1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đảo hoang - Tô Hoài

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Milou, 20/06/2001.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    3
    Thế là, một ngày kia, cả nhà An Tiêm rời đỉnh núi đá, đi tìm rừng. Tan sương sớm đã ra khỏi hang đá -như khi mùa lạnh đã qua, đàn rắn bỏ nơi tránh rét, bò ra kiếm ăn đàn rồi. Ra đi, tràn đầy hy vọng. Nhưng thật là chỉ cầu may. Vì đi người không.
    Chỉ còn lại góc bánh dày đã lên mốc xanh. Bánh đã hết từ lâu, nhưng vẫn cố giữ mấy miếng. An Tiêm đi trước, lưng giắt con dao. Mon theo bên bố. Gái bước cạnh Mon và Nàng Hoa, vắt cái tay nải nhẹ nhàng trên vai. Mỗi bước lại phải chuyền qua một vong đá. Nhưng Nàng Hoa và Gái muốn đi dấn mau nữa. Trong cảnh khốn cùng, mọi người cứ muốn tưởng tượng như có ở đằng kia những cảnh làm ăn, có đám trảy hội. ấy bởi từ lúc xuống đến lưng núi, đã trông thấy một lằn viền rừng xanh đằng xa. Bao nhiêu ngày ròng rã rét mướt ở hang, nằm trong mây mù u ám như dán liền lên trời! Bây giờ, trong nắng hẩng, những cánh rừng sáng xanh lờ lững dưới kia, nghĩ như trong ấy được nghe thánh thót tiếng chim. Nhưng mẹ con Gái không thể chuyền như sóc chạy trên đá, mới xuống đến lưng núi, bụng chân đã tức anh ách. Rồi mặt trời ngả phía chân rừng, cái lạnh nhuốm vào hai vai áo, mà rừng còn xa, hãy còn lửng lơ giữa dốc. Chỗ ấy không có cây tiện trèo tìm nơi ngủ kín đáo. Cả nhà đi kiếm rêu đá, chất đống cao như gò rơm. Rồi nhen bùi nhùi, đốt lên, rực một vùng ánh sáng, khiến người quên cả bụng đói trong veo. Nàng Hoa bảo các con:
    ?oMọi khi ở hang, mẹ thấy đá sắp sập xuống, hôm nay ngủ được thấy có trời cao trên đầu, dễ chịu hẳn". Sáng sớm, lại đi từ lúc còn sương mù. Gái bảo Mon:
    -Có mùi thơm thơm trong sương. Mon nói:
    -Như mùi hoa tầm xuân. Gái cười:
    -ở đây có hoa tầm xuân à?
    Mon cũng cười, không trả lời được. Một lúc, trông ngang mắt, thấy đỏ hồng như một rừng đào. Nhớ ngày nào, thuyền ra cửa sông, thấy rêu đá đỏ hắt chân trời. Đến gần, không phải rừng đào, cũng không phải rêu đá. Quả nhiên đấy là những bụi tầm xuân mọc liền thành rừng. Bụi tầm xuân từ bao giờ mọc lên, những khúc dây quấn quít cuồn cuộn cao như tường. Đương vào mùa hoa tầm xuân, khắp nơi, ửng màu hồng nhạt. Hoa tầm xuân, hoa hồng dại, các cõi đất quê ta, đâu cũng có, từ triền Tam Đảo xuống qua vùng đồng bãi hai bên sông Cái sang đến vườn Tản Viên, ngoài rừng tre rừng mía, những bờ bụi tầm xuân nở đầy. Thế ra ở đảo hoang đây cũng có tầm xuân đến trước người, như ở bờ sông Cái. An Tiêm nhìn Mon, rồi nói:
    -Con nhớ được mùi hoa tầm xuân này ở Bãi Lở, giỏi đấy. Phải, nơi này cũng như quê mình, cũng có hoa tầm xuân. Hoa tầm xuân nở thì hết mùa lạnh. ở Bãi Lở, thế là lại sắp đến mùa nước, lại lo đấy. Các con ạ, sau này ta sẽ đưa người ra đảo mở đất, rồi đây cũng thành như Bãi Lở ở sông Cái. ừ, có khi sau này... Mon góp chuyện với bố:
    -Khi ấy con đã lớn bằng những người theo bố mẹ lên ngược lập làng đánh trâu nước lấy bãi, lấy đất ở sông Cái, con cũng theo bố mẹ... An Tiêm cười:
    -Khi ấy thì một mình con đem dân ra đảo được rồi. Từ chỗ gặp cây, đường đỡ quạnh quẽ hẳn.
    Những bụi tầm xuân rồi lác đác những bụi cây có hoa không biết tên, cái đỏ cái vàng cái tím cái trắng xôn xao chen quanh bước đi và trong tầm mắt. Đã qua những rừng tầm xuân, một lúc sau lại đến trước những cây lớn chen gốc nhau, cành lá và dây leo kín mặt đất. Những tòa cây kỳ lạ, xanh đen, xòa lá như ngồi xổm mà ngửa mặt lên cao xanh, như những cây bứa cành ngang thân thẳng đứng, trông lên đến hết ngọn vẫn chỉ thấy thăm thẳm im lặng. Cây ngồi, cây đứng ken liền. Cả nhà phải đi lên lưng chừng cây. Nàng Hoa và Gái bấm chân bám bíu từng cành rồi mới dám men sang cành khác. Vướng. Váy áo mẹ con rách lướp tướp. Sang đến bên kia, xuống được mặt đất, ai cũng lem luốc nhọ cả đến tròng mắt. Hai đầu gối xuống dốc dồn muốn khuỵu.Nàng Hoa đứng vịn tảng đá run lẩy bẩy, một chốc mới gượng lại được. Trời tối ngay ở chân dốc. Trông thấy cảnh rừng thưa trước mặt. Đêm nay đốt nhiều lửa hơn. Những đống lửa chồng đống. Khói cuồn cuộn, những ông sao cũng lấp láy muốn trôi theo khói. Nàng Hoa và Gái mệt nằm lả. An Tiêm ngồi đốt củi, nghĩ thương vợ con, cứ chuyện cho khuây.
    -Mình nghe tiếng gì không? Nàng Hoa hé mắt, lặng im.
    -Tiếng suối chảy trong rừng trước mặt. Ta gặp suối rồi. Mai ta sẽ đến suối, lấy nước suối uống. Ta sẽ làm nhà ở ngay đầu con suối. Nàng Hoa mỉm cười, An Tiêm lại nói:
    -Mình ạ, lúc nãy đi lấy củi, tôi nghe có tiếng hươu kêu. Mon nói:
    -Con cũng nghe tiếng, gần lắm. Mon hí hửng tưởng bây giờ có tiếng hươu, có thể đi bắt ngay. ở rừng bắt hươu như thò tay vào xó cửa bắt con gà, làm sao có thể chết bên cạnh miếng thịt được. An Tiêm và Mon còn kể chuyện vui một lúc nữa. Chuyện ngày trước ở Bãi Lở, khi mới đến. An Tiêm dang tay bá cổ hươu mà hươu cũng không chạy. Chuyện ấy, hôm nọ kể đã nhiều lần, thế mà lần nào kể lại, lần nào cũng thấy lý thú. Nhưng Nàng Hoa và Gái chỉ còn gượng vui trên nét mặt, không thể đáp chuyện. Đống lửa vẫn rừng rực, đến khuya không còn nghe tiếng người nói nữa. Những cơn ngủ thiếp, lử lả bên đống lửa. Sớm hôm sau, An Tiêm bảo Nàng Hoa:
    -Tôi đốt lửa thêm cho mình nằm đây sưởi. Mình ở đây với con Gái, tôi với thằng Mon đi tìm cái ăn và đem nước về, gần thôi. Trong những đốm cỏ xanh đằng xa có cái gì đụng đậy, nhấp nhô. Mon chớp chớp mắt. Những cái bóng vẫn nhô nhốp trên tảng đá.
    -Bố ơi!
    -...
    -Đằng bãi cỏ... An Tiêm chăm chú nhìn rồi nói:
    ?oXuống gần nữa mới rõ. Con gì thì hay quá". Rồi bố con leo xuống. Mon reo:
    -Hươu! Hươu! An Tiêm cũng nói to:
    -Trời ơi! Của rừng đây rồi.
    Trong búi cỏ có một đàn hươu đang giỡn. Con hươu đực đốm sao, cặp sừng kềnh càng trên đầu, hếch mũi nghe ngóng. Mon rón rén. Đàn hươu vẫn vừa giỡn vừa gặm cỏ. Trong đám, rộ lên những tiếng kít kít nho nhỏ mỗi khi hươu chen nhau nhảy quanh tảng đá. Mon đã đến gần lắm. Mùi hươu tỏa ra ấm sực nức. Rồi Mon đứng lên, dang hai tay, đi vào. Mấy con hươu đương đùa nhau bỗng đứng lại. Thoắt một cái, hươu rút chân, chạy như gió cuốn. Cả đàn hươu chạy theo. Mon tưng hửng, đứng trơ. Hai bố con nhìn nhau. Đột nhiên, không để đâu hết lo. Mẹ và em đương đói lử lả đằng kia, hôm nay nữa mà không được miếng ăn thì... Cả mình nữa, mắt nhìn đã vàng lóe... Bố con tạt sang rừng khác. Tưởng như trong các cánh rừng, những con hươu đã biết tin có người đến bắt hươu -vô khối dấu chân chạy mới chồng lên nhau, dấu chân nặng vết ngắn, sâu hằn, thoạt trông cũng biết nhiều đàn hươu vừa chạy qua đây. Nhưng không thể đuổi được. Mon đã thấy nhược lắm. Bố vẫn cắm cúi đi. Mon cố theo. Biết Mon mệt, đói, chốc An Tiêm lại đứng lại, đợi con. Mon biết ý bố, nhưng Mon chỉ nhìn bố, rồi lại cố đi. Hai bàn chân dần dần, lải rải... Mon đứng lại. Mon gọi:
    -Bố ơi! An Tiêm đứng, cúi xuống.
    -Bố trông cây này... cây gì... An Tiêm reo:
    -Cây ngót! Mon nói:
    -Cây ngót như ở bờ sông Cái ấy a?
    -ừ, cây rau ngót như ở bờ sông, nhà mình vẫn nhặt ăn. Trong rừng thưa, đất ẩm kín mủn lá. Những cây lá ngót mọc thành vạt dài, thấp củn, ken dày, thoạt trông tựa lá han, lá ké, không nhận ra
    -nhưng trông kỹ, những cây ngót thật khác. Cây ngót rừng, thân lẳng khẳng, lá xanh mờ, mới nhìn đã ngon mắt, biết là ăn được, khác hẳn những lá thuốc hay lá độc. An Tiêm nói:
    -Thế là sống rồi! Lấy lá ngót về ăn tạm, con ạ. Hai bố con hái được hai ôm to rau ngót. Lại ngắt lá dong rải ra, lấy dây buộc lại, mỗi người đeo một ôm về. Nàng Hoa và Gái vẫn nằm thiếp cạnh đống lửa đã vạc. Nhưng nghe tiếng người, Nàng Hoa mở mắt, khẽ hỏi Mon:
    -Bố đâu? Mon đáp:
    -Bố còn ra suối lấy nước.
    -Suối gần hay suối xa?
    -Tiếng suối nghe róc rách từ đêm qua ấy. Nàng Hoa nhớ đêm qua có nghe như tiếng gió thổi trên ngọn cây. Mon nói:
    -Được cái này ăn rồi. Mon mở gói lá. Nàng Hoa nhìn, nhưng mắt mờ, không trông rõ. Nàng Hoa khe khẽ hỏi:
    -Cái gì thế? Mon nói:
    -Lá ngót, mẹ ạ. Mon buộc cả ôm lá ngót bọc mấy lần lá dong, lại quấn dây vào. Mon khều lửa, vùi cả bọc vào giữa đám than đương còn đỏ. Mon hầm lá ngót. Một lát, Mon lôi bọc lá dong đã cháy thui trong đống than ra. Mon gọi mẹ, gọi em:
    -Dậy nào! Dậy nào! Mon xốc Gái lên. Trông mặt em thiểu não quá. Nhưng có lẽ bởi Mon là anh, Mon phải cố thế thôi, chứ Mon cũng đói rét cả bụng đây. Mon mở gói ra. Mon hầm rau khéo quá. Đám lá dong bọc ngoài cháy đen vừa bén đến lá ngót. Cái lá hầm chín nục, bấm ngón tay đã đứt đôi, bốc khói thơm nghi ngút. Nàng Hoa ngồi dậy, tay vén làn tóc xõa và khẽ hỏi con:
    -Bố vẫn chưa về à? Vừa lúc ấy, An Tiêm đang bước tới trước tảng đá. An Tiêm quảy trên vai một bó cây trúc, hai đầu buộc hai túm lá dong
    -đựng nước suối. Từng giọt nước nhỏ theo bước đi. An Tiêm mở một miệng gói lá như cái gàu nước, đến trước mặt Gái:
    -Con uống hớp nước cho tỉnh. Hai mẹ con Gái uống. Nước suối trong mát ngọt như được ăn đẵn mía. Uống rồi mà còn tóp tép miệng. An Tiêm nói:
    -A, nướng rau ngót rồi à? Thơm quá. Rau ngót nướng ăn ngon lắm đấy. Nướng nốt bọc ngót này nữa.
    Bữa xuống rừng đầu tiên ăn toàn rau ngót. Thế cũng hay, đi một quãng nữa thì đến đầu con suối, chỗ mình định làm nhà, gần thôi. Khói lá ngót nóng nhừ, bốc lên mùi bùi bùi. Đói quá cũng không ăn được. Nàng Hoa và Gái chỉ nhấm từng chiếc lá chín. Mon khác, Mon thấy đói ghê, Mon bỏ vào miệng từng nắm to, gần như nuốt chửng. An Tiêm nói:
    -?n xong rồi chốc nữa ta về nơi ta ở. Chiều hôm nay Gái vào rừng với anh mà kiếm rau, chỗ gần suối nhiều ngót lắm, bố trông thấy rồi. An Tiêm lại cầm bó trúc lên:
    -Chỗ ấy có cả rừng trúc này. Thế là có cái làm nhà rồi. Có trúc thì thế nào cũng tìm ra tre. Rồi có mai, có nứa, có vầu. Được những thứ ấy thì nhà mình có đủ tất, đủ cả nồi thổi nấu, chẳng khác nhà ở Bãi Lở. ?n hết lá ngót, Nàng Hoa và Gái thấy khoẻ khoắn lại. Thế là cả nhà lại đi. Đã sang rừng phẳng, không phải leo như những hôm trước. Thoạt trông thấy mặt suối óng ánh. Nàng Hoa và Gái ùa đến. Chẳng khác lúc bố con An Tiêm thấy cái suối, chạy vội lại, như bao nhiêu năm mới thấy. Hai mẹ con rối rít vục tay, hắt nước lên mặt một thôi một hồi. Cho mát lạnh đến cả hai tròng mắt, bấy giờ mới ngẩng nhìn xung quanh. Mon đứng im, chăm chú nghe, rồi hớn hở hỏi:
    -Cả nhà có nghe tiếng gì không? Gái nói:
    -Tiếng suối đấy.
    -Không phải.
    -Chịu.
    -Tiếng ve! Tiếng ve kêu! Nghe thấy chưa? Tiếng ve! Mọi người lắng tai, nghe lẫn trong tiếng suối róc rách, nếu không để ý kỹ không biết được, từ nguồn nước xa đưa lại tiếng con ve núi giọng kim kêu lanh lảnh. Tiếng ve núi giọng kim trong vắt, thường núi nào cũng có ve kêu lúc xẩm tối dưới gốc cây, ve kêu nửa đêm trên lưng cây. Nhưng bao nhiêu lâu nay, Nàng Hoa và Gái với An Tiêm và Mon nữa, mới lại được uống ngụm nước suối, mới lại nghe tiếng mõ con ve. Bỗng thấy lạ quá, sửng sốt, thế rồi lại tưởng vẫn như ở Bãi Lở ven sông Cái ngày nào. Dù sao, cũng thấy sống rồi. An Tiêm điềm nhiên nói, như mọi việc hằng ngày vẫn thế:
    -Con ve kêu có buổi. Bây giờ ve kêu vậy là chiều rồi. An Tiêm lại trỏ tay:
    -Nhà ta sẽ cất trên lưng chừng cây kia. ở đây không phải chỉ có vết chân hươu thôi, mà cả vết hổ, vết gấu, vết trâu. Phải ở cao thế mới được. Ta sẽ cất một cái nhà cẩn thận, mà đẹp. Khác gì ở Bãi Lở nào!
    Nắm lá ngót đem cái khỏe lại cho người và cũng làm cho buổi chiều ấy khác hẳn tối hôm qua. An Tiêm vác về, ném đùng xuống những cây gỗ lớn. Nàng Hoa bắt đầu nhóm lửa. Mon và Gái mỗi đứa kiếm một ôm lá ngót nữa. Lúi húi nhặt, đem bọc vào mấy lần lá dong rồi vùi lửa. Trong khi ấy, An Tiêm hơ lửa thui những đốt trúc. Cây trúc già, cứng đặc ruột, chẳng khác gỗ lim. An Tiêm hun cẩn thận từng đốt rồi vót nhọn một đầu. Cái đầu trúc nhọn hoắt, lại có ngạnh như lưỡi câu.
    -Từ mai đi đâu mỗi người có cây trúc cầm tay. Nó là đòn càn, lại làm dao, làm giáo giữ mình và kiếm cái ăn.
    ?n xong, thì trời vừa tối. Miếng lá ngót nướng còn ngọt miệng, vẫn bùi và thơm lạ. Bọn lá dong thừa bây giờ đem trải ra quanh lửa làm chiếu nằm. Đống lửa lại phần phật reo. Đêm nay vẫn trời trong và lắm sao như đêm trước. Canh khuya, nghe tiếng suối nỉ non ngay trong bóng tối bên cạnh và thỉnh thoảng tiếng ve kim đằng xa lại nổi từng lúc, như tiếng khèn. Mọi người thấy êm ấm lại vui vui. Không còn những đêm lặng ngắt, chỉ có tiếng gió hú như ở núi đá mọi khi. Mon mơ màng nhìn khói cuốn tàn lửa lên trời, lẫn lộn không biết đâu đốm lửa đâu đốm sao. Những đốm lửa tàn giữa trời, lả tả rơi xuống xung quanh rồi tắt. Để ý nữa, sao lại có những đốm lửa rơi đằng kia tắt rồi lại nhấp nháy sáng. Lại thêm những đốm khác xa gần hiện ra. Bóng nước suối a? Không phải. Cứ nhấp nháy đôi một. Bóng sao đổi ngôi đọng lại đấy a? Có thấy sao đổi ngôi xuống đâu! Cũng không phải.
    -Cái gì đo đỏ đằng kia, bố à? An Tiêm bỗng khẽ kêu:
    -Mắt hươu! Mắt con hươu đấy! Mắt hươu ban đêm bắt vào lửa thành hai chấm đỏ. Mắt hổ thì xanh hơn, to hơn, sáng hơn. Mắt cáo, mắt cầy, mắt gấu xanh mờ. Hươu đây. Chắc hươu thấy lửa, tò mò men đến. Cứ ngồi yên cả nhé, yên nhé. An Tiêm cầm một cái lao trúc vừa vót xong, cúi rạp người, bước ra. Bây giờ càng rõ nhiều đốm đỏ, giỡn chập chờn. Mon tưởng có lẽ đàn hươu đã gặp ban ngày. Đàn hươu đương đi vẩn vơ quanh, nhìn những ngọn lửa kỳ dị chưa bao giờ hươu được thấy. Tất cả im phắc
    -người và rừng đều im. Chỉ có tiếng củi lép bép và những đôi mắt hươu thoang thoáng. Bóng An Tiêm từ từ rướn cao. Ngọn lao phóng vút vào bóng tối. Đằng kia, nghe một tiếng "toác" như tiếng ống nứa nứt đêm mùa hanh. Rồi tiếng ràn rạt trên cỏ. Những đốm sáng biến mất. An Tiêm quơ một chiếc củi lửa, chạy ra. Mon và Gái, cả Nàng Hoa, cùng đứng dậy. An Tiêm đã trở lại. ánh lửa rừng rực, An Tiêm bước vào, kéo theo một con hươu, cái lao trúc còn cắm xuyên chéo trên đầu hươu. An Tiêm cười, nói:
    -Khéo quá. Mai khởi công nhà mới, được con hươu ăn mừng. An Tiêm bảo Mon soi đuốc ra ngoài bới một túm cỏ tranh. Cỏ ấy đốt lấy tro ăn với thịt hươu nướng. ở Bãi Lở, người ta thường ăn thịt với than cỏ tranh. Các vùng ven sông không có muối ăn như cách thức của người đường bể. Mon vừa bới nhổ cỏ vừa nghĩ đến cái nhà sắp làm và nhớ hôm trước, ở sườn núi xuống, An Tiêm trỏ tay trước mặt, bảo Mon:
    -Con trông kìa. Một màu xanh đen cánh rừng bạt ngàn. An Tiêm bảo Mon:
    -Con ạ, đứng đây nhìn xuống khác nào ở triền Tam Đảo trông ra bờ sông Cái. Các cụ nói ngày trước rừng Tam Đảo liền từ bờ sông vào chân núi. Đến khi có người đặt chân tới, như đất Bãi Lở mình đấy, rừng phải giạt vào núi, nước dữ phải trở về dòng, rừng núi sông nước kia phải biết kiềng tay kiềng sức người ta đấy. Không biết bây giờ ở Bãi Lở thế nào, lại đương mùa nước lên, mùa này đương mùa nước. Rồi An Tiêm và Mon đến một khoảng trống có đá lẫn vạt cỏ cạnh nguồn nước bên rừng.
    -Ta sẽ làm nhà ở ngọn nước này.
  2. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Nhưng cái nhà mới của An Tiêm không giống cái nhà nào ở ven sông Cái ngày trước. Nhà ven sông bằng lau sậy, bằng rơm, bằng tre, bằng đất. Nhà ở rừng sâu thì chỉ có gỗ và đá, ở đâu lại nghĩ ra cách làm nhà theo đấy. Chỗ ấy có mấy cây nghiến mọc chụm quanh tảng đá. Những thân cây, những tảng đá nhỏ, đá vụn lấp chặn cả bốn phía, đá liền với thân cây, thành một nền lửng trên có sàn gỗ. Ba phía, lấy thân cây về ken trúc dựng đứng làm vách. Mái phủ tạm lá dong xanh óng. Một phía trổ lỗ cửa xuống. Một cây gỗ cao, đẽo từng bậc, làm thang lên. Người vào cả rồi, kéo dựng cái thang lên, thế là túp nhà một mình trú giữa cây, như cái tổ chim to. Chỉ còn con gấu có thể leo cây nghiến lên được. Nhưng cả bốn phía đều có thân cây để nấp. Đứng trong nhà mà xỉa lao xuống, con gấu chỉ có đường chết. Giữa sàn nhà trồi lên một khoảng mặt đá, đấy là bếp. Suốt ngày đêm trên bếp được giữ có lửa. Củi cây rừng chắc không bộp như củi cọ. Những cây củi kiếm về dựng bốn phía, cứ việc thò tay rút. Đống lửa rấm lúc nào cũng lên khói trước mặt. Thế là từ đây lại có nhà ở và đống lửa, được làm người như thường. Trên cột đầu nhà treo sợi dây dài, mỗi ngày buộc một nút, đánh dấu cho biết ngày tháng. Lại bắt được một con rùa ngoài khe đá về, đào lỗ cho rùa ở ngay bên chân cột. Cả nhà ai cũng biết xem điềm rùa, cứ rùa thò đầu ra hay rùa nằm quay vào, biết được sắp mưa hay sắp nắng. Con người ta phải biết tính đếm như thế. Rồi trong vườn nhà, ít lâu sau, các đầu cột đều có lạt buộc thòng lòng xuống dài ngoẵng từng miếng thịt hươu. Những miếng thịt hươu ướp tro rễ cỏ tranh. Ngày đêm, khói bếp dày đặc, miếng thịt đỏ hắt rồi đen xạm, khô quắt. Thịt ấy, trữ quanh năm. Khi cạn thức ăn, lại xẻo một miếng xuống. Bắt mỗi con thú, được thịt ăn, đem cái xương đầu treo lên vách. Dần dần, trên cột vách lố nhố những bộ xương đầu hươu có sừng bè ngang bè dọc, những đầu con dê núi, sừng một nhánh cong vắt như đội mũ. Chẳng bao lâu, lại đã vào mùa lạnh. Cái rét về sớm trong rừng. Có khi mấy hôm không ra khỏi nhà, bếp đỏ suốt ngày giữa sàn ở lưng cây. Trong khi làm nhà, tìm thêm được mấy thứ nữa. Gái đi kiếm lá ngót ở một khoảng rừng xa. Chỗ ấy khuất, chỉ thấy tàu lá đen sì trên những thân cây cao vút. Gái đoán cây cao thế thì dưới gốc thoáng, chắc có rừng ngót. Gái lần vào. Đúng như vậy, những đám ngót ken kín mặt đất.
    Chỉ có cái lạ: chỗ quanh mỗi gốc cây, đất nhẵn thín, hình như có những quả như quả trám lăn lóc. Xem kỹ, đúng quả trám. Những quả trám trắng già lổ đổ vàng, bên cạnh vết chân hươu và phân hươu. Phải rồi, con hươu nghiện ăn trám. Ngày trước, ở ven sông Cái thành làng đã lâu mà từng đàn hươu còn về tìm trám quanh nhà. Vào cuối mùa mưa, cứ nghe chó cắn động gốc trám, cả xóm lại đem lưới ra chăng kín các lối vào rừng. Có lần bắt được một lúc hàng chục con hươu. Gái nhặt trám, bọc thành từng gói lá rồi bẻ cái gậy, quảy về nhà và kể chuyện thấy vết chân hươu như thế. Cả mấy tháng ăn vã rau ngót và trám trắng vùi lửa với thịt hươu nướng cũng chán miệng và sít răng. An Tiêm nghĩ cách đào lấy đất nặn bát, nặn nồi rồi đốt củi làm than nung. Nhưng những chiếc bát đàn và nồi niêu đều vỡ sụp, lăn ra như hòn cuội. Đất rừng ẩm, sâu ngập quá đầu người mà vẫn chỉ một thứ mùn lẫn cuội. Không phải đất thó, đất nặn không ăn, không làm nồi, cũng không nung bánh ngói được. Lại vẫn rau ngót và trám trắng chén tràn với thịt hươu nướng. Khi những rặng tầm xuân bắt đầu nở trong mưa bay như mưa ra bụi hồng, mới biết cái Tết đã qua. Đầu năm cuối năm bây giờ lại có những thói quen và dấu hiệu mới. An Tiêm từ ngoài rừng về. Vai vác cái gì dài, xa trông như khoác ngòng ngoèo trên cổ một con trăn. Về gần đến bên suối nước, mới nom rõ cây vầu.
    -Tìm được một rừng vầu! Nhiều lắm! Đã bảo mà, có trúc thì phải có tre, có vầu, có mai...
    Cây vầu của quý này làm được hai việc mà từ khi đến đây không có. Chặt bốn đốt vầu dài liền nhau, lấy cái lao trúc tống đá xuống lòng ống, phá thủng ba mắt ống, chỉ để một mắt sau cùng, thế là Gái được ống vầu vác ra suối lấy nước. Kề hứng một lát cạnh mỏm đá, đã được đầy ống, vác về dựng bên chân cầu thang. Như thế, đêm hôm khỏi nỗi lục cục trèo xuống, mò ra tận suối lấy nước. Bây giờ chỉ việc với tay ra ngoài vách, lôi cái ống vào, thế là khối nước uống. Nhưng được ống vầu đựng nước chưa thích bằng ống vầu làm nồi nấu canh, nồi kho thịt. Mọi khi, đành ăn lá ngót nướng, lá ngót hầm, quả trám và lá ngót lùi. Bây giờ, một khúc vầu, mỗi đầu một mắt, thế là được hai ống để nấu canh. ống vầu tươi đặt nghiêng giữa bếp. Lửa đượm than lên ngọn cả cái vỏ vầu đã ám khói, cháy xèo xèo. Cháy hết lượt vỏ vầu, canh ngót cũng vừa sôi, nhấc liền ống ra. Canh rau ngót thơm mát lạ lùng, trời ôi, cái nước canh ngót. Nước canh ngót này mà có cua, có hến sông Cái... Nửa ống vầu kia để làm nồi kho thịt với trám. Có ống vầu cũng như có nồi, bếp núc làm gì cũng tiện. Rồi thanh vầu vót làm đũa, mắt vầu làm bát, làm muôi. Giá có gạo thì ống vầu còn làm cái lam cơm. Nhưng bây giờ thì làm thế nào có hạt gạo, bao lâu nay không trông thấy một hạt cơm.
    Mùa lạnh nữa lại tới. Đến độ rét mướt ấy thì xống áo vợ chồng con cái bạc và rách như xơ mướp. Người đi cách một quãng, trông đã lẫn cả vào bóng đá. Chỉ cái váy sồi nâu của Nàng Hoa và của Gái còn hơi tinh tươm. Năm trước, Nàng Hoa đã nói:
    -Mình ạ, làm sao giữ được xống áo nên hồn.
    Cho khi nào trở về được còn có cái mà mặc. An Tiêm cũng vẫn có ý như thế. Cái thắt lưng điều của bố và của con trai với hai cái khăn chàm, không mấy khi dùng đến. Nhưng tai ác cái giống vải, chỉ để không mà cũng tã dần ra. Biết làm thế nào! Gió núi thổi hun hút xoáy vào từng lỗ áo rách, xé thêm ra, cái rét càng như gai châm, người đi cong gập lại, không lê bước nổi. Mới mấy hôm rét mà đã không ai ló được khỏi lỗ cửa, chỉ quanh suốt ngày trong lều với lửa ở lưng chừng cây. An Tiêm nói:
    -Mình còn nhớ cái năm ta mới lên Bãi Lở, chưa ai trồng bông, trồng dâu được, cả làng phải tước sợi bẹ cọ ra làm váy áo đụp thêm cho khỏi rét.
    -ừ, cái sợi ở bẹ cọ rừng, nhưng còn cái kim...
    -Có thể nghĩ cách làm được kim. Nhưng cọ thì ở cánh rừng này không có. Thôi, mai nắng đi tìm thêm. ối thứ khác làm được cái mặc... Mình để ý mà xem, có phải khi mới ra đây, tưởng không bới đâu được thức gì, thế mà rồi vẫn có. Cả mấy ngày ấy, ai cũng vơ vẩn đi tìm. Một hôm, ở rừng về. An Tiêm mừng rỡ, chưa chui vào cửa, đã nói to:
    -Tìm được rồi.
    -Cái gì, hả mình?
    -Vỏ cây sui.
    -à vỏ sui, đây cũng có cây sui à? Vỏ cây sui để làm xống áo cũng không lạ đối với người đã ở Bãi Lở.
    Mới đến Bãi Lở, người ven sông còn thưa thớt lắm, đàn ông chỉ độc một cái khố, trẻ con thì trần truồng quanh năm. Đến mùa lạnh, các chòm xóm xô vào rừng lấy vỏ cây sui đắp vào người, mùa lạnh nào cũng thế. Khi An Tiêm lên mở đất Bãi Lở, Nàng Hoa đem theo nghề trồng dâu chăn tằm, kéo kén, dệt sợi rồi lại trồng bông. Từ đấy, người Bãi Lở có vải, có sợi gốc, biết nhuộm nâu, nhuộm chàm, biết dấn bùn cho thâm xống áo. Bây giờ, lại như ở Bãi Lở ngày nào, vào rừng tìm vỏ cây sui. Không ngờ cuộc đời lại có khi ngược nước như thế. Cây gỗ sui mọc hóc hiểm trong khe ẩm hơi đá tối hốc sâu. Cây sui ấy cao mấy đầu người, lá rợp mặt đá. Không trông thấy gốc, đến gần vẫn tưởng đấy là bụi cây dại. Vì thế, đã có khi trông thấy nhưng chẳng ai hơi đâu mò vào để cho con rắn, con trăn tưởng vào trêu nó. Lại có khi lá han xát ngứa móc thịt ra. Thế mà An Tiêm đã lần mò tìm được. Lấy dao khía vỏ cây sui, bóc ra, đem về. Mẹ con Nàng Hoa, mỗi người quảy một gánh nặng. Vỏ sui phơi trên mỏm đá, những ngày nắng, khô rắn như mo nang. Lúc ấy, lấy đá ghè kỹ như người đập vải. Vỏ sui mềm dần, rụng lần vỏ ngoài, còn lại một lớp sợi tơ ra như sợi bông, bết thành nạm trắng xám, càng phơi, nạm tơ sui càng kết lại. Được mấy nắng. Nàng Hoa đem vào, xé cho cả nhà, mỗi người một mảnh. Xé rồi buộc, Nàng Hoa buộc thật khéo. Miếng nách buộc lên vai, lại khoanh lưng mấy nạm, vắt lại, vạt trước vạt sau không còn một chỗ hở. Riêng vạt trước xòe xuống có miếng vỏ sui dày phủ kín đầu gối. Thừa bao nhiêu, buộc từng mảnh, thế là mỗi người còn được cái chăn đắp. Váy áo vỏ sui trắng bệch, trắng xám, ai trông cũng lúi húi, lọm khọm như nhà gấu trắng ở núi. Tuy vậy, ấm như khoác cái sưởi trên người, chỉ một lúc đã quen như mặc xống áo thật. Nhưng, Nàng Hoa nhìn chồng, nghĩ mà thương. Dễ thường người già đi rồi hóa gấu thật. Bao lâu rồi, tóc An Tiêm dài quá lưng, kín tai, chỉ còn hai con mắt lay láy giữa bộ râu quai nón lốm đốm bạc mọc trùm lên cả đuôi mắt. An Tiêm cũng thấy vợ thật đáng thương hại. Mẹ con nhà nó vất vả quá, lam lũ quá. ở Bãi Lở cũng chỉ gian nan có thoảng có thì. Bây giờ vì mình mà mẹ con phải chịu đi đày đến chốn bơ vơ thế này. Thằng Mon đụp cái áo sui đến đầu gối, lụ khụ như ông cụ. Nhưng nó phóng lao trúc khỏe lắm đấy. Mon cứ ra rừng là y như phải kéo theo về, có khi cầy hương, có khi nai, có lần Mon chạy về gọi cả nhà ra khiêng con nai to quá. Khỏi cái lo rét, lại tìm được củ mài. Khi trở nồm có đá đổ mồ hôi, con rắn, con trăn, con gấu đã bỏ hang hốc tránh rét bò ra kiếm ăn, những cánh rừng đại ngàn không còn làm u ám rầu rĩ hai con mắt nữa, rừng đã nở lá non thơm mát mũi, phía nào lá rừng cũng cuồn cuộn xanh lên như khói. Đến một quãng rừng thoáng, An Tiêm ngẩng đầu, thấy một dây nở hoa tím bò ngọn cây. Chiếc hoa tím, cánh cụp thì đậm, cánh nở thì phai, đầu tiên, tưởng hoa của cây ấy, nhưng trông lại, biết hoa trong những dây leo dưới đệp lá chằng chịt. An Tiêm bảo Mon:
    -Hượm đã, con ạ.
    -Cái gì thế? Mon rút chiếc lao trúc, cầm sẵn tay, nhìn ra. Chưa biết sao, hãy phòng sẵn, đấy cũng là biết cách đi rừng. Nhưng An Tiêm lại nói:
    -Lên xem cái dây kia.
    -Chỗ hoa tim tím ấy à? An Tiêm trèo lên, chặt quang mấy bụi cây ngoài, len vào tận nơi. Cái lá to như lá mảnh bát, không phải dây bìm lá nhỏ lẩn mẩn, nhận ra đấy dây củ mài. An Tiêm quay lại, nói to xuống:
    -Củ mài! Củ mài! Mon leo vào tận nơi. Hai bố con hí húi phát quang hết các dây dợ xung quanh, còn trơ lại một gốc dây mài bằng cổ tay người lớn.
    -Củ mài này to lắm. Kể ra, phải đến tháng tám ăn mài mới khỏi sượng. Nhưng mấy năm nay chẳng được miếng mài, cứ đào về, để ráo nhựa một tý thôi. Đào theo dây xuống, được lưng chừng, đã quá trưa, phải bỏ, mai đào nốt.
    Nàng Hoa và Gái thấy nói tìm được củ mài, ai cũng mừng. Miếng củ mài khác nào miếng cơm. Người ở đâu, khi thiếu đói, đều phải lùng rừng nương nhờ củ mài. Ngày tấm bé, An Tiêm còn ở bờ biển ngoài cõi Ninh Hải hay khi vợ chồng lên phá đất ven sông Cái thì miếng mài, miếng cơm chẳng để ý. Bây giờ bảo sắp có củ mài, bỗng thấy rau ngót, thấy trám, thấy thịt trộn tro cỏ tranh, tưởng như ăn đều xót ruột cả. Bao lâu nay thèm một miếng cơm, một mùi cơm, mùi thơm bùi bột mài cũng đương thèm. Cả nhà cùng vào rừng đào nốt củ mài. Củ mài ấy to bằng bắp chân, dài nửa sải tay, tõe bốn nhánh thành bốn củ. Hai anh em Mon khiêng một củ mài. Củ mài to không biết đã già bao nhiêu năm! Về đến nhà, phải đổi vai mấy lần. An Tiêm cắt cái núm đầu củ đem trồng bên hòn đá cạnh ngọn suối. Tối ấy đỏ lửa đến khuya. Cả nhà ngồi quanh cái ống vầu luộc củ mài. Mùi mài tỏa thơm ngậy khắp nhà, hệt mùi xôi nếp cái mới. Tự nhiên, ai cũng nhớ cõi Bãi Lở, nhớ đến làng xóm ven sông Cái. An Tiêm nói:
    -Hôm nay tìm được củ mài, càng nghĩ càng thấy không ai đóng cửa cái sống của mình được.
    Chặp tối hôm ấy, thuyền quan quân đổ cả nhà ta lên núi, tưởng cái chết đến nơi, thế mà rồi lại thấy ra miếng nước ở cây cọ, biết không thể chết. Con cua con cáy bấy thế mà còn biết bò kiếm ăn, con hà phải đóng vỏ vào tảng đá suốt đời đứng một chỗ mà vẫn sống, huống chi con người đầy đủ tai mắt chân tay thế này. "Không thể chết, nhưng cũng không thể chịu khổ mãi, cứ mãi chịu chui rừng thế này, cứ lay lắt thế này. Bàn tay vợ chồng mình đã từng làm cho đất Bãi Lở nên cái ăn, bây giờ chúng mình cũng sẽ làm cho cái đảo này thành cái ăn, sẽ thành nơi có người đến ở đông vui, như đất Bãi Lở. "Mình ạ, ta ở trong rừng cũng được, không còn khốn khổ như ở hang đá núi trọc, nhưng không, ta phải tìm cách mở mang ra. Bây giờ thấy được mài ăn, chắc các rừng quanh đây cũng có mài. Đợi đến qua mùa mưa, ta sẽ đi tìm thêm mài, tích cái ăn chắc bụng đã. Rồi ta lại đi tìm đất mới phen nữa. Cái khi ở núi trọc xuống rừng này tôi đã trông hướng nhiều lần. Sau lưng ta, núi dựng đứng. Không lẽ cả đảo chỉ có núi đứng như thế. Chắc đằng trước mặt, phía gió mát thổi tới phải có bãi, có sông. Không biết đi bao lâu mới tới được bờ đảo đằng trước mặt, nhưng ta trữ được lương ăn rồi, ta lại đi phen nữa. Ta quyết mở mang lên, quyết không chịu sống rúc ráy như con tê tê trong lòng đất đâu. Mình ơi, một ngày kia, có bao giờ nhà vua còn nhớ tìm lại vợ chồng con cái An Tiêm trên đảo, lúc ấy An Tiêm sẽ nói rằng: vợ chồng con cái An Tiêm vẫn sống và đương gây dựng chốn đảo hoang thành cõi bờ đồng đất quê ta. Đấy là sở nguyện của tôi". Tiếng củi nổ vui tai trên bếp rực than. ?n mài no, Mon và Gái mỗi đứa nằm một góc, cọ quậy trong mảnh chăn vỏ sui. Nhưng không phải đã ngủ. Mắt tỉnh như sáo sậu. Còn mải hỏi bố các thứ chuyện. Cũng lây cái vui của bố mẹ. Gái nói:
    -Bây giờ mẹ kể sự tích trầu cau. Mon nói:
    -Nghe bố kể chuyện ông Gióng, ba năm nằm chõng đá... Mon tưởng tượng bố con mình cũng to lớn như ông Gióng. ừ một hôm nào, cả nhà lại đi, sẽ tới một cánh bãi như Bãi Lở, sẽ tới một con sông như sông Cái. Ta cưỡi ngựa sắt, vùn vụt bay như ông Gióng. Không phải leo rừng, chỉ một chốc đã tới nơi. ở bãi sông ấy, đến mùa nước xuống, bắc cầu noi đưa một dãy trống đồng ra mặt nước giữa sông, tiếng đồng rền ra gọi các cõi về xem hội. Rồi lò vật mở, các sới vật nhộn nhịp suốt giêng hai... Giấc mơ thú vị theo chuyện ông Gióng đi tìm đất ở ven sông chập chờn đến trên hai mí mắt buồn ngủ của Mon. Trong cánh rừng đêm đen thẫm, gió nổi rào rào rồi im. Phút chốc, lại lặng lẽ ghê. Con ve núi thôi kêu từ nãy. Đã khuya lắm. Dần dần, rừng xa rừng gần im phăng phắc. Một tiếng hươu đột ngột giác, nghe bảng lảng thật xa. Rồi lại vắng, vắng thăm thẳm. Vắng ơi là vắng!
  3. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    4
    Mấy mùa nắng rồi, cả nhà An Tiêm ở rừng sâu. Cuộc sống bờ bụi đã khá quen với mọi người và mỗi ngày một nền nếp dần, như ý An Tiêm muốn:
    ?odù khó khăn đến thế nào, con người cũng phải có chỗ ở, có miếng ăn tử tế, cả nhà mình đây cũng là một chòm xóm, chứ không phải như hươu nai ở hoang trong rừng".
    -An Tiêm hay nói thế. Mon nói:
    -Nhà mình còn đi tìm bờ sông làm nhà ở, bố đã bảo thế. Nàng Hoa hỏi An Tiêm:
    -Mình thử xem khi nào đi được. Bây giờ ta có thịt sấy để trữ.
    -Để tôi xem.
    Mùa nắng đã lại đến. An Tiêm bàn với Nàng Hoa: đi nắng thì vất vả quá, đợi hết mùa nắng này sẽ đi tìm ra bãi biển đằng kia. Mọi công việc lặng lẽ sửa soạn cho chuyến đi sắp tới. Những buổi chiều mờ như khói tỏa khắp rừng. Trên bờ suối, thỉnh thoảng thấy một đàn rắn đỏ hắt ngoằng đến rồi đủng đỉnh, lững lờ như một dòng lửa chảy. Những con ve kim ra rả đến tận chặp tối nóng nực. Tiếng ve gióng giả, liên miên, tưởng tiếng ve cũng lặn vào chiều như ánh nắng, như khói nắng, hôm nào cũng thế. Cả cánh rừng u uất đổ mồ hôi đêm. Tắt hết lửa mà vẫn khó thở, ngột ngạt quá. Sáng ra, trông lại sau núi, cả nửa khoảng trời đứng đen thẫm. An Tiêm nói:
    -Thảo nào, cơn mưa trong núi thế kia thì oi là phải. Mọi người dặn nhau đừng đi kiếm ăn xa. Sợ phải mưa không về được. Cả ngày, rừng oi ả như nẫu ra, không một tiếng động. Ai cũng về sớm. Không phải sợ mưa, mà vì bức bối, chân tay rã rời, không muốn bước. Nhưng trời như bị hãm, vẫn không mưa. Nửa trời đằng kia mây đen càng tụ lại, không tan, không loang, đen dữ dội như một rặng núi mới nổi.
    -Mây đen còn dọa thế thì còn oi khốn khổ. Đêm ấy, người ngồi không yên chỗ, bốn phía như có lò nung, nhưng vẫn sáng trăng. Một nửa trời bên này, trăng hè trong leo lẻo, trắng rợn trên khe lá. Nửa trời đằng ấy mây đen đứng thành, đen xám, đen kịt. Suốt cánh rừng, không tiếng ve, những con ve cũng mệt rũ, không đánh tiếng lên được. Phía núi, đợt mây thành đen kịt đứng như bóng tối bỗng ngùn ngụt kéo lên cao hơn, rợn hơn. An Tiêm gọi to:
    -Ra xem rồng lấy nước! Rồng lấy nước đằng kia. Mon đã đứng cạnh bố, trên mỏm đá. Nàng Hoa và Gái lật đật trèo xuống. Trong đám mây đen kịt nửa đêm toác xuống một làn trắng toát, trắng hơn cả ánh trăng trên bóng lá. Làn trắng tõe đôi đám mây đen, doãng dần rỗng ra, dài như chiếc ngà voi khổng lồ thúc xuống. Những tiếng ầm ầm nổi lên, rền như sấm. Đột nhiên, rừng mát hẳn. Không phải mưa, mưa gì như đổ núi. Cũng không phải sấm, vì sấm sao sấm ầm dài từ nãy. Tiếng ầm càng xa xa càng dữ. Nhưng ở đây trời đã dịu trở lại trong hơi ẩm thường khi ở rừng sâu. Suốt mấy ngày đêm oi bức vật vã, bây giờ, tất cả ngủ thiếp. Riêng mình An Tiêm vẫn thao thức. Tiếng ầm ầm lạ lùng phía xa, tiếng mưa hay tiếng núi lở? An Tiêm ra góc cột khêu bấc trong ống nhựa trám. ánh sáng lom đom tỏa. Có cái sáng trong nhà, cũng đỡ vắng. Có lẽ khuya đã sang canh từ lâu. Tiếng gầm ào ào đột nhiên đến ngay cửa rừng. Cả nhà choàng thức. Như cả một rặng núi đổ xuống. ống nhựa trám đã tắt từ lúc nào. Gái kêu trước nhất:
    -Bố ơi! An Tiêm tìm đánh lửa. ánh sáng nhựa trám lại le lói. Mọi người ngồi rụm lại trong tiếng chuyển động long lở bốn phía, không ai hiểu sao. Nàng Hoa ôm Gái vào lòng, tay cầm bó mo nang bọc xống áo. Lúc nào cũng giữ cái đáng giá nhất trong nhà. Mon đứng dậy, cầm chiếc lao trúc, ngó ra:
    -Cái gì... Cái gì... An Tiêm thét:
    -Trời ơi! Rồng cuốn nước đến đây rồi. Nói thế rồi An Tiêm đạp toang mấy cây gỗ chắn vách nhìn ra. Trong rừng tối như mực, tiếng réo, tiếng đá, tiếng cây khủng khiếp đổ.
    -Các con ơi! Trèo lên... Mình ơi, trèo lên... Một con nước xô lên quá nóc lều rồi những con nước ập xuống, cả bóng tối khoảng rừng ngụp vào. Mon lật đật quàng tay ôm cây thang. Nước đánh dựng lên rồi ngã xuống. Mon ngã theo. Nhưng vẫn bám chắc thang gỗ.
    -Bố ơi! Tiếng thét sặc trong nước. Trong đêm, hốc núi chìm vào những làn sóng, vùi cái hang đá, nhưng rồi lại nhô ra. Con người mắc vào đá như những hòn sỏi, như những con chuột bị lắc đi lắc lại trong ống. Trong cơn mê hoảng, nhưng trong tiềm thức cả khi mê, con người vẫn không mất hẳn trí nhớ. Nước ộc vào hang, nước ra, những bàn tay bàn chân tưởng chết cứng, vẫn bám gờ đá, vướng chắc vào gờ đá. Mon thấy mình đương trôi trong bụng nước. Bỗng chốc, sóng đánh Mon vạp vào tảng đá. Mon lặng điếng, buông một tay. Tay vừa buông đã ngật ra. Mon lại bíu vào cây thang gỗ. Cho tới lúc trời tảng sáng. Những con lũ trắng xóa đã biến mất. Bỗng nhiên, chỉ còn lại một im vắng. Trời sáng dựng lên trên một quang cảnh ghê rợn. Cánh rừng trước mặt đã băng mất. Suốt một dải dài toang ngoảng, ngổn ngang, những tảng đá lớn, không biết từ đâu vật đến, chồng đống những trái núi mới lổn nhổn trên chỗ hôm qua còn rừng. Đột nhiên, một con trăn mốc trong hốc núi bò ra. Cái sống đầu tiên sống lại, đương đi bơ vơ. Làn da trăn rào rào thành tiếng trên đá đến trước cửa hang rồi lại trườn xa. Đấy là tiếng động làm An Tiêm tỉnh lại. An Tiêm ngỡ mình chết rồi chiêm bao. An Tiêm thử đứng dậy. An Tiêm không chết. Chút sáng mờ hắt trước mặt. An Tiêm nhớ tức khắc đến vợ con. An Tiêm chạy ra phía mờ sáng cửa hang. An Tiêm cất tiếng hú. Xung quanh vắng lặng, có lẽ chỉ còn độc một con trăn mốc đương luồn qua những rặng cây đổ, nghe tiếng hú. Con trăn tưởng cơn nước ống lại sắp ập đến. Con trăn trườn nhanh. Da bụng trăn sát trên đá, trên sỏi, trên cành cây, tiếng sào sạo vang đến tận đây. Một vùng trời đất này chỉ còn có con trăn ấy sống ư? An Tiêm hốt hoảng quay vào hang, tìm vợ con. An Tiêm đứng im, nghe. Xung quanh tối như bưng. An Tiêm vẫn đứng im. Từ ngoài cửa hang hay từ đâu, tiếng rào rạo làn da bụng con trăn đương ngoằn đi. Tiếng sào sạo... sào sạo đều đều... Những con trăn... những con trăn... Tiếng đều đều nghe trong bóng tối. Trong hang này chỉ có con trăn thôi... Hình như đâu quanh mình, rờn rợn đâu quanh mình. Có phải không? An Tiêm cúi xuống. Con trăn thở, con trăn bò rờn rợn ngay bên cạnh. An Tiêm sờ tay ra sau lưng. Con dao vẫn nguyên trong dây thắt khố. An Tiêm rút dao, rà rà bước. Một tay An Tiêm quờ trước mặt. Vách đá nhờn như mò vào da trăn. Nhưng không phải. An Tiêm đã có ý định, nếu con trăn ngoằng lại, núc An Tiêm, An Tiêm sẽ doạng chân thật chắc rồi lần tay tìm đúng chỗ da mỏng ở bụng nó, thích lên một nhát. An Tiêm bước, rờ rờ tay. An Tiêm đụng vào một khúc đuôi trăn
    -không, một bàn chân, chân người. An Tiêm nhận ra chân trẻ con. An Tiêm cúi xuống, bế xốc nó lên, chạy ra cửa hang. Cái Gái! Cái Gái không chết. Người nó còn mềm ấm. An Tiêm ôm con trong lòng, hà hơi lên mặt con. Một lát, Gái khe khẽ:
    -Mẹ... mẹ... An Tiêm nói:
    -Con nằm đây... Con nằm đây...
    Rồi An Tiêm lại hấp tấp, lập cập vào hang. Nó gọi mẹ nó trong ấy. Hang vẫn hoàn toàn lặng im. Bây giờ mới để ý lúc nãy tiếng Gái khò khè, không phải con trăn bò. Tay An Tiêm cầm con dao, tay lại quờ ra trước mặt. An Tiêm lần chân giẫm từng hòn đá, bước từ ngoài hẩng sáng vào đến tận trong cùng, chỗ cái hốc nghiêng lên ngách thượng, tay đụng vào nhũ đá. Những nhũ đá rụng lách tách, lã chã. Như mưa đá. Nhưng vẫn không thấy gì cả. Xế trưa, An Tiêm cõng Gái trên lưng, bước đi. Gái vẫn còn mệt lử. Nhưng An Tiêm phải đi tìm Nàng Hoa và thằng Mon. Gái nằm trên lưng bố như con nhái, không cựa quậy. Trận bão vỡ nước, con lũ ống chỉ còn sót lại những vũng nước đọng hốc đá. Dòng suối cũng biến đâu mất. Vết sóng nước đêm qua ẩn đổ cả dãy cây thành một luồng rỗng giữa hai cánh rừng âm u. Bố cõng con đi. Đêm qua, Nàng Hoa bị sóng đánh giạt lên một đỉnh đá. Nàng Hoa ngất, ngay đợt nước đầu tiên, cuốn đi. Khi mặt trời lên, Nàng Hoa tỉnh lại. Những cỏ rác ẩm ướt vướng bên người bây giờ khô cong, rũ xuống. Nàng Hoa mở mắt, nhưng tóc bết kín mặt. Nàng Hoa lấy tay tõe tóc. Trước mặt, chỉ có trời xanh im lặng, Nàng Hoa cố ngồi dậy. Nàng Hoa thấy mình đương ở trên một hòn đá cao. Hòn đá to như tòa nhà, trông xuống, hoa mắt, xám mặt lại. Nàng Hoa không dám nhúc nhích. Tưởng như hòn đá khấp khểnh sắp sụp xuống. Xung quanh, bốn phía, chỉ thấy đá. Không biết đây là đâu. Trận nước cuốn như một cái màng che hết trí nhớ. Mang máng lúc ấy đương giữa đêm, không biết chồng ở đâu, các con bây giờ đâu mà một mình mình lại ngồi trên đỉnh đá này. Nàng Hoa gào khóc cho đến lúc không còn sức há được miệng nữa. Nàng Hoa như một con cá trên cạn, dán mình xuống đá, chỉ còn thoi thóp. Suốt ngày hôm ấy. Nàng Hoa mê trở về ven sông Cái. Những đêm lửa sưởi, kể chuyện sự tích trầu cau cho Mon và Gái nghe. Cuối cùng câu chuyện kể đến lòng chung thủy một nhà đoàn tụ. Nàng Hoa chợt tỉnh, lại nhớ từ khi ra đảo, vợ chồng con cái như chân tay trên một người, bây giờ chân đâu, tay đâu. Nghĩ đến đấy, Nàng Hoa ứa nước mắt.
    Chuyện cổ tích kể đến chỗ người em hóa hòn đá. Có lẽ đương chặp tối. Bóng đen từ mặt đất dâng lên, chỉ còn thấy mờ mờ trên trời. Hay là Nàng Hoa đã ngất đi, rồi như trong chuyện cũ, em hóa hòn đá, anh hóa cây cau, chị dâu hóa giàn trầu không. Chết rồi mà vẫn quấn quít, hòa thuận, Nàng Hoa nghĩ thế. Dễ thường chồng mình chết rồi, đã thành hòn đá này. Mình cũng sắp chết trên hòn đá. Chết rồi sẽ hóa cây si, cây cau, cây ngái che lên hòn đá này cũng nên. Hai hàng nước mắt lại ứa ra. Một lúc, như trời sáng. Lẽ nào, vì một câu chuyện trầu cau mà cả đêm không chợp mắt. Nhưng trời đã sáng thật. Khi sáng trời thì người ta tỉnh táo hơn trong lúc đêm tối. Cho đến bao nhiêu năm sau, có một lần nhà vua đi qua... Nhà vua đi qua... Câu chuyện oan khuất được tỏ tường...
    Lúc ấy, Nàng Hoa nghe đâu vẳng lại một tiếng hú. Tiếng người hú. Nàng Hoa không còn sức nhúc nhích được nữa, thế mà tiếng hú lạ lùng kia đã dìu Nàng Hoa nhỏm đầu lên. Nàng Hoa nhìn xuống. Con mắt hoa lảo đảo. Nàng Hoa giơ hai tay rồi gào lên một tiếng. Không ra tiếng nữa, tiếng kêu cuối cùng của người hấp hối. Rồi Nàng Hoa nằm vật xuống, ngất đi. An Tiêm không nghe thấy tiếng kêu ấy của Nàng Hoa. Không nghe hẳn thành tiếng, nhưng đi trong chỗ hoang vắng kiệt cùng mà lòng đương mong mỏi bồn chồn, thì dẫu cho một tiếng động nhỏ đến đâu cũng gây ra một rung cảm sâu xa ngoài cả tiếng động ấy, không thể đoán tại sao biết được. Trông thấy đống đá cao chót vót kỳ quái, An Tiêm nghĩ biết đâu trên ấy hay trong các hang hốc quanh đó, có dấu vết lạ, tiếng gì lạ. An Tiêm đặt Gái ngồi tựa lưng vào tảng đá bên cạnh. Lúc nãy, An Tiêm đã tìm được nắm lá ngót, vò ra cho con nhai sống. Bây giờ Gái tỉnh hơn. An Tiêm trèo lên. Bỗng An Tiêm giật mình. Cái gói mo nang bọc xống áo mà Nàng Hoa đi đâu cũng đeo theo. Cái gói vướng ngãng vào khe đá cạnh đấy. An Tiêm leo lên được đỉnh đá. An Tiêm vực Nàng Hoa xuống đến chân đá, nhìn lại cái dốc ngang mang tai. Không biết tại sao đã xuống được. Gái mừng quá, ôm mẹ, lúc ấy đã hơi tỉnh. An Tiêm hấp tấp nói:
    -Ra cả ngoài rừng kia! Gái đã lon ton đi trước. An Tiêm cõng Nàng Hoa, cắm cúi bước. Đã ra đến một bờ rừng. Trước mặt, rừng núi đổ nát vẫn ngổn ngang hun hút, nhưng sau lưng, một vệt rừng im lặng. Cơn bão nước không phá vào đến đây. An Tiêm ở lại. Không tìm thấy suối. Không lo, có nước đọng trên các hũm đá rải rác quanh rồi. Nàng Hoa ngồi lả. Ngoài kia, trên đá lởm chởm còn sót chút nắng vàng rực. ở vũng nước đọng, bốc hơi nóng ấm ngột ngạt. An Tiêm cởi bọc mo nang ra phơi xống áo, thắt lưng, khăn chàm lên trên mặt đá. Mảnh sừng trâu và hai hòn cuội đánh lửa vẫn giắt trong cạp khố, bấy giờ cũng phơi ra đấy. Nàng Hoa định cất tiếng hỏi An Tiêm, mấy lần mấp máy miệng, không nói được ra tiếng. Cơn vật vã còn làm bải hoải rời rã người. An Tiêm đã cho uống mấy ngụm nước rau ngót, vẫn chưa lại người. Nhưng mỗi lần không nói được thì nước mắt giàn giụa xuống. Biết ý Nàng Hoa muốn nói gì, An Tiêm bảo:
    -Ta đốt lửa nghỉ lại đây. Có khi nó cũng giạt vào mỏm nào quanh chỗ này thôi. Không lo. Mình nghĩ xem, bão đổ cây nước, vỡ núi vỡ rừng, tan tác đến thế mà rồi lại tìm được nhau. Còn sống thì còn tìm được nhau.
    Không lo. Sớm hôm sau, An Tiêm ra hũm đá gần đấy vục nước về rồi trèo lên tảng đá cao nhìn ra. Bốn phía hoang rợn, xanh ngắt, vẫn một luồng rừng toang hoác đi tận đâu. Giữa đám cây, đá ngổn ngang, luồng bão cuộn thành ống nước thốc ra, như có một con trăn khổng lồ vừa trườn mình qua, bao nhiêu rừng, bao nhiêu núi lăn lóc cuốn hết theo. Đứng trên núi, An Tiêm hú gọi. Ngay tức khắc, ba bốn tiếng hú đáp lại, từ những núi xung quanh. Tiếng xa, tiếng gần, vang vang như tiếng trống đá. An Tiêm đợi. Nhưng đấy chỉ là tiếng đáp lại của vách đá, của tiếng trống đá tự nhiên. An Tiêm lại hú. Tiếng vọng lại lịm dần, rồi im. Tối ấy, mọi người uống nước cầm hơi, đợi sáng. An Tiêm đốt mấy đống lửa to. Ngọn lửa bốc cao, bóng rừng cao cao. An Tiêm nghĩ: trông thấy ánh lửa này, Mon còn sống đâu quanh tất biết đường mà về với bố mẹ.
  4. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Phần ba
    1
    Mon tỉnh dậy. Đầu tiên, hai con mắt mở ra thấy xám đen. Mon đưa tay lên giụi. Không nhấc nổi bàn tay. Cũng không nhận ra mình đương nằm sấp mặt, cả hai tay luồn vào cái lỗ ở cây gỗ có khấc thang trèo lên nhà lều. Mon cũng không biết, nếu không luồn tay vào đấy, chắc Mon đã buông cây gỗ, đã chìm và trôi đâu từ đêm qua rồi. Dần dần, Mon nghiêng được đầu. Và dần dần, trí nhớ trở lại. Từ lúc cả cây gỗ xô Mon vào tảng đá nước cuốn, Mon ngất đi. Ngọn nước cứ xô thúc Mon đi mãi. Tỉnh lại, đầu tiên Mon nhớ bố mẹ. Mon vùng dậy. Nhưng chân Mon cứng đơ. Hai tay không còn sức rút được khỏi cái lỗ ở thân gỗ. Mon nằm im, bỗng ứa nước mắt. Mon khóc. Tai nạn ghê gớm không thể lường được đã xảy đến cho nhà mình. Mon không biết Mon đã bị trôi bao xa. Nhưng Mon biết hình như đây không còn cánh rừng quanh nhà. Nằm nghiêng mặt thế, Mon khóc. Rồi Mon muốn gọi bố thật to. Không gọi được. Cổ Mon khé lại. Chỉ có nước mắt ròng ròng xuống má, xuống mặt đất lổn nhổn sạn sỏi. Nước mắt khô rồi, Mon trông nghiêng trước mặt, thấy một lằn xanh ngay chân trời, thẳng tắp như sợi chỉ. Không giống rừng cây trước nhà. Tay Mon đã bớt ê ẩm, cựa được. Mon co đầu gối. Hai cánh tay từ từ rời cây gỗ, Mon bò ra rồi cố ngồi dậy. Mon ngồi lên, mùi nước biển trong gió mát mà nồng mằn mặn ùa lên, bọc lấy Mon, là lạ, ngai ngái như giữa rừng mùa hoa dứa dại chín. Sóng biển ***g lộng trước mặt. Phía sau, còn hình một khu rừng lớn, cây cối đã đổ rạp cả một quãng xuống mặt đất. Gió hây hẩy đến, nắng càng rực rỡ mặt nước xanh đen biếc. Mon thấy mình đương ngồi đầu một bãi cát. Con nước chỉ đẩy hơi quá tay, Mon đã băng ra biển rồi. Nhưng cũng chẳng hiểu, cây gỗ trôi đến đây, dừng lại ở bãi cát, hay là Mon đã bị trôi ra biển rồi sóng biển hắt lại Mon lên đây. Nhưng đây là đâu? Mon lại trông quanh mình. Chỉ còn quen biết có cây gỗ bước lên thang nhà. Không còn ai nữa. Mon bàng hoàng tủi thân, lại khóc. Nắng lên đã rát cả lưng. Mon nhìn vào bờ cây trong xa. Nhưng Mon không đứng lên được. Rồi lại thiếp đi. Mệt quá, lo quá, đói quá. Một đêm qua. Đêm đầy gió nồm đưa hơi biển lên mát rượi. Sớm hôm sau, Mon tỉnh dậy. Mon nhớ hôm qua, trông nghiêng ra biển, nhớ bố mẹ, nhớ em, Mon khóc. Mon bị nước lũ ống cuốn đến đây, xa lắm, xa lắm rồi. Mon lại nghẹn trong cổ, sắp khóc. Nhưng Mon không khóc, Mon đứng dậy. Mon đứng dậy được. Mon thất thểu ra bờ biển xa thoai thoải. Những tảng đá đỏ rêu tựa chỗ cửa sông Cái năm trước, Mon đã thấy, rêu phủ như màu hoa tầm xuân hồng nhạt suốt bờ biển. Bố thường nói:
    ?oTrong rừng dưới bể, con người ở đâu mà biết chịu khó cũng tìm ra cái nuôi sống mình". Từ khi ở đảo, bố lại hay kể chuyện vì câu nói ấy mà buộc lụy vào thân. Rồi bố lại nói:"Đấy chỉ vì người đời chưa vỡ nổi nghĩa câu nói sâu xa ấy mà thôi. Một đời tao đã lăn lộn vào sông ra bể, tao biết quý câu nói ấy". Bây giờ Mon một thân ở đây. Từ thuở bé, chưa bao giờ Mon đứng đây một mình thế này. Nhưng nghĩ lại lời nói của bố, Mon tưởng như không phải mình đứng một mình. Mon lội qua bãi lầy ra dãy đá phủ rêu đỏ. Đến nơi, nhìn kỹ thấy chen trong rêu đỏ có những con hà bám khắp, tảng đá xù xì không còn ra hình thù tảng đá. Mon kêu lên:
    ?oạ, cái ăn được đây rồi!". Nhưng không có gì nậy hà ra khỏi đá. Đương nghĩ cách, lại trông thấy trên mép nước sóng đánh, lấp ló, mờ mờ những con ngán đội mai lăn lên lăn xuống theo sóng. Mon cúi xuống, nhặt con ngán, nhặt được một vốc tay những con ngán bằng con trai và những con sò to như nắm tay. Khoeo chân vẫn mỏi, lội cát nặng, không nhấc lên được, muốn ngã, Mon phải lom khom bốc ngán rồi chệnh choạng, lõm bõm lội vào bờ. Mon đến ngồi bên một tảng đá. Lúc ấy, lại trông thấy ở bờ cát, vô khối con ngao, con hầu. Nhưng Mon đương đói, Mon còn nhặt hòn cuội đập, hút hết hơn chục con ngán to. Thịt ngán tươi ngọt mát, thịt sò huyết đỏ như son, ăn hết lẻm cả mà còn thòm thèm. Thấy người khỏe khoắn hơn hẳn lúc nãy. Mon ngồi duỗi thẳng chân, trông ra biển. Trông ra biển, Mon nhớ năm trước bố kể ngày còn nhỏ, bố cũng là người kẻ bể ngoài Ninh Hải. ại, bao nhiêu chuyện bố kể thật kỳ lạ và ghê gớm. Bố lúc ấy chưa bằng tuổi Mon bây giờ mà đã phải lang thang kiếm ăn cả năm ngoài đảo. Ngoài Ninh Hải, đảo nhiều như trấu rắc mặt biển. Chuyện bố bơi ra khơi kiếm cái ăn, phải con cá trình, cá mập đuổi cắn. Bố bơi nhanh hơn cá mập. Bố còn xỉa chết cả cá mập. Ngày nhỏ, bố mình thật khổ, bố mình cũng thật giỏi. Có một lúc, Mon lại chạnh nghĩ: bây giờ không biết bố đâu, mẹ đâu, còn mình thì đang bơ vơ. Mon thấy mủi lòng. Nhưng Mon nghĩ lại ngay và cầm được nước mắt. Mon muốn đi tìm bố mẹ và em. Phải đi tìm bố mẹ. Phải làm thế nào đi tìm được bố mẹ và không nên khóc, khóc thì chẳng nghĩ được gì. Mon đứng dậy. Đến lúc ấy, Mon mới nhận ra Mon đương ở truồng. Bây giờ Mon chỉ còn nguyên thân hình bố mẹ sinh ra và Mon đương tồng ngồng đi trên bãi. Manh áo và cái khố, sóng đã kéo rách mất tiệt từ bao giờ. Lúc này, bạn với mình chỉ còn có cây gỗ bậc thang lên nhà. Cây gỗ nhà mình cứu mình, đưa đến đây. Mon ra bãi, kéo cây gỗ thang nhà vào trong bờ cây. ở đây, chỉ còn có cái thang này thân thuộc, phải giữ nó. Rồi Mon đi theo những bụi cây bờ biển. Bụi cây và cánh rừng bờ biển sáng trắng khác cây cỏ rừng sâu. Biển đây không có núi đá dựng, bờ bãi, thoai thoải vào tận trong mép rừng lô xô những bụi dứa dại bạc phấn xù xì gai. Những cây dứa dại già chết rữa, tàu lá dứa mềm và dai đầy xơ như một đệp sợi. Mon lấy hai tàu dứa khô, bẻ hết gai cạnh rồi buộc úp làm một. Thế là Mon đã có cái khố vừa vặn, có cả hai múi bảnh chọe bỏ đằng trước bỏ đằng sau bẹn, kiểu khố đuôi lươn. Đi sâu vào có đến nửa buổi mà rừng vẫn thoáng. Mon nghe tiếng reo hò xa xa đâu phía trong, Mon ngơ ngác. Nhưng nhìn đi nhìn lại, không thấy gì khác. Mon lần vào chỗ có tiếng kỳ lạ. Một lúc, gặp một cây thông to. Nước bão cuốn qua đây, thế mà cây thông vẫn đứng và cây thông đương reo. Biết rõ là tiếng thông reo. Nhưng Mon vẫn bồi hồi đứng ngẩn một lúc, ngỡ như có người ở đây. Cây thông này bằng mấy người ôm, trên thân lồi cái vấu có một lỗ trống hốc. Cây thông già tuổi lắm. Mon ngẩng đầu, chăm chú, tưởng nghe được tiếng vi vu ở mỗi vừng lá thông đương bay ra. Mon ra bãi kéo cái 159 160 thang gỗ vào dựng tựa vào cây thông. Mon leo lên, chui vào cái lỗ trống trong thân cây. Mon nằm nghiêng trong hốc, chân duỗi thò ra ngoài. Mon nghĩ: bố đi qua sẽ trông thấy chân mình, biết mình ở đây. Rồi làm một giấc. Ngủ say quá, không biết đã qua một đêm sang ngày khác hay là mới ngủ được một lúc. Mon đứng dậy. Mon nhìn ra cửa cái lỗ trong bụng cây thông già. Giấc ngủ làm cho Mon đã thật lại sức. Đến lúc chợt nhớ bây giờ chỉ có một mình, Mon lại thấy cực thân, nước mắt ứa lên mí. Nhưng Mon giữ ngay được cho khỏi khóc. Phải sống và kiếm được cái ăn để đi tìm bố mẹ. Mỗi lần sắp khóc, Mon lại nghĩ như thế và thế là cơn buồn qua đi. Vả lại, rồi ngày lại ngày, bao nhiêu mê mải, lo lắng chồng chất trong việc tìm cách cho sống được. Nghị lực cũng có phép làm tan biến được nỗi buồn. Đầu tiên, Mon có ý tìm ở nơi cao ráo. Bố đã nói:
    ?oCon người khác con vật, trú ngụ đâu người cũng phải có cái nhà mà ở". Trông thấy cây tre, Mon nhớ bố bấy lâu đi rừng chỉ ao ước gặp cây tre. Mon nhớ bố bảo: phải rồi, tre làm được nhiều thứ cần dùng. Mon đã biết như thế. Tre kéo được ra cả lửa. Mon vào rừng tre. Loáng thoáng rừng tre với rừng trám. Rừng ven biển, thật nhiều thứ làm được, ăn được. Mon trở lại chỗ cây thông, thấy hãy cứ tạm ở đây được. Mon mang theo về mấy cái mo nang lấy ở rừng tre. Mon cặm cụi ngồi tước mo nang thành sợi. Được một đống bùi nhùi khô, như bùi nhùi đánh lửa ở đám thổi cơm thi. Lúc nãy, qua cái suối đã nhặt về mấy hòn cuội. Cái gì cũng phải có lửa trước đã
    -Mon nghĩ thế. Những hòn cuội to, đen bóng, chỉ cọ mấy cái vào kẹp sợi mo nang đã ra lửa, lửa bắt bùi nhùi cháy ngay.
  5. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Mon đã đốt được một đống lửa dưới gốc thông tối hôm ấy. Mấy hôm sau, mỗi lúc đói, Mon lại ra biển bắt ngán, nhặt sò và đập hà ăn rồi lên ngồi mài đá. Không có dao thì phải làm ra dao. Mon tìm được hòn cuội to phẳng bằng cái vồ. Mon mài vạt đi một phía, làm con dao đá. Có lửa mới nên được nhiều thứ nhưng không có dao thì trông thấy cái cây cũng đành chịu, không đem thứ gì về cho mình được. Những năm trước, ở Bãi Lở, có lần Mon đã thấy cụ già mài dao đá khéo lắm, sắc lắm. Con dao đá mà chỉ bổ vài nhát đã đẵn được cây tre. Trên bờ bãi sông Cái bấy giờ còn nhiều cuốc đá, con lăn đá. Các cụ già quen tay dao đá hơn. Quang cảnh làm ăn ngày ấy, Mon chỉ còn thoáng nhớ và Mon cũng chẳng biết mài con dao đá thế nào. Nhưng, không phải thế là khó. Hòn đá cuội to thì ở đây chỗ nào cũng có, Mon cứ chọn những hòn cuội tựa hình dao và hì hục mài. Mon đã mài được mấy con dao đá sắc. Mon xách dao đá sang rừng tre. Dao đá không chém được như dao thép của bố. Mon phải cưa đẽo từng gốc cây. Nhưng hì hục, chịu khó ngày lại ngày, chẳng bao lâu cũng chặt được cái cây đổ xuống. Mon lại mài đá nữa. Mon thấy dao đá mài kỹ, lưỡi vừa dày cạnh vừa sắc, chặt tre cũng tốt. Mon có cả kho dao để dành trong lòng suối, không lo gì nữa. Có cách sống rồi, thế là trước tiên, Mon đi tìm bố mẹ. Mon chọn mấy cây tre to, đẽo hai đốt một làm ống đựng nước, vác ra suối, vục nước đem về. Buổi sáng, Mon đi về tay trái. Mon nghĩ: ta sắp gặp bố mẹ và em đây. Lưng Mon để trần, Mon đóng khố đơn bằng xơ dứa. Một vai đeo hai ống tre đựng đầy những con ngán và sò tươi. Một bên đeo ống nước. Tay Mon cầm hai cái lao trúc chọn. Lưng Mon buộc hai con dao đá, một nắm bùi nhùi mo nang và hòn cuội đen để đánh lửa. Thế là Mon đi. Càng đi sâu vào trong thì ngày ngày mỗi khác, rừng hoang và đá trọc, đá đứng thành vách thật xa, càng xa. Mon quay lại. ý nghĩ có thể gặp bố mẹ và em lúc ra đi, đã nhạt dần. Mon phải trở lại nơi rừng có cây thông hôm trước. ở gốc thông vài ngày, sốt ruột quá, nhớ quá, Mon lại đi phía tay phải. Phía này, thẳng bãi, chỉ gặp bãi cát. Mon chăm chăm xem đâu có dấu vết của bố, của mẹ, của em. Nhưng chẳng đâu có một dấu chân, một vết dao chém cây, càng đi càng thấy hoang vu. Mon lại tiu nghỉu, phải quay lại. Nhưng Mon vẫn chưa chịu thôi. Mấy hôm sau, Mon cặm cụi theo một con suối vào rừng sâu, lại đi tìm bố mẹ và em. Bên kia gốc thông có một con suối nhỏ, Mon đeo hai ống tre đựng con ngán, một ống nước, hai cái lao trúc, trong mép khố vẫn giắt hòn cuội, nắm bùi nhùi, con dao đá. Nhảy qua cái suối nhỏ ấy, Mon đi. Rừng rừng từng đợt, những dây củ mài chằng chịt, dây song dây mây, chi chít rừng nứa, rừng trúc, xanh mát vân vân trước mặt. Mon đi cho đến hôm ăn hết một ống đầy ngán. Mà vẫn chỉ thấy rừng. Con suối nhỏ đi theo từ hôm trước cũng đã chui xuống hốc đá, lẩn vào lòng đất từ bao giờ, không thấy ra nữa. Bốn phía mù mịt rừng, không thấy đâu một dấu vết. Thế là chắc mình đã lạc xa lắm. Đi cả ba phía mà không thấy gì. Bố mẹ ở nơi nào? Em ở đâu? Ai còn sống? Làm thế nào tìm được? Nghĩ miên man, buồn quá, nhưng lại nghĩ: thôi bây giờ phải trở lại gốc thông, tìm cái ăn cái ở, đợi một khi nào lại đi tìm. Mon không mất hết hy vọng. Mon nhớ lời bố nói:
    ?oCó khi nào chịu chui rừng mãi thế này! Con người phải biết làm ra cái ăn cái ở". Bố mình có gan có chí lắm, bố mình đã dựng nên làng xóm ở Bãi Lở. Không chịu tù trong rừng, phải tìm đường nữa, mở mang ra. Nếu không có trận lũ ống ghê gớm, chắc cả nhà đã đi tìm chỗ ở mới, biết đâu chẳng đã tới được bờ biển này. ồ, ở đây bao nhiêu tre, có cả rừng hóp đá. Bố tha hồ đẵn tre đực đem ngâm làm cánh nỏ. Trong cơn ngủ chập chờn, Mon mê thấy ngày cùng bố đi chặt hóp đá đem ngâm xuống suối, làm cánh nỏ. Tỉnh giấc, vẫn chỉ thấy một mình nằm vắt trên cây giữa rừng. Hoang vắng quá, Mon lại nghẹn ngào. Nhưng Mon không khóc, Mon tụt xuống gốc cây và đi ngay. Không, bố ta đã phải bơ vơ lưu lạc từ khi còn ít tuổi hơn ta nữa kia. Trở về gốc thông, Mon cặm cụi làm lều ở. Mon cũng bắt chước như năm trước bố làm cái nhà tựa vào lưng cây nghiến. Vùng đất chỗ ấy cao, Mon xếp đá cao lên, đến tận gần chỗ chui vào hốc thân cây thông. Lần lần, Mon đẵn về một đống tre, trúc. Rồi Mon đẽo những con dao đá sắc hơn, cưa được cả những cây gỗ bổi. Mon dựng sáu cái cột sàn to. Tre bắc làm sàn. Mây và song đan liếp. Cái cột có khấc làm thang nhà mình ngày trước bây giờ đem bắc làm thang leo lên nhà mới. Mỗi lần trèo lên, bước mỗi khấc nhìn xuống, tưởng cái Gái đã giẫm vào khấc ấy, tưởng hôm bố đẵn cây gỗ này về làm thang. Mon chạnh nghĩ, thương thân, không muốn bước lên. Nhưng lại nghĩ bây giờ chỉ có cái cột ấy là thân thiết, ở đây chỉ còn cái cột biết mặt và thuộc bàn chân bố mẹ, em mình. Mon lại bước lên bậc cái thang lên nhà mới. 165 166 Làm xong nhà, vừa hay mùa lạnh đến. Những đêm khí rừng toát ra, ngủ đốt lửa mà vẫn lạnh một bên người. So với mấy năm trước cùng bố mẹ vất vả kiếm ăn trong rừng, ở đây Mon thấy mọi thứ dễ tìm hơn. Ngày nào đi rừng cũng đào được củ mài. Ra ngoài bãi cát mép biển tìm con ngán, con ngao, con sò, con hầu, con hà vô khối, đâu cũng có. Khi nước biển xuống, vét được sạn muối mặn đọng lại trên những tảng đá khô nước, khỏi phải ăn rễ cỏ tranh đắng chát. Đây nhiều thứ ăn nhưng ai cũng biết rằng không phải cứ có cái ăn thì vui. ở đây buồn quá, lúc nào cũng vắng ngắt vắng ngơ, vắng và buồn không biết đến thế nào. Mấy hôm, Mon tìm đẵn những tàu dứa dại, dọc hết gai rồi phơi lên sàn nhà, trên bờ đá quanh gốc thông. Lá dứa khô ải rữa đi, còn lại một đệp tơ sợi. Sắp rét, Mon tính cách sửa soạn sắm áo, sắm chăn. Năm trước, cả nhà đi bóc vỏ cây sui về, mẹ buộc áo sui cho. Bây giờ Mon bện cái khố lá dứa cũng thấy bền, lá dứa lại dễ lấy và lá dứa cũng thắt làm áo, làm chăn được. Đêm, Mon đốt lửa lên, bóc lá dứa. Ngồi tước một lúc, hai mắt đã díp. Mon ngủ ngay trên đống lá dứa ấm. Quá nửa đêm, đống bếp lửa giữa nhà tàn than. Cái lạnh khuya làm Mon thức giấc. Ngoài khe vách, trăng sáng trắng tinh. ánh trăng trổ xuống khe vách mây hở như những sợi mây trắng muốt cài thêm vào đấy. Mon đứng dậy, trông ra ngoài. Vùng rừng lênh láng ánh trăng. Từ hôm nọ, Mon đã bắt chước bố, thắt nút dây treo đầu cột, đánh dấu ngày tháng, bây giờ biết đến mùa mát đã có trăng trong xanh. Rừng im quá. Cái im lặng trăng sáng trải dài, phủ lên bóng rừng đen thẫm. Mon lắng nghe xa một tiếng hươu giác. Con hươu về rừng đằng ấy. Có đàn hươu về đằng ấy. Mai ta sẽ đến tìm. Đã lâu, không được ăn thịt hươu. Mấy lần đi rừng có trông thấy vết chân hươu, vết chân gấu nhưng chưa gặp con nào. Mai đi tìm hươu. Hươu ở rừng này chắc chưa biết sợ người, có thể đuổi bắt được cũng nên. Mon nhìn phía rừng. Rừng sâu khuất ánh trăng, tối đen. Nhưng sao lại thấy một vệt sáng lao xao dãi trong bóng tối. Không phải chỉ như hai con mắt hươu, mắt cầy, đây là vệt lóng lánh dài, dài lắm. Mà ông trăng đương sấp bóng đằng này. Không thể có một giọt sáng sang phía ấy như thế được. Sáng ở cây gỗ mục hay sáng con sâu đất, con đom đóm. Nhưng mùa này không phải mùa đom đóm. Cây gỗ mục hay đóm sâu đất, thì sáng quanh năm. Đi rừng đêm hay gặp cây gỗ mục sáng, Mon đã thấy. Mon nghĩ: Mai ra chặt một khúc đem về để dưới gốc thông làm cái đèn trước nhà cho mình cũng hay đấy. Hôm sau, Mon cầm cái lao trúc đi về phía đêm qua có tiếng hươu. Thấy những vết chân đã hơi khô, có ám sương, biết đàn hươu chỉ đi qua, Mon quay về. Chợt nhớ, Mon tạt xuống chỗ cây gỗ sáng. Tìm khắp quãng ấy cũng chẳng thấy cây gỗ mục nào. Mon lội qua suối về. ở suối lên, Mon trông xuống mu bàn chân mình lấp lánh sạn cát. Quái, đây suối trong vắt, không phải như lội bãi cát ngoài biển mà sao lại có cát bám vào chân. Mon cúi, lấy ngón tay dính sạn cát lên. Hạt cát long lanh lóng lánh. Mon quay lại vốc một nắm cát mịn ven suối rồi khỏa xuống nước. Nước trong leo lẻo lùa cát đi, trong cát lấp lánh những hạt vàng chảy theo. Có lẽ đêm qua cái suối lóng lánh tại thế này. Đây là cái suối chảy ra vàng.
    Ngày trước, ở Bãi Lở cũng có suối chảy ra bạc. Mon không được đi đến những suối bạc, suối vàng ấy lần nào, nhưng Mon thấy người trong các làng cứ mỗi năm, đến mùa lại đem giỏ, đem lưới đi đãi được từng vốc. Vàng ấy, bạc ấy đem về đập mỏng thành lá, để trong nhà, bảo trừ ma. Mon đã thấy những ông già ngồi rèn vàng làm con dao cho các bà, các chị bổ cau và đập thành những cái kim nho nhỏ nhọn để xăm mình. Kim đâm vào người rớm máu rồi mới xoa nước chàm, vài năm phải xăm lại như thế, bằng cái kim vàng. Lại có người lấy cuội đập làm cái khuyên đeo tai thay lõi cuốn chiếu. Bảo đeo vàng cho khỏi ốm và đẹp. Trẻ con thì đeo bạc để kỵ gió và được khước. Ngày tết, ngày hội ở Bãi Lở, Mon thấy nhiều người đeo. Mon cũng được đeo cái vòng bạc. Mẹ bỏ cuốn chiếu ở lỗ tai Gái, cho nó đeo đôi vòng vàng to. Mọi khi vẫn đeo, cho đến lần lên hội ở Phong Châu mới bỏ ra. Rồi thì tai biến đến ngày nay, vàng bạc để lại ở Bãi Lở, không có nữa. Mon nghĩ: có thể lấy vàng này rèn con dao. Ta làm con dao bằng vàng, không có dao sắt, ta có con dao bằng vàng, con dao vàng chắc còn sắc hơn dao đá. 169 170 Mấy hôm, Mon xếp những tàu lá dứa, chằn xuống suối. Nước suối mùa này cạn trong, chỉ róc rách chảy những hạt cát vàng đọng lại trong khe lá. Vài ngày một lần, Mon ra gỡ mạng lá dứa đã rữa ra thành xương lá. Có lần được hẳn một bọng cát vàng. ít lâu, đã được một đốt tay. Mon lấy dao đá đập dẹt lại thành một cục vàng chóe. Rồi chẳng bao lâu Mon đánh hẳn được một dao vàng. Cái lưỡi con dao vàng to bằng dao của bố. Con dao vàng này thật sắc. Chém tre, chém trúc được. Nhưng chỉ vài nhát thì lưỡi dao oằn lên, phải đập lại. Thôi thế đã là quý. Con dao đá mẻ thì phải bỏ, con dao vàng đem đập lại, lại chém được. Đêm đêm, trông về phía rừng, con suối sáng đêm nào cũng óng ánh. Mon đặt tên suối ấy là suối Sáng. Mon vẫn chắn lá dứa đãi vàng. Mon còn định đánh nhiều dao và làm nhiều thứ bằng vàng. Mon sẽ làm cho cái Gái những chiếc vòng khuyên vàng, làm vòng khuyên vàng cho mẹ nữa, như ở Bãi Lở. Chắc mẹ và em thích lắm. Vàng dẻo dễ đánh, chỉ hơ lửa rồi lấy dao đá rèn, không phải kéo lò.
  6. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    2
    Mon vào rừng tìm nấm buổi sáng. Cái giống nấm cỏ, sau mỗi trận mưa đầu mùa, mọc như nghể. Nấm cũng ngọt như rau ngót, Mon rất thích ăn. Đêm qua mưa to. Nước trong rừng tràn các suối còn in lại trên những làn cỏ giạt xuống, thẳng tắp. Bỗng Mon để ý: có những đám cỏ rối từng vũng tròn. Đến xem, thấy vết chân gấu. Cỏ gãy còn đương ngóc lên. Một con gấu to vừa đi qua. Thoạt trông biết ngay, chân gấu khác dấu chân con hươu, con hổ. Hai chân trước nó nhỏ, dấu quào lắt nhắt. Chân sau gấu hình cả bàn chân có gót tròn và đậm, như gót người. Có một con gấu nào mới qua đây. Bối cỏ giạt nước vừa bị nén xuống còn đương cựa quậy trong vết chân hằn lại, nước rỉ vào hũm chân chưa đầy mặt lõm. Mon hạ cái lao trúc trên vai xuống cầm tay rồi rón rén theo vết gấu. Một quãng, Mon nghe ở khe đá trước mặt vẳng ra tiếng kêu kít kít như tiếng con tê tê vừa đào ổ vừa húc mũi vào hít đất. ờ, trong khe đá có con tê tê. Tiếng sột soạt, những tiếng sột soạt mạnh, như giẫm chân xuống đất, không nhẹ như con cầy đụng đậy, con tê tê đào đất mới khỏe thế được. Nhưng lúc ấy Mon trông thấy hai con gấu bé -gấu mới đẻ, có lẽ gấu chưa mở mắt, lông còn xám nhờ, bết từng đám, nằm rúc vào nhau.
    Chính những con gấu con ấy đã kêu kít kít lúc nãy. Ngay trên đầu mỏm đá, một con trăn mốc to như cây chuối đương núc gấu mẹ. Con gấu mẹ ấy mới đẻ, tha con đến đây thì gặp trăn. Trăn mốc sởn vẩy lên, quăng mình ào ào qua rừng tìm mồi. Mỗi lần vòng núc chặt hơn, xương gấu mẹ gãy răng rắc, con trăn mốc quật đuôi xuống đất như vồ đập, lại núc một vòng nữa. Gấu đã bị trói hẳn cả người vào trong mình trăn, chỉ còn cái mõm há hốc ngoi lên, cái lưỡi đỏ nhọn hoắt, thò dài ra, như một cục máu đương rơi. Mon nhìn quanh tìm chỗ có thể để mở trận đánh trăn rồi Mon trèo lên tảng đá gần đấy, cao hơn chỗ khe đá có con trăn đương núc gấu. Đứng trên, nghe tiếng xương gấu gãy mỗi lúc cứ như tiếng cành cây gãy trong vòng núc của con trăn, mỗi khi cái đuôi trăn lấy đà quật mạnh xuống. Rồi cả mình con trăn nguồn lên dồn đẩy dần cái mồi gấu vào mõm. Mõm trăn mốc há hoác, sắp nuốt con gấu đã nhũn rũ ra như đống lá khô. Miệng trăn đỏ nhợt, há ra. Chiếc lao trúc của Mon phóng tới, cắm phập suốt. Cái lao ngập gần hết vào miệng con trăn. Con trăn không ngoạm lại được. Trăn vùng một cái, tung mồi gấu ra rồi nó cứ tha cả cái lao trong miệng như thế biến thẳng vào rừng. "Cho mày chạy đi! Thế nào mày cũng chết đứt cổ rồi!". Mon nghĩ bụng vậy. Mon nhảy xuống, đến chỗ con gấu bị nạn. Rớt dãi nhầy nhụa ở người trăn tiết ra khi nó vặn mình núc mồi, còn hôi sặc sụa. Con gấu mẹ chỉ còn là một đống lông đen xương trắng lòi lẫn lộn và một vũng máu. Chỗ chân tảng đá, hai gấu con, lỗ mắt ướt nhoèn, nằm uốn tròn -hình nằm trong bụng mẹ, cứ kêu lít nhít như chuột mới đẻ. Mẹ mới đẻ gấu lúc sáng sớm, còn đương liếm con. Những nạm lông xám ướt lờm nhờm. Lúc ấy, con trăn mốc đói mồi quăng mình đến. Mon ôm hai con gấu con về lều gốc thông. Mon ngồi vuốt cho gấu khô lông. Rồi Mon đi kiếm quả trắm và những nạm cỏ thật non về cho gấu. Bọn gấu con cũng như ngựa con và bê, chúng nó chỉ một lúc ra khỏi bụng mẹ, đã cứng khoeo, hai mắt thao láo, răng trắng tểnh và lún phún ria mép cẩn thận. Những chàng gấu con này cũng thế. Hai hôm sau, gấu con đã lon ton chơi, chạy trong gốc thông, như hai con chó mới mở mắt. Chẳng bao lâu, gấu con đã lớn phổng thành hai chàng gấu thật sự, đứng cao ngang sườn Mon. Đôi tai ngắn củn trên cái đầu bẹt, con mắt nâu ti hí, nhanh như chớp.
    Bàn chân gấu có năm ngón tõe ra, giống bàn chân người. Con gấu có sáu chiếc răng cửa trắng nhởn, to thô lố, thò dài. Con gấu to xác thế m, lúc ngồi rỗi chỉ chăm chăm giơ bàn chân tìm kiếm bắt kiến đưa lên miệng nhấm. Mon đi đâu cũng có hai con gấu cùng đi. Mon đặt tên hai thằng là Gấu anh và Gấu em. Niềm vui đầu tiên của Mon không phải chỉ là trong nhà có bạn, nhưng còn cái sung sướng hơn, ấy là từ khi có bạn thì Mon mới được trò chuyện thả cửa. Bao lâu nay Mon cứ lì lầm cả ngày, không được nói. Bây giờ Mon mới được nói. Hai con gấu không đáp được chuyện, nhưng cứ được nói, mình nghe tiếng mình đã thích rồi. Và hai con gấu có thể biết chịu chuyện. Mắt gấu tròn xoe, hình như ánh lên, mỗi lúc Mon cười nói vẻ thích chí. Cái gì làm gấu không bằng lòng, gấu xì mõm ra, gù lưng tôm, vừa đi vừa ngồm ngoàm nhai không, như làu bàu, nhấm nhẳn. Mon đi trước, Gấu anh Gấu em theo sau, lủn củn. Ba đứa đi hái lá ngót. Rừng này cũng có lá ngót mọc từng vệt dài ngay cạnh suối. Lần đầu, Mon cho anh em gấu đi ngắt rau ngót. Mon cúi xuống, bấm ngón tay, bứt một nắm lá. Rồi quay lại xem gấu làm thế nào. Hai con gấu cũng lúi húi quơ chân trước lên, rứt lá ngót, không đợi Mon phải bảo. Mon quát hỏi:
    -Chúng mày hái làm sao, tao xem nào. Hai con gấu lẳng lặng không trả lời. Cả hai lại cúi trên những cây ngót mọc là là mặt đất. Về đến gốc thông, Mon ra hiệu cho Gấu em được ngả lưng nằm chơi, còn Gấu anh thì bắt đi vác nước. Mon đem cái ống tre ra đẽo bớt vỏ rồi đổ nước bỏ lá ngót vào, nấu canh. Mon cứ vừa làm vừa quay ra, hét mắng luôn miệng:
    ?oThằng này lười hơn thằng em! Lười thưỡn lưng ra thôi! Đi vác nước đi! Mày không vác nổi ống nước thì ông đánh mày. Lại còn vờ vờ hé mắt nhìn cái gì? Đi vác nước!". Nói to như có mấy người đương cãi nhau. Tuy to tiếng thế nhưng rồi Gấu anh vẫn đứng ì ra. Không biết thế nào, Mon lại phải leo xuống bảo gấu cách làm: này cầm cái ống tre, này vác lên vai đi thử mấy bước, rồi Mon trỏ tay ra suối. Quát:
    -Ra suối, ra đằng kia, suối đằng kia! Làm như hét cho cả trăm người nghe. Gấu anh tinh ý lắm. Chỉ có thế, Gấu anh đã hiểu. Có lẽ vì hằng ngày, Mon đi vác nước ngoài suối. Hai con gấu đứng trên sàn vẫn trông thấy.
    -Được rồi, được rồi!
    -Mon nói, Mon vẫn chưa thôi ne nẹt và bắt nạt nó. Cứ Gấu anh vác được ống nước nào thì Mon đổ ngay ống nước ấy đi, lại bắt ra suối lễ mễ vác về ống nước khác. Mon trợn mắt, hét:
    -Cho quen đi! Bắt mày vác mười ống, phải vác đủ mười ống mới quen được!
    Cả ngày, Mon lằm bằm mắng mỏ hai thằng gấu. Không phải vì ghét. Mà vì yêu chúng nó quá. Mà vì muốn được nói cho sướng miệng. Lúc nào cũng nói rầm rĩ, như cả nhà đông người trò chuyện. Hai con gấu này học cách ăn làm chóng lắm. Chẳng bao lâu, sai gì cũng nên. Gấu biết xuống bờ biển bắt con ngao, con sò. Biết ra rừng ngắt lá ngót một mình. Lại biết bới măng tre, măng trúc. Chỉ có thổi sáo véo von bằng cái ống hóp đá thì hai con gấu chịu. Hôm ấy ba đứa đi bới măng. Các cánh rừng đều rực rỡ nắng. Lại sắp bắt đầu một mùa nắng, rừng sáng xanh lên. Sắp có sấm mới, lại đi tìm măng ngọt. Lấy măng vào cữ sắp có sấm thì măng ngọt như mía lùi. Mon đã thuộc như thế, từ Bãi Lở. Mon cầm lao đi trước. Gấu anh và Gấu em, mỗi thằng đeo cổ một cái giỏ, bước cung cúc, lưng gấu càng gù xuống hơn. Đến trước một bụi trúc, Mon quỳ xuống, lấy tay với đám cỏ. Mon cầm cái lao trúc đào đất. Chỉ vài nhát đã thấy nhú lên chiếc mầm măng trắng phây. Mon xới quanh rồi bẻ cái măng, bỏ lên chiếc giỏ đeo lưng gấu. Hai gấu đứng ơ mặt xem Mon tìm măng, đào măng. Rồi có một lúc, Mon bới ra một vệt nứt trong cỏ. Gấu anh xông đến, hích lưng đẩy Mon ra. Mon hiểu con gấu muốn tranh làm đấy. Mon né sang bên. Nhanh nhảu, hai chân trước gấu cứ quào hắt đất như mưa. Rồi quay lại, chân sau vét đất ngược lại. Hai con gấu bắt chước nhau cùng làm thế. Những cái măng trúc dần dần thò lên. Làm mấy bận, con gấu đào đất lấy măng nhanh hơn cả Mon. Cẩn thận kẻo gãy, không được sây xước cái nào đâu. Gấu biết làm khéo thế. Chỉ tìm quanh vài bụi trúc, hai cái giỏ đã đầy ních những măng là măng. Ba thằng thong thả đi về. Nhưng, đến gốc thông, thấy cái nhà đã rụi xuống như một đống rơm. Ba chân tre bênh hoác ra, những mảnh ván, mặt bếp, sập hết. Mon mò quanh gốc thông, hai con gấu cũng lò dò theo.
    Mon thấy có vết chân hổ. Rồi càng thấy nhiều vết chân hổ. Con hổ này to, bàn chân nó tròn bằng cái bát đàn úp. Móng chân hổ quào toạc đất từng mảng sâu. Phía gót, đất nghiêng hẳn xuống. Con hổ rún mình nhảy, hai chân sau nó ấn lún đất. Con hổ nhảy đi đâu? Nó vừa đuổi mồi húc đổ nhà mình à? Có lẽ thế. Chỗ cái cột tre gãy trông thấy vướng đám lông xám ở vai hổ. Con hổ chạy đuổi mồi đâm vào cột nhà. Nhưng tịnh chẳng thấy vết con hươu con nai nào. Mồi gì mà khiến hổ phải cuống cuồng nhảy đụng đổ cả nhà! Trong rừng này, còn có con cầy, con nhím. Những thứ ấy, hổ thò tay ra bắt được, chẳng phải vồ, phải nhảy đuổi vội vã thế. Bỗng Mon nghe tiếng gấu rít sau lưng. Mon quay lại. Cả hai gấu con cùng nằm rạp, dán mũi xuống đất, quào chân ra đằng trước.
    Mon trông xuống chỗ ấy, thấy một đám dãi nhoáng nhựa cây. Mon biết ngay. Con trăn vừa quăng mình qua đấy, rớt dãi còn nhầy nhụa trên mặt đất. Con trăn đuổi mồi quăng đến đâu, nhựa da trăn dính đến đấy. Đám nhựa sệt lại ở chỗ con trăn quật đuôi lấy đà. Những ngày đổi trời, mưa nắng hấp hơi, trăn đi hàng đàn, khi bò ào ào như những con lũ, khi quăng mình qua rừng, cành cây rung chuyển, tơi tả như rừng gặp gió quẩn trong núi ra. Mon vẫn gặp luôn. Lúc nào con trăn ăn no rồi quấn tròn khúc nằm to xù xụ như tảng đá mốc, lim dim mắt, lúc ấy con trăn hiền như đất, ai đứng chơi trên người trăn cũng được. Nhưng lúc con trăn đói đuổi mồi thì thật khủng khiếp, không loài nào chống nổi. Nó phóng nhoáng như chớp từ trong bụi ra, trườn trên những tảng đá, rồi nằm vắt ngang cành cây thò đầu xuống để hóng mồi. Cả đến con hổ ngửi hơi biết trăn đói đương rình đâu đây, hổ cũng phải chạy tránh ngay. Nhiều khi, hổ chưa kịp chạy, trăn đã quăng mình từ trên cây xuống, quấn chặt con hổ. Trăn núc mãi vào cho đến khi con hổ khốn nạn mềm nhũn dài ra thành một cục mồi máu me. Thế là trăn há hoác miệng, nuốt dần, có khi nuốt mấy ngày mới vào bụng hết cái mồi con hổ, đầy đủ móng vuốt. Trông những đám dãi, Mon đoán biết không phải hổ đi tìm mồi mà có một con trăn đuổi hổ, con hổ chạy. Không biết hổ có chạy thoát? Hay đã bị trăn quấn chặt, tha đi rồi. Hai gấu con vật vã nằm lại hai bên má áp xuống mặt đất, ngửi vết nhoáng trăn rồi lại quào, lại im, mặt tiu nghỉu buồn thiu. Gấu làm hiệu cho Mon biết có con trăn đuổi bắt hổ? Chúng nó sợ lắm. Hay chúng nó đương nhớ mẹ. Những con gấu ấy nhớ mẹ. Mon không muốn nghĩ hơn. Mon cũng chạnh lòng nhớ. Mon vội nghĩ ra chuyện khác. Phải làm nhà lại. Phải dựng lại cái nhà. Mùa mưa rào đến nơi rồi.
    EBDBDBD - "That's all, folks" ​
    [​IMG]
  7. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Lần này Mon làm nhà cách khác. Vẫn ở gốc thông ấy, nhưng Mon không chôn những chân cột chênh vênh nữa. Mon xếp thành nền đá cao có cái trụ đá ở giữa, trăn hay hổ cũng không húc đổ được. Cái cây gỗ đẽo làm thang nhà lúc còn ở với bố mẹ, và nó đã cứu mình, đưa mình đến đây, lại gác cạnh những ống bương đựng nước ở rìa đá làm lối trèo lên, như cũ. Mon làm lại nhà. Tuy vậy, không phải khó nhọc lắm như lần làm nhà trước. Bây giờ ba thằng cùng làm. Bên cạnh Mon, hai bạn gấu vác đá đi đi lại lại, Mon không phải lẻ loi một mình như dạo trước. Mon thành tay thợ cả. Mon đi đẵn tre, lấy mây lấy song, rồi Mon ngồi giữa đống ngổn ngang tre gỗ với cái ống bật lửa, la liệt những dao đá, những dao vàng và kéo, cột, nan song, mây xung quanh. Bây giờ đã biết cách làm nhà hơn. Mon lấy dây mây buộc cột ngoãm cho chắc chắn, mưa bão cũng khó đánh tung lên được. Đống đá to dần, tròn đều như cây rơm. Trên đống đá, tựa vào gốc cây thông, ló lên túp lều nhỏ cao cao, công trình của Mon, một nếp nhà xinh gọn hơn trước. Lỗ cửa bây giờ có liếp che gió, bếp là một khoảng giữa nhà, mặt sàn lát tảng đá phẳng. Để cho bếp mùa lạnh ủ, dù than có vạc, hòn đá lót bếp, vẫn nóng hầm hập đến tận sáng. Cái mái nhà lần này cũng khác. Mon không lợp lá dong lá chuối như ngày trước bố mẹ lợp nhà khi mới xuống rừng. ở Bãi Lở, lợp nứa bổ đôi, lợp lá mía. Đây có nhiều tre, Mon đem xả những cây tre làm hai mảnh. Mảnh úp, mảnh ngửa ken nhau, thế là được cái mái nhà chắc, không dột, không tốc. Mưa rào xối nước xuống, trắng tinh ngoài giọt tranh, trong này, lửa bếp vẫn đầm ấm đỏ ngọn. Từ khi có anh em gấu cùng ở, Mon đỡ thui thủi, không như những năm trước, mỗi khi bồn chồn nhớ bố mẹ, không biết thế nào, chỉ muốn ứa nước mắt. Bây giờ trò chuyện, đùa nhả, cãi nhau với anh em gấu như với cái Gái, lắm lúc ngỡ rồi sẽ gặp em, lại cũng đùa chơi và cãi nhau vui thế này. Những khi nhớ em, Mon lại rủ gấu ra tập cho chúng nó biết cách ngồi chồng chân chắp tay như chơi chồng nụ chồng hoa, như những khi trẻ con các xóm kéo ra bờ sông chơi mê cả buổi. Nhưng đến lúc gấu biết chơi thế, Mon lại chán ngay. Vì gấu nhảy cao quá, chắp tay chân cao nhất, rồi đến lúc đứng thẳng người giơ tay lên, anh em gấu cũng nhảy qua đầu như bỡn. Mon lại tập cho anh em gấu biết đánh vật. Phải như mọi người ở lò vật Bãi Lở. Chẳng chịu kém đâu. Những hôm mê mải chơi dưới gốc thông, ba tay đô này lại thả cửa quần nhau. Dạy cho gấu biết vật thật là khó. Gấu tuy tinh khôn, nhưng chỉ biết làm theo, không biết nghĩ ra làm riêng được. Mon nắm hai tay, víu vai gấu. Gấu đưa chân trước lên vai Mon. Mon lẳng gấu xuống, gấu bíu chân lại, giữ chặt vai Mon. Những cái vuốt sắc cắm vào vai Mon. Máu rườn rượt chảy khắp người Mon. Mon thét lên, nhảy bật ra. Gấu há hốc mõm, cứ đứng lớ quớ giơ hai tay như thế, như sợ quá, như lạ lùng quá, nhìn những dòng máu đương lõa lợi hai vai Mon. Nhưng đến lúc khỏi đau vai, Mon lại dạy gấu chơi vật, không sợ. Và cũng chỉ có một lần gấu vô ý thế thôi. Bây giờ nắm hai "bàn tay" lại, những chiếc vuốt nhọn cũng cụp vào. Nắm tay gấu chỉ còn êm mượt lông như hai nắm bông. Cứ thế, chân trước, chân sau tròn thu lu, gấu ghì gấu vật với Mon. Có đêm sáng trăng, ba tay đô còn quần nhau vào khuya, đến lúc cả ba mệt thở phì phò rồi mới dò lên nhà. Chẳng kịp thổi lửa đã lăn ra ngủ khì.
    Tháng ngày qua lặng lẽ. Mon và anh em gấu vẫn tha thủi ở rừng. Mon bây giờ như người có hai cái bóng. Mon đi đâu, hai cái bóng cũng đi theo. Có hôm trở trời, Mon sốt nằm trên sàn, mặt đỏ rừ, hai con gấu cũng quanh quẩn không đi đâu. Làm gì, hai cái bóng cũng cùng làm. Thế nhưng chẳng phải việc nào gấu cũng chỉ biết bắt chước và lúc nào gấu cũng chịu là cái bóng đâu. Một buổi sáng, Mon thức dậy, thấy như trong nhà quang khác hẳn. Chợt nhìn: vắng hai con gấu mọi khi vẫn nằm ngay chỗ cửa. Mon trông ngoài liếp. Mon nghển nhìn ngoài suối Sáng. Cũng không thấy. Không phải gấu đi vác nước, mấy chiếc ống nước vẫn đựng bên gờ đá cạnh cửa. Anh em nhà gấu đi đâu? Từ ngày còn bết lông, Mon cứu gấu về, gấu không đi một mình thế này bao giờ. Gấu vốn thuần tính. Bây giờ gấu đi đâu? Bỗng nhiên, Mon thấy vắng đến ghê cả răng. Hay gấu nhớ rừng, nhớ đời sống lang thang, gấu quen rừng, gấu về rừng sâu rồi. Còn mình về đâu bây giờ? Mình nhớ bố mẹ, mình về đâu? Nghĩ gấu, thương mình, cảm nỗi quạnh hiu rợn người. Mọi khi, mỗi lúc nhớ, Mon đều nghĩ được cách cho khuây khỏa. Bây giờ không nghĩ ra cách thế nào nữa. Đã quen có hai con gấu, cái lều trong gốc thông được êm vui hẳn. Chúng nó như em mình, cũng bằng cái Gái nhà mình. Bây giờ chúng nó đi đâu? Mon không muốn thò chân xuống thang. Mon ngồi lỳ trên nhà. Chẳng đi kiếm cái ăn. Chẳng thổi lửa.
    Mon ủ rũ, tựa vách. Mon nhắm mắt nghĩ miên man. Chợt nghe động lách cách dưới chân thang. Mon choàng mắt nhìn xuống. Thằng Gấu anh đương lúi húi trèo lên. Gấu em cũng ngoi ngóp theo. Gì thế kia, một tay gấu ôm vào ngực cái bọc to, ướt ròng ròng. Khó nhọc sao mà cả hai đứa cùng thè dài lưỡi, thở khặc khặc, chốc lại gạt tay lên qua tai, như người ta gạt mồ hôi. Hai anh em gấu đã lên đến trước mặt Mon. Mon trông rõ mỗi đứa cầm trong tay một cái khoái ong đầy bọng. Tổ ong lỗ chỗ nổi sáp vàng mỡ, phủ kín mật. Anh em gấu chìa nạm khoái ong cho Mon. Mon cười cầm lấy rồi cắn từng miếng, nhai cả bã. Mật ong ngọt tê đầu lưỡi. Như thèm từ thuở bé mà chưa được đụng một miếng mật ong bao giờ. Mật ong ngọt lừ. Rồi Mon nhìn hai con gấu. Thế ra hai thằng gấu này khôn bằng người rồi. Mọi khi, nó là đầu sai, bảo gì làm nấy. Bây giờ mới hiểu nó biết đến mùa ong, biết nghĩ ra đi tìm mật ong đem về cho mình ăn. Hôm sau, lại nghe từ tờ mờ sáng cái gì lịch kịch dưới sân, Mon tỉnh dậy. Trông ra cửa, thấy anh em gấu nối đuôi nhau lúi húi đi. Mon nhảy tót xuống theo. Tài thế, không ngoảnh lại mà như biết Mon theo, hai con gấu tự dưng nhe răng ra, tai đụng đậy cúp xuống. Tỏ ý thích cho Mon theo đấy. "Tao biết rồi. Anh em mày lại đi lấy mật. Ong hồi này đương cữ mật.
    Làm thế nào chúng mày lấy được cả bọng mà ong khỏi đốt. Chúng mày đánh nhau được với ong? Tao phải đi xem chúng mày đánh nhau với ong thế nào...". Chúng đi quanh co xa lắm. Mùi mật chín bay tỏa xa từng luồng thơm, cách mấy rừng, gấu cũng đánh hơi thấy. Một lúc, đương đi, gấu chồm lên một cây nghiến to. Trên lưng cây, có một cái hốc tối đen. Loáng thoáng ong bay ra bay vào. Gấu anh trèo lên cây nghiến. Gấu em cũng thoắt lên nốt. Mon đứng lại dưới gốc cây. Hai con gấu hung hăng leo lên, bíu ngang hai bên cành rồi thò thẳng tay vào tổ ong. Đàn ong đen như chàm bay ra xúm xít quanh. Hai cái đầu gấu vẫn nhấp nhô nhòm vào tìm khoái, không để ý ong kéo về mỗi lúc một đông đặc. Gấu đã lôi được miếng khoái ong to bằng mo cau, vàng chóe, trông xa cũng biết khoái ngập những mật. Rồi hai con gấu cùng thong thả tụt xuống, không cần biết đàn ong vẫn bâu quanh đầu. Lại như lúc nãy, gấu cung cúc đi, thằng anh trước, thằng em sau. Hai chân trước nhô cao, cái lưng gù lên, bàn chân gấu đi lướt lướt quét trên cỏ. Đàn ong lúc nhúc bâu khắp người, hai con gấu như hai cái gốc cây cháy ra than. Mon rợn người. Thế kia mà ong xúm đến thì mình chết mất. Tự nhiên, Mon nằm rạp. Chẳng biết anh em gấu đối phó thế nào, chỉ thấy đàn ong à à lay động theo hai cái bóng gấu vẫn đi. Như cái bùi nhùi, hai con gấu khật khưỡng đi ba chân. Một chân cắp vào ức, giữ cái khoái ong. Hai vai chân trước nhô cao và hai chân sau liên liến bước trong cỏ. Chẳng khác lúc nãy. Chỉ khác, chốc chốc gấu giơ "tay" xua lên đầu. Con ong cắm được kim vào đầu gấu, rồi chết rơi lả tả xuống đất. Thỉnh thoảng gấu cúi, nhặt xác ong, thè lưỡi, nhấm ăn. Phải, hôm qua về đến nhà chẳng còn con ong nào theo đốt mà tay gấu vẫn xua lên. Các chàng bị ong đuổi, quen tay xua. Mon nằm trên mặt cỏ, nghe xung quanh đã vắng im. Đã biết giống ong không bao giờ tự dưng đốt người, nhưng Mon vẫn trờn trợn. Mon từ từ ngồi dậy, Mon không đi theo hai con gấu, Mon rẽ rừng về lối khác.
    Về gốc thông, trèo lên, thấy anh em gấu đã ngồi chồm chỗm trong nhà. Không còn một tiếng ong nào vo ve. Không hiểu chúng làm thế nào mà đàn ong phải đuổi mỏi cánh, chịu thôi. Lại thấy hai mảnh khoái ong vàng ngậy để trước mặt. Con mắt gấu hấp háy nhìn Mon. Những bàn chân trước đẫm mật. Con mắt lại hấp háy nhìn Mon. Những bàn chân trước đưa lên, thè lưỡi ra liếm. Như mời cùng ăn. Ba anh em Mon mút no mật ong, hôm ấy. Nhưng hôm ấy Mon thích nhất là lại nhận thêm ra những tính tốt nữa của gấu. Con gấu không bị thịt, không lù đù như có lúc mình tưởng thế. Trông dáng không thể biết hết, phải ở lâu mới hiểu, càng ở lâu càng biết nhau hơn. Thật như vậy. Rồi lại vào những ngày mưa rét. Cái dây thắt nút đánh dấu ngày tháng treo trên vách mỗi năm thêm một nút, thêm nhiều mấu, lại sắp hết năm rồi. Ngày trước ở với bố mẹ, không biết lo. Bây giờ tính tháo vát phải nảy ra, Mon đã thạo. Mon trông luồng cây, biết hướng có suối. Mon phân biệt vết chân các loài thú. Cả con thú đi chỉ quệt vào lá, chỉ gãy lá chỗ nó ngồi và nó mới ngồi hay bỏ đi đã lâu, đi phía nào, Mon ngắm hướng, xem *** mới *** cũ, biết cả. Mon lại biết tìm lá đấu, lá cầm máu, lá chữa rắn cắn. Mùa lạnh đến, Mon ngả xuống tấm da nai, da hươu vẫn dựng đầu vách. Mỗi lần lao được con hươu, con nai to. Mon lột da nhúng nước biển rồi phơi nắng đến khô cong, đem vào gác lên bếp. Tấm da nai, tấm da hươu trải ra thành cái đệm như ổ rơm, ổ lá chuối khô, gió gầm sàn không lọt lên được. Năm nay, đuổi được cái rét ra ngoài rồi. Thức ăn cũng chẳng thiếu. Hôm nào ngại rét, với tay lên xà nhà, xẻo miếng thịt hươu nướng vào than bếp đương đượm. Mấy ngày không đi kiếm miếng cũng không đói được. Nhưng hai con gấu cứ ngửi mùi thịt nướng thơm lại quay đi, nhìn ra ngoài. Gấu vốn thờ ơ với thịt. Gấu chỉ thích ăn hạt dẻ, quả trám và mật ong. Gấu anh him him mắt, nhìn bếp. Gấu em nằm ngửa, nghịch đạp bốn chân lên trời rồi thè lưỡi, liếm một bên lòng bàn chân trước. Một chốc, Gấu anh cũng lật ngửa mình như Gấu em. Cũng giơ một bàn chân trước, liếm lia lịa như mài lưỡi vào đấy.
    -á... à... Chúng mày mút chân thế đã no chưa? Liếm chân ngon hơn ăn thịt, a? Ai biết đâu gấu liếm chân cũng là gấu ăn thức ăn để dành. Con gấu vốn sợ gió rét. Con gấu có áo bông bù xù, con gấu hung tợn không biết sợ cái gì mà sợ rét. Trong rừng, đến khi gió rét, gấu ngủ đứng trong hốc cây kín đáo, khi thức, lại liếm hai lòng bàn chân trước. Cứ liếm suông thế cũng khỏi đói, lòng chân đỏ hắt lên. Ngủ rồi liếm gan bàn chân, rồi lại ngủ, buồn buồn lại lần quanh hốc cây, tìm bắt con kiến. Thằng gấu to như con voi, mà cứ lần quanh vách nhấm ăn từng con kiến. Cho tới hôm nào nắng ấm mới lò dò ra rừng tìm ăn. Phong tục nhà gấu xưa rày như thế. Qua mùa lạnh ấy, Mon biết thêm tính gấu. Gấu ngoan, nhưng gấu cũng bướng. Gấu có tính có nết riêng. Gấu không phải con vẹt, chỉ biết bắt chước.
  8. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    3
    Chẳng bao lâu, lại sắp bắt đầu những ngày mát trời. Đầu tiên, từ sáng sớm, nghe trên trời mù sương có những tiếng kêu kứu... kứu... bay ngang. Tiếng lạ lùng, bấy lâu chưa hề nghe. Mãi cho đến lúc tan sương mới trông thấy từng đàn chim sếu bay nối nhau như lớp lớp cầu vồng ngang trời. Mon nhớ những đàn sếu, đàn bồ nông chiều thong thả bay rợp trên cửa sông Cái. Bố đã bảo con sếu, con bồ nông ra lúc hoàng hôn là đi kiếm ăn đêm. Lại bảo khi con sếu, con bồ nông bay đàn sáng sớm là sắp hết mùa rét, chim đã về phương khác. Đấy là chim trở về quê. Mon bỗng vui quá. Chưa bao giờ Mon được thấy chim bay nhiều đến như thế. Năm trước, thuyền ra biển, con chim bay trở lại bờ, Mon buồn lắm. Đến cả chim sải cánh khắp thế gian được mà chim cũng sợ không ra nơi hoang vắng này. Nhưng không, thế là ở đây có chim sếu mùa lạnh đến trú chân. Mon bâng khuâng cảm như thấy chim bay nhiều như thế, chắc sắp bắt được cái gì sung sướng lắm đây, sắp gặp được bố mẹ và em cũng nên. Một hôm, Mon và anh em gấu bỏ kiếm ăn ở trong rừng, ra biển từ sớm. Vì năm trước, trưa nắng to, Mon đưa gấu ra biển, bước trên cát, chân gấu rát bỏng, cứ giật thon thót. Lòng bàn chân gấu thế mà mỏng mịn, đỏ hây, không chịu được nóng. Gấu sợ rét, gấu sợ ăn thịt, gấu sợ bỏng chân và anh chàng gấu to xác thế, lại thích bắt kiến, bắt mối, nhấm ăn từng con. Gấu nhiều tính nết buồn cười thật. Đi từ đêm, ra tới bãi, trông được thấy vệt biển xa xanh ngắt, chưa sáng hẳn. Mặt trời còn lấp trong những đám mây hồng nhỏ bay nhanh nhanh qua.
    Mon mê mải xem mặt trời lên. Không phải Mon thấy lạ. Mon bỗng dưng nhớ chắc cũng ông mặt trời này, buổi sáng ngày trước ở ven sông Cái, Mon vẫn thấy nhô lên bên núi Tam Đảo, đến chiều thì đỏ rực khắp dòng sông Cái. Mặt trời đương lên đằng ấy. Bãi Lở ở đằng ấy a, đằng ấy có bao nhiêu người nhìn, còn ở đây không có người nào, chẳng có người nào, chỉ một mình mình. ở Bãi Lở, có làng có bãi trên bờ sông, khi mặt trời lên, có chim gáy cúc cu rộn ràng, có đàn khướu mun líu lo, có đàn ri đàn sẻ ào ào vừa bay vừa kêu trong gió. ở đây, mặt trời lên, trong rừng chỉ rền rĩ tiếng ve mãi không thôi. Bây giờ, mặt trời lên, bố mẹ mình, em mình ở đâu, có đương thấy mặt trời lên ở đây. Hai con gấu ngơ ngẩn giữa bãi cát, cũng xem mặt trời, vẻ lạ lùng lắm. Như xưa rày chưa được thấy mặt trời như thế bao giờ. Trước gấu còn lom khom nhìn, bây giờ gấu đứng cả hai chân, nhìn lên. ạng mặt trời tròn xoe, đỏ tía tai, một nửa còn ngập dưới mặt nước, đương từ từ nhô ra, rồi đột nhiên nảy lên trên mặt nước, như cái hoa đỏ tự nhiên ai thả trôi lững lờ đằng xa. Khoái chí, anh em gấu vòng hai chân ôm xốc nhau, rồi thình lình tì vai chơi vật nhau. Gấu vật với Mon mới chóng được thua. Vì Mon vừa bắt tay đã móc lại khóa và bốc ngã được gấu. Nhưng gấu vật nhau với gấu có đến nửa ngày, hai thằng cứ rầm rập chèn lên chèn xuống, cát lầm lên giữa đám bụi nắng, chẳng ai chịu thua ai. Các anh chàng này chỉ cậy có sức mà không có mẹo. Cứ đẩy nhau đến chán thì buông ra. Rồi Mon và hai con gấu lại lang thang đà chân thơ thẩn đi luôn theo những bóng cây thưa bờ biển, tối đâu ngủ đấy và lúc nào mặt trời lên cao, nắng đã bốc hơi ngùn ngụt trên cát thì Mon đứng lại, mò ngán, đập hà ăn. Hai con gấu chỉ khép chân lại vơ cỏ, nhìn Mon ăn ngon lành mà không đụng đến các thức tanh tưởi. Đương đi, thấy hiện lên một cái chấm đen nhỏ trên mặt biển. Hay ánh nắng làm lóa mắt? Đến lúc thấy cái chấm nhỏ là là xuống mặt nước, bốc lên cao rồi lại xuống thấp, như cái lá cuốn trong gió, mới rõ đấy là cái chấm đen thật. Và chỉ một thoáng đã rõ hẳn, Mon nhận ra chấm đen là con chim từ ngoài khơi bay vào. Con chim lạ, không phải con chim sếu. Con chim bay từ ngoài khơi vào, không phải con sếu bay đi. Mon nhổm người lên, reo to:
    -Con chim! Anh em gấu đương mải chạy lon ton đằng trước, cũng nghe tiếng Mon.
    Chúng nó vội buông vai nhau ra rồi cùng nằm bệt mõm xuống, thờ phì phò, hơi thở thuốn xuống thành hai lỗ cát trước mũi. Con chim đương bay vào phía người đi. Trông thấy con chim lạ, Mon mừng quá. Không phải chỉ mừng vì thấy chim mà Mon lại nhớ lời bố: chỗ đất lành có người ở thì chim đến, đây có người ở đất lành rồi, nên có chim đến. Người ở là ta với gấu hay chim đến với cả bố mẹ ta, em ta, bố mẹ và em còn ở đâu trên đảo? Con chim bay về, con chim bảo thế ư? Chuyến này về trữ cái ăn, lại đi tìm. Lần này, có anh em gấu cùng đi, ta sẽ đi xa hơn nữa. Con chim đã bay vào ngang trước mặt. Trông rõ con chim biển, mình trắng bạc và mỏ to, béo tròn như con gáy. Chim đương bay mải miết. Chim như không biết dưới bãi cát có người nhìn lên. Con chim qua chỗ hoang vu không biết sợ người. Đến lúc chim vượt đầu, bay đi nữa, Mon thấy từ con chim rơi xuống cái gì trên bờ cát trắng đằng kia -chim đánh rơi miếng mồi hay chim ỉa, không biết. Chắc là bãi *** chim. Mon trông thấy, nhưng cũng không để ý. Sau nghĩ lại, tò mò, Mon ra xem cái *** chim này thế nào. Mon bước ra bãi cát. Bãi phẳng lặng, còn đọng lại những đường gợn lăn tăn sóng nhô đều tăm tắp -vết nước thủy triều trong đêm. Ra đến nơi, Mon trông đoán là bãi *** chim. Giữa đám dãi nhờ nhờ, trắng bệch, có mấy cái hạt to như hạt bí ử, màu hạt đen láy.
    Con chim này ăn quả ở đâu rồi ỉa ra hạt hay những hạt này ở miếng mồi chim đã ăn hết, còn giắt lại ở mép chim, chân chim rơi xuống. Mon cúi xoa cát rồi nhặt xem cái hạt. Mon không biết hạt này bao giờ. Có lẽ cái hạt chim ỉa. Ngắm nghía mãi cũng không đoán ra. Mon nghĩ bụng: hạt gì thì cũng thử trồng xem, cái cây lộn kiếp hay là cây gì cũng được. Mon đi mãi vào bờ, đến chỗ lơ thơ mấy tụm cỏ, con nước có lên cao cũng không tới. Mon tìm một hốc, vùi hạt chim ỉa xuống cạnh tảng đá, chỗ có khe có hơi đất ẩm. Hai con gấu theo lẽo đẽo đằng sau, tất nhiên chẳng hiểu Mon làm gì. Rồi cả bọn lại chạy ra bãi. Mon và hai con gấu xuống ven bờ đá bắt ngán, đập hà. Trời nắng đã gay gắt, những con gấu xù xì, xem ra đã oi bức khó chịu, vừa đi, vừa khặc khặc thở. Gấu biết nhặt sò mà gấu lại không ăn các thứ ấy. Phải nghỉ, cho gấu đi gặm cỏ. Vào đến rừng, thoát nắng rồi mà còn thè lưỡi thở hổn hển. Anh em gấu bò đến tảng đá cạnh bờ suối rồi quỵ hai chân trước, sát mõm xuống, uồng ừng ực. Lúc nãy khát, gấu đã uống nước biển. Nhưng chát quá, sặc không nuốt được, lại phải lắc ra. Uống xong hơi nước thật dài, con gấu ngóc đầu lên, ngồi tựa xuống hòn đá, giãi thẻ hai chân sau, để cho nước suối mát lạnh lõng bõng chảy xuống đầu mõm. Chúng nó mệt nhọc một vẻ khoan khoái lạ. Lát sau, vào rừng vơ cỏ gặm ăn. Rồi lăn ra ngủ đấy. Mon cũng vào theo và cũng ngủ qua đêm trên bãi cỏ với anh em gấu. Đi chơi mấy hôm rồi về. Ngày lại năm, lại đến mùa mát trời. Mon lại tính việc đi tìm bố mẹ. Thế là lại đi. Trên cổ hai con gấu đeo trĩu vòng xuống những xâu thịt khô. Mon vác một ống nước với cái lao trúc. Hai con dao vàng và hòn cuội đánh lửa thì giắt cạp khố. Hôm đầu ngủ lại cửa rừng, thật vui.
    Vui nhất là Mon. Lần này có anh em cùng đi. Mon không còn thấy Mon lủi thủi như năm trước. Cái vui lại nở trong Mon một hy vọng, tưởng như chắc tìm được bố mẹ. Rồi niềm vui tràn lan sang những tin tưởng khác. Chặp tối Mon ăn thịt hươu nướng. Còn bọn gấu thì trèo cây tìm được khoái ong mút mát ngay ở ngang đường. Tối đến, bốn phía rừng như cái chiếu quây lại. Mon đốt đống lửa to bên tảng đá. Ban ngày nắng, nhưng đêm trong rừng, sương xuống ẩm nặng hai vai, ướt cả tóc. Thế là Mon rúc vào nằm giữa, hai gấu hai bên. Hơi ấm của hai cái chăn gấu đánh bạt hết sương lạnh. Cả ba ngủ lúc nào. Cứ thế, đến sáng. Chợt, Mon cảm thấy lành lạnh bên người. Hai con gấu đã trở dậy từ lâu. Mon bừng mắt. Trên vòm lá, ánh sáng ban ngày đã lờ mờ, trong khi ở lưng cây, từng làn sương như những cuộn khói luồn qua. Mon ngồi nhổm lên, ngơ ngác. Mon thấy hai con gấu đương ngồi sát vai nhau trên đầu tảng đá, nhìn ra. "Hai thằng này dậy sớm làm gì, lại ngứa chân, muốn đấu vật à?" Rồi Mon len lén đến, chui vào giữa cánh nách hai con gấu. Hai con gấu vẫn ngồi nguyên. Mon nhoi mặt ra dưới cái vai xù xì lông gấu. Mon trông đằng trước mặt, xem gấu đương nhìn gì, thì thấy một quang cảnh thật lạ. Trong cánh rừng thưa có một đàn gấu chó -giống gấu nhỏ con, cùng loài với anh em gấu. Đàn gấu nọ sáng sớm kéo qua rừng, đứng lại. Chúng nó trông thấy anh em gấu bên này. Hai con gấu đương ngủ. Nhưng hơi đàn đi ngang qua nồng nàn tỏa đến, đã đánh thức hai con gấu thức dậy ra nhìn.
    Đàn gấu đông đến mười mấy con, những gấu già, những gấu con loắt choắt bước sau gấu mẹ. Có gấu con đương đi, trèo lên vai gấu lớn, ngồi thu lu, ngó ra bốn phía, những con khỉ con nghịch ngợm. Cả đàn gấu đứng im, nhìn sang tảng đá. Đàn gấu với anh em gấu im lặng nhìn nhau. Trông con mắt và vẻ ngẩn ngơ của anh em gấu, Mon hiểu. Những con gấu không kêu, không nói với nhau, tiếng gọi đàn không thành tiếng, thế mà bồi hồi tất cả. Mon bàng hoàng. Mon chột dạ. Mắt Mon rưng rưng. Mon nói như khóc:
    -Gấu ơi! Chúng mày đừng bỏ anh nhé.
    -Rồi Mon giũi đầu bíu cả hai tay lên vai gấu. ở bên kia rừng, đàn gấu từ nãy vẫn nhìn sang, bấy giờ trông thấy người nhô ra, thế là chúng nó lộn xộn kéo đi. Một thoáng đã mất hút, không thấy đâu nữa. Hai con gấu trên tảng đá ngây nhìn theo, nhìn theo mãi. Gấu muốn đi với đàn hay như thế nào, Mon không biết. Mon giơ hai tay, nắm mõm hai con gấu, thủ thỉ nói:
    -ừ, chúng mày nghĩ phải. Anh em ta đây, anh em mình đây cơ mà. Gấu anh và Gấu em cùng thè cái lưỡi âm ấm liếm hai bàn tay Mon. Mon cảm động vuốt hai tai gấu bẹp xuống. Lát sau, ba đứa đi sang cánh rừng phía trước. Như hôm qua, mỗi đứa lại đeo vác những thứ lịch kịch, lọm cọm. Vừa đi được mấy bước, hai con gấu ngoảnh lại. Mon cũng ngoảnh đầu lại. Mon thấy đằng xa đàn gấu lúc nãy đương nhấp nhô đi theo. Tự nhiên, Mon lùi lại, đi sau cùng. Mon xôn xao, lo lắng lắm. Thế này là thế nào? Bọn kia muốn rủ anh em gấu này đi theo. Nếu không, chúng nó theo làm gì. Mình đi đâu chúng nó cũng bám, lúc xa lúc gần, không rời. Theo xem gấu đi với mình ư? Chắc không phải. Chúng nó muốn làm ác, muốn cắn xé mình ư? Không, mình có trêu ghẹo bọn nó đâu. Nhưng chúng nó cũng chỉ lờ lững đằng kia thế thôi. Cứ lúc nào Gấu anh, Gấu em quay đầu thì Mon lại lo. Mon nói như khóc:
    -Gấu ơi! ở với tao! Chúng mày ở với tao! Đừng theo chúng nó. Anh mày đây mà! Đừng bỏ tao một mình nhé.
    Gấu anh và Gấu em chỉ nhìn lại rồi lại đi. Nhưng, Mon không thể yên lòng. Đàn gấu lẵng nhẵng theo sau như cái đuôi, và khó chịu như người đi đường sắp bị cơn mưa dập tới. Có lúc, Mon định trèo lên cây rồi phóng lao xuống. Một thằng mà chết thì cả đàn chúng mày phải bỏ chạy. Nghĩ thoáng thế thôi, Mon lại thôi ngay. Gấu chẳng làm hại mình, không nên thế. Vả lại, chúng nó có đàn đấy, nếu một con bị ngã, cả đàn sẽ xông đến trả thù thì không xong. Từ khi ở rừng, Mon gặp biết bao loài thú có tiếng ác, cả hổ, cả trăn, cả chó sói, cả cá sấu, cả con giải, nhưng Mon biết rồi, chúng cũng như mình, ai có công việc ấy, không ai bận đến ai, không ai tự nhiên động đến nhau. Đàn gấu kia muốn gì đây. Chúng nó muốn rủ hai thằng này theo. Đúng thế rồi. Làm thế nào bây giờ? Làm thế nào? Nghĩ đi nghĩ mãi không ra nhẽ. Mỗi lần gấu đương đi lại quay đầu lại, Mon kêu van:
    -Gấu ơi gấu! Mon đây mà... Gấu anh, Gấu em có nghe tiếng Mon nói không... Nhưng hai con gấu chỉ quay lại nhìn rồi vẫn cung cúc đi, lưng và cổ đeo lẵng nhẵng những xâu thịt khô và Mon vẫn đi sau. Đi xuyên rừng suốt ngày, rừng già rồi rừng thoáng. Chiều đến, khi sương xuống mờ mờ, không thấy đàn gấu đằng sau nữa. Đàn gấu đã lảng hay chúng nó lạc không theo được. Mon thấy dễ chịu hẳn, thế là Mon thúc:
    -Chạy nhanh thôi! Rồi Mon chạy. Hai gấu cũng chạy theo. Mon cố chạy vào trong làn sương dày cho đàn kia không trông thấy nữa. Sương đã nặng lắm, tối rồi. Được một đỗi xa, Mon dừng lại. Rồi, lại như tối trước, Mon đốt đống củi. Ngọn lửa bừng lên, Mon ngồi hơ cho tay bớt giá rồi làm thức ăn. Mon nướng thịt. Trong khi Mon lấy cái ống đựng trám, đổ ra, hai con gấu nhặt từng quả trám trắng, nhấm nhót, nhá lốc cốc. Cả ngày hôm nay hai con gấu cứ mê mải đi, không con nào chùn lại lùng bắt tổ ong như hôm trước. Có lẽ gấu cũng ngại thế nào, không muốn. Gấu sợ ra đằng kia, đàn sẽ dụ dỗ cũng nên. Mon nghĩ thế. Bỗng Mon ngoảnh mặt ra, thấy ngoài trời tối, vô số những con mắt đỏ đục nhấp nháy chạy đi chạy lại. Đêm ta đốt lửa, thường thú rừng hay mò đến xem. Bố hay ném lao được những con hươu đến nhìn lửa như thế. Mình cũng đã ném được. Có lần hươu mải xem lửa, Mon mò ra, kéo được chân bắt sống con hươu nhỏ. Nhưng thoáng trông đây, Mon đoán cũng biết ngay không phải hươu, không phải mắt nai, cũng không phải mắt hổ.
    Lại vẫn đàn gấu. Những đôi mắt to. Những đôi mắt nhỏ. Xanh lè. Những gấu to. Những gấu con con. Tất cả đương nhìn lửa. Lại như ban sáng. Gấu anh nhìn ra. Rồi Gấu em cũng nhìn ra. Mon không dám ngủ, cứ ngồi mắt thao láo trông xa rồi lại nhìn hai con gấu. Hai con gấu nằm lim him có ánh lửa ánh lên mắt. Gấu đương nghĩ gì? Đàn gấu cứ theo mãi thế này. Sao chúng nó theo mãi? Ngộ đến lúc anh em gấu ngã lòng thì sao. Những con gấu không nói năng, nhưng Mon biết trong những con mắt im lặng có hơi đàn quấn quít, có sự năn nỉ, có sự dỗ dành: hai thằng kia, mày đi đâu, mày đi với ai? Sao mày đi với người ấy? Thằng người ấy giết mẹ chúng mày rồi bắt chúng mày phải theo a? Thế mà chúng mày chịu theo a? Tội nghiệp, nó giết ******, bắt chúng mày đi theo từ lúc bé a? Mon cũng nghĩ rồi cứ chốc lại lẩm nhẩm kể lể: Gấu! Gấu! Gấu! Chúng mày nhớ không? ****** chẳng may phải con trăn quấn chết. Hôm ấy không gặp tao thì con trăn nuốt nốt cả hai thằng rồi. May mà tao cứu được, tao đem chúng mày về. Lúc ấy chúng mày còn non quá, chưa mở mắt kia mà. Tao vuốt từng đám lông cho ráo. Mẹ chúng mày vừa mới đẻ chúng mày ra thì gặp nạn trăn đói. Tao phải đi lấy cỏ cho chúng mày ăn. Cả măng nữa. Có thế chúng mày mới chóng cứng khoeo lên. Từ ngày ấy tới giờ... Gấu! Gấu! Biết thế không! Biết thế không! Gấu ơi! Mon tỉnh dậy, thấy hai con gấu thức, nằm nguyên một kiểu như chặp tối, từ chặp tối vẫn nằm thế. Hai chân trước duỗi dài, mõm kề sát đất, mắt hấp háy nhìn đống lửa. Trong ánh lửa, mắt gấu hình như càng về khuya càng long lanh. Hay là nước mắt? Chúng nó khóc?
  9. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Một lúc, Gấu anh đứng dậy. Gấu em cũng đứng theo. Gấu anh bước ra mấy bước. Gấu em bước theo. Mon ôm mặt, không dám giơ tay, không dám bước ra. Mon cũng không muốn bước ra. Bây giờ thì tùy lòng nhau. Lời nói nào, sự cách trở nào bây giờ cũng không ngăn được nữa đâu. ại chao, chúng nó ra rừng cả rồi ư? Ngoài rừng tối vẫn rối loạn, cuống quít, đi lại những đốm mắt sáng, mắt to, mắt li ti. Cả đàn gấu ngoài ấy vẫn thức. Cả đàn gấu vẫn ngồi đợi ngoài ấy từ chập tối. Bây giờ Gấu anh và Gấu em, nghĩ đến cùng kiệt rồi, chúng nó sắp bỏ mình, chúng nó ra với đàn. Những con gấu không gọi nhau. Nhưng hơi gấu nồng ấm trong sương, những con mắt lóe sáng trong đêm, những cái ấy biết trò chuyện với nhau. Hai con gấu không bước ra mà đứng lại. Rồi hai con gấu quì hai chân sau xuống, nhìn ra. Như lúc sáng, hai con gấu đã xếp hai chân sau ngồi thế, nhìn ra. Thế là Mon hồi hộp rón rén bước đến. Mon lại lẳng lặng chui vào nách hai con gấu. Như lúc sáng. Mon và chúng nó đã quen hơi nhau, và quen cả cách cứ đứng như thế một lúc, thấy ấm, và thế là lại như mọi khi, hai con gấu nằm ềnh xuống. Cánh tay Gấu anh dang ra cho Mon gối. Đêm lạnh vẫn ngủ thế. Đêm nay cũng thế. Mon và hai con gấu lại lăn ra ngủ say mê mệt. Trời tảng sáng. Hai con gấu đã dậy từ lúc nào, lại đương ngồi mê mải nhìn ra, hai chân trước đứng khòng khòng. Đằng kia, đã trông rõ đàn gấu vẫn tụ cả dưới gốc cây. Những con gấu thoăn thoắt trên cây xuống, dáng hẳn mấy con gấu bé vừa mới thức. Nhưng, Mon tin anh em gấu ở với Mon và không đi theo bọn kia. Mon tin thế. Mon nghĩ: ra với chúng nó thì gấu đã ra đêm qua, lúc nó bước khỏi đống lửa. Nhưng lúc ấy gấu đứng lại rồi ba đứa nằm úp vào nhau, ngủ như mọi đêm. Có thể, gấu đã định ở lại. Mon vui vẻ giơ bàn tay. Hai con gấu hếch mõm, liếm tay Mon. Vừa ấm, vừa mát, nhưng thích. Anh em gấu vừa liếm tay Mon, như nói:
    ?oAnh yên lòng. Chúng em đã ở với anh từ khi mồ côi mẹ. Chúng em không đi đâu đâu. Chúng mình đương đi tìm bố mẹ và em anh đây mà!" Trời đã sáng hẳn. Mon lại khoác những xâu thịt khô lên cổ mỗi con gấu, buộc lại cẩn thận. Mon xách lao trúc, đeo dao đá, dao vàng, hòn cuội đánh lửa, cả ba lại bắt đầu một ngày đi. Cẩn thận, Mon vẫn đi sau. Đàn gấu kia cũng công phu, vẫn không chịu bỏ. Lại lẽo đẽo luẩn quẩn theo đằng xa, như hôm trước. Chốc, Gấu anh và Gấu em lại ngoảnh lại. Mon hơi phân vân, lo lo. Mon nghĩ ra một kế:
    ?oTa xuống bờ biển, hẳn đàn gấu mất theo. Gấu chỉ ở rừng sâu. Gấu không dám ra chỗ trống". Mon làm ngay thế. Bãi rộng, phẳng tắp, Mon và hai con gấu ra tận tảng đá kề bên nước. Biển im như tờ, ánh nắng hắt màu rong rêu ở đáy nước, làm cho mặt biển đổi màu xanh ngắt. Lặng lẽ, những đợt sóng nhỏ sáng sớm của con nước thấp vừa âm thầm rút xuống, trơ lại tảng đá rêu xanh mướt. Làn mây mỏng phủ dài cuối biển. Mặt trời ủ trong mây, giữa trưa mà như chiều êm đềm. Lâu không ra biển, Mon định ở lại đấy. Vừa kiếm sò về nướng, vừa để nghe xem đàn gấu đằng sau ý tứ thế nào. Hai con gấu đương ngơ ngác nhìn vào. Đàn gấu kia đã đứng lại trong chân rừng. Quả nhiên, không con nào dám ra chỗ trống trải, không con nào dám xuống bãi cát theo ra. Chúng nó ngơ ngẩn một lát rồi quay lại. Cả đàn đã lấp vào rừng sâu. Mon nghĩ: hay quá. Thế mà gấu sợ bãi cát thật. Ta ở luôn đây vài hôm, chắc chúng mày phải thôi theo. Nhưng không ở chỗ này, ta sẽ chuyển đến đằng kia cho mất đi theo. Anh em gấu còn ngóng vào một lúc nữa. Nhưng đàn gấu kia đã chán, đàn gấu bỏ vào rừng rồi. Đến tối, đốt lửa lên, trông vào không thấy những đốm mắt. Mon ngủ một đêm đẫy giấc. Nghe gió biển mơn man qua trên mặt. Nhưng sớm hôm sau, lại thấy đàn gấu nhấp nhô ở chân rừng trong kia. Lại ngay ngáy lo. Hai gấu và Mon cứ ở lại suốt ngày ở bờ biển, không dám vào. Chặp tối, trong kia trông ra chắc không thấy. Mon đưa hai con gấu theo bờ, chạy nhanh xuống cách đấy một quãng xa. Đêm hôm ấy không đốt lửa. Sáng hôm sau, không thấy đàn gấu trong gốc cây chân rừng. Có lẽ thoát. Nhưng cũng chưa dám vào vội. Cả ngày, Mon đi tìm những tảng đá sần sùi chồng chất bám những con hà. Lấy đá đập một cái, thịt hà tứa ra. Mon hút tươi, mát ngọt. Rồi lại ngủ đêm lại ở mép nước.
    Nhưng bây giờ lại sang nỗi lo khác. Những cái măng khô đeo trên cổ hai con gấu, chỉ còn gặm một bữa thì hết. Sò tươi ăn ngon, sò nướng vừa ngon vừa thơm, gấu không ăn. Phải vào rừng kiếm măng, mà vào rừng thì biết đâu đàn gấu chẳng trông thấy, lại theo. Khó nghĩ quá. Nhưng, đến khi đói rồi, anh em gấu thấy Mon ăn sò, gấu cũng bắt chước. Mon cứ trố mắt nhìn. Hai tay gấu to xù xì mà thật khéo, bóc gọn, vỏ sò mở toác, màu đỏ tươi sò huyết, rồi gấu thè lưỡi hút. Con sò ướt vừa tọt vào mõm, cả hai gấu lại lắc lắc ra. Gấu cố ăn sò nhưng gấu vẫn sợ tanh, chưa ăn được. Gấu lại ngồi bần thần nhìn Mon hút sò, Mon lại ăn làm mẫu cho anh em gấu, nhai tóp tép cho gấu thèm. Một chốc, gấu lại cầm con sò khác, bóc và liếm rồi lại lắc lắc. Tức quá, Mon bật cười lên. Hai con gấu ngồi ngẩn ti hí mắt nhìn. Nhưng chỉ một lúc, gấu đói quá. Măng khô không khốc như củi. Cũng nhá hết rồi. ở bãi biển, không thấy lá ngót, không có quả trám, không có mật ong. Lẩn thẩn, rồi đâm liều, thế là gấu mon men ra bờ nước, gấu vác đá, đập hà. Mỗi con hà chỉ được một vảy thịt, không đủ dính góc mép. Gấu cúi xuống liếm, nuốt chửng. Hôm sau, gấu thò tay đuổi bắt cáy. Những con cáy tám chân lềnh nghềnh bé tý. Con cáy có một chiếc càng to, cáy bò như ôm cái khèn. Gấu bắt cả cáy càng to, nhai luôn. Rồi gấu trông thấy trong nước có con ruốc đứng múa, con mực hoa chân bơi toài toài. Gấu quơ ra.
    Con ruốc trốn lọt vào lỗ cát. Gẫu móc lỗ cát, vớ được con ruốc, quên hết cả cái sợ tanh mọi khi. Giống gấu phàm ăn, khi đã quá đói chẳng kể gì. Cả đến con sam có cái mai to bằng vỏ dừa mà gấu vớ được cũng nhấc lên, ngắm nghía rồi nhá luôn cả vỏ, cả đám chân sam lúa nhúa. Mon nhớ một hôm, nhớ ngày trước nhà ở Bãi Lở, Mon bắt chước bố mẹ đốt đất nặn bánh ngói đưa cho gấu. Gấu nhai gau gáu từng miếng bánh ngói bằng đất sấy nhỏ lửa. Mới lại biết tính gấu hễ đói thì quơ tất. Thế là Mon đã biết cách dỗ gấu ăn được thịt mà lúc đầu ngửi, bao giờ gấu cũng lắc lắc. Cái cớ giản dị để ở lại bờ biển được hai đêm nữa: bởi vì hai con gấu đã ăn thịt nướng. Tối hôm ấy, đốt lửa. Cũng không thấy trong bóng tối phía rừng có những chấm mắt xanh nhìn ra. Đến sáng, nhìn thấy rừng quang. Đàn gấu đã đi thật. Thật chúng nó không theo rủ rê hai con gấu này nữa. Mon thấy yên trí, Mon và anh em gấu trở lại đi phía khác. Buổi trưa, nghe mấy tiếng quắc quắc trên không. Rồi từ sau rặng cây trước mặt, sà lại mấy con chim biển. Những con chim này giống hệt con chim năm trước thấy, chim to bằng con vịt, lấm tấm trắng, hai đầu cánh chấm đen. Mình nó thon thả, nhưng trông đến cái mỏ thô lố thì biết ngay là giống chim phàm ăn. Mấy con chim đương giằng xé cái gì trên kia. Giữa trời mà chúng cướp mồi kịch liệt như ở mặt đất. Đạp nhau, húc cánh. Những cái mỏ chọi đôm đốp. Những tiếng quắc quắc rợn lên. Một đám lông tơi tả rơi xuống đầu Mon. Mon đã trông rõ những con chim đương tranh nhau một miếng đo đỏ, trăng trắng như con cá tươi. Tưởng chúng giằng giựt quá chân quá mỏ thế nào cũng rơi mồi, thế mà không, chỉ trong thoáng mắt, miếng mồi đã được xé biến vào các mỏ. Hết mồi rồi, đàn chim lại xô nhau bay trở lại sau lùm cây. Năm trước, vào mùa này, Mon ra chỗ này. Cũng gặp con chim biển. Mon nghĩ: thấy chim có thể thấy người, khi trở về, ý định đi tìm cha mẹ đã sôi nổi, và bây giờ lại qua đây. Lại gặp chim biển, lần này gặp những mấy con. Dạo ấy, tìm được cái hạt gì trong đám *** chim đem trồng chỗ hốc đằng kia. Thử lại xem cái hạt lộn kiếp ấy thế nào. Mon nhìn lại, nhận ra hướng rồi đi tìm nơi hốc đá mà Mon đã bỏ cái hạt. Vừa đi, Mon vừa nghĩ. Không phải nghĩ xem còn cái hạt hay không, hay cái hạt lộn kiếp nở cây gì. Mon không để ý, bởi chẳng chắc đâu có cái gì.
    Mon đương nghĩ đến đàn chim. Năm ngoái gặp có một con. Năm nay, gặp một đàn tranh nhau giựt mồi. Có chim có người, biết đâu bây giờ chẳng đã có người đến ở, nên có chim đến. Biết đâu chuyến này đi sẽ thấy được bố mẹ, biết đâu chốc nữa sẽ gặp bố mẹ, gặp em. Nghĩ thế, Mon nao nao trong người và tự dưng, chân bước thoăn thoắt nhanh hơn. Mon nhận ra tảng đá ấy ngay trước mặt. Tảng đá cao, bên cạnh há ra cái hốc đen thẫm. Mon đi nhanh đến. Hai gấu lon ton theo. Lạ quá, nghe lao xao như tiếng người cãi nhau trong hốc đá. Tiếng người? Tiếng người cãi nhau to. Không, tiếng gì lào xào. Như tiếng gió quết trên bụi mía, bụi ngô. Rồi lại phảng phất xa. Chưa chắc đã là tiếng người, rồi lại thấy đúng, có tiếng gì như tiếng người thật. Mon chạy vội đến. Mon trèo lên mỏm đá, nhìn xuống. Thấy những con chim lúc nãy, mà đông hơn nhiều. Đàn chim đương xúm xít vộc đuôi, châu mỏ dưới chân tảng đá. Chúng lại tranh ăn dưới ấy. Tiếng lầm rầm nghe là tiếng đạp, tiếng xô cánh, tiếng kêu, tiếng mỏ chọi nhau của những con chim cướp cái ăn, như lúc nãy ở trên trời. Mon cúi xuống gần tận nơi.
    Đàn chim mải tranh mồi, cũng không hay. Mon lẳng một hòn đá vào giữa đám. Đàn chim lại càng xô vào mổ nhau tợn, mổ xốc lấy cả hòn đá. Chim ở đây chưa biết sợ. Chúng lại mải tranh ăn dữ dội nữa. Rồi cả hai gấu chạy đến tận giữa đám chim, kêu khặc khặc như quát mắng. Bây giờ chim mới chịu lả tả bay tản ra, thế nhưng vẫn chới với tiếc rẻ liệng quanh. Mon trông vào hốc đá, thấy lòng thòng mấy cái dây như dây bí, khô trắng. Cái dây bò dài từ mép đá ra. Cái dây hệt dây bí, ở mỗi mấu trổ một tàn lá to tròn, đã héo vàng úa. Đến mùa quả chín thì lá vàng giữa dây. Trên đốt dây có quả to -quả bí ử. Quả này thô lố bằng đầu gối, tròn vóc và dài con như cái gối xếp gỗ. Vỏ bóng mỡ, xanh đen, lẫn với hòn đá suối đương giữa mùa nước có rêu phủ. Mới đầu thấy một quả, trông lại thấy một quả nữa. Trông lại thấy một quả nữa. Đếm cả thảy được bảy quả to. Có quả, chim đã ăn hết, chỉ còn cái cuống dính miếng cùi. Có quả chim đương mổ, vệt mỏ khía hết vỏ đen xanh, ở trong có màu cùi trắng bạch. Cái quả lạ lùng, chưa được thấy bao giờ. Nhưng, tưởng như mới ngắm đã thấy đẹp, thật no mắt mát mắt. Chắc ăn được. Mon quay lại, hấp tấp hỏi hai con gấu:
    -Chúng mày có biết quả gì đây không?
    Hai con gấu chụm chân ngồi im, hau háu nhìn xuống. Mon bước tới, rút con dao sau lưng, rồi nhấc cái dây quả lên. Lưỡi dao vàng ánh xuống, loáng một cái, đã cắt được cuống một quả. Quả tròn và nặng, đã già, mới va vào đá đã nứt tách ra. Mon phải kẹp đầu gối đỡ lấy rồi hai tay bưng, trèo lên chỗ hai con gấu. Mon lại hỏi gấu, tự nhiên:
    -Quả lành hay quả độc, chúng mày biết không? Hai con gấu vẫn hau háu nhìn quả lạ.
    Mon hồi hộp quá, đã quên hẳn, không nhớ đấy là gấu, lại nói:
    -Chim ăn được thì chúng mình ăn được, không sợ. Có phải không? Mon nhấc con dao. Con dao vàng ngời sáng trong ánh nắng trên tảng đá. Mon xoa quả lạ một cái, rồi cầm dao lên. Một nhát vàng bổ xuống, quả nứt căng, tách đôi ra. Dưới lần vỏ màu xanh, hé ra một lớp cùi trắng mỏng rồi tảng ruột đặc sang sáng sàn sạn như cát, đỏ ối, lấp lánh quanh nạm hạt đen nhánh. Mon bổ quả lạ làm bốn. Mon cho mỗi gấu một miếng. Mon cầm một miếng, đưa lên miệng. Mùi nước thơm ngọt mát kề ngay trước môi. Đương cơn khát, Mon chỉ ăn một thoáng đã hết miếng. Trông sang, hai con gấu đã nhá veo cả ruột lẫn vỏ từ lâu. Và Gấu em đương lẳng lặng khều trộm miếng còn lại trên mặt đá bên cạnh Mon. Mon xuống khe, hái nốt mấy quả kia lên, bày la liệt lên mặt đá. Mon bổ một quả nữa. Mon cứ ngắm mãi màu ruột quả đỏ lợ. Lần này, không đợi Mon nhấc hẳn lưỡi dao ra, hai con gấu đã xúm tay bê hai nửa quả nhá gau gáu. Chẳng mấy lúc, lại chén hết quả nữa. Rồi quả nữa, hai thằng cũng lẻm hết. Mỗi gấu chén ba quả liền một lúc. Xong, cả hai anh chàng gấu cùng thiu thiu mắt, ngã ngửa người xuống tảng đá. Họng khò khò như có cái gì chẹt cổ.
    Mon giật mình. Thôi chết, ăn phải quả độc. ?n phải quả độc sắp chết. Tiếng khò khò càng to, hai con mắt gấu mỗi chốc lại trợn trắng lên kia. Mon cũng ăn hết một quả, Mon cũng ăn hết cả một quả, Mon cũng chết đến nơi. Nhưng Mon vẫn thấy mình tỉnh. Mon bặm môi lại, vẫn thấy như thường. Mon rút hai con dao sau lưng, Mon múa dao lên trời. ánh lưỡi dao bay vàng loang loáng. Chẳng thấy sao cả, vẫn khỏe thế. Nhưng Mon trợn. Mon muốn móc họng cho nôn. Nước mùi quả lạ trong cổ tứa thơm. Có gì đâu. Nước quả lạ thơm mát thế, chẳng nhẽ lại là quả độc! Mon lại lặng lẽ ngồi xuống, cố bình tĩnh. Hai con gấu nằm ngửa, gà gà sắp chết, như thế đến tận trưa, vẫn chưa chết, Những tiếng thở có lúc rống lên như lúc đánh vật hăng. Rồi, cả hai từ từ lăn mình nằm sấp. Cái bụng đã tọp đi, bây giờ mới nằm sấp được. Có lẽ chỉ tại gấu ăn no quá, chướng bụng nghẹt thở, từ nãy phải nằm ngửa cho khỏi tắc cổ. Mon nghé tai, nghe tiếng gù đều đều. à, tiếng ngáy, tiếng ngáy. Bây giờ gấu nhắm mắt, gấu ngáy. Bây giờ gấu ngủ say cả rồi. Mon đứng dậy, vỗ độp một cái vào đít, như phủi bụi, cười to.
    -Những thằng này sắp chết vì nốc quá mồm!
  10. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Rồi Mon cũng nằm xuống ngay cạnh gấu, khoan khoái làm một giấc. Cả buổi chiều và tối, không phải ăn. Sáng hôm sau, còn một quả, chén nốt. Hai con gấu lại nhá sồn sột, ngon lành. Đã quên trận ăn tham đến ngột cổ suýt vỡ bụng hôm qua. Sáng sớm, những con chim biển lại lảng vảng đến. Đàn chim biển lượn vòng rộng và bay đi dọc dài, nghiêng nghé, ngắm nghía tảng đá. Nhưng chẳng còn cái ăn như hôm qua. Lượn một lát, rồi từng con, lả tả, phấp phới bay về phía xa, rồi mất tăm theo bờ nước xanh ngắt. Mon nghĩ:
    ?oTa cứ đi theo chim. Điềm lành đã đưa ta gặp quả ngon. Điềm lành đã đưa chim đến". Mon và hai con gấu tung tăng đi. Biển cát phẳng tăm tắp. Mon vơ hạt quả lại thành một bọc, đem theo. Cứ thấy chỗ nào có hốc đá ẩm, Mon lại vùi vài hạt. Như ngày trước đi theo bố mẹ tra hốc trồng đậu ở bãi ven sông Cái. Cả ngày đường, Mon rắc hết bọc hạt, chỉ giữ lại một nắm, định đem những hạt giống ấy về trồng ở gốc thông, trước lều. Chẳng bao lâu, đi đến chỗ vướng núi chắn ra biển năm trước, phải dừng lại. Lần này Mon quả quyết trèo lên. Nhưng trông sang sau núi đằng kia, vẫn chỉ thấy viền trắng một bãi cát dài. Mon trèo xuống, sang rắc thêm mấy hạt bên bờ ấy. Bỗng nghe những tiếng cười đùa ầm ầm ngoài khơi. Mon vụt ngoảnh nhìn ra. Một đoàn người đang vùng vẫy ầm ĩ ngoài ấy. Những bóng đen nhấp nhô hụp lặn. Người ở đâu đến đùa giỡn chơi được giữa vùng biển mênh mông kia. Mon nghe kỹ, hình như tiếng rít, tiếng thét, không phải tiếng cười. Nhưng vẫn là một đám người đương lênh đênh ngoài ấy. Hay là có một chiếc thuyền đắm? Mon lên mỏm đá để nhìn cho rõ. Bỗng nhiên, tất cả đám ấy biến đi. Mặt biển lại ánh màu xanh rêu xanh đen trầm lặng bát ngát. Nhớ bố nói ngoài Ninh Hải có giống cá lợn thường lên mặt nước chơi đùa như trẻ con. Giống cá này đen trùi trũi mà hiền, người bơi vào vùng vẫy chơi với bọn cá cũng được. Có lẽ đây cũng là đàn cá lợn đi chơi. ít lâu sau, lại thấy cá lợn chơi đùa trên mặt biển. Bây giờ biết đích xác là cá, không phải người. Càng nhớ bố mẹ. Đi thêm mấy ngày, gặp một vùng bãi lầy có rừng rậm kề nước. Cành lá sát xuống tận đất, chui vào mà không vạch được lối ra. Tối ấy, Mon và hai gấu phải núp lại giữa bụi cây chằng chịt, trong lòng đá của một con suối mất dòng đã cạn khô, như những con tê tê rúc ráy bới đất làm nơi trú ẩn. Mon nghĩ mẹo, đánh lửa đốt cái bụi rậm bên cạnh. Lửa loang cháy toang ra. Suốt đêm cháy rừng, tàn lửa rực một góc trời, thế là nằm trong bụi cũng được sáng như ban ngày. Mon chuyện với hai con gấu:
    -Lần này ta đi gặp may nhiều lắm. Chúng nó rủ rê chúng mày thế mà chúng mày không bỏ tao.
    Rồi con chim lại đưa đến chỗ nhặt được quả lạ, ăn đến bây giờ còn thơm miệng. Tuy gặp may nhiều thế nhưng mà cũng chưa gặp được bố mẹ. Bây giờ đi mãi cũng không nên, phải quay lại. Để tao nghĩ xem nên thế nào đã rồi đi đằng khác vậy. Quay trở về, nhưng Mon không buồn. Về qua chỗ bãi mà Mon đã vùi những hạt quả ở đầu bãi, Mon tưởng tượng: sang năm, những dây này ra quả, suốt dọc biển chỗ nào cũng sẽ có quả ngon. Sang năm, chim biển sẽ kéo về ăn quả nhiều nữa. Khi ấy, chắc bố mẹ mình ở đâu cũng thấy có chim bay qua trên đầu. Bố mình sẽ đoán: chim biển về đâu thì đấy có đất và có người ở. Ngày trước, bố đã bảo như thế. Rồi bố sẽ đưa mẹ và em theo chim đến đây. Mình ra hái quả, thế là được gặp. Thế nhưng, mọi việc trong đời không phải chỉ có những gặp may như Mon nghĩ. Mon đương sắp một chuyến đi tìm bố mẹ nữa thì Mon bị ốm. Bước chân xuống bậc đá, hai đầu gối run rẩy. Cả ngày, Mon nằm trong sàn. ốm mà phải thui thủi thì tủi thân quá. Người gầy rộc, cứ nằm dán mình xuống, không ngóc đầu lên được. Chẳng biết nằm như thế đã mấy ngày mấy đêm hay hàng tháng rồi. Những con gấu cứ lúng túng không biết làm thế nào. Rồi hôm sau hai con gấu hùng hục đi một lúc vác về những rau ngót, măng, quả trám, có khi những con sò, con ngán, bày la liệt mặt sàn.
    Lại nói về nhà An Tiêm. Lời An Tiêm nói, Nàng Hoa thấy là phải. Phải kiên gan mới có sức sống tới ngày đi tìm con được. Khi nghe ra thế, Nàng Hoa cảm thấy mình khỏe, không lệt bệt yếu như trước nữa. Nàng Hoa ngồi dậy, Nàng Hoa ra gốc cây, xách vào cái ống tre nước. Nàng Hoa đổ nước ra tay rồi vỗ lên mặt. Mặt gầy hóp, nhưng đã khô hẳn nước mắt. Nàng Hoa không khóc nữa. Nàng Hoa vào trong lều, nét mặt Nàng Hoa lặng lẽ và nghiêm. An Tiêm biết câu nói của mình đã thấm ý nghĩa. Nàng Hoa nghe ra rồi. Khóc thương không thể làm gì. Chỉ có mạnh chân khỏe tay mới có hy vọng tìm lại được người. Nàng Hoa đã hiểu như thế. Từ hôm ấy, cả nhà lại đổ sức vào làm cho được chỗ ở và cái ăn. Phải, làm người phải có cái mái để che trên đầu, dù chỉ trú chân, khác con tê tê chỉ biết bới hang đất. Suốt ngày tản đi rừng, chỉ những lúc về đốt ống tre nấu canh hay nướng thịt, mới quây quần quanh lửa. Những lúc ấy lại không thể đừng được nỗi nhớ. Có khi cái Gái bỗng dưng ngẩn ngơ để rơi miếng thịt đương cầm trên tay rồi òa khóc. Thế là nước mắt lại đầm đìa xuống má Nàng Hoa. Nhưng chỉ những lúc ấy thôi, bởi vì cả Gái cũng đã hiểu nhà mình có lẽ chỉ tạm ở đây, bố mẹ đương lo đi tìm anh Mon. Cái Gái theo bố, theo mẹ biền biệt vào rừng. Đương mùa măng, mỗi buổi Nàng Hoa và cái Gái đem về từng bó măng, rồi phần để ăn, phần lấy mảnh tre bổ ra phơi khô. An Tiêm đã đẽo cái lao tre, phóng được mấy con nai to, đem gác bếp phơi khô để làm thịt ăn đường. Chẳng mấy lâu, trên sườn lều đã lủng lẳng từng dãy thịt nai sấy. Khi những miếng thịt đã khô se, đen như bồ hóng, một hôm, An Tiêm bảo Nàng Hoa:
    -Mai ta đi tìm con, mình ạ. Nàng Hoa hỏi An Tiêm:
    -Đi thế nào, hả mình? An Tiêm nói:
    -Cả nhà ta cùng đi. Trước kia chúng mình đã định thế nào cũng có lần trèo xuyên ngang đảo tìm xem bờ bể bên kia có khác bên này không. Chúng ta muốn đến sinh sống ở nơi bằng phẳng có cá, có đất thì mới còn cầu may có khi gặp được người... có khi còn trở lại đất quê. Ta đương định như thế thì cơn bão nước ập đến, phá tan cả.
    Nhưng cơn bão nước đã đổ về đằng ấy, thế là ta biết đất dốc về đằng ấy, đất dốc bao giờ cũng đổ xuống bãi chứ không thể dốc lên núi. Bây giờ đi tìm con, ta đi theo vết con bão nước, cả nhà ta sẽ đi, bao nhiêu ngày không tính, cứ ra tới bể mới thôi. Thế là cả nhà đi. An Tiêm đeo cái ống nước dài như chiếc đòn ống, lưng giắt dao, hai tay xách hai cái lao trúc. Nàng Hoa theo sau, vác những buộc dây thịt khô, những bọc măng khô. Cái Gái đeo thêm cái mo nang bọc xống áo. Đi suốt mấy ngày, đêm ngủ lại đâu thì đốt lên đống lửa to. "ớc Mon còn sống ở rừng nào, trông ánh lửa mà tới. Nhưng, được hai hôm theo vết bão đổ rừng thì thấy không còn nhận được ra đi theo ngả nào nữa. Càng đi, vết bão còn lại càng ngổn ngang, tan hoang, không thành đường ống thuốn băng từng khúc rừng như chỗ gần núi trong kia. Rừng đổ chồng đống và con nước tràn qua mới chỉ ít lâu mà các thứ dây leo đã lại quấn quít xanh rợn lên, các sườn rừng cỏ tranh đã lại ngùn ngụt cao ngang người. Không còn dấu tích gì. Cái mong gặp Mon trên dòng nước phá của cơn bão không còn như lúc mới nghĩ. Biết theo lối cây đổ nào mà đi bây giờ? An Tiêm bảo Nàng Hoa:
    -Ta cứ đi thẳng vậy.
    Vất vả, dò dẫm từng bước. Những buộc thịt khô chỉ đề phòng mà thôi. Ngày ngày đôi khi dừng lại, ai cũng ngắt lá ngót, đào măng, bắt hươu, bắt ăn thịt con cầy, con nhím, con lửng lợn, con lửng chó, con kỳ đà. Chỗ thịt khô mang theo để dành, chỉ ăn đến những khi không kiếm được. Thế mà cũng vơi dần, biết là đi đã xa rồi. Đêm nào cũng đốt lửa. Có những đêm không ai ngủ. Trông ra bóng rừng chập chờn xung quanh, hồi hộp như sắp thấy Mon đến. Nhưng đến sáng, cũng chẳng thấy. Hôm sau, lại đi. Những đêm mới đi, lúc nào tắt lửa thì trời tối bưng. Bây giờ bóng rừng suốt đêm loang lổ ánh trăng. Rừng đã thưa, cứ mỗi hôm lại dấn lên đi nữa. Rừng thưa rồi đến khi thấy rừng thấp xuống, những lớp cây mọc càng rải rác ra, rồi không còn gặp một chỏm núi nào. An Tiêm đoán:
    -Có lẽ sắp ra chỗ đất phẳng. Nàng Hoa im lặng. Nhưng trong lòng lại ngỡ như ra được chỗ đất phẳng, biết đâu chẳng gặp được con.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này