mặt hắn tươi dần, rồi sau cùng hắn niềm nở vỗ vào vai tôi:
    -Các anh đừng sợ. Xin các anh cứ tin cậy ở Ben này. Ben này có thể giúp các anh gỡ chỗ bí. Nhưng không biết cái ông quý tộc nhà anh có rộng lượng với kẻ này không?
    Tôi bảo ông Chi là người rất hào hiệp và tôi cam đoan đảm bảo cho hắn. Hắn lại hỏi một cách láu lỉnh:
    -Thế còn chuyến về?
    Tôi đáp:
    -Anh nên nhớ ông ta là người lớn. Vả lại nếu trừ xong bọn kia, chúng tôi cũng phải cần đến anh để cho tàu vào bến.
    -à ra thế!
    Nói xong, hắn có vẻ yên tâm hơn trước. Câu chuyện giữa Ben và tôi dần dà làm tôi vỡ lẽ vì sao Ben lại sống ngoài đảo hoang vu này. Chuyện đó như sau: Xưa kia Ben làm việc dưới tàu của lão Phơ-linh. Một hôm Phơ-linh cho tàu chạy đến đảo này. Khi cập bến, lão bắt sáu tên thủ hạ đi chôn kho vàng của lão. Khi chôn xong lão sợ bị tiết lộ, bèn giết hết sáu tên thủ hạ đó. Lúc đó Ben ở dưới tàu với Piu và Xin-ve. Piu lúc đó làm phó thuyền và Xin-ve làm đội trưởng. Ba năm sau, nhớ đến kho vàng, Ben cùng một số thủ hạ thuê tàu vượt đến đảo này. Họ mưu cùng nhau tìm kho vàng của lão Phơ-linh để về làm giàu, nhưng tìm không ra. Bọn thủ hạ tức giận bỏ Ben lại đảo với một khẩu súng tay và một cái thuổng. Ben nói:
    -Anh cứ nói với nhà quý tộc rằng ba năm tôi ở đảo... cũng làm... ra trò đấy.
    Nói đến đây, hắn béo tôi một cái ra ý thân mật. Tôi sốt ruột bảo:
    -Bây giờ làm thế nào anh giúp tôi xuống được tàu đây! Hắn nói:
    -Kể cũng khó! à, tôi có một chiếc xuồng do tay tôi đóng lấy. Tôi giấu nó dưới hốc đá trắng đầu kia... Kìa! Cái gì thế?
    Thốt nhiên hắn kêu to lên, vì lúc ấy mặt trời còn cao mà tiếng đại bác dưới tàu đã nổ vang làm rung động cả khu đảo.
    -Đánh nhau rồi!
    Tôi cũng kêu to lên, rồi hấp tấp chạy về phía tàu đỗ. Bên cạnh tôi, Ben-gun khoác áo da dê bước nhanh thoăn thoắt. Một tiếng đại bác nữa. Một lúc lâu, có tiếng súng tay nổ liên hồi. Trước mặt tôi, lá quốc kỳ phất phới trên một khu rừng. Ben-gun bỗng ngồi thụp xuống:
    -Kìa! Bọn anh đã thắng rồi. Họ đã lên bờ chiếm cái khu đồn cũ của lão Phơ-linh kìa!
    Tôi bảo:
    -Thế thì phải đến ngay đấy mới được! Hắn nói:
    -Không! Anh Dim ạ, anh tốt bụng nhưng anh còn ít tuổi. Trước khi chưa gặp nhà quý tộc, tôi chưa đi với anh đến đó đâu. Anh về nhớ nói cho người đến, mà phải mang theo cái gì làm tin.
    Tôi hỏi:
    -Nhưng gặp anh ở chỗ nào và vào lúc nào mới được chứ? Hắn đáp:
    -Cứ đến chỗ cũ anh vừa gặp tôi, từ lúc mặt trời đứng bóng cho đến khi lặn, mà nhớ phải có cái gì làm tin đấy.
    Hắn lại tiếp:
    -Nếu bọn chúng mà lên đóng trên đảo thì thế nào tôi cũng tìm cách giết một vài tên để giúp bọn các anh và để các anh biết lòng dạ ngay thật của tôi.
    Hắn vừa nói đến đấy thì có một tiếng nổ dữ dội, rồi một viên đạn đại bác nổ oàng gần chỗ chúng tôi đứng. Hai chúng tôi mỗi người chạy một ngả.
    EBDBDBD - "That's all, folks" ​
  4. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    XIV
    Cố thủ trên đảo
    Kể từ lúc tôi đặt chân lên đảo, ở dưới tàu đă xảy ra nhiều chuyện. Sau đây là lời bác sĩ Ly thuật lại cho tôi nghe... Được tin tôi đi lên đảo, bác sĩ Ly và đồng đội rất lo ngại cho số phận của tôi. Bác sĩ liền rủ Hun-tơ xuống một chiếc xuồng rồi vào bờ để dò la tình hình bọn cướp. Trong bờ có một dãy thuyền đỗ; có hai đứa ngồi trên hai chiếc thuyền hình như để canh giữ. Khi vào bờ, bác sĩ chạy rón rén lại gần chỗ chúng buộc thuyền. Vừa đi chưa được trăm mét đă gặp ngay chiếc lô cốt sừng sững trên một đỉnh gò. Một dòng suối trong xanh chảy từ trên đỉnh xuống. Chiếc lô cốt này làm bằng gỗ rất kiên cố, có thể chứa được bốn mươi người. Bốn mặt đều có nhiều lỗ châu mai. Chung quanh lô cốt đă phát quang một khu rộng. Ngoài ra lại có một hàng rào cao ngót hai mét. Nếu đóng cố thủ trong lô cốt thì rất yên trí: có thể bắn tỉa vào kẻ địch đến vây hăm như bắn gà rừng. Bác sĩ rất chú ý đến con suối, vì ở trên tàu nước ngọt cũng đang thiếu. Thế là chỉ cần có đủ lương thực, khí giới là có thể cố thủ ở đây lâu được. Nghĩ thế, bác sĩ lập tức trở về tàu. ạng Chi đương ngồi ủ rũ trong phòng, tự trách vì sự sơ suất của bản thân mà để cả bọn phải gặp bước nguy nan. Nhưng sau khi nghe bác sĩ trình bày kế hoạch, ông phấn chấn hẳn lên. Theo nhận định của bác sĩ thì cần lên lô-cốt để cố thủ vì ở dưới tàu cũng đã hết nước uống. Nếu ở dưới tàu mà ta ra mặt chống lại thì thật không lợi vì bọn chúng có đặt hai tên canh giữ trên bờ. Chúng có thể ra hiệu tập hợp nhanh chóng để bắn xuống tàu.
    Hơn nữa nếu chiếc tàu này bị bọn giặc chiếm thì trong một thời gian nữa sẽ có một chiếc tàu khác đến đón về theo như kế hoạch đă dự định. Kế hoạch này bác sĩ đă giao cho một người thân tín ở nhà. Trước khi ra đi, bác sĩ bảo lão Ri nấp trong đường hầm đằng mũi, cấp cho lăo ba bốn khẩu súng để đứng trấn thủ. Hun-tơ thì kéo chiếc xuồng con đến dưới cửa sổ tàu. Còn Do-sơ và bác sĩ thì khuân đạn, súng, mấy túi bánh quy, dăm thùng thịt lợn ướp, một thùng rượu và hòm thuốc quý của bác sĩ xuống thuyền. Thuyền trưởng và ông Chi trấn trên boong tàu. Thuyền trưởng gọi lão Han, tên cầm đầu sáu đứa còn lại, bảo:
    -Này anh Han! Hai chúng tôi đây đều có súng nạp sẵn đạn. Nếu trong bọn anh, người nào xông lại đây, lập tức tôi bắn vỡ óc.
    Cả bọn có vẻ hoang mang, một đứa trong bọn có vẻ ủ dột hẳn. Cuối cùng bọn chúng bàn bạc rồi nhảy lên sàn tàu, định bọc lối sau đánh úp lại. Nhưng khi thấy lão Ri đứng trấn ở đường hầm, chúng vội vă rút lui. Trong lúc ấy, khuân xong mọi vật xuống thuyền, bác sĩ cùng Do-sơ chui qua cửa sổ trèo xuống. Lần đi này làm cho hai tên giặc canh trên bờ chú ý. Một đứa nhảy lên và biến mất. Tải xong các thứ vào lô-cốt, bác sĩ để Do-sơ ở lại canh giữ. Trước khi đi về tải chuyến cuối cùng, bác sĩ để thêm Hun-tơ ở lại giữ lô-cốt. Bác sĩ vẫn đi bừa vì nghĩ rằng bọn chúng tuy đông nhưng ở trên tàu không một đứa nào có súng trường cả. Trước khi chúng tiến đến gần để dùng súng lục, thì người của ông có thể đã bắn chết hàng tá. Trước khi xuống thuyền để đi chuyến cuối cùng, mỗi người chỉ giữ một khẩu súng trường và một con dao. Còn lại khí giới và thuốc súng đều ném cả xuống biển. Trong lúc ở trên tàu, ông thuyền trưởng đã thấy rõ một đứa trong bọn hình như còn bỡ ngỡ và miễn cưỡng đi theo chúng. Khi sắp xuống thuyền, thuyền trưởng gọi to:
    -Anh Grây, tôi bỏ tàu đây, tôi ra lệnh cho anh phải theo tôi ngay. Tôi biết anh vốn là người lương thiện. Đừng để lỡ cơ hội, tôi hạn cho anh trong nửa phút nữa.
    Bên kia vẫn im lặng. Nhưng lời kêu gọi cuối cùng ấy đã có kết quả. Vì bên kia bỗng có tiếng đấm đá, rồi Grây chạy ra, về với bọn ông Ly. Nhưng chuyến đi cuối cùng này thật gian truân. Đồ nhiều, người đông mà xuồng thì nhỏ. Về phía lái, mép thuyền đă mấp mé mặt nước. Nước thủy triều lại đang dâng lên. Dòng nước chảy rất mạnh cứ kéo phăng con thuyền ra khỏi con đường đă định và trôi về phía dãy thuyền đỗ trên bờ của bọn giặc. Thuyền trưởng bảo cứ cho xuôi theo dòng rồi đi ngược lại. Thốt nhiên thuyền trưởng kêu lên:
    -Khẩu đại bác! Lúc này mấy ông mới chợt nhớ đă quên khuấy khẩu đại bác đặt bên hông chiếc tàu. Khi nhìn lại sau thì thấy năm thằng giặc kia đang xúm xít quanh khẩu súng lớn. Chúng đă cởi áo súng ra. Grây bảo, giọng lo ngại:
    -Thằng Han trước kia là tay bắn đại bác cho Phơ-linh. Lúc này thuyền đã đi ngược men bờ nên quay mình về phía sau và trở thành một tấm bia rất tốt cho bọn chúng. Thằng Han đứng lắp đạn. Thuyền trưởng hỏi:
    -Đây ai bắn giỏi?
    Bác sĩ đáp:
    -ông Chi đây chứ còn ai.
    Thuyền trưởng bảo:
    -ông Chi! ông hạ cho một đứa. Nếu hạ được thằng Han thì tốt nhất. Nhưng bắn cho khéo, kẻo thuyền tròng trành, đắm bây giờ. Ai nấy ngồi cho cân đi.
    ông Chi lạnh lùng nhìn cái bùi nhùi rồi giương súng bắn. Nhưng thật không may. Khi ông Chi bắn thằng Han vừa cúi xuống. Viên đạn bay qua đầu hắn, trúng vào một đứa đứng sau. Một tiếng kêu rống lên rồi tiếp theo trên bờ cũng có nhiều tiếng kêu khác. Nhìn về phía bờ, bác sĩ thấy bọn giặc đã nhảy cả từ trong bụi ra. Trong khi ấy thuyền đã gần đến doi cát dài trên bờ. Nhưng đại bác của chúng lại sắp bắn. Thuyền trưởng chỉ kịp ra lệnh: "Ngồi cho vững!" là tiếng súng nổ. Đó là tiếng đại bác tôi nghe nổ lần đầu khi tôi ở trên đảo. Quả đại bác không trúng thuyền, nhưng hơi gió tạt đă làm thuyền chìm xuống. Thuyền đắm đằng lái nhưng may chỗ này ở gần bờ nên nước đã cạn. Mọi người không ai can gì. Chỉ tai hại là lương thực chìm cả với ba khẩu súng bị ướt. Chỉ còn hai khẩu súng của bác sĩ và của thuyền trưởng là còn dùng được. Cả bọn lóp ngóp lội vào bờ, bỏ lại chiếc thuyền cùng với một nửa số lương thực và thuốc súng. Đi được một lúc, đă nghe rõ tiếng nói của bọn giặc và tiếng chân chúng giẫm gãy cành khô khi chúng lách qua bụi rậm. Bác sĩ liền nghĩ đến chuyện sắp phải đánh nhau nên vội bảo ông thuyền trưởng:
    -Trong bọn ta, ông Chi bắn cừ nhất. ông đưa súng của ông cho ông ấy. Súng ông ấy không dùng được nữa rồi.
    Hai người trao súng cho nhau. Từ lúc bắt đầu giao chiến, ông Chi vẫn lạnh lùng như băng. Thấy Grây tay không, bác sĩ liền rút dao đưa cho hắn. Hắn nhổ nước bọt vào tay, cau mày, múa con dao vù vù làm mọi người thêm yên bụng. Đi thêm vài chục bước, đã thấy khu vực lô-cốt ở ngay trước mặt. Tốp của bác sĩ vừa đến hàng rào thì đã thấy bảy tên giặc, đi đầu là An-đe-sơn, hò reo ầm ầm, kéo lại. Không ai bảo ai, súng ở ngoài và súng ở trong lô-cốt cùng một lúc nổ vào bọn giặc. Tuy bốn phát súng bắn rời rạc nhưng cũng có một phát trúng, làm một tên giặc ngã quay lơ. Số còn lại quay đầu chạy lẩn vào bụi. Cả tốp đi vòng hàng rào, đến xem tên giặc bị ngã. Hắn đã chết thẳng cẳng, viên đạn trúng ngay vào tim. Đương vui mừng thắng lợi, thì bỗng nghe tiếng đạn súng lục nổ trong lùm cây. Viên đạn bay vèo qua tai bác sĩ rồi thấy lão Ri lảo đảo ngã xoài trên đất. ạng Chi và bác sĩ nhanh nhẹn bắn trả ngay nhưng bọn chúng đă chạy mất. Bác sĩ đi lại nhìn vết thương thì biết ngay là khó lòng cứu chữa. Khi khiêng được lão Ri vào lô-cốt thì lão đã tắt thở. Từ lúc xảy ra chuyện biến trên tàu cho đến khi chết, lão vẫn tỏ ra điềm tĩnh, gan lì. Lão đã đứng trấn ở đường hầm trên tàu, hăng hái và dũng cảm như một người lính cảm tử. Lão đã lặng lẽ tuân lệnh một cách trung thành, không do dự. Trong bọn, lão là người lớn tuổi nhất và cũng lại là người hy sinh trước nhất. ạng Chi quỳ ôm xác lão, khóc nức nở như một đứa trẻ. Trong khi ấy, ông thuyền trưởng người cứ dày cộm lên, đương lôi trong ngực và túi ra những đồ vật lủng củng: một lá quốc kỳ, một quyển kinh thánh, một cuộn thừng, một cái bút lông, một lọ mực, một quyển sổ và mấy gói thuốc lá. ạng đã tìm thấy ở quanh lô-cốt một cây thông dài bị trốc gốc. ạng cùng Hun-tơ dựng gốc thông trụi ấy lên ở góc lô-cốt để làm thang. ạng trèo lên cắm cao lá cờ tổ quốc trên nóc lô-cốt. Hình như làm xong việc ấy, ông thấy trong người thoải mái và yên tâm hơn; ông bước vào nhà, bình tĩnh soát lại lương thực. ông bảo:
    -Đây là mối lo nhất của chúng ta. Chúng ta mất mọi thứ trong chuyến sau, thật đáng tiếc! Khí giới, vật dụng thì đủ. Nhưng lương thực thì ít ỏi quá!
    Giữa lúc ấy, một viên đạn đại bác bay vù qua nóc lô-cốt rồi nổ ở trong rừng. Phát sau, chúng chỉnh lại trúng vào khu vực lô-cốt, làm cát bụi bay mù, nhưng không thiệt hại gì cả. ông Chi nói:
    -ông thuyền trưởng! Dưới tàu, chúng không thể thấy nóc lô-cốt này. Có lẽ chỉ vì lá cờ đấy! Vậy ta nên hạ lá cờ đi thì hơn. ông thuyền trưởng kêu to:
    -Hạ lá cờ đi à? Không! Thưa ông, không thể được!
    ông thuyền trưởng nói xong, mọi người xem ra đều đồng ý. Vì lá cờ ấy không chỉ tiêu biểu cho chính nghĩa mà còn tỏ rõ cho bọn cướp biết thái độ cương quyết của những người cố thủ trong lô-cốt là xem thường những phát đại bác của chúng...
    Cả buổi chiều, chúng cứ bắn đì đụp vào khu vực lô-cốt nhưng không đâu vào đâu cả. Thuyền trưởng bảo Grây và Hun-tơ đi lấy lương thực ở trên chiếc thuyền chìm, vì lúc bấy giờ nước triều đã xuống từ lâu. Nhưng vô ích. Bọn giặc liều lĩnh đă xuống lấy trước. Tên Xin-ve đương đứng sau chỉ bảo, mỗi đứa có một súng trường. Chắc hẳn bọn chúng đă cất giấu đâu từ trước. ông thuyền trưởng thì đương ngồi ghi vào một quyển sổ. Bác sĩ Ly nhìn vào, thấy ở trang đầu mấy dòng chữ sau đây:
    "Tôi, thuyền trưởng; Ly-vơ-xây, thầy thuốc trên tàu; Grây, lính thủy đóng đồ mộc trên tàu, Chi-lô-nây, chủ tàu; Hun-tơ và Do-sơ, thủ hạ thân tín của chủ tàu... Những người này đều đă tận tâm giữ tàu; lương thực chỉ còn dè xẻn được mười ngày; đã cắm quốc kỳ trên nóc lô-cốt; Ri-đrus, người ở của ông chủ tàu, không phải thủy thủ, đă bị giặc giết; Dim, cậu bé thủy thủ tập sự..."
    Đọc đến đây, bác sĩ sực nhớ đến tôi, và nỗi lo âu lại kéo đến. Thốt nhiên có tiếng người gọi trong rừng. Hun-tơ đang đứng cạnh nói:
    -Có người gọi kìa!
    Cả bọn ùa ra, nhìn thấy tôi đang leo qua rào. Mọi người đều đứng im cảm động không nói nên lời.
  5. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    XV
    Trong lô-cốt
    Không nói thì chắc các bạn cũng biết nỗi vui sướng của tôi khi gặp lại bác sĩ Ly và đồng đội. Tôi thuật lại những việc đă xảy ra cho tôi rồi nhìn quanh nhà. Chiếc lô-cốt này làm toàn bằng thân cây thông ngòng ngoèo; cả mái nhà và tường vách đều bằng thân cây cả. Lối đi vào có một cái cổng; dưới cổng, một dòng suối con chảy vào một cái bể, trông cũng hơi lạ mắt. Ngoài cái sườn nhà ra chẳng còn một thứ gì khác. ở một góc nhà còn một tảng đá dùng làm bếp và một cái rổ sắt đã han gỉ để đựng than hồng. Hai bên sườn đồi và phía trong đồn, người ta đă phát quang các cây cối để lấy gỗ làm nhà. Cứ nhìn những gốc cây bị chặt còn lại cũng đủ biết những thân cây ấy to lớn dường nào. Mưa gió đã cạo sạch lớp đất trên. Chỉ chỗ dòng suối là còn thấy rêu và những bụi cây cằn cỗi mọc. Gió đêm thổi qua các khe vách và phả bụi cát rắc đầy cả sàn nhà. Cát bay vào mắt mũi, mồm miệng và thức ăn. Một cái lỗ vuông khoét trên mái nhà là cái ống thông khói duy nhất của chúng tôi. Chỉ có một ít khói thoát ra lối ấy. Còn phần lớn khói bay cuộn trong nhà làm người nào cũng ho sù sụ và mắt mũi cay sè. Đã thế lại thêm anh chàng Grây mặt mũi quấn băng vì bị thương trong lúc giao chiến; lại xác lão Ri vẫn chưa chôn còn nằm bên góc tường. Nếu cứ ngồi khoanh tay thì có lẽ chúng tôi sinh quẩn mất. Nhưng ông thuyền trưởng là người giàu kinh nghiệm. ạng gọi mọi người đến trước mặt, rồi ông phân đôi ra để canh gác.
    Bác sĩ, Grây và tôi vào một tốp; ông Chi, Hun-tơ và Do-sơ vào một tốp khác. Tuy mọi người mệt lử nhưng chúng tôi phải chia nhau kẻ đi kiếm củi, người đi đào hố chôn lão Ri. Bác sĩ được phân công nấu bếp. Còn tôi thì đứng canh ở cửa. Riêng ông thuyền trưởng là đi xem xét đó đây, động viên tinh thần mọi người. Thỉnh thoảng ông làm giúp cho chúng tôi nữa. Tôi thấy bác sĩ chốc chốc lại chạy ra ngoài cửa hít ít khí trời và cho mắt mũi đỡ khói hun. Mỗi bận ra đứng nghỉ, ông lại chuyện trò với tôi dăm ba câu. ạng nói:
    -Thuyền trưởng quả là một tay có tài. Khi tôi nói như thế không phải chỉ là một câu khen suông đâu, cậu Dim ạ! Một lần khác, ông ra đứng tựa cửa, không nói gì, như mải suy nghĩ. Một chốc ông nghiêng đầu nhìn tôi như đắn đo rồi hỏi:
    -Cậu Dim, thằng Ben-gun ấy là người thế nào?
    -Thưa ông, tôi không rõ, nhưng trông nó cũng không được bình thường lắm. Bác sĩ đáp:
    -Điều ấy thì chẳng cần phải nói. Cậu tính ba năm ở trên đảo này, tất không loạn óc cũng đâm ra ngớ ngẩn. Cậu bảo nó thčm ăn phó-mát phải không?
    -Vâng. Nó bảo nó chỉ thèm có phó-mát. Bác sĩ lại nói:
    -Chắc cậu đă trông thấy cái túi đựng thuốc lá của tôi. Lâu nay tôi không ăn thuốc chỉ vì trong túi, tôi có để một miếng phó-mát làm tại ý, ăn rất bổ. Tôi để dành cho Ben-gun đấy!
    Trước lúc ăn cơm tối, chúng tôi đi chôn cất lão Ri. Khi hạ huyệt, chúng tôi đứng đầu trần trước gió, quanh thi hài của lão để vĩnh biệt. Chúng tôi đem được nhiều củi về nhưng ông thuyền trưởng lắc đầu, vẫn chưa cho là đủ. ạng bảo ngày mai phải làm một chuyến cật lực hơn nữa. Khi chúng tôi ăn xong và mỗi người đă uống một cốc lớn rượu mạnh pha loãng, ba vị chỉ huy ngồi vào một góc, thảo luận kế hoạch sắp đến. Cuộc thảo luận hình như đi đến chỗ bế tắc. Lương thực ít ỏi quá, nếu cầm cự lâu thì có lẽ phải đầu hàng. Nhưng chúng tôi quyết tâm tiêu diệt cho kỳ hết bọn chúng, làm cho chúng phải hạ gối quy hàng, hoặc chúng phải rút chạy xuống dưới tàu. Trước kia tất cả chúng nó là mười chín tên, nhưng bây giờ chúng chỉ còn mười lăm thôi. Hai đứa bị thương. Thằng đứng gần khẩu đại bác đă bị ông Chi bắn, nếu nó không chết tất bị thương nặng... Bây giờ chỉ cần lợi dụng mọi cơ hội thuận tiện để tiêu hao dần chúng và bảo vệ mình. Chúng tôi lại được hai bạn đồng minh quý viện trợ. Một là rượu "rum", hai là khí hậu. Về rượu "rum" thì tuy chúng tôi ở xa chỗ giặc đóng non nửa dặm, ban đêm chúng tôi vẫn nghe thấy tiếng chúng say lè nhè, gào thét hát hỏng đến khuya. Còn về khí hậu thì bác sĩ Ly cam đoan rằng ở vào chỗ bùn lầy ấy, thiếu thuốc men, chỉ trong vòng một tuần là phần nửa bọn chúng sẽ ốm bẹp. Tôi bị mệt lả nhưng vơ vẩn mãi vẫn chưa ngủ được. Đến lúc ngủ thì ngủ say như chết. Sáng ra khi nghe thấy tiếng nhộn nhịp ồn ào, tôi mới bừng tỉnh dậy. Lúc ấy mọi người đều đă ăn sáng cả rồi và đă vác được đến nửa đống củi. Tôi nghe có tiếng người nói to:
    -Kìa, lá cờ trắng!
    Rồi tiếp theo là những tiếng ngạc nhiên:
    -Lạ kìa! Chính Xin-ve đích thân đến!
    Nghe câu này, tôi nhảy choàng xuống đất, giụi mắt và chạy lại dòm vào lỗ châu mai.
  6. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    XVI
    Xin-ve đi thương lượng
    Nhìn ra, tôi thấy quả có hai người đứng sau phía hàng rào. Một người đương phất miếng vải trắng, còn một người chính là Xin-ve, đứng im như phỗng. Trời còn sớm lắm. Hôm ấy lại là cái hôm lạnh nhất từ lúc tôi bước chân lên đảo. Rét buốt thấu xương. Trời trong suốt, không gợn một tí mây. ánh nắng chiếu hồng trên các ngọn cây. Tuy vậy, chỗ Xin-ve đứng với tên đồng đảng vẫn còn trong bóng tối. Lớp sương ở đầm bốc lên ban đêm còn chưa tan, vẫn là là trên mặt đất và che lấp chân hai tên giặc đến đầu gối. Cứ xem khí lạnh và sương mù này cũng biết đây là nơi rừng thiêng nước độc. ông thuyền trưởng bảo:
    -Tất cả cứ ở lại trông. Để xem chúng giở trò gì.
    Rồi ông gọi hai tên giặc:
    -Ai đi đó? Đứng lại, không tôi bắn!
    Xin-ve nói to:
    -Tôi đến thương lượng đây...
    ông thuyền trưởng nép mình cẩn thận vào cửa, hạ lệnh:
    -Tổ bác sĩ Ly đứng vào vị trí. Bác sĩ phía bắc, cậu Dim phía đông, còn Grây phía tây. Tổ canh nạp đạn chuẩn bị. Nhanh lên và chú ý!
    Xong ông quay lại bọn giặc:
    -Các anh đến đây thương lượng điều gì?
    Lần này, tên cùng đi với Xin-ve lên tiếng:
    -Thuyền trưởng Xin-ve muốn đến thương thuyết.
    -Thuyền trưởng Xin-ve hả? Đây không biết người ấy...
    Chúng tôi nghe thuyền trưởng nói thêm:
    -Thuyền trưởng, thật lạ lùng! Ai thăng chức cho mà nhanh thế?
    Xin-ve đáp:
    -Thưa ông, chúng tôi đó! Anh em đă bầu tôi làm thuyền trưởng sau khi ông đào ngũ. (Hắn nhấn mạnh chữ đào ngũ). Tất cả bọn tôi sẵn sàng phục tùng các ông nếu chúng ta đi đến một thỏa thuận. ạng thuyền trưởng, trước hết xin ông nhận lời là sẽ để cho tôi ra khỏi đồn này được bình yên vô sự sau khi nói chuyện...
    ông thuyền trưởng nói:
    -Này anh kia! Tôi chẳng muốn thương lượng với anh chút nào! Nhưng nếu anh muốn nói gì, cứ đến mà nói, có thế thôi. Còn nuốt lời hứa thì chỉ có bọn anh mới có thủ đoạn đê hèn ấy!
    Xin-ve reo to, hớn hở:
    -Thế là đủ rồi! Một lời ông nói ra là đủ. Tôi tin ông là người đứng đắn.
    Chúng tôi thấy tên cầm cờ trắng cố giữ Xin-ve lại. Nhưng Xin-ve có vẻ chế giễu hắn. Xin-ve đến bên rào ném chiếc nạng vào trong trước rồi nhanh nhẹn leo qua. Lúc này, thú thật, mải nhìn quá nên tôi bỏ việc canh phòng. Tôi mò lại đứng sau lưng ông thuyền trưởng. ạng ngồi trên bực cửa, tay chống cằm, mắt nhìn chăm chú vào dòng suối, miệng huýt sáo khe khẽ. Xin-ve trèo lên đồi một cách khó nhọc. Đồi dốc, cây cối nằm ngổn ngang, đất cát mềm lún, hắn chống nạng đi cứ lảo đảo. Nhưng hắn cố mãi rồi cũng đến được. Hắn ăn mặc rất chỉnh tề: áo lam dài khuy đồng, mũ đẹp có đính lon. Hắn nhă nhặn chào thuyền trưởng. Thuyền trưởng ngẩng lên:
    -Ngồi xuống đây!
    Hắn ra ý kêu ca:
    -Ai lại để tôi ngồi đây? Sáng sớm thế này mà ngồi trên đất cát thì lạnh chết!
    Thuyền trưởng đáp:
    -Anh nói nghe mới chướng tai! Nếu anh lương thiện thì anh đã ngồi chễm chệ trong chỗ làm bếp của anh rồi, có đâu phải ngồi đây. Còn nếu anh lại muốn làm thuyền trưởng, làm một tên cướp thì có ngày người ta treo cổ anh.
    -Thôi được, được! -Xin-ve trả lời và ngồi bệt xuống.
    -Các ông ở chỗ này vừa tiện vừa đẹp. Kìa cậu Dim! Kìa bác sĩ, xin có lời kính chào ngài. Các ông được sum họp đông đủ nơi đây như một gia đình có hạnh phúc.
    Thuyền trưởng ngắt lời:
    -Nói gì cứ nói mau đi, mất thì giờ vô ích.
    Xin-ve đáp:
    -ông nói phải. Vậy ông hãy nghe tôi nói. Đêm qua các ông giỏi đấy. Bọn ông đă dùng gậy đập chết một người trong chúng tôi. Bọn tôi nhiều người hoang mang; ngay cả tôi cũng phải rung động, điều ấy tôi không chối. Có lẽ vì thế mà tôi đến đây thương lượng với ông cũng nên. Nhưng ông nên nhớ, việc ấy chỉ làm được một lần. Chúng tôi sẽ biết canh phòng, chúng tôi sẽ biết đề phòng rượu "rum".
    ông thuyền trưởng thản nhiên hỏi:
    -Thế là sao?
    Đối với thuyền trưởng, những điều trên hoàn toàn là bí ẩn. Nhưng về phần tôi, tôi đă hiểu. Tôi sực nhớ đến những lời sau cùng của Ben-gun là hắn sẽ tìm cách giết bọn thủ hạ của Xin-ve để giúp chúng tôi. Chắc hắn có mò đến chỗ bọn giặc ngủ say? Nghĩ đến đây, tôi thấy trong bụng nở nang vì như thế bọn giặc chỉ còn mười bốn đứa. Xin-ve nói:
    -Tôi xin nói thẳng. Bọn tôi muốn lấy kho của. Còn các ông chắc cũng muốn tính mạng vẹn toàn. Các ông có cái bản đồ phải không? Thôi tôi biết rồi, giấu cũng vô ích thôi! Bọn tôi muốn có cái bản đồ ấy.
    ông thuyền trưởng quát:
    -Đừng đùa. Bọn anh muốn làm gì thì làm. Rồi tôi sẽ treo cổ bọn anh lên!
    Tôi thấy Xin-ve hình như nhụt đi. Còn ông thuyền trưởng thì lặng lẽ cho thuốc vào tẩu. Chốc sau Xin-ve bảo:
    -ông hút thuốc, ông cho phép tôi cùng hút một thể cho vui.
    Nói thế rồi hắn châm lửa hút thuốc. Hai người cứ thế ngồi đối mặt nhau, lặng lẽ hút thuốc. Cảnh tượng ấy trông thật ngộ nghĩnh. Xin-ve lại nói:
    -Thôi, ông biết điều nên giao cái bản đồ ấy cho tôi. Các ông đừng động đến bọn tôi, rồi tôi sẽ cho ông một trong hai điều kiện này. Một là, các ông cùng đi lấy của rồi xuống tàu với chúng tôi, chúng tôi sẽ đưa về tử tế. Hai là, nếu không có nghi ngại gì thì chúng ta sẽ chia lương thực ra, các ông cứ ở lại đây. Tôi hứa nếu gặp chiếc tàu nào, tôi sẽ bảo lại đây đón các ông. Như vậy chắc các ông bằng lòng chứ? (Đến đây hắn dằn giọng) Tôi mong rằng tôi nói điều này không phải chỉ riêng với ông mà với tất cả mọi người có mặt ở đây. Bọn ông nên cân nhắc kỹ.
    Thuyền trưởng đứng lên, xoa tàn thuốc lá dính tay rồi hỏi:
    -Nói hết chưa?
    Xin-ve đáp:
    -Hết rồi! Nếu các ông không nhận lời thì các ông chỉ nhận được những phát súng.
    ông thuyền trưởng nói:
    -Được lắm! Bây giờ đến lượt tôi nói cho anh nghe. Nếu bọn anh biết điều đến đây từng người một bỏ khí giới quy hàng, khi về tôi đảm bảo với các anh, các anh chỉ bị phạt tù. Nhược bằng các anh còn ngoan cố, tôi thề sẽ làm cho các anh bị treo cổ tất. Các anh đừng hòng tìm của cải. Các anh đừng hòng cho tàu chạy được. Không có mặt nào trong bọn anh cầm lái nổi! Các anh đã bị hãm rồi. Tôi chỉ cần nói với anh từng ấy là đủ, mà đây là lần cuối cùng. Bận sau còn trông thấy mặt anh, tôi sẽ cho anh một phát súng vào xương sống. Thôi đứng dậy cút đi!
    Xin-ve giận đến xanh sạm cả mặt. Hắn rống lên:
    -Lại đây cho tôi vịn để đứng dậy đi về.
    Chẳng ai nhúc nhích. Hắn lẩm bẩm chửi rủa rồi cố lết ra cổng, đánh đu vào cái cột, đứng lên. Hắn tức tối nhổ toẹt một bãi nước bọt vào dòng suối rồi đe dọa:
    -Trước lúc một giờ, tôi sẽ làm cỏ cả cái lều này. Cười đi! Cứ cười đi! Trước lúc một giờ, các anh sẽ xuống chơi dưới âm phủ.
    Hắn rủa một câu rất độc rồi chống nạng đi ra, cút thẳng.
  7. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    XVII
    Trận đánh khu vực lô-cốt
    Khi Xin-ve đi khuất, thuyền trưởng mới quay vào trong nhà. ạng thấy chỉ có Grây là còn đứng canh tại chỗ. Lần này là lần đầu, chúng tôi thấy ông nổi giận lôi đình. ông hét lớn:
    -Mọi người đứng vào vị trí! Khi ai nấy đă chạy về vị trí.
    ông mới nghiêm khắc lên tiếng:
    -Grây, tôi sẽ ghi công anh vào sổ, anh thật là một người thủy thủ chân chính, biết làm trọn nhiệm vụ. ông Chi! ông làm tôi đến ngạc nhiên. Bác sĩ Ly! Tôi cứ ngỡ ông trước cũng là quân nhân... Nếu thế này, ông ở nhà còn hơn!
    Mọi người vội vã tuân lệnh, im lặng nạp đạn, nhưng mặt mũi người nào cũng bẽn lẽn đỏ gay. ông thuyền trưởng đứng nhìn một lúc rồi nói:
    -Các anh! Tôi đă nói khích cố ý để làm cho thằng Xin-ve nổi tức. Thế là ta đã dử hắn đến đây, ta có thì giờ bố trí trước để đối phó. Chúng ta ít hơn bọn chúng, nhưng chúng ta ở trong lô-cốt, được lợi thế hơn. Nếu mọi người có kỷ luật, biết tuân lệnh, tôi dám chắc chúng ta sẽ nện cho chúng một trận thất điên bát đảo.
    Nói xong, ông đi xem xét xung quanh, quan sát lại vị trí và kiểm tra từng người. Hai sườn lô-cốt, ở phía đông và phía tây chỉ có hai lỗ châu mai; phía nam là phía cổng 89 90 có hai lỗ và phía bắc có năm lỗ. Chúng tôi bảy người nhưng có đến hai mươi khẩu súng. Chúng tôi xếp củi lại thành bốn đống, làm thành bốn cái bàn, mỗi cái ở ngay giữa mỗi phía. Trên mỗi bàn có để sẵn thuốc đạn và bốn khẩu súng trường, nếu cần, những người chiến đấu có thể với tay lấy được. ở giữa lô-cốt để một dăy dao găm. ạng thuyền trưởng bảo:
    -Tắt lửa đi! Trời cũng chả rét nữa. Đừng để khói xông vào mắt. Còn Dim, cậu chưa ăn sáng, đi lấy khẩu phần đi rồi đứng tại vị trí mà ăn.
    Trong khi mọi người răm rắp tuân lệnh, ông sắp đặt lại một lần nữa:
    -Bác sĩ Ly hãy ra giữ cửa! Phải nhìn cho kỹ, đừng thò mình ra ngoài. Phải đứng trong mà bắn qua cổng... Hun-tơ ra đứng phía đông. Do-sơ đứng phía tây. Đó... đứng đó được rồi! ông Chi, ông bắn giỏi thì ra trấn góc bắc với Grây. ở góc ấy có đến năm lỗ châu mai và là nơi hiểm yếu nhất. Nếu bọn chúng chiếm được góc ấy, chĩa súng qua bắn vào thì hỏng bét... Còn tôi với cậu Dim bắn tồi, thì chúng ta đứng nạp đạn cho họ và họ cần việc gì thì giúp...
    Quả nhiên như lời thuyền trưởng, chúng tôi thấy hết rét. Mặt trời nhô lên khỏi rặng cây, chiếu sáng chói chang trên bãi đất trống và làm tan đám sương mù trong nháy mắt. Chẳng mấy chốc, đất cát khô bỏng, nhựa trong các thân cây trong lô-cốt chảy ra nham nháp. Mọi người phải bỏ áo khoác, cởi cúc cổ áo sơ-mi và xắn tay áo lên. Một giờ qua. Phút chờ đợi vừa bực bội vừa căng thẳng. Mọi người đều "mở mắt mở tai", tay lăm lăm khẩu súng. Thuyền trưởng đứng giữa nhà, môi mím chặt, trán hằn lên những vết nhăn. Thốt nhiên, Do-sơ giương súng bắn. Tiếng súng đầu tiên vừa nổ thì chung quanh lô-cốt hàng loạt súng bắn vào dồn dập. Nhưng không có viên đạn nào lọt vào trong. Sau lúc khói tan, nhìn lại, các vách gỗ trong lô-cốt vẫn lành lặn y nguyên như cũ. Thuyền trưởng hỏi Do-sơ:
    -Anh có bắn trúng tên giặc không?
    Do-sơ đáp:
    -Thưa ông, chắc trúng!
    Thuyền trưởng truyền lệnh:
    -Dim! Nạp đạn cho anh ấy. Còn bác sĩ, ở phía ông, ông ước chừng có mấy đứa?
    Bác sĩ đáp:
    -Tôi biết chắc chắn là có ba phát súng bắn ở rừng vào. Tôi trông rõ ba tia lửa.
    Thuyền trưởng nhắc lại:
    -Ba... Còn ở phía ông Chi, ông thấy mấy? ở phía này không biết rõ được như ở các phía kia. Nhưng phía này nhiều giặc hơn cả.
    ông Chi thì nói độ bảy tên, còn Grây thì bảo tám, chín đứa. Rõ ràng là lực lượng chính chúng dồn về phía này cả. Còn mấy phía kia chúng chỉ cốt làm phân tán, giữ chân chúng tôi thôi. Biết thế nhưng thuyền trưởng vẫn không thay đổi cách bố trí. Vì ông cho rằng nếu bọn địch vượt qua được hàng rào, chúng sẽ đến chiếm ngay những vị trí nào bỏ ngỏ và sẽ chĩa súng bắn vào người trong lô-cốt như bắn chuột. Nhưng lúc ấy, không ai còn kịp suy nghĩ. Thốt nhiên chúng tôi nghe cả loạt tiếng hò reo, rồi thấy một toán giặc chạy xổ trong rừng ra, ồ ạt tiến về phía lô-cốt. Ngay lúc ấy có hàng loạt đạn từ rừng bắn ra. Một phát bắn trúng vào khẩu súng của bác sĩ làm gãy tan từng mảnh. Bọn giặc leo lên hàng rào nhanh nhẹn như đàn khỉ. ạng Chi và Grây bắn luôn tay, không ngớt. Ba đứa trong bọn chúng bị ngã: một đứa ngã lộn vào trong, hai đứa bật ra ngoài. Nhưng một đứa xem chừng sợ nên co giò chạy biến vào rừng... Còn bốn đứa leo qua được. Chúng chạy thẳng lại lô-cốt, hò hét vang ầm. Còn bảy tám đứa khác, có lẽ có nhiều súng dài nên đứng ngoài bắn yểm hộ và hò reo trợ lực. ở trong lô-cốt có bắn ra nhưng vì bắn vội nên không trúng. Trong chớp mắt, bốn đứa đă leo lên đỉnh đồi và nhảy xổ lại lô-cốt. Qua lỗ châu mai, thấy rõ thằng An-đe-sơn đương gào lớn:
    -Tiến vào! Tất cả tiến vào!
    Giữa lúc ấy một tên giặc giật được súng của Hun-tơ, chĩa qua lỗ châu mai bắn một phát làm Hun-tơ ngã vật ra. Một tên nữa chạy khom khom đến ngay cửa, múa dao xông vào chém bác sĩ. Trong lô-cốt đầy khói, nhờ thế chúng tôi chống đỡ có lợi hơn. Tiếng thuyền trưởng oang oang:
    -Ra ngoài, anh em! Dùng dao mà đánh!
    Tôi vớ một con dao trên đống củi. Một tên cướp cũng giật lấy một con dao và chém một nhát vào tay tôi. Tôi chỉ thấy tê tê ở tay rồi tôi vội nhảy ra ngoài. Trước mặt tôi, bác sĩ Ly đuổi theo một tên giặc và chém một nhát mạnh vào mặt hắn, làm hắn ngã vật xuống. Tiếng thuyền trưởng lại vang lên:
    -Anh em ơi! Vòng quanh lô-cốt! Vòng quanh lô-cốt!
    Nhưng tiếng ông nghe đă khang khác. Như cái máy, tôi theo lệnh chạy qua góc nhà. Được mấy bước, tôi gặp An-đe-sơn. Hắn giơ dao chém bổ xuống tôi. Tôi vội tránh nhưng trượt chân ngă lăn xuống dốc. Khi tôi ra khỏi lô-cốt là lúc tôi thấy một thằng đội mũ đỏ, miệng ngậm dao đương chân trong chân ngoài trên bờ rào. Nhưng trận đánh như đă kết thúc. Grây đă giết chết tên An-đe-sơn khi hắn giơ dao chém hụt tôi. Một tên nữa bị giết ở trước lỗ châu mai khi hắn đang chĩa súng vào lô-cốt. Còn một tên bị bác sĩ Ly chém chết. Số còn lại ném dao chạy vào rừng. Cả bọn rút chạy, bỏ lại năm xác chết. Lúc này chúng tôi mới kiểm điểm lại phía mình. Hun-tơ nằm thoi thóp. Do-sơ bị một phát súng vào đầu đă tắt thở. Còn thuyền trưởng thì bị thương. Thuyền trưởng hỏi:
    -Chúng chạy cả rồi hả?
    Bác sĩ đáp:
    -Thằng nào chạy được mới chạy. Còn năm đứa chết lăn kềnh ngoài kia.
    Thuyền trưởng kêu to:
    -Năm đứa! Khá lắm! Bọn hắn mất năm, ta mất ba. Thế là chúng ta còn lại bốn chọi chín
    -như vậy chúng ta vẫn có cơ thắng được.
    Nhưng thực ra, bọn giặc chỉ còn tám tên, vì tên bị ông Chi bắn trên tàu chiều hôm ấy đã tắt thở. Việc ấy mãi về sau này chúng tôi mới biết.
  8. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    XVIII
    Lênh đênh trên biển
    Từ phút ấy không thấy bóng một tên giặc nào lai vãng và cũng không thấy một phát đạn nào trong rừng bắn ra. Khu lô-cốt bây giờ thuộc về chúng tôi, chúng tôi yên trí săn sóc những người bị thương và nấu cơm sáng. Hun-tơ sau đấy đă tắt thở. Còn vết thương của thuyền trưởng tuy nặng nhưng không đến nỗi nguy hiểm đến tính mạng. Phát súng của tên An-đe-sơn làm gãy xương ngực nhưng không chạm đến phổi. Phát thứ hai chỉ xé thịt ở bắp chân. Theo lời bác sĩ thì ông thuyền trưởng sẽ khỏi, nhưng cần phải tĩnh dưỡng và tránh cử động trong dăm tuần lễ. Còn vết thương của tôi chỉ như muỗi đốt. Bác sĩ chỉ dán vào đấy một lá thuốc cao rồi béo tai tôi một cái. Cơm sáng xong xuôi, ông Chi và bác sĩ ngồi bên cạnh thuyền trưởng bàn bạc. Các ông thảo luận xong thì đã quá trưa. Bác sĩ Ly đội mũ, cầm súng, giắt dao, bỏ bức bản đồ vào túi rồi rảo bước đi ra khỏi đồn. Grây đang hút thuốc, thốt nhiên bỏ tẩu xuống, sững sờ nhìn theo bác sĩ. Hắn nói:
    -Lạ kia! Bác sĩ điên rồi chắc?
    Tôi đáp:
    -Điên à? Đời nào. Bác sĩ là người còn bình tĩnh và sáng suốt nhất trong bọn ta.
    Grây lại nói:
    -Nếu ông ấy không điên, thì chính tôi điên mất. Tôi bảo:
    -Tôi chắc bác sĩ có ý định gì đây. Chưa chừng bác sĩ đến gặp Ben-gun đấy.
    Về sau này, tôi mới biết dự đoán của tôi là đúng. Lúc này trong lô-cốt nóng như thiêu như đốt... Bãi cát trên đồi bị nóng bỏng hắt hơi nồng vào mặt mọi người. Tôi lo quét dọn trong ngoài rồi đi rửa bát đĩa. Mồ hôi ướt đẫm, người như chín dừ. Nhìn thi thể của Hun-tơ và Do-sơ nằm ở góc nhà, tôi thấy bụng nóng ran lên. Tôi muốn làm một việc gì dù nguy hiểm đến đâu cũng không từ nan để giết hết bọn giặc và gỡ cho bọn tôi ra khỏi cảnh này. Khốn nỗi, tôi chỉ là đứa bé, đánh nhau cũng chẳng hơn ai. Tôi tự xét ở đây cũng không giúp ích được gì lắm. Một ý định táo tợn bỗng thoáng qua đầu, tôi hăm hở đứng lên. Dự định của tôi là sẽ xuống dưới bãi cát ở mé đông, tìm tảng đá trắng mà Ben-gun đã nói để xem hắn có giấu chiếc thuyền của hắn ở đó không. Có thuyền rồi, tôi sẽ làm cho bọn giặc một mẻ kinh hồn. Lừa lúc không ai để ý, nhân tiện lại đứng gần bị bánh quy, tôi liền thò tay vào bị, lấy bánh quy nhét đầy túi áo. Nếu gặp trở ngại gì, tôi sẽ không phải lo chết đói. Số bánh này có thể ăn hai hôm cũng chưa hết. Tôi mang theo hai khẩu súng lục; trong lưng tôi đă có bao thuốc súng và đạn rồi, như vậy là đủ khí giới để tự vệ. Nhưng làm sao để ra đi? Tôi chắc, nếu nói ra thì chẳng một ai cho tôi đi cả. Tôi đành phải dùng lối "đánh lén", thừa lúc mọi người vô ý tôi sẽ chuồn đi một mạch. Cái lối chuồn ấy thật là vô kỷ luật. Nhưng tôi chỉ là một đứa trẻ, hễ thích là làm, chẳng cần phải suy tính thiệt hơn gì cho lắm. Thế là thừa cơ hội lúc ông Chi và Grây đương lúi húi thay băng cho thuyền trưởng, tôi nhảy phóc ra ngoài. Tôi chạy một mạch thẳng vào lùm cây. Lúc này, ông Chi có biết cũng không gọi kịp. Tôi đi thẳng đến bờ biển phía đông. Tôi định men theo băi cát ven biển để bọn chúng ở trên tàu khỏi trông thấy.
    Trời đă về chiều. Nhưng mặt trời còn nóng gay gắt. Tôi đi len lỏi trong rừng; xa xa nghe tiếng sóng vỗ bờ, tiếng lá cây xao động và tiếng cành cây răng rắc. Những tiếng ấy cho tôi biết gió biển hôm nay thổi mạnh hơn mọi ngày. Chốc sau, những luồng gió lạnh thổi tới. Đi dăm bước nữa, tôi đă đến ven rừng. Trước mặt tôi là chân trời vời vợi, một dải biển xanh mênh mông, lấp lánh dưới nắng trời. ở ven bờ, sóng đánh sủi bọt trắng xóa. Tôi đi dọc theo bờ biển, lòng thấy vui vui. Tôi vui chân đi quá về phía nam, núp vào các bụi rậm, rồi bò thật cẩn thận đến dải đất cát. Trước mặt tôi là nơi tàu đỗ, sau lưng tôi là biển. Gió biển đã lắng xuống. Một làn gió nhẹ tiếp theo từ phía nam và phía đông nam thổi lại mang theo những dải sương mù. Chỗ tàu đậu, nhờ có hòn đảo Hình Người che kín, vẫn yên lặng và âm thầm như hôm chúng tôi mới đến. Mặt biển như tấm gương trong; chiếc tàu in bóng rõ rệt từ lườn tàu đến đầu cột buồm, có mang lá cờ đen của giặc. Trên một chiếc thuyền đỗ gần tàu, tôi nhận ra ngay Xin-ve ngồi ở phía sau, đang trò chuyện với hai tên khác lưng tựa vào mép tàu. Một tên là thằng đội mũ đỏ, cách đây vài giờ đă ngồi chân trong chân ngoài trên bờ rào lô-cốt. Hình như chúng đương nói cười hỉ hả. Thốt nhiên có mấy tiếng kêu khác thường và ghê rợn. Nhưng tôi đã nhận ra ngay là tiếng con vẹt Phơ-linh của Xin-ve. Nhờ có bộ lông bóng lộn của nó, tôi thấy nó đang đậu trên cổ tay chủ nó. Một lát sau chiếc thuyền kia đi thẳng vào bờ. Tên giặc mũ đỏ cùng tên bạn nó ở trên tàu cũng đã chui vào đằng lái. Mặt trời đă lặn sau gò Vọng Viễn. Sương mù chả mấy chốc đã dày đặc, bóng tối phủ dần. Tôi biết nếu muốn tìm được chiếc thuyền của Ben-gun thì không thể trì hoãn một phút. Tảng đá trắng lồ lộ sau bụi cây còn cách tôi đến hai trăm mét. Tôi phải mất một thời gian khá lâu mới bò được đến đấy. Khi tay tôi sờ được vào mép đá gồ ghề thì trời đã tối mịt. Ngay phía trước, có một cái hồ nhỏ, cỏ phủ đầy chung quanh, đất mấp mô và những lùm cây rậm che kín. Giữa hồ có dựng một cái lều con bằng da dê như lều của những kẻ giang hồ. Tôi nhảy xuống hồ, vén lều lên, thấy ngay chiếc thuyền của Ben-gun. Thuyền là khúc gỗ đục nham nhở, trông rất thô kệch; trên thuyền trải một tấm da dê. Thuyền bé quá, ngay đối với tôi mà nó cũng còn bé, huống chi đối với thân hình một người lớn. Trong lòng thuyền, có kê một cái ghế dài rất thấp, ở đằng mũi có hai mái chèo. Đây là một chiếc thuyền rất thô sơ, nhưng được cái rất nhẹ, mang đi đâu cũng tiện. Bây giờ có thuyền rồi, tôi mới nghĩ đến việc thực hiện kế hoạch của tôi. Tôi định nhân đêm tối, bơi thuyền ra tàu để dò xét. Tôi chắc rằng, sau trận thua liểng xiểng hôm nay, bọn giặc sẽ rút xuống tàu, giong ra biển. Tôi ngồi đợi cho trời tối hẳn. Tôi thọc tay vào túi, lấy bánh ăn ngon lành. Đêm tối như thế này, rất lợi cho tôi hành sự. Sương mù che kín bầu trời. Những tia sáng cuối cùng của ban ngày còn sót lại đă tắt hẳn. Cả hòn đảo chìm trong bóng tối mịt mù. Khi tôi vác thuyền lên vai, mò mẫm bước ra ngoài, tôi thấy ở nơi tàu đỗ chỉ còn hai chấm ánh sáng. Một chấm là đống lửa cạnh đầm ở trên bờ, nơi bọn giặc đương vây quanh chč chén. Chấm kia là nơi tàu đậu. Lúc này, theo chiều nước thủy triều, tàu đã quay lại, mũi tàu ngoảnh về phía tôi. Trên tàu, chỉ trong phòng là có ánh sáng. Cái điểm sáng tôi thấy chỉ là do ánh sáng lọt qua chiếc cửa sổ đằng lái, lờ mờ lên lớp sương mù đặc. Nước thủy triều đă xuống từ lâu. Trước khi tới bờ biển, tôi phải lội qua một dải cát dài ướt nhão nhớt, chân thụt đến mắt cá. Phải vất vả và khéo léo lắm, tôi mới đặt được thuyền lên mặt nước.
  9. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    XIX
    Khi nước triều xuống
    Đối với một người tầm vóc như tôi, chiếc thuyền độc mộc của Ben-gun thật là vừa vặn. Nó vừa chắc chắn lại vừa nhẹ, có thể đi trên mặt biển được. Chỉ tội là rất khó chèo. Muốn làm thế nào thì làm, nó cũng cứ lệch đường và quay tít như chong chóng. Chính Ben-gun cũng đã nói thuyền này rất khó sử dụng nếu không biết được những cái tật của nó. Thật vậy, rõ ràng là tôi chưa biết gì về chiếc thuyền này. Nó quay tứ phía, nhưng cái phía tôi muốn đi nó lại không quay cho! Phần nhiều nó hay trôi ngang; tôi dám chắc nếu không gặp dòng nước cuốn không bao giờ tôi đi đến gần tàu được. May sao chiếc tàu nằm đúng ngay giữa dòng. Cho nên dù muốn chèo thế nào thì chèo, dòng nước vẫn cứ đưa chiếc thuyền của tôi về hướng ấy. Chiếc tàu bỗng hiện ra lù lù trước mặt như một đám đen trong đêm tối. Dần dần, tôi trông rõ thân tàu và các cột buồm. Càng đến gần, dòng nước càng chảy xiết. Chỉ thoáng cái, tôi đã đến nơi và tiện tay, tôi vớ phải cái dây neo. Dây neo căng thẳng như dây cung.
    Tôi chợt nghĩ ra nên cắt phăng cái dây neo để mặc chiếc tàu của chúng trôi lênh đênh ngoài biển nước đang chảy cuồn cuộn reo vang như con suối đổ. Chỉ cần một nhát dao là con tàu trôi băng theo dòng nước. Mọi việc tưởng dễ như trở bàn tay, nhưng tôi sực nghĩ ra: một dây neo căng thẳng thế này mà thốt nhiên bị đứt thì nguy hiểm chẳng khác gì vó ngựa đá ***g. Nếu tôi cố liều lĩnh cắt phăng dây neo, chắc thế nào cũng bị hất văng xuống biển. Nghĩ thế, tôi chùn tay lại. May sao trời cũng chiều người. Ngọn gió trước kia hiu hiu thổi từ phía nam và phía đông nam lại, đến đêm lại thổi về phía đông nam. Ngọn gió đổi chiều bỗng đẩy lùi con tàu vào hẳn giữa dòng. Tôi như mở cờ trong bụng khi thấy sợi dây neo trong tay tôi bỗng chùng hẳn lại, bàn tay tôi nhúng xuống nước một hồi lâu. Thế là tôi quyết định hẳn. Tôi rút dao ra, dùng răng mở dao rồi từ từ cắt hết sợi nọ đến sợi kia. Khi dây neo chỉ còn hai sợi nữa, tôi dừng lại đợi con gió khác đến sẽ làm chùng lại. Lúc ấy tôi mới tiện phăng đi. Suốt từ lúc đến gần tàu, tôi vẫn nghe tiếng quát ầm ầm trong buồng tàu. Nhưng lúc đó tôi đang mải nghĩ đến chuyện khác nên không để ý mấy. Bây giờ ngồi rỗi, tôi mới bắt đầu lắng tai chăm chú nghe. Tôi nhận được tiếng lăo Han, tên lính pháo thủ đại bác của Phơ-linh. Còn tên kia chắc là tên giặc mũ đỏ. Hai đứa đều có vẻ say bí tỉ. Tuy vậy chúng vẫn chén chú chén anh. Một đứa mở cửa sổ đằng sau tàu và ném vật gì xuống biển; tôi đoán là cái chai không. Nhưng không phải chúng chỉ có say mà thôi, chúng còn đang cãi vã nhau kịch liệt. Tiếng chửi rủa luôn mồm; thỉnh thoảng cơn giận dữ của chúng bốc lên làm tôi tưởng chừng đến phải đấm đá nhau. Nhưng về sau tiếng cãi cọ lắng xuống. Chỉ còn nghe thầm thì to nhỏ, rồi bỗng chốc, tiếng xô xát lại bốc cao lên và cứ thế diễn đi diễn lại mãi không thôi. Trên bờ đảo, lửa đốt sáng rực qua chòm lá cây. Văng vẳng đưa lại tiếng hát của một đứa trong bọn chúng đang hát một bài hát cổ của dân biển. Giọng hát buồn, ảo não, cứ đến cuối câu lại hạ xuống một giọng trầm não nùng, rồi kéo dài lê thê như không bao giờ dứt. Giọng hát chán nản buồn nhức xương này, tôi cho rất hợp tình hợp cảnh với bọn giặc vừa bị thất bại chua cay. Gió lại bắt đầu thổi. Chiếc tàu từ từ lùi lại. Sợi dây neo cứ chùng dần, chùng dần. Tôi cố sức giáng một nhát dao cuối cùng, tiện phăng sợi dây neo làm hai đoạn. Con tàu từ từ quay hết đầu nọ đến đầu kia trên dòng nước. Chiếc thuyền của tôi nhè nhẹ xô vào đầu mũi con tàu. Tôi cố quờ quạng chung quanh vì lúc nào chiếc thuyền độc mộc của tôi cũng như sắp chìm xuống đáy biển. Tôi không thể nào giữ cho thuyền khỏi sát vào thân tàu, nên tôi cứ đẩy nó đi lùi dần về đằng lái. Cuối cùng tôi đẩy được thuyền ra xa tàu. Khi đẩy ra, tay tôi sờ phải một cái dây lòng thòng đằng sau lái.
    Tôi bám lấy sợi dây. Đến bây giờ tôi cũng không hiểu tại sao lúc ấy tôi lại vớ lấy đầu dây này. Có lẽ đó cũng là vì tình cờ mà thôi. Nhưng sau tôi thấy một đầu dây cột chặt vào tàu nên tôi nảy ra một ý khác. Tính tò mò thúc giục làm tôi muốn thử ghé mắt nhòm qua cửa sổ xem trong ấy ra sao. Tôi níu tay lần sợi dây, đưa thuyền đến sát bên tàu; tôi liền đánh đu rướn thẳng người lên; như vậy tôi có thể nhìn thấy nóc tàu và một phần gian phòng. Trong khi ấy con tàu cùng chiếc thuyền độc mộc của tôi cặp kè trôi phăng phăng theo dòng nước đến tận ngang chỗ đống lửa của bọn giặc trên bờ. Sóng vỗ vào mạn tàu dào dạt. Thế mà sao bọn canh trên tàu vẫn lặng lẽ thản nhiên. Thật là một điều lạ. Nhưng khi nhòm qua cửa sổ thì tôi đã vỡ lẽ. Tôi thấy lão Han và thằng mũ đỏ đă ôm nhau đấm đá chí tử, thằng nọ đương bóp cổ thằng kia. Nhìn xong tôi ngồi thụp xuống. Nhưng trong óc tôi vẫn ghi rõ hai bộ mặt hung ác, đỏ như gấc, lửa giận bốc phừng phừng, đương hầm hè ôm vật nhau dưới ngọn đèn dầu bốc khói. Tôi nhắm mắt lại để bớt quáng và cho quen với bóng tối. Tôi đương suy nghĩ, thốt nhiên chiếc thuyền của tôi bị chao hẳn đi. Ngay lúc ấy nó trôi hẳn về phía khác như muốn đổi hướng. Bây giờ nó trôi nhanh gấp mấy lúc trước. Tôi mở choàng mắt ra...
    Chung quanh tôi biển cả ầm ĩ, trập trùng muôn ngàn lượn sóng lấp lánh lân tinh. Cách chỗ tôi vài sải, con tàu cũng đương có vẻ ngần ngừ, chao đảo. Nhìn kỹ lại, tôi thấy chiếc tàu cũng trôi về phía nam. Ngoảnh lại đằng sau, trống ngực tôi đánh thình thịch. Chính sau tôi là đống lửa của bọn giặc trên bờ. Dòng nước chảy theo hình thước thợ, kéo con tàu lẫn chiếc thuyền con của tôi lềnh bềnh ào ạt đi ra biển cả. Thốt nhiên, chiếc tàu trước mặt tôi chao nghiêng hẳn đi rồi quật sang hướng khác. Lúc ấy tôi mới nghe thấy tiếng kêu ầm ĩ trên tàu. Nghe thấy tiếng giày nện thình thịch trên chiếc thang đằng lái, tôi đoán hai thằng giặc đă thôi đánh nhau vì chúng đă nhận thấy sự nguy hiểm. Tôi nằm rạp xuống lòng thuyền, phó thác tấm thân cho sự rủi may. Tôi chắc rằng chỉ đi xa một chút nữa, những lượn sóng cả bạc đầu sẽ nuốt trửng lấy chiếc thuyền con và chôn vùi tôi xuống đáy biển. Nghĩ đến chết, tôi không sợ lắm, nhưng sao trong người tôi cứ xao xuyến. Tôi nằm như vậy lâu lắm, mặc thuyền lênh đênh trên ngọn sóng. Sương mù và nước biển làm áo quần tôi ướt đầm. Nhưng lúc ấy tôi chỉ nghĩ đến chết; tôi chỉ đợi một đợt sóng sắp đến đưa tôi về gặp cha tôi. Dần dần tôi mệt lả người. Sự lo sợ làm tâm hồn tôi mê mẩn. Về sau tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Tôi mơ tưởng đến quê nhà, đến những người thân, đến cái quán cơm hẻo lánh trên cửa biển. Tôi thấy bác sĩ Ly, ông Chi đương nhìn tôi vui vẻ. Tôi thấy tiền bạc để đầy nhà và từng đoàn người nghèo khổ đang kéo đến. Họ đông, đông vô kể. Đầu họ nhấp nhô, trập trùng, cuồn cuộn như sóng.
  10. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    XX
    Chiếc thuyền độc mộc lênh đênh
    Khi tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng bạch. Tôi thấy mình đương trôi lênh đênh ở phía nam hòn đảo. Mặt trời đă mọc nhưng còn khuất sau gò Vọng Viễn; gò ở sát biển và dốc gò dựng đứng. Ngọn núi Cột Cái đằng mũi bến tàu ở ngay gần tôi. Bờ biển chỗ ấy cao đến mười lăm, mười sáu mét, lởm chởm những tảng đá lớn.
    Tôi chỉ còn cách bờ một phần tư dặm. Mới đầu tôi định bụng chčo thuyền đổ bộ lên đấy. Nhưng chẳng mấy chốc tôi phải gạt bỏ cái ý định này đi. ở chỗ ấy, ven biển nhấp nhô những mô đá nhọn hoắt. Từng đợt sóng lớn đổ vào ầm ầm, bọt tung trắng xóa. Nếu tôi mạo hiểm cho thuyền cập vào, tất không tránh khỏi bị tan xác. Mà dù có vào được bờ thì cũng chẳng thể leo lên được cái sườn núi đá dốc đứng ấy. Lại thêm hàng chục con quái vật lổm nhổm bò hàng đàn trên những tảng đá thấp, mình trụi nhớp nháp, to tướng dị thường, vừa bò vừa sủa vang cả hốc đá. Về sau này tôi mới biết những con vật ấy là giống "sư tử biển" rất hiền lành, chẳng cắn mổ gì ai cả. Nhưng cứ trông cái hình thù cổ quái gớm ghiếc ấy cũng đủ làm cho người ta phải thất đảm. Vì thế tôi nghĩ thà lênh đênh chết đói trên mặt biển còn hơn phải bước chân vào đấy. Nhưng may mắn làm sao! Tôi trông thấy ở phía bắc cái doi đất có một bãi đất rộng. Nước thủy triều rút xuống để lộ một dải cát vàng. Quá về phía bắc một tí, lại có một doi đất khác, thông mọc um tùm nhô ra tận mặt nước. Thế là tôi cố sức men theo dòng nước đáp vào chỗ doi cát này. Mặt biển êm ả gợn sóng. Gió nam thổi nhẹ xuôi theo dòng nước. Nhờ sóng êm biển lặng, chiếc thuyền con của tôi lặng lẽ xuôi dòng. Tôi nằm trong lòng thuyền, liếc mắt nhìn ra ngoài. Thỉnh thoảng lại thấy một ngọn sóng biếc nhô lên quá đầu. Nhưng chiếc thuyền chỉ dồi lên một tí như có lò xo, rồi lại êm ả lướt qua, nhẹ như cánh chim. Một lúc sau, tôi đánh bạo nhổm dậy, cố chčo. Nhưng chỉ hơi nhích mình là chiếc thuyền tròng trành, muốn lật úp. Nó chúi mũi xuống dưới chân sóng, làm tôi đến choáng váng cả người. Bọt sóng đánh tung cả vào người, làm tôi vừa bị ướt vừa khiếp đảm. Tôi vội nằm xuống như cũ. Thuyền lại đi êm, dồi tôi từ ngọn sóng này qua ngọn sóng khác. Như thế đủ biết không thể bắt nó làm theo ý mình. Nhưng nếu không bơi được thì biết bao giờ mới cập bờ được? Lúc này tuy tôi rất lo sợ nhưng vẫn bình tĩnh, không hề rối trí. Trước hết tôi lấy chiếc mũ thủy thủ đội trên đầu ra. Tôi tát cạn nước trong thuyền. Rồi tôi lại liếc mắt ra ngoài xem xét tại sao chiếc thuyền lại có thể lướt sóng một cách bình yên như vậy...
    Tôi nhận thấy rằng mỗi ngọn sóng khi đứng trên bờ hay trên tàu nhìn xuống thì trông chẳng khác gì một khối nước trơn tuột. Đến khi nằm dưới chiếc thuyền con này nhìn lên thì nó lại giống như một rặng núi lởm chởm. Chiếc thuyền độc mộc của tôi cứ tự ý ngả nghiêng rồi lại lách vào những chỗ trũng thấp, tránh những chỗ ngọn cao và cứ thế len lỏi tìm đường vượt qua các làn sóng lớn. Tôi tự nhủ: ?oĐược lắm! Cứ nằm yên cho khỏi tròng trành, rồi thỉnh thoảng, lợi dụng chỗ sóng êm, thò tay qua mép thuyền, chèo vài ba cái để mau đến bến". Nghĩ xong tôi làm ngay. Thật là vừa nhọc vừa sốt ruột! Tuy vậy nhờ thế tôi tiến rất mau đến doi đất. Nhưng chẳng bao lâu thuyền đă trôi qua doi, đi về phía đông cách bờ đến vài trăm mét. Có lúc thuyền trôi gần bờ. Tôi đă trông thấy được những ngọn cây xanh lung lay trước gió và tôi cầm chắc thế nào cũng giạt được vào bờ ở doi đất thứ hai. Nhưng cơn khát đến bất ngờ như cào như xé! Phần nắng ở trên giội xuống, phần nắng dưới mặt biển hắt lên, lại thêm áo quần thấm ướt rồi lại ráo, môi khô mặn chát cả muối biển. Tất cả các thứ ấy làm tôi thấy khát bỏng trong cổ họng và choáng váng cả đầu óc. Nhìn thấy các ngọn cây trên bờ, lòng tôi càng nôn nóng. Nhưng dòng nước biển cứ kéo tôi ra xa mãi và giờ đây, trước mặt tôi là biển cả mênh mông. Nhưng một cảnh tượng mới vừa hiện ra, làm tôi vội vàng có ngay chủ định. Ngay trước mặt tôi, cách non nửa dặm, con tàu đứng lù lù, buồm giong tứ phía. Tôi nghĩ phen này chắc sẽ bị bọn giặc tóm mất. Nhưng vì cơn khát đương cháy cổ họng, nên tôi cũng không biết lúc ấy nên vui mừng hay nên lo ngại? Còn đương suy nghĩ miên man, thì một hiện tượng bất ngờ làm tôi kinh ngạc, trố mắt ra nhìn... Con tàu đang giong tất cả buồm lớn buồm nhỏ. Tấm vải trắng lấp lánh sáng ngời dưới ánh nắng. Tàu đang đi về phía tây bắc. Tôi đoán có lẽ giặc giong tàu chạy vòng quanh đảo để về đỗ lại chỗ cũ. Nhưng một lúc sau, tàu quay dần dần về phía tây: tôi chắc bọn giặc đă trông thấy tôi nên chúng định đuổi theo. Rồi về sau, tôi thấy tàu đi vào giữa dòng nước, rồi lại hình như lững lờ không biết đi ngả nào, cánh buồm ngả nghiêng rủ xuống. Tôi tự bảo: "Rõ đồ ăn hại! Chắc bọn chúng bây giờ đang say như chết. Ta có thể lợi dụng cơ hội tốt để dò xét tình hình". Trong khi ấy, chiếc tàu cứ tự ý trôi, một mình, khi trôi theo luồng gió này, lúc lại trôi theo luồng gió khác. Sau cùng, tôi đoán là con tàu không ai cầm lái. Nhưng nếu vậy thì người trên tàu đâu cả? Có lẽ bọn chúng đương say như chết, hoặc giả chúng nó bỏ tàu, kéo đi nơi khác chăng? Tôi nghĩ nếu leo lên được tàu, tôi có thể lái tàu về cho ông thuyền trưởng. Lúc này dòng nước đưa con tàu và chiếc thuyền của tôi cùng về phía nam, theo một tốc độ ngang nhau. Nhưng con tàu đi lúc thế này, lúc thế khác, thỉnh thoảng lại dừng lại nên tôi chắc nó không đi nhanh bằng chiếc thuyền con của tôi. Nếu tôi có thể ngồi lên, chèo thêm một tí là có thể đuổi kịp con tàu. Cái ý định có tính chất mạo hiểm ấy làm tôi thích thú. Nghĩ đến thùng nước ngọt để ở sau lái con tàu, tôi lại càng phấn chấn bội phần. Tôi nhỏm dậy, liền bị ngay một làn nước tạt bắn vào người. Nhưng lần này cẩn thận và khôn khéo hơn, tôi đă chèo được. Có lúc, nước hắt vào thuyền nhiều quá, tôi phải dừng tay chèo để tát nước ra. Những lúc ấy trái tim tôi bổi hổi bồi hồi như con chim non. Nhưng dần dần, có kinh nghiệm, tôi lái được chiếc thuyền con theo ý mình. Nhưng đôi lúc, con sóng lớn lại xô vào mũi thuyền, nước bắn tung tóe vào mắt mũi.
    Cuối cùng, thuyền tôi đuổi theo kịp con tàu. Lúc ấy tôi đã trông thấy rõ được cái ánh đồng trên bánh lái không người điều khiển, bóng loáng dưới ánh mặt trời. Trên boong tàu vắng ngắt không thấy một bóng người. Tôi cầm chắc rằng chúng đă bỏ tàu để chuồn đi nơi khác. Nếu không thì chúng cũng say mèm, nằm chết gí ở dưới hầm tàu. Như vậy tôi có thể nhốt chúng lại và sẽ làm chủ chiếc tàu. Nhưng mỗi bận con tàu dừng lại thì thật là tai hại. Vì mỗi lần như vậy, tất cả các cánh buồm đều bọc gió, rồi kéo tàu trôi phăng phăng. Nhưng lần này trời cũng lại chiều người. Gió bỗng ngớt trong vài giây. Tàu từ từ quay theo dòng nước, đưa đằng lái về phía tôi. Tôi thấy cửa sổ vẫn còn mở toang, trên tàu ngọn đčn vẫn còn thắp đỏ giữa ban ngày. Cánh buồm to lủng lẳng như lá cờ rủ. Lúc ấy tàu đứng im, mặc dầu dòng nước vẫn chảy. Con tàu chỉ còn cách tôi độ một trăm sải thì gió lại bắt đầu thổi. Các lá buồm bên trái căng phồng lên, con tàu ***g lên, sà hẳn xuống một bên, rồi quay là là trên ngọn sóng như cánh chim én. Thoạt tiên trông thấy thế, tôi đã thất vọng, nhưng sau đấy tôi tươi tỉnh hẳn lên: con tàu trước mặt tôi đang quay hẳn lại, rồi quay một vòng, rồi lại quay lùi một vòng nữa. Cứ thế, con tàu nhích gần lại phía tôi... Tôi đă có thể trông rõ sóng đánh sủi bọt trắng xóa ở mũi tàu. Đưa mắt nhìn lên, tôi bỗng thấy thân tàu to lớn mênh mông. Trong giây phút ngắn ngủi này, tôi chợt hiểu rõ tất cả tình thế nguy nan: tính mệnh tôi như trứng treo đầu đẳng. Số là con tàu vừa nhào xuống theo một lượn sóng thì chiếc thuyền con của tôi ở đầu một ngọn khác cũng đương vùn vụt lao lại. Trong nháy mắt tôi đă liếc thấy cái xà buộc buồm nằm ngang đằng mũi tàu ở ngay trên đầu tôi. Tôi vụt đứng ngay dậy, chân dận mạnh vào thuyền, rún mình nhảy lên. Tay tôi vừa vặn bám vào cái xà ngang buộc cánh buồm tam giác, còn chân thì lơ lửng giữa miếng ván và cái trụ. Trong lúc đang hổn ha hổn hển treo lủng lẳng trên cánh buồm thì tôi nghe ở dưới có tiếng va đánh sầm, tôi biết là chiếc thuyền con của tôi đă đâm vào con tàu và tan ra từng mảnh. Thế là tôi đành phải ở lại trên tàu, không còn con đường nào tháo lui được nữa.

Chia sẻ trang này