1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Das Parfum - Mùi hương Chuyện một kẻ giết người ( Patrick Suskind )

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi colourofthewind2512, 12/12/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. huamai

    huamai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/11/2006
    Bài viết:
    81
    Đã được thích:
    0
    Chương 18
    Cho nên nó vui vẻ học nghệ thuật nấu xà bông từ mỡ heo, may găng tay từ loại da giặt được, trộn bột thơm từ bột mì, vỏ hanh nhân xay nhỏ và bột rễ cây đồng thảo. Nó học lăn nến thơm từ than củi, hỏa tiêu và mùn cưa gỗ đàn hương. Học ép kẹo thơm theo kiểu các nước phương Đông từ mật nhi lạp, an tức hương và bột hổ phách. Học nhồi viên trầm từ trầm hương, cánh kiến, cây hương bài và quế. Rây và quyết Poudre Imperiale từ lá hồng nghiền nhỏ, hoa oải hương, vỏ cây thiên thảo. Khuấy phấn thoa mặt màu trắng và xanh dịu, đổ khuôn thỏi son môi màu đỏ từ mỡ. Chắt lọc bột sơn móng tay loại thật mịn và phấn chà răng thơm mùi bạc hà. Trộn dung dịch làm quăn tóc giả, thuốc chữa chai chân, thuốc tẩy tàn nhang cho da, tinh cây cà dược để nhỏ mắt cho thêm quyến rũ, thuốc bôi ******** làm từ ruồi Tây Ban Nha cho quý ông và giấm vệ sinh cho quý bà ? Dĩ nhiên là chẳng thích thú gì lắm nhưng nó không kêu ca và học có kết quả cách chế tạo mọi thứ thuốc, bột, đồ vệ sinh và trang điểm thông thường, thêm cả cách pha trộn trà và gia vị, rượu mùi lẫn nước xốt dùng ướp cá thịt và những thứ đại loại như thế; nói gọn là tất cả những gì Baldini dạy nó với cái vốn hiểu biết rộng gia truyền.
    Nhưng khi Baldini chỉ dẫn nó cách thức để có được cồn thuốc, tinh chất và tinh dầu thì nó hăm hở lắm. Nó làm không biết mệt những việc như dùng máy ép hạnh nhân đắng hay giã hột có mùi xạ hương hoặc băn củ long diên hương mỡ màng màu xám bằng dao băm hay nạo rễ cây đồng thảo để sắc với loại rượu thượng hạng. Nó học cách sử dụng phễu tách để tách tinh dầu khỏi căn khi ép vỏ chanh. Nó học sấy dược thảo và hoa trên vỉ đặt nơi ấm trong bóng râm, cách giữ lá khô trong bình hay tráp có trét sáp. Nó học nghệ thuật tẩy po mát; các cách sắc, lọc, cô, làm trong và tính luyện nước sắc.
    Dĩ nhiên là xưởng của Baldini không thích hợp để sản xuất khối lượng lớn dầu lấy từ hoa hay dược thảo. Ở Paris cũng không thể có nổi khối lượng cây cỏ tươi cần thiết. Nhưng thỉnh thoảng khi mau rẻ được hương thảo tươi, cây xô thơm, bạc hà hay hạt giống hồi ở chợ hoặc gặp khi tới một chuyến hang lớn củ hoa diên vỹ hay rễ cây nữ lang, hạt phòng phong, hạt đậu khẩu hay hoa đinh hương khô thì máu nhà giả kim trong người Baldini lại chạy rần rần và ông lôi ra một nồi chưng cất to tướng; đó là một bình bằng đồng với bộ phận ngưng hơi đặt bên trên mà ông tự hào gọi là bình chưng cất có đầu Maure(33), ông đã dùng cách đây bốn mươi năm ngoài đồng trống trên vùng cao Luberon ở sườn Nam miền Liguria (34) để chưng cất cây đồng thảo. Trong lúc Grenouille lo xắt nhỏ những thứ để chưng cất thì Baldini hối hả đốt nóng lò gạch vì việc chưng cất này đòi hỏi phải làm thật nhanh, rồi đặt nồi đồng đổ nước ngập đáp lên trên. Ông bỏ cây cỏ đã xắt nhỏ vào đấy, đậy lại bằng cái đầu Maure rồi gắn hai ống cao su nhỏ nhỏ cho nước chảy vào và ra. Ông giải thích cách làm lạnh thần tình bằng nước này là do ông gắn thêm sau này chứ vào thời đó ở ngoài đồng trống người ta dĩ nhiên chỉ biết quạt cho nguội. Rồi ông quạt lửa lên.
    ------------
    33. một giống dân ở Bắc phi
    34. một vùng ở Bắc Ý
    -------------
    Dần dà nước reo trong nồi. Một lúc sau, tinh chất từ từ nhỏ giọt rồi thành dòng mảnh như sợi chỉ chảy từ cái vòi thứ ba của đầu Maure vào một bình Florentine(35) mà Baldini đã để sẵn. Thoạt tiên chất này trông hơi dơ như thể xúp lỏng, đục. Nhưng dần dần chất lỏng tách làm hai: dưới là nước của hoa hay cỏ, còn trên trên lềnh bềnh một lớp dầu dày, nhất là khi bình đã đầy được được qua một bên, thay bình mới thì ở bình đầy sự tách lớp kia lại càng thấy rõ. Sau khi cẩn thận rót ra thứ nước chỉ thơm thoang thoảng qua vòi dưới thì sẽ còn lại dầu nguyên chất, tinh dầu, cái nguồn gốc thơm lừng của cỏ hoa.
    Grenouille bị quá trình ấy quyến rũ. Nếu trong cuộc sống có gì khêu gợi sự đam mê kín đáo như sự đam mê đốt bằng ngọn lửa lạnh trong người nó thì chính là quy trình này: rút hồn thơm của vật bằng lửa, nước, hơi và một thiết bị tinh xảo. Cái hồn thơm này, cái tinh dầu, cái quý nhất của những vậy ấy là cái duy nhất làm nó quan tâm. Nó chẳng thèm để ý đến những thứ vớ vẩn còn lại: hoa, lá, vỏ, trái, màu, vẻ đẹp, sức sống và những ths không cần thiết khác. Đó chỉ là vỏ ngoài vô giá trị, đáng vứt đi.
    -------------
    35. Bình dùng trong chưng cất để tách hai chất lỏng khác tỉ trọng.
    -------------
    Thỉnh thoảng khi tinh chất đã trong như nước thì họ lấy nồi chưng cất ra khỏi ò, mở và đổ bã đi. Bã trông nhũng và xám ngắt như rơm sũng nước, như xương con chim nhỏ bị tẩy trắng, như râu bị nấu quá lâu, nhạt nhẽo, xơ ra, sền sệt, không thể nhận ra được nữa, chẳng khác xác chết ghê tởm và hầu như đã bị lấy hết mùi đi. Họ ném qua cửa sổ xuống song. Rồi lại xếp lớp cây mới vào nồi, cho nước và đặt lên lò trở lại. Rồi nồi lại bắt đầu reo, cái nguồn sống của cỏ cây lại chảy vào bình Florentine. Hầu như suốt đêm như thế. Baldini lo trông chừng lò lửa còn Grenouille ngó chừng các bình, chẳng có gì làm nữa trong lúc đợi thay bình.
    Họ ngồi trên ghế đẩu quanh lò lửa như bị cuốn hút bởi cái nồi thô kệch, mỗi người bởi nguyên nhân khác nhau. Baldini thưởng thức sự chói lọi của lửa, màu đỏ lung linh của ngọn lửa và của đồng, tiếng reo trong nồi cất như thể xưa kia vậy. Thế này thì mê ly quá! Ông lấy từ cửa hàng một chai vang vì cái nóng làm ông khát và uống vang thì cũng giống như ngày xưa ấy. Rồi ông bắt đầu kể chuyện ngày xưa, không dứt. Về cuộc chiến tranh giành ngai vàng mà ông dự phần không nhỏ chống lại quân Áo; về những người Camisard (36) đã cùng ông quấy rối vùng núi Cévennes; về con gái của một người Huguenot ở Esterel say mùi oải hương đã trao thân cho ông; về việc chút nữa thì ông gây ra một vụ cháy rừng, chắc chắn sẽ thiêu rụi vùng Provence (37) như hai với hai là bốn vì lúc ấy gió Mistral (38) rất mạnh; còn về việc chưng cất thì ông luôn luôn kể chuyện những đêm trên đồng vắng, dưới ánh trăng, bên chia rượu vang và tiếng ve sầu, về thứ dầu hoa oải hương ông tạo ra, rất thanh mà đậm đà, người hoa oải hương ông tạo ra, rất thanh mà đậm đà, người mua phải trả bằng bạc; về thời gian ông học nghề ở Genoa(39), về những năm ông đi nơi này nơi khác và về thành phố Grasse, ở đó người chế nước hoa đông như ở nơi khác làm bánh mì, trong đó có những người giàu đến nỗi họ sống như các bậc công hầu, ở trong những tòa nhà nguy nga có vườn cây bóng mát với sân thượng và ăn trong phòng ăn có tường ốp gõ, dùng toàn đĩa sứ và dao nĩa bằng vàng, v.v?
    Ông già Baldini vừa uống vang vừa kể những chuyện như thế, vang và lửa nóng cùng với sự thích thú chuyện mình làm mặt ông cũng đỏ như lửa. Còn Grenouille ngồi khuất trong bóng tối chẳng thèm nghe gì cả. Nó chẳng ham gì chuyện cũ, nó chỉ thích cái quy trình mới. Nó nhìn không ngớt vào cái vòi nhỏ trên đầu nồi chưng, từ đó một tia nhỏ tinh chất rỉ ra. Trong lúc dán mắt vào đấy nó tưởng tượng chính nó là nồi chưng cất, cũng sôi reo như thế này và từ nó cũng rỉ ra tinh chất như thế kia, chỉ khác là tốt hơn, mới hơn, lại lùng hơn vì được cất với những kỳ hoa dị thảo nó tự trồng trong người, nở hoa trong đó, ngoài nó ra không ai ngửi thấy, mùi thơm có một không hai của chúng có thể biến thế giới thành một vườn địa đàng thơm lừng; theo nó thì chỉ ở đấy sự hiện hữu ?" dưới góc độ khứu giác ?" mới tạm gọi là chấp nhận được. Được là một nồi chưng cất khổng lồ, làm tràn ngập thế giới với những tinh chất tự chế là giấc mơ tuyệt đích mà nó tâm niệm.
    Trong khi Baldini rạo rực bởi vang, không ngớt thổi phồng những chuyện ngày xưa, trầm trồ chẳng cần giữ ý thì Grenouille chấm dứt sự tưởng tượng kỳ quái của nó. Tạm thời nó xua khỏi đầu óc hình ảnh về một nồi cất khổng lồ, thay vào đó cân nhắc dùng những kiến thức mới học được vào những mục tiêu gần sao cho có lợi.
    -------------
    36. Những người Tin Lành Pháp ở vùng núi Cévennes nổi loạn chống vua Louis XIV vào nửa đầu thế kỷ 16
    37. Một vùng lớn ở Đông Nam nước Pháp
    38. Gío Mistral:gió lạnh hướng Bắc vùng song Rhone, Provence.
    39. Một cảng ở Tây Bắc nước Ý
    ----------------
    CHƯƠNG 19
    Chẳng bao lâu nó thành chuyên gia trong lĩnh vực chưng cất. Nó nghiệm ra rằng độ nóng của lửa có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng của thành phẩm; trong việc này, mũi của nó được việc hơn cả những quy tắc của Baldini. Mỗi cây cỏ, mỗi loại hoa, mỗi thứ gỗ, mỗi loại trái đòi hỏi một quy trình đặc biệt. Khi thì phải sôi sùng sục, khi chỉ sôi vừa phải và có loại hoa chỉ cho tinh dầu khi để lửa liu riu.
    Sự chuẩn bị cũng quan trọng tương tự. Bạc hà và oải hương có thể bỏ cả bó vào chưng cất. Những loại khác phải chọn kỹ, ngắt, bằm nhỏ, nạo, giã hay thậm chí phải làm thành bột hồ trước khi cho vào nồi. Có loại không thể chưng cất được làm Grenouille bực tức nhất.
    Khi Baldini thấy Grenouille đã thành thạo khí cụ này thì ông để nó tự do với nồi cất và Grenouille đã tận dụng sự tự do này. Ban ngày nó trộn nước hoa và hoàn thành những sản phẩm cho mùi thơm hay gia vị khác còn ban đêm nó toàn bận rộn với nghệ thuật chưng cất đầy bí ẩn. Ý định củ nó là sản xuất những hương liệu hoàn toàn mới để có thể chế được ít ra một vài thứ nước hoa mà nó sẵn có trong đầu. Mới đầu nó cũng thành công nho nhỏ. Nó tạo được dầu của hoa tầm na và của hạt cải xoong, nước của vỏ cây hương mộc còn tươi và của cành cây thủy tùng. Mùi của tinh chất chẳng giống tí nào với nguyên liệu nhưng cũng hay hay, dùng để chế biến tiếp được. Nhưng tất nhiên cũng có những chất mà quy trình hoàn toàn vô dụng. Chẳng hạn Grenouille thử chưng cất mùi của thủy tinh, mùi đất sét lạnh của thủy tinh láng mà người bình thường không cảm nhận được. Nó tìm kính cửa sổ và chai thủy tinh rồi thử dưới dạng miếng to, mảnh nhỏ, mảnh vụn, bột nhưng đều không thành công. Nó chưng cất đồng thau, sứ, da thuộc, ngũ cốc và sỏi. Nó chưng cất cả đất nữa. Rồi cả máu, gỗ và cá tươi. Cả tóc nó. Cuối cùng nó chưng cất cả nước sông Seine, mà cái mùi độc đáo nó thấy cần phải giữ. Nó tin rằng có thể lấy được với nồi chưng cất mùi thơm đặt thù từ những chất ấy như đã làm được với bách lý hương, oải hương và phòng phong. Nó không hề biết rằng chưng cất chỉ là một quy trình để tách một hợp chất ra thành phần dễ bay hơi và phần khó bay hơi và quy trình này chỉ có ích cho sự chế nước hoa khi tách nổi tinh dầu dễ bay hơi của cây cỏ nào đó với phần không thơm hoặc ít thơm còn lại. Ở những vật chất không có tinh dầu thì phương pháp chưng cất hoàn toàn vô dụng. Chúng ta được học vật lý nên thấy hết sức rõ ràng. Còn đối với Grenouille thì hiểu được điều này là kết quả của một chuỗi dài mệt nhọc những thử nghiệm thất bại. Hàng tháng dài, đêm nào nó cũng ngồi bên nồi chưng cất, thử đủ mọi cách để sản xuất những mùi thơm hoàn toàn mới, chưa từng có trên trái đất dưới dạng đậm đặc. Nhưng ngoài một vài tinh dầu của cây cỏ vớ vẩn ra chẳng được gì thêm. Nó không khai thác nổi từ cái giếng tưởng tượng phong phú thăm thẳm của nó một giọt tinh dầu cụ thể nào; nó không làm ra được một nguyên tử nào từ những mùi nó nghĩ ra.
    Khi đã rõ là thất bại thì nó không thử tiếp nữa mà bệnh tưởng chết.
  2. manhmouse

    manhmouse Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2004
    Bài viết:
    1.038
    Đã được thích:
    0
    cố lên nào chiaki
  3. jouki

    jouki Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/07/2005
    Bài viết:
    72
    Đã được thích:
    0
    Cảm ơn nhé, tớ đã coi film nhưng chưa đọc truyện, có cái j đó ám ảnh.
    Xem review film ở đây:
    http://www.imdb.com/title/tt0396171/
  4. huamai

    huamai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/11/2006
    Bài viết:
    81
    Đã được thích:
    0
    CHƯƠNG 20
    Nó sốt nặng. Những ngày đầu còn đổ mồ hoi nhưng về sau nổi đầy mụn như thể da nó không đủ lỗ chân lông vậy. Thân thể Grenouille đầy những mụn đỏ. Nhiều cái vỡ ra, ứa nước để rồi lại phồng lên. Những cái khác phát thành chum nhọt, tẩy đỏ, toác ra như miệng núi lửa, chảy một thứ mủ sền sệt, máu lẫn nước vàng. Ít lâu sau Grenouille trông như thể một kẻ tử vì đạo chịu hình phạt ném đá ?" nhưng bị ném từ bên trong ?" với hằng trăm vết lở lói.
    Dĩ nhiên Baldini lo lắm. Sẽ hết sức phiền nếu bị mất thằng học việc quý giá của ông đúng vào lúc ông dự tính mở rộng việc buôn bán ra khỏi phạm vi thủ đô, thậm chí ra ngoài biên giới đất nước. Vì quả thật không chỉ các tỉnh mà cả cung đình các vương quốc khác cũng đặt thường xuyên hơn những nước hoa loại mới mà Paris khao khát; để đáp ứng nhu cầu này Baldini nuôi ý định lập một chi nhánh ở Faubourg Sanit- Antoine, một xí nghiệp nhỏ thôi để trộn khối lượng lớn những nước hoa thông dụng và đóng hàng loạt vào những chai nhỏ xinh xắn, do những cô gái nhỏ nhắn dễ thương đóng thùng để gửi sang Hà Lan, Anh, Đức. Đối với một chủ tiệm cư ngụ ở Paris thì hành động liều lĩnh này không thật hợp pháp nhưng gần đây Baldini có được sự che chở ấy ở những nơi chop bu; nước hoa tuyệt diệu của ông đã tạo cho ông sự che chở không chỉ của ngài Đổng lý Văn phòng Ngự tiền mà còn ở cả những nhân vật quan trọng như của quan Giám thu quan thuế(40) của Paris và của ngài Feydeau de Brou, thành viên Hội đồng Tài chính Hoàng gia, đồng thời là người tài trợ các xí nghiệp làm ăn phát đạt. Thậm chí ngài còn tính tới khả năng ông sẽ được đặc ân của hoàng gia, giống như một thứ giấy thông hành giúp thoát khỏi mọi quy định của nhà nước và phường hội, chấm dứt mọi lo lắng trong hành nghề và là một bảo đảm vĩnh viễn cho sự thịnh vượng vững chắc không ai dám tranh chấp, nghĩa là cái cao nhất mà người ta chỉ dám mơ.
    Baldini còn ấp ủ một dự tính khác, dự tính ưa thích nhất, như một thứ đối chọi với xí nghiệp ở Faubourg Saint-Antoine, không sản xuất hàng loạt nhưng ai cũng có thể mua được: ông muốn chế, phải nói là ông muốn ra lệnh chế thì đúng hơn, nước hoa riêng cho một số khách hàng tuyển chọn có địa vị cao và thật cao, giống như quần áo được đo cắt riêng, chỉ thích hợp với từng cá nhân, chỉ người đó sử dụng và chỉ mang cái tên tăm tiếng của người ấy. Ông hình dung ra nào là nước hoa của nữ hầu tước de Cernay, nào là nước hoa của công tước d?TAiguillon v.v? Ông mơ đến một nước hoa của quý bà hầu tước de Pompadour, thậm chí một nước hoa của Hoàng thượng đựng trong lọ con mài bằng đá mã não đắt tiền với viền vàng chạm trổ, có khắc ẩn trên mặt trong của đáy lọ tên Giueseppe Baldini, nhà làm nước hoa. Tên của đức vua và tên ông ở trên cùng một món hàng! Baldini đã dám thả hồn cao tới những tưởng tượng tuyệt vời nhường ấy! Vậy mà Grenouille lại ốm. Dù rằng Grimal, xin Chúa đoái thương linh hồn hắn, đã thề sống thề chết rằng nó chẳng bao giờ ốm cả, nó chống chọi được tất, kể cả bệnh dịch hạch đen. Thế mà thình lình nó ốm chờ chết. Nhỡ nó chết thật thì sao? Khủng khiếp quá! Những đề án hay ho về xí nghiệp, về những cô bé dễ thương, về đặc ân và về nước hoa của đức vua cũng sẽ chết theo với nó.
    Cho nên Baldini quyết định phải cứu mạng sống quý báu của tên học việc. Không thể không thử được. Ông ra lệnh dời nó từ tấm phản trong xưởng lên một cái giường sạch sẽ trên lầu. Ông cho trải giường với khăn thêu hoa. Tự tay ông giúp khiêng người bệnh lên cầu thang chật hẹp dù rằng những mụn nhọt lở lói làm ông kinh tởm khôn xiết. Ông ra lệnh cho vợ nấu canh gà với rượu vang. Ông cho tìm tay thầy thuốc nổi tiếng nhất khu phố, một tay Procope nào đấy, và phải trả trước những hai mươi quan thì hắn mới chịu đến cho.
    Thầy thuốc đến, dùng đầu ngón tay hất khăn giường lên, ném một cái nhìn duy nhất lên thân thể Grenouille trông không khác bị cả trăm viên đạn bắn lỗ chỗ, rồi rời khỏi phòng ngay, không thèm mở cái cặp mà người phụ tá y luôn luôn ôm theo. Y nói với Baldini rằng trường hợp này quá rõ ràng. Đây là biến chứng giang mai của bệnh đậu mùa lẫn với bệnh sở làm mủ in stadio ultimo(41). Không cần điều trị nữa vì không thể dùng lưỡi trích để lấy máu đúng quy cách được trên một thân thể đã rữa, chết nhiều hơn sống như thế kia. Dưới góc độ khoa học nghiêm túc thì sự chưa nhận thấy được trong tiến trình căn bệnh cái mùi hôi đặc trưng của bệnh dịch là một hiếm có nho nhỏ, đáng ngạc nhiên, nhưng chắc chắn rằng bệnh nhân sẽ chết trong vòng bốn mươi tám giờ nữa, rõ ràng như tên y là bác sĩ Procope vậy. Y thu thêm hai mươi quan nữa vì đã đến thăm và chẩn bệnh rồi cáo lui; nếu để cho y sử dụng xác với những biểu hiện tiêu biểu kia vào mục đích thuyết minh thì sẽ được hoài lại năm quan.
    Baldini quýnh lên. Ông than van, khóc lóc vì tuyệt vọng. Ông cắn ngón tay vì căm giận số phận. Lại một lần nữa những dự án hứa hẹn thành công, thành công vĩ đại của ông bị hỏng khi đã gần tới đích. Trước kia là Pelissier và lũ bạn bè với sáng tạo phong phú của chúng. Bây giờ là thằng lỏi này với kho nước hoa mới không bao giờ cạnh của nó, cái thằng nhỏ khốn nạn quý hơn cả vàng này, nó lại nhè ngay giai đoạn xây dựng cơ sở làm ăn mà bị đậu mùa do giang mai với sởi làm mủ in stadio ultimo! Nhè ngay lúc này! Tại sao không đợi hai năm nữa? Một năm thôi cũng được? Tới lúc đó thì đã có thể khai thác nó hết sạch như một mỏ bạc hay một con gà đẻ trứng vàng. Một năm nữa nó được quyền chết thanh thản. Nhưng mà không! Nó phải chết bây giờ cơ, lậy Chúa tôi, và trong vòng bốn mươi tám tiếng!
    Baldini cân nhắc rất nhanh có nên hành hương sang Nôtre-Darne, châm một ngọn nến và cầu xin Đức Mẹ cho Grenouille được khỏi bệnh hanh không. Nhưng ổng bỏ ý định đó vì cấp bách quá rồi. Ông chạy tìm giấy mực rồi đuổi vợ ra khỏi phòng người bệnh. Ông muốn tự canh chừng. Rồi ông ngồi xuống ghế cạnh giường, giấy đặt trên đầu gối, bút mực trong tay, tìm cách moi từ Grenouille lời xung tội ?" dĩ nhiên là về nước hoa. Lạy Chúa, nó đừng im lìm mang theo cái kho tàng trong người! Nó hãy để lại trong những giờ cuối nơi người đáng tin cậy một di chúc để hậu thế không bị mất đi những nước hoa tuyệt diệu nhất tự cổ chí kim! Ông, Baldini này, sẽ thực hiện hết sức trung thực di chúc mang những công thức kinh điển của những nước hoa tuyệt vời hơn mọi nước hoa đã từng biết và sẽ làm rạng rõ di chúc của nó. Ông xin thề trước mọi vị thánh rằng sẽ gắn chặt vinh quang bất tử với tên của Grenouille; phải, ông sẽ dâng lên đức vua loại nước hoa tuyệt nhất, đựng trong một lọ con bằng đá mã não có viền vàng chạm trổ và khắc hàng chữ kính dâng ?ocủa Jean-Baptiste Grenouille, nhà chế nước hoa của Paris?. Ông nói như thế, hay đúng hơn không ngớt thì thầm như thế vào tai Grenouille. Ông thề thốt, năn nỉ, mơn trớn.
    Nhưng đều vô ích. Từ Grenouille chẳng toát ra gì khác ngoài nước vàng và mủ với máu. Nó nằm câm ní trên nệm hoa, tiết ra chất nước ghê tởm kia chứ không phải là kho báu của nó, sự hiểu biết của nó, chẳng có lấy được một công thức nước hoa nào. Baldini muốn bóp cổ nó, muốn đánh nói, muốn nện cho bật từ thân thể chờ chết kia bí mật quý báu nếu như quả có triển vọng thành công ? và nếu ý thức về tình thương đồng loại của một con chiên không kịch liệt phản kháng.
    Thế là ông lại tiếp tục êm ái thổi vào tai người bệnh những lời ngọt lịm, vuốt ve và dùng khăn lạnh thấm cái trán đẫm mồ hôi và những vết lở nóng như núi lửa, dù phải cố hết sức chịu đựng đế rợn người; rót từng muỗn vang vào miệng nó để làm cho lưỡi nó phát ra tiếng; suốt đêm như thế, nhưng công toi. Sáng sớm ra ông bỏ cuộc. Ông kiệt sức buông người xuống ghế trong một góc phòng và, không giận dữ nữa mà chỉ còn cam chịu thầm lặng, nhìn sững thân thể Grenouille nhỏ bé chờ chết trên giường phía góc kia mà ông không còn có thể vớt vát gì được cho mình, đành chịu bó tay nhìn nó lìa đời như một thuyền trưởng nhìn tàu của mình chìm mang theo tất cả của cải xuống đáy biển.
    Bỗng đôi môi của kẻ chờ chết hé mở, nó nói với một giọng rõ ràng và chắc chắn chẳng có vẻ gì của người sắp lìa đời: ?oMaitre, xin cho biết có cách nào khác để lấy được hương thơm từ một vật thể ngoài cách ép hay chưng cất không??
    Baldini nghĩ rằng tiếng nói nọ là do ông tưởng tượng hoặc đến từ thế giới bên kia nên trả lời như máy: ?oCó đấy?
    ?oCách gì?? câu hỏi vọng ra từ giường và Baldini mở choàng đôi mắt mệt mỏi. Grenouille nằm không động đậy trên gối. Cái xác đã nói ư?
    ?oCách gì?? câu hỏi lại vang lên và lần này Baldini nhận ra môi Grenouille mấp máy. ?oHỏng thật rồi,? ông thầm nghĩ, ?otới lúc rồi, hoặc là cuồng vì sốt hay là giãy chết.? Rồi ông đứng dậy, bước tới giường cúi xuống người bệnh. Nó mở mắt nhìn Baldini cũng với cá nhìn rình rập lạ lùng như ở lần gặp nhau đầu tiên.
    ?oCách gì?? nó hỏi.
    Baldini quyết định sau một lúc do dự; ông không muốn từ chối kẻ sắp chết điều mong muốn cuối cùng nên trả lời: ?oCó ba cách, con ạ. Cách enfleurage à chaud, cách enfleurage à froid và cách enfleurage à l?Thuile (42). Chúng trội hơn cách chưng cất về nhiều mặt và người ta dùng để có được những mùi hương thanh cao nhất: của hoa nhài, hoa hồng và hoa cam.?
    ?oỞ đâu?? Grenouille hỏi.
    ?oỞ phía Nam,? Baldini đáp. ?oNhiều nhất là ở thành phố Grasse.?
    ?oHay lắm,? Grenouille nói,
    Rồi nó nhắm mắt lại. Baldini từ từ đứng dậy. Ông quá chán nản, gom lại những tờ giấy không ghi được một dòng nào, thổi tắt nến. Bên ngoài trời đã sáng. Ông hết sức mệt mỏi. Lẽ ra phải mời một linh mục đến, ông thầm nghĩ. Rồi ông đưa tay phải làm dấu thánh giá vội vàng và ra di.
    Còn lâu Grenouille mới chết. Nó chỉ ngủ thật say, mơ thật sâu và hút trở vào những thứ tiết ra trên thân thể. Những vết phồng trên da bắt đầu khô lại, những vết lở ngưng chảy mũ, những vết loét khép dần. Trong vòng một tuần nó khỏi hẳn.
    -------------------
    41. Ở giai đoạn cuối cùng
    42. Các phương pháp lấy hương thơm trong ngành nước hoa: lấy nóng, lấy lạnh và lấy bằng dầu
    -----------------------
    CHƯƠNG 21
    Nó muốn đi ngay xuống miền Nam để có thể học ở đó những kỹ thuật mới như ông già đã nói. Nhưng đâu có thể thế được. Nó chỉ là một đứa học nghề, có nghĩa chẳng là cái thớ gì cả. Nghiêm khắc mà nói, Baldini giải thích sau khi nỗi mừng rỡ ban đầu vì Grenouille sống lại qua đi, nghiêm khắc mà nói thì nó còn kém cả sự chẳng ra cái thớ gì, vì một đứa học việc đúng đắng phải có được gốc gác chính thức đàng hoàng, họ hàng cùng giai tầng xã hội và một giao kèo học nghề; cả ba thứ nó đều không có. Tuy vậy Baldini vẫn muốn giúp nó có một ngày kia có được chứng chỉ thợ lành nghề, chỉ vì đã cân nhắc năng khiếu không dễ có của Grenouille, hạnh kiểm tốt của nó trong tương lại và vì lòng tốt không bờ bến của ông, thứ mà ông không bao giờ có thể từ bỏ nổi; dù rằng lòng tốt ấy thường đem hại đến cho ông.
    Dĩ nhiên cần khá lâu, ngót ba năm, để hoàn thành lời hứa của sự hảo tâm này. Trong thời gian ấy, có Grenouille trợ giúp, Baldini đã thực hiện được giấc mộng đầy tham vọng của mình. Ông thành lập một xí nghiệp ở Faubourg Saint- Antoine; những nước hoa độc đáo của ông được ưa chuộng trong hoàng cung và ông nhận được đặc quyền của hoàng gia. Nước hoa hảo hạng của ông bán sang tận Petersburg, tới Palermo, tới cả Copenhagen. Thậm chí một thứ đặc biệt có mùi xạ hương rất ưa chuộng ở Constatinople dù họ thừa nước hoa, như Chúa biết đấy. Trong những cửa hàng sang trọng ở Luân Đôn cũng thơm nước hoa của Baldini như trong hoàng cung ở Parma, trong cung điện ở Warschau cũng không khác lâu đài của bá tước Von und zur Lippe-Detmold. Sau khi tưởng đã cam phận sống nốt tuổi già nghèo túng ở Messia, Baldini dứt khoát trở thành nhà chế nước hoa lớn nhất Châu Âu và là một trong những công dân giàu nhất Paris vào năm ông bảy mươi tuổi.
    Đầu năm 1756, lúc này ông đã tậu them ngôi nhà bên cạnh trên Pont au Change, chỉ để làm chỗ ở, vì ngôi nhà cũ ngập tới tận nóc, không phải nói ngoa, với hương liệu và đồ gia vị, ông ngỏ ý với Grenouille rằng ông sẵn lòng trả tự do cho gã (43), tất nhiên chỉ với ba điều kiện: thứ nhất trong tương lai gã không chế tất cả những nước hoa đã chế dưới mái nhà của Baldini và cũng không đưa công thức cho ai khác; thứ hai là gã phải đi khỏi Paris và không trở lại bao lâu Baldini còn sống và thứ ba là gã tuyệt đối giữ kín hai điều kiện trên. Gã phải thề trước mọi vị thánh, trước vong linh khốn khổ của mẹ gã và trên danh dự của chính gã.
    Grenouille thề ngay dù chẳng hề có danh dự, cũng chẳng tin vào thánh hay vong linh khốn khổ của mẹ gã. Gã sẵn sàng thề mọi thứ, chấp nhận mọi điều kiện vì gã muốn có được chứng chỉ thợ lành nghề khôi hài kia để có thể sống kín đáo, đi lại không bị trở ngại và tìm được chỗ làm. Những chuyện khác gã chẳng màng tới. Những điều kiện kia nào có nghĩa gì! Không được trở lại Paris? Gã cần gì ở Paris chứ! Gã biết Paris tới tận ngóc ngách hôi hám cuối cùng, dẫu đi đâu gã cũng đều có Paris trong người từ nhiều năm rồi. Không được chế những nước hoa độc đáo của Baldini, không trao công thức cho người khác ư? Làm như gã không thể sáng tạo ra hàng nghìn thứ khác tốt bằng và tốt hơn nếu gã muốn! Nhưng gã đâu có muốn. Gã không định cạnh tranh với Baldini hay với bất kỳ một nhà chế nước hoa trưởng giả nào. Gã đâu có ý định làm giàu với nghệ thuật của gã, ngay cả chỉ để sống cũng thế, khi gã có thể làm cách khác. Gã muốn bộc lộ thứ gã tang trữ trong lòng mà gã cho rằng tuyệt vời hơn tất cả những gì ngoại giới cống hiến; gã không muốn gì khác hơn thế cả. cho nên điều kiện của Baldini đối với gã không phải là điều kiện.
    Gã ra đi vào mùa xuân, một sáng sớm tháng Năm. Gã nhận được của Baldini một túi đeo lưng nhỏ, một cái áo thứ hai, hai đôi vớ, một khúc dồi to, một cái chăn thô và hai mươi lăm quan. Baldini nói thế là quá nhiều so với những gì ông có bổn phận cung cấp, nhất là Grenouille không trả tí tiền học phí nào cho sự đào tạo chu đáo mà gã đã hưởng. Ông chỉ bó buộc cho gã hai quan tiền đi đường, thế thôi. Nhưng mà ông không thể chối bỏ lòng tốt của mình cũng như tình cảm sâu đậm chất chứa trong trái tim ông suốt bao năm dành cho thằng Jean ?" Baptiste giỏi giang. Ông chúc gã nhiều may mắn trong cuộc hành trình và một lần nữa nghiêm khắc cảnh cáo gã đừng quên lời thề. Rồi ông đưa gã ra tới cổng dành cho người làm, nơi xưa kia ông đã gặp gã, để gã đi.
    Ông không đưa tay cho gã bắt, tình cảm của ông chưa đủ sâu đậm đến thế. Ông chưa bao giờ bắt tay gã. Ông luôn luôn tránh đụng chạm tới gã do một thứ ghê tởm mù quáng như thể có nguy cơ gã làm ông lây bệnh, làm ông ô uế. Ông chỉ nói gọn lỏn adieu(44). Grenouille gật đầu rồi khom người lại, ra đi. Đường phố không một bóng người.
    ----------
    43. Lúc này Grenouille đã lớn, người dịch thấy cần thay đổi xưng hô trong bản tiếng Việt
    44. Vĩnh biệt
  5. manhmouse

    manhmouse Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2004
    Bài viết:
    1.038
    Đã được thích:
    0
    tuyệt vời. cám ơn các bác rất nhiều
  6. huamai

    huamai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/11/2006
    Bài viết:
    81
    Đã được thích:
    0
    CHƯƠNG 22
    Baldini nhìn theo gã lê bước qua cầu, sang bên hòn đảo, nhỏ thó, khom người, mang túi trên lưng như mang cái bướu, nhìn từ sau chẳng khác một ông già. Tới khúc ngoặt của con hẻm nơi Tòa án Tối cao (45) thì gã biến khỏi tầm mắt và ông nhẹ hẳn người.
    Ông chưa bao giờ mến gã, chưa hề; bây giờ thì ông có thể dứt khoát thú nhận được rồi. Suốt thời gian ông cho gã ở và moi móc gã ông không thoải mái chút nào. Ông cảm thấy như một người ngay thật lần đầu tiên làm một việc bị cấm đoán hay chơi gian một ván bài. Vẫn biết khả năng việc làm này bị phát giác nhỏ thôi mà triển vọng thành công thì vô cùng lớn nhưng lòng bất an và lương tâm cắn rứt cũng lớn không kém. Quả thật, suốt mấy năm ấy không một ngày nào ông không bị đeo đuổi bởi ý nghĩ không vui rằng rồi ông sẽ phải đền bù bằng cách nào đó vì đã giao du với gã. Ước gì được trôi chảy, ông không ngớt lo âu cầu khẩn, ước gì có thể gặt hái thành công từ sự mạo hiểm này mà không phải đền bù gì! Ước gì mình thành công! Điều tôi làm không đúng thật đấy, nhưng Chúa sẽ nhắm mắt làm ngơ, chắc chắn Người sẽ làm ngơ! Trong đời tôi Người đã trừng phạt nặng nề nhiều lần mà chẳng vì lý do gì cả, nếu lần này Người có thái độ làm hòa thì cũng đúng hôi. Tôi đã phạm tội gì nào, nếu như quả đó là tội? Cùng lắm là tôi đã hơi vượt quá điều lệ của phường hội qua việc lợi dụng năng khiếu tuyệt vời của một thằng thiếu kinh nghiệm và nhận vơ năng lực của gã làm của tôi. Cùng lắm là tôi đã đi chệch một ít khỏi đường mòn truyền thống đầy tư cách của ngành thủ công. Cùng lắm là hôm nay tôi làm cái mà hôm qua tôi lên án. Thế đã phải là tội ác chưa? Những kẻ khác lừa bịp cả đời. Còn tôi chỉ mới gian dối chút xíu vài ba năm nay thôi. Cũng chỉ tại vì ngẫu nhiên mà cơ hội ngàn năm một thưở ấy đến với tôi đấy chứ. Cũng có thể ngẫu nhiên đâu, có thể chính Chúa đã gửi tay phù thủy ấy đến nhà tôi để bù cho những ngày tôi bị Pélissier và lũ bạn gã hạ nhục. Có thể Chúa không hoàn toàn ưu ái tôi đâu mà chỉ trừng phạt Pélissier thôi! Có thể lắm chứ! Chúa làm cách nào để trừng phạt Peslissier nếu không nâng đỡ tôi? Như thế thì sự may mắn của tôi là phương tiện để Chúa thực hiện sự công bằng và tôi không những được phép mà còn phải nhận và không cần xấu hổ hay hối hận chút nào?
    Baldini vẫn thường nghĩ như thế trong những năm qua, sáng sáng khi ông xuống cửa tiệm qua cái cầu thang hẹp cũng như chiều chiều khi ông ôm két lên lầu đếm những đồng tiền vàng và bạc nặng trịch và đêm đêm khi ông nằm cạnh thân thể gầy đét ngáy vang của vợ, không thể nhắm mắt vì sự may mắn làm ông quá sợ.
    Nhưng bây giờ rốt cuộc những ý nghĩ gở ấy qua rồi. Người khách lại lùng đã đi khỏi và sẽ không bao giờ quay lại nữa. Còn sự giàu có ở lại và vững bền mãi. Baldini đặt tay lên ngực, cảm tấy qua làn vải áo quyển sổ nơi trái tim. Sáu trăm công thức đã ghi trong ấy, phải nhiều thế hệ nhà nước hoa mới hòng thực hiện được. Nếu như hôm nay ông mất hết tất cả thì trong vòng một năm, chỉ với quyển sổ tuyệt vời này thôi, ông sẽ lại giàu. Nói thật, ông còn đòi hỏi gì hơn!
    Mặt trời buối sáng phía trên đầu hồi các nhà đối diện chiếu ánh nắng vàng ấm lên mặt ông. Baldini vẫn nhìn về hướng Nam, xuống con đường dẫn đến Tòa án Tối cao, cảm thấy thật dễ chịu khi không còn nhìn thấy Grenouille nữa và quyết định sẽ hành hương sang Nootre-Dame ngay hôm ấy để cúng một đồng tiền vàng vì chan chứa biết ơn, sẽ thắp ba ngọn nến, quỳ xuống tạ ân Chúa đã ban cho ông thừa thãi may mắn và tránh cho ông không bị báo thù.
    Nhưng trớ true sao lại có chuyện xảy đến giữa chừng. Ngay khi ông định đi sang nhà thờ vào lúc xế trưa thì có tiên đồn ầm là Anh đã tuyên chiến với Pháp. Thật ra thì chẳng có gì đáng lo lắng cả. Nhưng đúng hôm ấy Baldini định gửi một chuyến hàng nước hoa sang Luân Đôn nên ông dời lại việc đi sang Nootre-Dame để vào phố lấy thêm tin tức rồi đi tiếp đến xí nghiệp ở Faubourg Saint-Antoine, hủy ngay việc gửi hàng sang Luân Đôn. Tối đến nằm trên giường ông chợt nảy ra một sáng kiến thiên tài ngay trước khi chìm vào giấc ngủ: nhân cuộc chiến tranh sắp xảy ra để tranh giành thuộc địa ở Tân Thế Giới ông định sẽ tung ra một nước hoa có tên Prestige du Quesbec (46), một mùi thơm quả cam làm từ nhựa cây mà sự thành công của nó chắc chắn thừa bù đắp cho vụ bỏ buôn bán với Anh. Maître Baldini ngả cái đầu già nua đần độn lên gối, nhẹ cả người với ý nghĩ ngọt lịm kia, thấy cả sức đè của quyển sổ dễ chịu hẳn, ông chìm trong giấc ngủ và không bao giờ dậy nữa.
    Số là đêm hôm ấy xảy ra một tai biến nhỏ mà sau đó ít lâu là lý do để có chiếu chỉ ra lệnh dần dần phá sập mọi nhà trên tất cả các cầu ở Paris: mạn Tây của Pont au Change, giữa trụ cầu ba và bốn, sụp mà không rõ nguyên nhân. Hai ngôi nhà đổ ụp xuống sông bất ngờ đến nỗi không có thể cứ được một ai cả. May mắn sao chỉ có hai người chết, Giuseppe Baldini và vợ ông, bà Teresa. Những người giúp việc, chẳng biết được phép hay không, đều đi ra ngoài cả. Còn Chénier mãi hửng sáng mới chếnh choáng về nhà, đúng hơn phải nói là muốn về nhà vì ngôi nhà không còn đó nữa, liền bị suy nhược thần kinh. Ông đã tận tụy ba mươi năm ròng với hy vọng được Baldini chọn làm người thừa kế trong di chúc vì ông này không con cái cũng không thân thích. Bây giờ bỗng nhiên cả gia sản biến mất, tất cả, nhà, cửa hàng, nguyên vật liệu, xưởng, ngay cả Baldini, thậm chí cả tờ di chúc biết đâu lại chẳng cho ông cái xí nghiệp làm của riêng!
    Chẳng tìm thấy gì cả, xác không, tủ tiền không, quyển sổ với sáu trăm công thức cũng không. Cái duy nhất còn sót lại của Giuseppe Baldini, nhà chế nước hoa lớn nhất Châu Âu là một mùi trộn lẫn xạ hương, quế, giấm, oải hương và hàng nghìn thứ khác tràn ngập sông Seine từ Paris tới tận Le Havre suốt mấy tuần liền.
    ---------------
    46. Uy danh Québec (Québec hiện là một bang của Canada)
    --------------
  7. huamai

    huamai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/11/2006
    Bài viết:
    81
    Đã được thích:
    0
    PHẦN HAI
    CHƯƠNG 23
    Vào lúc ngôi nhà của Giuseppe Baldini sập thì Grenouille đang lên đường đi Orleans. Gã để lại phía sau bầu trời mờ đục bao phủ thành phố lớn; cứ mỗi bước xa thêm thì không khí quanh gã trong hơn, tinh khiết hơn, sạch hơn. Cũng loãng hơn nữa. Không còn cảnh trăm, nghìn thứ mùi dồn dập luân phiên rượt đuổi nhau từng mét một nữa mà chỉ một ít mùi sẵn có như mùi đường đi cát sỏi, mùi đồng cỏ, mùi đất, mùi cây cối, mùi nước ? bất tận trên đồng quê; chầm chậm nở ra chầm chậm biến đi, không bao giờ đứt đoạn đột ngột.
    Grenouille thấy sự mộc mạc này như là giải thoát. Những mùi hương nhẹ nhàng mơn trớn gã. Lần đầu tiên trong đời gã không phải cảnh giác rằng với mỗi hơi thở lại phát hiện ra một mùi thù địch mới không ngờ hay để mất đi một mùi dễ chịu. Lần đầu tiên gã gẫn như có thể thở tự do mà không phải vừa ngửi vừa rình rập. Gọi là gần như vì chẳng có gì thật sự tự do qua mũi Grenouille cả. Dù không có chút lý do nhỏ nào nhưng gã luôn luôn thận trọng một cách bẩm sinh khi để cho những thứ bên ngoài được lọt vào bên trong gã. Cả đời, kể cả đôi lúc hiếm hoi gã được sống trong những thứ tư tượng như sự thỏa mãn, hài lòng, thậm chí cả may mắn nữa, gã vẫn thích thở ra hơn hít vòa, như gã đã bắt đầu sự sống không phải bằng sự hít vào đầy hy vọng mà bằng tiếng khóc rung rợn. Trừ hạn chế bẩm sinh này ra thì càng xa Paris bao nhiêu Grenouille càng thấy thoải mái bấy nhiêu; gã thở dễ hơn, bước đi nhanh nhẹn hơn và đôi lúc thẳng người lên được; lúc ấy nhìn từ xa thấy gã chẳng khác mấy một tay thợ thủ công, nghĩa là như một người hoàn toàn bình thường.
    Gã thấy xa cách con người là giải thoát nhất. Ở Paris người ta sống chen chúc hơn bất kỳ đâu trên thế giới này. Sáu, bảy trăm nghìn người sống ở Paris, nhan nhản ngoài đường phố và quảng trường, còn trong nhà thì đầy ứ từ hầm tới nóc. Không một xó xỉnh nào ở Paris mà con người không trân trối ngó vào, không một khoảnh đất nào lại không có hơi người.
    Sang ngày thứ ba của chuyến đi gã bị hút vào trọng-trường-mùi của Orleans. Grenouille phát hiện trong không khí sự tích tụ của con người thật lâu trước khi có bất cứ một dấu hiệu nào cho thấy đang ở gần thành phố và quyết định tránh xa Orleans, ngược với ý định ban đầu. Gã không muốn hơi thở tự do vừa mới có được lại sớm bị môi trường ngột ngạt của con người làm ô nhiễm. Gã đi vòng thật xa thành phố, gặp sông Loire ở Chateuneuf và vượt sông ở Sully. Tới đây thì cũng vừa ăn hết dồi, gã mua một khúc khác rồi bỏ dòng sông đi sâu vào đất liền.
    Lúc này gã không chỉ tránh thành phố mà tránh cả làng mạc. Gã như bị say bởi không khí không ngừng loãng và vắng con người hơn. Chỉ khi nào phải mua thêm đồ ăn gã mới đến gần một khu dân cư hay một nông trại chơ vơ, mua bánh mì rồi lại biến vào rừng. Sau vài tuần thì ngay cả những lần gặp đôi người qua lại trên những con đường khuất nẻo cũng là quá nhiều với gã, gã không chịu đựng nổi mùi toát ra từ những nông phu đang cắt vụ cỏ đầu tiên trên cánh đồng. Gã sợ hãi tránh mỗi đàn cừu, không phải vì lũ cừu mà để tránh mùi người chăn cừu. Gã băng bừa ngang đồng cỏ, sẵn sang đi vòng hàng dặm nếu ngửi thấy một đoàn kỵ binh đang phi về phía gã, dù họ còn cách xa cả tiếng đồng hồ. Vì không hề biết có chiến tranh nên không phải gã sợ bị khám xét hay hỏi giấy tờ và biết đâu bị bắt đi lính như những tay thợ thủ công và bọn du thủ du thực khác mà chỉ vì gã gớm ghiếc mùi người của các kỵ binh. Vì thế mà kế hoạch đi thật nhanh tới Grasse tự động tan biến dần, chằng do một quyết định đặc biệt nào; có thể nói là kế hoạch đã hòa tan trong sự tự do như mọi dự tính và kế hoạch khác. Grenouille không muốn đi bất kỳ đâu nữa mà chỉ còn muốn xa con người.
    Cuối cùng gã chỉ còn đi vào ban đêm. Ban ngày gã chui vào các lùm cây thấp, ngủ trong bụi cây rậm rạp ở những nơi khó vào nhất, cuộn tròn như một con vật, cái chăn thô màu đất nâu trùm kín cả người lẫn đầu, mũi kê giữa khuỷu tay, quay xuỗng đất để không một chút mùi lạ nào quấy rầy giấc mơ của gã. Gã thức dậy khi mặt trời lặn, đánh hơi khắp mọi hướng và chỉ sau khi đã ngửi thấy chắc chắn rằng người nông phu cuối cùng đã rời đồng ruộng và ngay cả người bộ hành gan góc nhất cũng đã tìm một chỗ trọ trước màn đêm, chỉ sau khi đêm tối với những nguy hiểm tưởng tượng đã quét sạch con người khỏi vùng đất thì Grenouille mới chui ra khỏi chỗ ẩn nấp, tiếp tục chuyến đi. Gã không cần ánh sáng để nhìn. Ngay trước đây, khi còn đi trong ban ngày, gã thường đã bịt mắt hàng giờ liền và chỉ đi theo cái mũi. Bức tranh đồng quê sặc sỡ, sự lóa mắt, sự thay đổi bất chợt và sự phải nhìn rõ làm mắt gã đau. Gã chỉ thích ánh trăng. Ánh trăng không có màu và chỉ soi nhạt đường nét địa thế. Ánh trăng phủ mảnh đất với màu xám nhơ nhuốc và bóp nghẹt sự sống trọn một đêm dài. Thế giới trong đêm như được đúc bằng chì, không có gì lay động ngoài ngọn gió thỉnh thoảng như cái bóng đổ xuống những cánh rừng màu xám và không có gì sống trong đó ngoài mùi thơm của đất trần trụi, là thế giới duy nhất mà gã chấp nhận vì giống thế giới của tâm hồn gã.
    Gã đi về hướng Nam như thế đấy. Gọi đại khái là hướng Nam thôi vì gã không đi theo la bàn nam châm mà chỉ theo la bàn của mũi gã, nó bảo gã đi vòng mỗi thành phố, mỗi làng thôn, mỗi khu dân cư. Hàng tuần liền gã không gặp một ai. Và gã có thể tự ru ngủ trong niềm tin vững vàng rằng gã là kẻ duy nhất trong cái thế giới tối tăm, được tắm trong ánh trăng lạnh lẽo nếu la bàn nhạy bén của gã không chỉ ra điều ngược lại.
    Trong đêm cũng có người. Ở những vùng hẻo lánh nhất cũng có người. Họ chỉ rút về chỗ trú ẩn ngủ như chuột. Mặt đất chưa hết sạch họ vì ngay trong giấc ngủ họ vẫn phải ra mùi, xuyên qua cửa sổ để ngỏ hay những kẽ hở trong nhà, bay ra ngoài làm uế tạp cái thiên nhiên tưởng như chưa bị vướng bợn gì khác. Grenouille càng quen với không khí trong lành bao nhiêu thì gã càng nhạy cảm bấy nhiêu với mùi người có lần ào đến bất ngờ, hoàn toàn không chờ đợi, kinh tởm như mùi phân bón, tố giác rằng nơi trú chân của người chăn cừu hay lều một người đốt than hay hang của bọn cướp đâu đó quanh đây. Thế là gã lại tiếp tục chạy, càng ngày càng phản ứng nhạy hơn với mùi người mỗi ngày một ít hẳn đi. Và mũi của gã càng dẫn gã đến những vùng hẻo lánh hơn, xa con người hơn và càng đẩy gã mãnh liệt hơn về cực hút của sự cô độc, càng gần càng tốt.
    CHƯƠNG 24
    Cái cực này, tức là điểm xa cách con người nhất trong toàn vương quốc, nằm ở Massif Central vùng Auvergne, cách phía Nam Clermont năm ngày đường, trên đỉnh một núi lửa cao hai nghìn mét có tên Pìomb du Cantal.
    Núi khoáng thạch màu xám chì hình nón khổng lồ được bao quanh bởi một cao nguyên mênh mông, trơ trụi, mọc toàn rêu màu xám và những bụi cây rậm rạp lè tè cũng màu xám; đây đó dựng lên những tảng đá nhọn màu nâu trong như những cái răng sâu và vài thân cây cháy thành than. Ngay giữa ban ngày vùng này cũng cằn cỗi buồn tẻ đến nỗi người chăn cừu cùng khổ nhất của cái tỉnh vốn nghèo này cũng chẳng thèm xua lũ cừu đến đây. Còn ban đêm, trong ánh trăng sáng nhờ nhờ, thì quang cảnh hoang vu như thể bị Chúa bỏ rơi làm cho vùng này có vẻ như thuộc về một thế giới nào khác. Ngay đến tên cướp Lebrun ở Auvergne bị truy nã khắp nơi cũng thà chọn vùng Cévennes để chạy thoát thân, rồi bị tóm ở đó và bị tứ mũi tên. Với một cố gắng tuyệt vọng gã đánh hơi tìm xem đâu là hướng con người nguy hiểm có thể đến và đâu là hướng ngược lại để gã chạy trốn tiếp. Hướng nào gã cũng nghi là rồi sẽ phát hiện ra một chút hơi hướng con người còn ẩn đâu đó. Nhưng chẳng có gì cả. Chỉ là bình yên, bình yên của mùi, nếu có thể nói như thế được. Xung quanh chỉ có tiếng xào xạc khe khẽ do mùi thơm thuần nhất của đá không sự sống, của thạch y (47) xám và của cỏ úa; ngoài ra không còn gì khác.
    Phải rất lâu Grenouille mới chịu tin những gì gã không ngửi thấy. Gã không chờ đợi sẽ gặp may. Sự nghi ngại giằng co dai dẳng với nhận thức. Thậm chí, khi mặt trời lên, gã dùng đến sự trợ giúp của mất lục lọi khắp chân trời một dấu hiệu nhỏ nhoi về sự hiện diện của con người: chẳng hạn một mái lều, một làn khói, một bờ rào, một cây cầu, một đàn gia súc. Gã khum tay quanh tai lắng nghe tiếng cắt của lưỡi hái, một tiếng chó sủa hay một tiếng trẻ khóc. Gã ở lì trên đỉnh ngọn Plomb du Cantal suốt ngày hôm ấy trong cái nóng như thiêu đốt, chờ đợi hoài công một dấu hiệu nhỏ nhất. Chỉ khi mặt trời lặn sự nghi ngại của gã mới từ từ nhường chỗ cho một cảm giác phơi phới mạnh dần lên: gã đã thoát khỏi cái uế khí đáng ghét! Gã thật sự hoàn toàn một mình! Gã là con người duy nhất trên thế giới!
    Tiếng hò reo ầm ĩ vỡ òa trong người gã. Như một kẻ bị đắm tàu sau nhiều tuần trôi dạt lênh đênh say sưa chào mừng hòn đảo đầu tiên có người ở, Grenouille ăn mừng đã đến được ngọn núi cô độc. Gã gào lên vì sung sướng. Gã tung hê túi đeo, chăn, gậy và không ngớt giậm chân thình thịch, tay giơ cao, xoay người múa, hét toáng tên gã khắp bốn phương, nắm tay lại, đắc thắng dứ dứ vào vùng đất nằm tuốt phía dưới và vào vầng mặt trời đang lặn như thể bị chính gã xua đuổi khỏi bầu trời. Gã hành động như một thằng điên tới tận khuya.
    -----------------
    47. Một loại rêu
    ----------------
    CHƯƠNG 25
    Gã dành mấy ngày sau đó để sắp xếp trên ngọn núi vì gã thấy sẽ không sớm rời khỏi miền đất lành này. Trước hết gã đánh hơi tìm nước và tìm thấy trong một chỗ lõm gần ngọn núi. Nước nhỏ vào đấy thành một lớp mỏng dọc theo tảng đá. Không nhiều nhưng nếu gã kiên nhẫn liếm khoảng một tiếng thì cũng đủ cho nhu cầu trong ngày. Gã tìm thấy cả thức ăn, đó là những con kỳ nhông nhỏ và rắn khoang mà gã nuốt cả da lẫn xương sau khi đã ngắt đầu. Gã ăn thêm thạch y khô, cỏ và những hạt tiêu. Theo tiêu chuẩn bình thường thì kiểu ăn uống này hoàn toàn không thể chấp nhận được nhưng lại chẳng làm gã bực mình chút nào. Mấy tuần rồi, mấy tháng rồi gã đâu có sống nhờ vào thực phẩm làm sẵn của con người như bánh mì, dồi và pho mát mà khi thấy đói thì gã ăn tất những gì gã gặp và thấy là ăn được. Gã không phải là kẻ sành ăn. Gã cũng chẳng cần thưởng thức nếu như thưởng thức không phải cốt ở cái mùi thuần túy vô thể. Gã cũng không cần đến tiện nghi và sẵn sàng hài lòng dụng chỗ ở trên đá trần trụi. Nhưng gã tìm thấy chỗ tốt hơn.
    Gần chỗ lấy nước gã phát hiện ra một đường hầm thiên tạo, dẫn sau vào trong núi qua nhiều khúc quanh hẹp, để sau chừng ba mươi mét thì không đi tiếp được nữa vì đầy đá lở. Ở đó, nơi cuối đường hầm, chật đến nỗi hai vai gã chạm đá và thấp đến nỗi gã chỉ có thể đứng lom khom. Nhưng ngồi được và nếu gã cong người thì có thể nằm được nữa. Thế là đáp ứng hoàn toàn yêu cầu về tiện nghi của gã. Vì chỗ này có nhiều thuận lợi không lường được: cuối đường hầm thì ngày cả ban ngày cũng tối như mực, tĩnh mịch như bãi tha ma còn không khí thì ẩm, lạnh và có vị muối. Grenouille ngửi ngay ra là chưa từng có một sinh vật nào vào đấy cả. Khi chiếm chỗ này gã có cảm giác như rụt rè thành kính. Gã cẩn thận trải chăn thô trên nền đá như thể phủ bàn thờ rồi nằm lên. Gã thoải mái vô cùng. Gã nằm trong lòng trái núi cô quạnh nhất nước Pháp, năm mươi mét dưới mặt đất, như trong nấm mồ của chính gã vậy. Trong đời gã chưa bao giờ cảm thấy an toàn như thế, kể cả khi nằm trong bụng mẹ. Dẫu ngoài kia thế giới có cháy rụi thì ở đây gã cũng chẳng hề biết. Gã khóc thầm. Gã không biết phải cảm ơn ai về bấy nhiêu may mắn.
    Về sau gã chỉ đi ra ngoài để liếm nước, để giải quyết thật nhanh cái việc tiêu, tiểu, để săn thằn lằn và rắn. Dễ tóm chúng vào ban đêm vì chúng rúc dưới các phiến đá hay chui vào hang và gã tìm dấu chúng bằng mũi.
    Mấy tuần đầu gã leo lên đỉnh núi thêm vài ba lượt nữa để đánh hơi phía chân trời. Chẳng bao lâu việc này trở thành thói quen chán ngắt hơn là cần thiết vì không lần nào gã ngửi thấy sự đe dọa cả. cho nên cuối cùng gã bỏ các chuyến khảo sát và lo trở về phần mộ cho thật nhanh sau khi đã làm xong những việc lặt vặt cần thiết chỉ để sống còn. Bởi vì ở đấy, trong phần mộ, gã mới thật sự sống. Có nghĩ là gã ngồi hơn hai mươi tiếng trong ngày nơi cuối đường hầm trên tấm chăn thô, hoàn toàn trong bóng tối, im lặng và tuyệt đối không cử động, lưng tựa vào đống đá lở, vai kẹp giữa những tảng đá và không đòi hỏi gì hơn.
    Ta biết có những người tìm sự cô quạnh như những kẻ sám hối, những người thất chí, những vị thấnh hay những vị tiên tri. Họ thích rút vào sa mạch, sống bằng cào cào và mật ong. Có người chọn hang động hay am trên những hòn đảo xa xôi hoặc, khác thường hơn, ngồi chồm hổm trong chiếc cũi treo lơ lửng trong không khí. Họ làm như thế để được gần Thượng Đế hơn. Họ sống khổ hạnh trong cô quạnh, qua đó mà sám hối. Họ làm như thế với niềm tin rằng cuộc sống ấy hợp với ý Thượng Đế. Hay là họ chờ đợi ròng rã nhiều tháng, nhiều năm, tin rằng lời rao truyền của Thượng Đế sẽ đến với họ trong cảnh cô độc, để rồi họ sẽ vội vã đem rao giảng trong cõi nhân gian.
    Grenouille chẳng có gì giống thế cả. Gã không nghĩ chút xíu nào đến Thượng Đế. Gã không sám hối cũng chẳng chờ đợi một linh cảm mầu nhiệm nào. Gã rút về đây chỉ do một thích thú riêng, đó là được gần với chính gã. Gã ngụp lặn trong sự tồn tại không gì làm phân tâm được của gã và thấy tuyệt vời. Gã nằm trong phần mộ bằng đó như một xác chết, không thở, trái tim ngừng đập nhưng lại sống hết sức mãnh liệt và phóng đãng mà chưa một kẻ phóng đãnh ngoài đời nào từng sống.
  8. huamai

    huamai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/11/2006
    Bài viết:
    81
    Đã được thích:
    0
    CHƯƠNG 26
    Nơi diễn ra sự phóng đãng là vương quốc bên trong người gã chứ không thể ở đâu khác; ngay từ khi mới lọt lòng gã đã chôn vào đấy đường nét của tất cả mọi mùi gã đã gặp. Để phấn chấn, trước hết gã gọi hồn những mùi đầu tiên nằm xa lắc xa lơ: mùi thù địch ẩm ướt trong phòng ngủ ở nhà Madame Gaillard, mùi da khô đét của tay bà, mùi hơi thở chua như giấm của cha Terrier, mùi mồ hôi ấm tình mẫu tử của chị vú Bussie hớt ha hớt hải, mùi xác chết ở Cimetiere des Innocents, mùi chết choc của mẹ gã. Gã lặn ngụp trong ghê tởm và thù ghét, tóc dựng đứng vì nỗi khiếp sợ đầy khoái cảm.
    Thỉnh thoảng, khi mà khai vị với những thứ gớm ghiếc này chưa đủ để nổi cơn tức giận thì gã tạt qua chỗ Griaml, nếm mùi hôi của da sống nhầy nhụa thịt, của nước thuộc da hay gã hình dung đến xú khí của sáu trăm nghìn dân Paris trong oi bức ngộp thở giữa mùa hè.
    Tức thì sự thù ghét bị dồn nén trong người gã bật ra với sự mãnh liệt của khoái cảm tột cùng, đó là ý nghĩa của sự tập dượt. Như thể một cơn giông, gã đè bẹp những mùi cả gan lăng mạ cái mũi cao quý của gã. Gã quật chúng tới tấp như mưa đá quật đồng lúa: như một cơn bão, gã nghiền nát lũ hèn hạ ấy và nhận chìm chúng trong trận đại hồng thủy của nước cất để tẩy uế. Sự thịnh nộ của gã chính đáng bao nhiêu thì sự báo thù của gã ghê gớm bấy nhiêu. Ôi chao, khoảnh khắc ấy mới tuyệt diệu làm sao! Grenouille, thằng người nhỏ bé, run lên vì nôn nao, thân thể gã quằn quại trong sự hứng thú đầy khoái cảm oằn người lên làm đầu gã đụng trần đá đường hầm để rồi ngồi xuống từ từ, nằm dài ra, thư giãn và hết sức thỏa mãn. Thật là thống khoái; màn tiêu diệt như vũ bão mọi thứ mùi kinh tởm kia quả là thống khoái ? Hầu như gã thích màn này nhất trong những tiết mục của đoàn kịch vĩ đại bên trong người gã, vì màn ấy đem lại một cảm giác tuyệt vời về sự mệt mỏi chính đánh chỉ có thể có được sau những hành động dũng cảm, thật sự vĩ đại.
    Giờ thì gã được quyển nghỉ ngơi một thời gian với lương tâm thanh thản. Gã duỗi người ra, càng được nhiều càng tốt, trong hang đá chật chội. Nhưng bên trong người gã, trên tấm nệm đã được quét sạch của tâm hồn, gã thoải mái duỗi cả người, thiu thiu ngủ và để cho những mùi thơm thanh tao chơi giỡn với mũi gã: chẳng hạn một làn gió nhẹ đậm đà như được đồng cỏ mùa xuân mang đến, hay một ngọn gió tháng Năm dịu dàng thổi qua những lá sồi xanh non đầu tiên, hay một làn gió biển có vị đắng của hạnh nhân muối. Xế trưa khi gã nhỏm dậy ?" gọi là xế trưa vì thật ra không có chiều, xế trưa, chiều hay sáng, không có ánh sáng hay bóng tối, cũng không có đồng cỏ mùa xuân hay lá sồi xanh ? hoàn toàn không có một vật gì ở vũ trụ bên trong của Grenouille mà chỉ có mùi thơm của vật thôi. (Bởi vậy chỉ là một facon de parler (48) khi nói về vũ trụ ấy như thể một cảnh vật, dĩ nhiên chỉ là tương ứng thôi, đồng thời là cách khả dĩ duy nhất vì ngôn ngữ của chúng ta không diễn tả nổi thế giới mùi). Vậy là vào xế trưa ?" gọi thế để ám chỉ thời điểm và trạng thái trong tâm hồm Grenouille ?" như thông thường ở miền Nam sau giấc nghỉ trưa, khi sự tê liệt của buổi trưa từ từ rút khỏi cảnh vật và sự sống lại bắt đầu sau khi thoát khỏi sự chế ngự. Kẻ thù của những mùi thơm tuyệt vời là cái nóng như thiêu đốt đã biến đi, bầy ma quỷ đã bị tiêu diệt. Cảnh vật bên trong phơi trần mềm mại trong êm ả khêu gợi của sự tỉnh giấc, nằm chờ đợi ý muốn của chủ nhân.
    Như đã nói, Grenouille nhỏm dậy trong vương quốc của gã, vung tay chân cho tỉnh ngủ. Gã, thằng Grenouille bên trong to lớn, đứng lên, sừng sững như một người khổng lồ trông hết sức huy hoàng và vĩ đại, nhìn quanh đầy tự hào và oai vệ; gã thật đáng được chiêm ngưỡng nhưng tiếc thay chẳng có ai thấy gã cả.
    Phải! Đây là vương quốc của gã! Vương quốc Grenouille có một không hai! Do gã, Grenouille độc đáo, dựng nên và cai trị, bị tàn phá khi gã muốn, rồi được gã tái lập và mở rộng khôn cùng, được gã dùng thanh kiếm lửa bảo vệ chống mọi quân xâm lược. Ở đây chỉ có ý muốn của gã ngự trị, ý muốn của Grenouille vĩ đại, tuyệt vời, có một không hai. Bây giờ, sau khi những mùi hôi kinh tởm của quá khứ bị quét sạch rồi, gã muốn vương quốc của gã thơm tho. Thế là với những bước chân hùng dững gã đi ngang những thửa đất bỏ hoang, gieo mùi thơm đủ loại, chỗ này thừa thãi, chỗ kia tiện tặn; vung từng nắm hạt giống hay bỏ từng hạt vào nơi được chọn trong những đồn điền mênh mong hay những khoảnh đất nhỏ nằm kín đáo. Grenouille Vĩ Đại rảo bước đến tận những vùng hẻo lánh nhất của vương quốc và chẳng bao lâu không còn một góc nào chưa được người làm vườn hối hả ấy gieo hạt của mùi thơm.
    Khi thấy đã được rồi và cả vương quốc đã đầy những hạt giống Grenouille thần thánh rồi thì Grenouille Vĩ Đại cho rơi xuống một trận mưa rượu tinh cất, nhẹ nhàng, liên tục; khắp nơi bắt đầu nảy mầm, đâm chồi, nảy lộc làm trái tim rộn rã niềm vui. Rồi đồn điền sum suê lượn sóng và cây ứ nhựa trong những khu vườn nằm khuất. Nụ hoa gần như bất ra khỏi đài hoa.
    Thế là Grenouille Vĩ Đại ra lệnh ngừng mưa. Và mưa tạnh thật. Rồi gã phái mặt trời dịu dàng, chính là nụ cười của gã, đi khắp nước; tức thì hàng triệu đóa hoa rực rỡ nở rộ, từ đầu này đến đầu kia của vương quốc, thành một tấm thảm duy nhất của màu, đan bởi vô số những bình nước hoa quý giá. Và Grenouille Vĩ Đại thấy hay, rất hay. Và gã thổi gió, là hơi thở của gã, đi khắp nước. Và những bông hoa được mơn trớn tỏa hương thơm; vô số những hương thơm ấy trộn thành một mùi không ngớt thay đổi nhưng trong sự thay đổi không ngớt vẫn hòa vào nhau thành một mùi thơm tôn kính toàn vẹn dân lên gã, Grenouille Vĩ Đại, Độc Nhất, Tuyệt Vời đang ngự trên một đám mây thơm mùi vàng, đang phập phồng mũi hít thở lại hơi chính gã đã thở ra; mùi lễ vật làm gã dễ chịu. Và gã hạ cố ban phúc nhiều lần cho tạo vật của gã để rồi được chúng cảm ơn bằng những tung hô và mùi thơm tuyệt vời. Trong khi ấy thì chiều đến, những mùi thơm vẫn tiếp tục tỏa ra, hòa vào màu xanh của đêm thành những khúc nhạc càng lúc càng tuyệt diệu. Một buổi dạ vũ của đủ thứ hương thơm với một buổi bắn pháo bông khổng lồ bằng mùi thơm sắp đến ngay rồi.
    Grenouille Vĩ Đại hơi mệt, ngáp và phán:?Xem kìa, ta đã hoàn thành một kiệt tác và ta rất hài lòng. Nhưng như mọi thứ toàn hảo, nó bắt đầu làm ta nhàm chán. Ta muốn ra về, vui thú một chút trong những ngăn của trái tim ta để chấm dứt một ngày nhiều việc.?
    Grenouille Vĩ Đại phán rồi từ đám mây vàng dang đôi cánh rộng, lướt trên đất nước đang ở trong đêm tối của tâm hồn gã, trở về ngôi nhà trong trái tim, trong khi đám thần dân mùi thơm phía dưới vui vẻ nhảy múa, ăn mừng.
    -------------
    48. Cách nói, cách diễn đạt
    ---------------
    CHƯƠNG 27
    Chao ôi, thật là thoải mái khi về đến nhà! Quả là mệt vì hai trọng trách: là kẻ báo thù và là người tạo dựng thế giới; sau đó lại để chính tạo vật của gã tung hô hàng giờ liền thì còn gì là nghỉ ngơi nữa. Thấm mệt bởi trách nhiệm tạo dựng thiêng liêng và chủ trì buổi lễ, Grenouille Vĩ Đãi thèm có được chút vui riêng.
    Trái tim gã là một lâu đài đỏ thẫm nằm trong một sa mạc đầy sỏi đá, khuất sau những đụn cát, bao quanh bởi một ốc đảo sình lầy và bảy lần tường đá. Chỉ có bay mới đến đó được. Nó có nghìn căn phòng, nghìn căn hầm và nghìn phòng khách sang trọng; một trong số đó có chiếc ghế dài đỏ tía giản dị mà Grenouille đang nằm nghỉ sau một ngày mệt nhọc; lúc này không là Grenouille Vĩ Đại nữa mà chỉ là Grenouille trơn thôi hay đơn giản là anh bạn Jean-Baptiste.
    Trong những phòng của tòa lâu đài thì đầy kệ từ nền tới tận trần, chứa tất cả những mùi Grenouille đã sưu tầm trong đời, hàng triệu chứ. Còn những căn hầm trữ những thùng to nước hoa tuyệt nhất trong đời gã. Khi đến tuổi, chúng được hút sang chai, để đầy những hành lang ẩm lạnh dài hàng cây số, sắp theo năm và xuất xứ, nhiều đến nỗi một đời người không đủ để uống hết.
    Và cuối cùng, khi anh bạn Jean-Baptiste về được đến chez soi (49) của gã, nằm trên ghế gài đơn giản quen thuộc trong phòng khách đỏ tía, giày ống ?" cứ gọi như thế - đã được tháo ra, vỗ tay gọi những người hầu của gã, những người hầu ảo vì vô ảnh, không sờ mó được, không nghe thấy được và đặc biệt không ngửi thấy được, ra lệnh cho chúng vào phòng tìm trong thư viện mùi đồ sộ quyển này quyển nọ hay xuống hầm lấy thức uống. Lũ hầu ảo hối hả đi còn bao tử Grenouille bị thắt lại vì sự chờ đợi hành hạ. Gã chợt có cảm giác như một bơm nhậu ngồi ở quầy rượu bỗng sợ rằng người ta không bán cho hắn ly rượu bỗng sợ rằng người ta không bán cho hắn ly rượu hắn muốn vì một lý do nào đó. Phải làm gì nếu rượu vang trong các thùng hư hết cả? Tại sao để gã chờ? Bọn hầu sao chưa tới? Gã cần những thứ ấy ngay, cần gấp; gã nghiện rồi, gã sẽ chết ngay tại chỗ nếu không có được.
    Bình tĩnh nào, Jean-Baptiste! Bình tĩnh, anh bạn! Chúng đến mà, chúng sẽ mang đến những gì anh thèm khát. Và lũ hầu bay đến ngay. Chúng mang trên chiếc khay vô hình quyển sách mùi; chúng cầm trong bàn tay vô hình có mang găng trắng những cái chai quý giá; cúng đặt chai xuống, hết sức cẩn thận, rồi cúi chào và biến mất.
    Còn lại một mình ?" có thế chứ! ?" Jean-Baptiste vớ lấy những mùi khao khát, khui chai thứ nhất, rót một ly đầy ắp, đưa lên môi uống. Uống một hơi hết ly mùi ướp lạnh; ngon làm sao! Jean-Baptiste khoái đến nỗi trào nước mắt vì đê mê và rót liền ly thứ hai cũng mùi thơm ấy: mùi thơm năm 1752; hớp được vào mùa xuân, trước lúc rạng đông trên Pont Royal; mũi hướng về phía Tây; một làn gió nhẹ từ hướng ấy trộn lẫn mùi biển, mùi rừng và một ít mùi hắc ín của các tàu hàng đang neo nơi bờ. Đó là mùi kết thúc đêm đầu tiên gã lang thang ở Paris mà không được Grimal cho phép. Đó là mùi tươi mát của ngày đang đến, của buổi rạng đông đầu tiên gã được biết trong tự do. Lúc đó mùi ấy đã hứa hẹn với gã sự tự do. Nó báo trước cho gã một cuộc đời khác. Đối với Grenouille thì mùi buổi sớm ấy là một mùi của hy vọng. Gã cất giữ nó cẩn thận và uống nó mỗi ngày.
    Sau khi đã cạn ly thứ hai thì mọi bồn chồn, nghi ngại và bất an biến mất hết và gã thấy thanh thản lại lụng. Gã tựa sát lưng vào những chiếc gối mềm của ghế dài mở một quyển sách và bắt đầu đọc trong ký ức. Gã đọc về những mùi thời thơ ấu, về những mùi của trường học, của đường sá và những ngóc ngách trong thành phố, của con người. Một sự rùng mình dễ chịu len lỏi qua người gã vì những mùi gã gọi về đó toàn là những mùi đáng ghét đã bị tiêu diệt rồi. Vừa thích thú lại vừa ghê sợ, Grenouille đọc quyển sách về những mùi ghê tởm và khi sự ghê tởm lấn át sự thích thú thì gã gấp sách lại, bỏ qua bên, lấy quyển khác.
    Song song, gã uống không ngừng những mùi thơm quý. Sau chai mùi thơm hy vọng gã khui một chai của năm 1744 đựng mùi gỗ ấm phía trước ngôi nhà của Madame Gaillard. Sau chai này gã uống một chai mùi thơm buổi chiều mùa hè, đậm hương và nặng mùi hoa, góp nhặt được bên lề công viên Saint-Germain-des-Pres năm 1753.
    Giờ thì gã đầy mùi thơm. Tay chân đè nặng hơn trên gối. Tâm trí gã mờ mịt tuyệt vời. Nhưng gã vẫn chưa xong cuộc nhậu. Tuy mắt gã không còn đọc được nữa, quyển sách đã tuột khỏi tay gã từ lâu rồi, nhưng gã không muốn chấm dứt buổi chiều trước khi uống cạnh chai chót, chai tuyệt vời nhất: mùi thơm của cô gái ở Rue des Marais ?
    Gã uống mùi ấy đầy thành kính; để được như thế, gã ngồi ngay ngắn trên ghế dài cho dù khó khăn vì căn phòng đỏ tía đã lắc lư và quay cuồng quanh gã theo mỗi động tác. Gã ngồi như một cậu học trò, hai đầu gối ép sát, hai chân kề nhau, tay trái đặt lên đùi trái; Grenouille uống trong tư thế ấy mùi thơm quay nhất lấy lên từ căn hầm của trái tim gã, ly này đến ly khác và cứ buồn mãi thêm. Gã biết mình quá chén rồi. Gã biết mình không kham nỗi bao nhiêu thứ ngon. Nhưng gã vẫn uống cho đến khi cạn chai: gã xuyên qua lối đi tối om từ đường vào sân. Gã tiến lại chỗ quầng sáng. Cô gái ngồi cắt những trái mơ. Từ xa vọng lại tiếng nổ của pháo bông và pháo đại ?
    Gã đặt ly xuống, ngồi như hóa đá thêm mấy phút nữa vì buồn bã và vì quá chén cho đến khi dự vị cuối cùng biến khỏi lưỡi. Gã trố mắt nhìn trân trối trước mặt. Óc gã chợt trống trơn như những cái chai. Rồi gã ngã dài trên ghế và ngủ mê man.
    Cùng lúc ấy thì gã Grenouille bằng xương bằng thịt cũng ngủ trên tấm chăn thô. Và giấc ngủ của gã cũng sau như Grenouille ở trong hồn, vì kỳ công và sự quá chén của gã này cũng làm gã kia kiệt sức; xét cho cùng thì hai gã đều là của một con người.
    Tất nhiên khi thức giấc thì gã không thức trong phòng khách đỏ tía của lâu đài đỏ tía sau bảy lần tường, cũng không trong cảnh vật thơm phức mùa xuân của tâm hồn gã mà chỉ trên nền cứng của ngục đá tối om cuối đường hầm. Gã đói và khát đến muốn ói, ớn lạnh và khốn khổ như một tay nghiện rượu sau một đêm chè chén. Gã bò ra khỏi hầm.
    Ngoài trời là một lúc nào đó trong ngày, thường là bắt đầu hay chấm dứt của đêm, nhưng ngay cả nửa đêm thì ánh sao cũng làm mắt gã nhức như bị đâm. Gã thấy không khí như đầy bụi, cay sè, cháy phổ, cảnh vật cứng nhắc; gã vấp phải đá. Ngay cả những mùi dịu nhất cũng thành gắt và cay đối với cái mũi đã xa lại với thế giới của gã. Grenouille, con bọ chét, đã trở thành một con cua rất dễ bị thương khi nó rời khỏi vỏ sò ở nhờ, trần trụi rong chơi trong biển.
    Gã đến chỗ lấy nước, liếm chất ẩm trên vách đá một, hai giờ liền; chẳng khác bị tra tấn vì quá lâu mà suốt thời gian ấy thế giới có thật kia như đốt cháy da gã. Gã lột vài mảng rêu trên đá, rang nuốt, ngồi xổm, vừa ngốn vừa ị; nhanh, nhanh, mọi chuyện phải thật nhanh. Rồi chẳng khác một con thú nhỏ, thịt mềm bị lũ diều hâu bay lượn trên không săn đuổi, gã chạy thục mạng về lại hang tới tận cuối đường hầm, chỗ trải chăn thô. Ở đấy gã mới lại thấy an toàn.
    Gã tựa lưng vào đống đá lở, duỗi chân chờ đợi. Bây giờ gã phải giữ cơ thể cho được yên, thật yên, như một cái thùng di chuyển quá nhiều có thể bị trào ra. Dần dà gã làm chủ được hơi thở. Trái tim loạn xạ đập chậm lại, những đợt sóng bên trong vỗ yếu dần. Chợt nỗi cô đơn đè lên hồn gã như một tấm gương đen. Gã nhắm nghiền mắt. Những cánh cửa bí mật bên trong người gã mở ra, gã bước vào. Buổi trình diễn của gánh kịch trong tâm hồn Grenouille bắt đầu.
    -------------
    49. Nhà riêng
  9. huamai

    huamai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/11/2006
    Bài viết:
    81
    Đã được thích:
    0
    CHƯƠNG 28
    Cứ như thế ngày nối ngày, tuần nối tuần, tháng nối tháng. Bảy năm dài.
    Trong lúc ấy thì ngoài đời có chiến tranh. Thế chiến nữa cơ. Đánh nhau ở Schlesien và Sachsen, ở Hannover và Bỉ, ở Boehmen và Pommern. Lính của đứa vua chết ở Hessen và Westfalen (50), chết trên quần đảo Baleares (51), chết ở Ấn Độ, ở Mississipi và ở Canada nếu như họ chưa bị chết trên đường viễn chinh vì bệnh thương hàn. Cuộc chiến làm cho một triệu người chết, vua Pháp mất thuộc địa mênh mông và những nước tham chiến chịu biết bao tổn phí đến nỗi cuối cùng họ miễn cưỡng quyết định chấm dứt chiến tranh.
    Vào một mùa đông của những năm này chút nữa Grenouille bị chết cóng mà không biết. Gã nằm năm ngày liền trong căn phòng khách đỏ tía; khi thức giấc trong hang thì gã không cựa nổi vì lạnh. Gã liền nhắm mắt định ngủ cho chết luôn. Nhưng thời tiết chợt thay đổi làm rã băng và gã thoát chết.
    Có lần tuyết dày đến nỗi gã không đủ sức bới tìm thạch y. Thế là gã phải ăn toàn dơi chết cứng vì đông lạnh.
    Có lần một con quạ chết trước của hang. Gã ăn luôn. Đó là tất cả những sự kiện mà gã ghi nhận được từ thế giớ bên ngoại trong suốt bảy năm. Ngoài ra gã chỉ sống trong trái núi của gã, trong vương quốc tự tạo của hồn gã. Và hẳn gã sẽ còn ở đó cho đến chết (vì gã chẳng thấy thiếu thốn gì) nếu như không có một tai họa xảy ra, lùa gã khỏi ngọn núi và khạc gã trở lại với thế giới.
    ---------
    50. Những vùng hiện nay đa số thuộc về Đức, một phần thuộc Tiệp và Ba Lan
    51. Ở Địa Trung Hải.
    ----------
    CHƯƠNG 29
    Tai họa nọ không phải là động đất, cháy rừng, núi lở hay đường hầm sụp. Nó không phải là tai họa từ ngoại cảnh mà từ bên trong nên hết sức chua xót vì nó chặn mất lối thoát thân mà Grenouille ưng nhất. Nó xảy ra trong giấc ngủ. Trong giấc mơ thì đúng hơn. Trong giấc mơ, khi gã ngủ trong trái tim tưởng tượng của gã thì càng chính xác hơn nữa.
    Lúc ấy gã đang nằm ngủ trên ghế dài trong phòng khách đỏ tía. Quanh gã là những chai đã cạn. Gã đã uống nhiều lắm rồi, sau cùng lại làm những hai chai mùi thơm cô gái tóc đỏ. Có lẽ như thế là quá nhiều vì lần này dẫu ngủ say như chết gã vẫn mơ những giấc mơ lằng nhằng quái đản. Mớ lằng nhằng này rõ ràng là những mảnh của một mùi. Mới đầu chúng kéo ngang mũi Grenouille như sợi chỉ mỏng manh, rồi phình ra như mây. Lúc ấy gã như thể đứng giữa một cánh đồng hoang có sương mù bốc lên. Sương mù mỗi lúc bốc một cao. Chẳng bao lâu Grenouille bị bao phủ hoàn toàn bởi sương mù, đẫm sương mù và trong làn sương mù ấy không có một chút không khí nào. Để khỏi chết ngạt, gã phải hít sương mù ấy. Mà sương mù là một mùi, như đã nói. Và Grenouille biết đó là mùi gì. Sương mù chính là mùi gã. Mùi của gã, của Grenouille, là sương mù. Mặc dù Grenouille biết đó là mùi của gã nhưng gã lại không ngửi ra nổi, thế mới kinh hoàng. Dù có chết đuối trong mùi ấy gã cũng không thể nào ngửi ra nổi.
    Khi đã thấy rõ điều đó, gã gào lên khủng khiếp như thể bị thiêu sống. Tiếng gào phá toang tường căn phòng khách đỏ tía, phá tan cả những lớp tường của tòa lâu đài, vọt ra khỏi trái tim, băng qua những đường hào, những đầm lầy, những sa mạc; phóng ào ào như một cơn bão lửa trên cảnh vật ban đêm của tâm hồn gã; tiếng gào vang ra từ miệng gã, xuyên suốt đường hầm ngoằn ngoèo tới tân thế giới bên ngoài vượt cả cao nguyên Saint-Flour như thể chính ngọn núi kêu gào vậy. Grenouille thức giấc bởi tiếng gào của chính gã. Gã đạp lung tung như thể xua đi đám sương mù không thể ngửi ra mùi khiến gã suýt chết ngộp ấy. Gã sợ gần chết, run lập cập vì khiếp đảm. Nếu tiếng gào không xé toang màn sương thì gã đã chết đuối trong chính gã rồi. Một cái chết khủng khiếp. Nghĩ tới mà toát mồ hôi. Trong lúc ngồi run, thử gom lại những ý nghĩ sợ hãi tản mạng thì gã chắc chắn một điều: gã sẽ phải thay đổi cuộc sống, chỉ vì gã không muốn sống lại giấc mơ kinh hoàng như thế lần thứ hai. Lần thứ hai chắc chắc gã sẽ không sống sót.
    Gã vắt tấm chăn thô lên vai rồi bò ra ngoài. Ngoài kia đang buổi sáng, một sáng cuối tháng Hai. Có mặt trời. Đất có mùi đá ướt, rêu và nước. Gió thoảng mùi thơm của thu mẫu đơn. Gã ngồi xổm trên đá trước cửa hang, sưởi nắng. Gã hít làn không khí trong lành. Gã vẫn còn rùng mình khi nghĩ đến màn sương mù mà gã đã chạy thoát và khi thấy ấm ở lưng thì gã lại rùng mình vì sảng khoái. May mà thế giới bên ngoài vẫn còn, dẫu chỉ để dùng làm nơi chạy trốn. Không biết phải hình dung sự kinh hoàng như thế nào nếu gã không còn thấy thế giới ở cuối đường hầm? Không ánh sáng, không mùi, không gì cả, chỉ còn màn sương kinh hoàng ấy ở trong, ở ngoài, cùng khắp ?
    Gã bớt choáng dần. Sự sợ hãi cũng từ từ nới lỏng cái siết và Grenouille cảm thấy an toàn hơn. Tới gần trưa thì gã thản nhiên trở lại. Gã đưa ngón trỏ và giữa của tay trái lên mũi rồi hít hơi qua kẽ tay. Gã ngửi ra không khí ẩm mùa xuân và đậm đà mùi thu mẫu đơn. Còn chẳng ngửi thấy gì từ ngón tay cả. Gã lật tay lại, ngửi lòng bàn tay. Gã cảm thấy bàn tay ấm nhưng không ngửi thấy gì hết. Gã xắn tay áo rách bươm rồi gí mũi vào khuỷu tay. Gã biết chỗ này ai cũng có mùi riêng cả. Thế mà gã vẫn không ngửi thấy gì. Nách không, chân cũng không mà ở bộ phận sinh dục ?" gã đã phải gắng hết sức cúi người xuống ?" cũng không nốt. Thật lố bịch: gã, Grenouille này, có thể đánh hơn bất kỳ ai ở cách hàng dặm lại không thể ngửi ra bộ phận sinh dục của mình chỉ cách chưa tới một gang tay! Tuy vậy gã không hoảng hốt mà bình tĩnh suy nghĩ rồi tự nhủ như sau: ?okhông phải ta không có mùi, vì mọi vật đều có mùi. Ta không ngửi ra được rằng ta có mùi chẳng qua vì từ lúc mới sinh ta đã ngửi mùi ấy ngày này qua ngày khác, nên mũi ta đã quá quen đến nỗi không cảm nhận ra mùi ấy đấy thôi. Nếu tách được mùi của ta, hay chỉ một phần thôi, khỏi cơ thể thì sau một thời gian mất thói quen hẳn ta sẽ ngửi ra mùi ấy, nghĩ là ngửi ra chính ta.?
    Gã để chăn xuống rồi cởi quần áo, những mảnh, những giẻ rách nghĩa là những gì của quần áo còn sót lại. Suốt bảy năm gã chưa hề cởi. Chắc chắn chúng phải đẫm mùi gã chứ. Gã quẳng chúng thành một đống trước cửa hang rồi bỏ đi một quãng xa. Rồi gã lại leo lên đỉnh núi, lần thứ nhất sau bảy năm. Gã đứng đúng chỗ đã đứng lần mới tới, hướng mũi về phía Tây, để mặc cho gió rít quanh thân thể trần truồng. Ý định của gã là để cho bay mùi đi hết rồi hứng đầy gió Tây có mùi của biển và những đồng cỏ ẩm ướt để át hẳn mùi gã; như thế sẽ tạo ra sự chênh lệhc về mùi giữa gã, Grenouille, với đống quần áo; và như thế gã hoàn toàn có khả năng nhận biết rõ rệt. Để cho mùi gã ít vào mũi nhất, gã khom người tới trước, hết sức vươn cổ ngược chiều gió và duỗi tay ra sau. Trông gã giống một người bơi lội sắp nhảy xuống nước.
    Gã đứng liền mấy tiếng trong cái thế hết sức dị hợm; nắng tuy yếu cũng đủ làm cho gã trắng bợt như dòi vì thiếu ánh sáng trở nên đỏ như tôm luộc. Sẩm tối gã xuống lại hang. Gã trông thấy đống quần áo ngay từ xa; còn cách mấy mét gã đã bịt chặt mũi và chỉ bỏ ra khi đã gí sát mũi vào đấy. Gã làm cách ngửi thử như đã học được của Baldini, hít nhanh vào rồi thở ra từ từ. Để bắt được mùi, gã khum hai tay lại như cái chuyên trên đống quần áo còn mũi là núm chuông. Gã làm đủ cách để ngửi cho ra mùi gã từ đống quần áo. Nhưng không có mùi ấy. Dứt khoát không có. Có cả nghìn mùi khác ở đấy: mùi đá, cát, rêu, nhựa cây, máu quạ, thậm chí mùi dồi gã mua gần Sully mấy năm về trước vẫn rành rành. Quần áo này mang một thứ nhật ký mùi của bảy tám năm qua. Chỉ riêng mùi gã, kẻ đã mang chúng suốt không hề đứt quãng trong những năm ấy, lại không có.
    Giờ thì gã hơi lo. Mặt trời đã lặn. Gã đứng tồng ngồng trước cửa hầm, nơi gã đã sống bảy năm dài ở cái đầu tối tăm kia. Gió lạnh và gã cóng người nhưng gã không nhận thấy mình cóng bởi trong người gã có một cái lạnh đối chọi, đó là sự sợ hãi. Nó không phải sự sợ hãi gã có trong mơ, cái sợ chết-ngạt-bởi-chính-mình quái đản phải tống khứ cho bằng được và gã đã thoát. Nỗi sợ mà gã cảm thấy lúc này là không rõ về chính mình. Nó ngược hẳn với nỗi sợ kia. Gã không chạy thoát nổi nso mà phải đương đầu. Gã phải biết thật chắc chắn rằng gã có mùi hay không, cho dù sự thật kinh hoàng đến đâu đi nữa. Phải biết ngay. Tức khắc.
    Gã trở vào trong hầm. Chỉ sau vài mét, bóng tốt mịt mùng đã bao trùm gã nhưng gã vẫn đi như trong ánh sáng ban ngày. Gã đi đoạn đường này đã mấy nghìn lần, rõ từng nấc và từng chỗ quanh, ngửi ra từng cây nhũ đá buông xuống hay từng mấu đá nhỏ nhất nhô ra. Tìm đường không khó. Chống chọi lại những hồi tưởng về giấc mơ khiếp sợ bóng tối mới khó, chúng cứ mãi dâng lên như đợt sóng triều theo từng bước gã đi. Nhưng gã can đảm lắm. Có nghĩa là gã lấy cái sợ chưa biết để đối chọi với cái sợ đã biết và gã thành công vì gã biết không có chọn lựa nào khác. Khi đến được cuối đường hầm rồi, nơi mà chỗ đá lở dốc lên, thì hai nỗi sợ biến mất cả. Gã thấy bình thảnh, đầu óc tỉnh táo còn mũi thì như chiếc dao mổ đã được mài sắc. Gã ngồi xổm, bịt mắt, ngửi. Nơi đây, trong ngôi mộ bằng đá xa hẳng thế giới này, gã đã nằm suốt bảy năm. Còn đâu nữa trên thế giới này cso mùi gã nếu không phải là đây! Gã thở từ từ. Gã kiểm nghiệm thật kỹ. Gã không vội phán đoán. Gã ngồi chồm hỗm mười lăm phút. Gã có một trí nhớ không nhầm lẫn nên biết rất rõ bảy năm trước chỗ này có mùi gì: mùi tinh khiết của đá, lạnh, ẩm và muối vì chưa có sinh vật nào, dù người hay thú, đã từng vào đấy ? Nhưng mùi lúc này y hệt trước kia. Gã ngồi xổm thêm một lát nữa; rất bình tĩnh, chỉ hơi gục gặc đầu. Đoạn đi ra, mới đầu còn lom khom rồi thẳng người khi đường hầm đủ cao. Ra tới ngoài gã khoác lại mớ giẻ rách (giày của gã đã hư từ mấy năm trước), vắt chăn thô lên vai rồi ngay đêm ấy rời khỏi Plomb du Cantal đi về phía Nam.
  10. huamai

    huamai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/11/2006
    Bài viết:
    81
    Đã được thích:
    0
    Hôm nay, tạm bấy nhiêu nhé! Mỏi tay rồi

Chia sẻ trang này