1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đạt Ma Dịch Cân Kinh

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi QuynhNguyen, 31/05/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. QuynhNguyen

    QuynhNguyen Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/04/2001
    Bài viết:
    763
    Đã được thích:
    0
    Thời gian trước mình tập ở một nơi rất bé, hì hì, và nó không phải là nơi luyện tập chuyên về võ thuật.
    Nếu khi nào bạn rảnh, bạn xuống Trung tâm Hỗ Trợ và Dạy nghề cho Người khiếm thị trẻ Hà Nội (PDM) cạnh trường danh cho người khiếm thị Nguyễn Đình Chiểu ở 33 Phố Lạc Trung (hị hị, phía sau Trà Hoa Viên Ý). Vào đó hỏi thầy Dũng. Sau đó thì đơn giản lắm.
    Hị hị, nhân tiên nói ngoài một chút, cái TT đó không phải là một nơi chuyên đào tạo võ thuật (hị hị, nên các bác sẽ không bao giờ thấy tên của nó ở đâu cả hoặc sẽ chẳng bao giờ thấy nó tuyển sinh cả), nhưng những người thầy ở đó họ đến TT và giúp cho những người khiếm thị luyện tập (không có tý phí nào đâu nhá). Và thầy Dũng là người tôi đã học khí công với thầy, trong đó có cả Đạt Ma Dịch Cân Kinh. Hị hị, và nữa, thầy Dũng là một trong những hậu duệ của môn phái Vũ Gia Thân Pháp của Võ sư Vũ Bá Quý lập ra (hì hì, môn nay bọn tui thường gọi là Tam Chiêu, hao hao giống Triệt Quyền Đạo của Lý Tiểu Long). Hị hị, đến đấy rùi, nếu bác nào thích thì tham gia. Rất thoải mái. Và nữa, nếu có thời gian nhiều hơn, các bác dành một chút thời gian để giúp cho những người khiếm thị ở đó sinh hoạt và luyện tập.
    Chúc bạn mạnh khoẻ và luôn vui....
    I was born to take care of you....
  2. TGNN

    TGNN Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    28/01/2002
    Bài viết:
    302
    Đã được thích:
    1
    Mình lục ra một tài liệu nói phép vẫy tay được gọi là PHẤT THỦ DỊCH CÂN KINH chứ không phải là ĐẠT MA DỊCH CÂN KINH. Mình nghĩ có lẽ cả hai đều năm trong Dịch cân kinh cả thôi.
    TGNN
  3. TGNN

    TGNN Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    28/01/2002
    Bài viết:
    302
    Đã được thích:
    1
    Mình lục ra một tài liệu nói phép vẫy tay được gọi là PHẤT THỦ DỊCH CÂN KINH chứ không phải là ĐẠT MA DỊCH CÂN KINH. Mình nghĩ có lẽ cả hai đều năm trong Dịch cân kinh cả thôi.
    TGNN
  4. protostos

    protostos Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    06/02/2002
    Bài viết:
    267
    Đã được thích:
    0
    Theo như tôi nhận xét, cách luyện này có một số điểm giống như luyện Yoga bậc 6: Làm chủ hơi thở (Pranayama), thót hậu một gọi là Co Thắt Gốc còn thót bụng là Co Thắt Bay. Co thắt gốc có thể làm cho người ta hồi xuân, co thắt bay giúp đánh thức năng lực tiềm ẩn của con người (Kundalin). Tôi nghĩ bài tập này có khả năng chữa bệnh cũng không có gì lạ, có điều, tôi xin hỏi QuynhNguyen: trong suốt buổi tập có phải co hậu môn liên tục hay không (vì trong cách luyện Co Thắt Gốc có nói chỉ co hậu môn khi phổi rỗng (thở ra)).
    Người anh hùng của các cô gái mộng mơ​
  5. protostos

    protostos Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    06/02/2002
    Bài viết:
    267
    Đã được thích:
    0
    Theo như tôi nhận xét, cách luyện này có một số điểm giống như luyện Yoga bậc 6: Làm chủ hơi thở (Pranayama), thót hậu một gọi là Co Thắt Gốc còn thót bụng là Co Thắt Bay. Co thắt gốc có thể làm cho người ta hồi xuân, co thắt bay giúp đánh thức năng lực tiềm ẩn của con người (Kundalin). Tôi nghĩ bài tập này có khả năng chữa bệnh cũng không có gì lạ, có điều, tôi xin hỏi QuynhNguyen: trong suốt buổi tập có phải co hậu môn liên tục hay không (vì trong cách luyện Co Thắt Gốc có nói chỉ co hậu môn khi phổi rỗng (thở ra)).
    Người anh hùng của các cô gái mộng mơ​
  6. NgocLuu

    NgocLuu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/01/2004
    Bài viết:
    160
    Đã được thích:
    0
    Tôi rất muốn tập Dịch Cân Kinh, và đã duy trì việc đứng vẫy tay hàng ngày được gần tháng nay. Nhưng có một điều băn khoăn mà không tìm thấy trong những tài liệu dạy cách tập môn này - cách hít thở.
    Tôi cho rằng tập Khí quan trọng nhất là cách thở. Tôi thử thở theo cách: Đưa tay ra trước thì thở, vẫy tay đến gần cuối thì hít vào (vì tập từ lần đầu tiên đã thấy thế). Sau nghĩ lại, thấy đưa tay ra trước thì có vẻ ngực và bụng được thả lỏng, nên làm ngược lại: đưa tay ra trước thì hít vào, vẫy tay gần hết thì thở. Đến khi tập thì thấy mình rối loạn, mất niềm tin và không thấy người thoải mái như trước nữa.
    Hơn nữa, cũng xin các anh chị biết môn Dịch Cân Kinh chỉ bảo các co thắt hậu môn và bụng như thế nào.
    Xin cảm ơn nhiều.
    Chúc sức khoẻ các anh chị.
    NgocLuu.
  7. Phicanh

    Phicanh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/10/2002
    Bài viết:
    1.521
    Đã được thích:
    0
    1 cái là phất thủ pháp dường như là từ Võ Đang còn cái kia là Dich Cân Tẩy Tủy chứ ko phải Dịch Cân Kinh,bản DCK có phần giống trong cuốn tự luyện nội công thiếu lâm của ông hàng thanh cái ông Trần Đại Sỹ còn cho rằng DCK ko phải do Đạt MA Sư Tổ sáng chế rồi .........
  8. KIMQUIUFC

    KIMQUIUFC Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    21/08/2005
    Bài viết:
    258
    Đã được thích:
    0
    Tôi có 1 tập tài liệu về Dịch cân Kinh , xin đưa lên để các anh em tham khảo . Tài liệu nầy nằm trong web Thư viện Vn . Tác giả : Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ .
    DỊCH CÂN KINH
    Trình bày trong đại hội Y-khoa châu Âu ngày 14-10-2001 Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ (Paris, France) Võ-sư Trần Huy Quyền (Melbourne, Australia) Tác giả giữ bản quyền. Tout droits réservés. All rights reserved.
    Thưa Quý Đồng-nghiệp, Hôm nay chúng ta họp nhau đây, để thảo luận một đề tài vừa có tính chất Y-học, vừa có tính chất Võ-học, Thể-thao rất cổ của Trung-quốc. Tại các Đại-học Y-khoa Á-châu Thái-bình dương, việc đưa vấn đề như thế này vào giảng dạy, là một sự bình thường từ đầu thế kỷ thứ 20. Nhưng tại châu Âu chúng ta thì thực là hiếm hoi. Hơn nữa đề tài, mà chúng ta bàn luận đây, sẽ gây ra rất nhiều tranh luận. Đó là:
    Dịch cân kinh
    Dịch Cân kinh là tiếng gọi tắt của Dịch Cân Tẩy Tủy Kinh. Bộ sách này đầy những huyền thoại, đầy những ngụy tạo, đầy những mơ hồ, đã làm hại biết bao nhiêu người tin vào các bản ngụy tạo, rồi luyện tập, gây ra phản ứng nguy hại cho cơ thể, dĩ chí chết người. Vì vậy sau buổi hội thảo hôm nay, tôi xin Quý-vị hãy vì Y-đạo, chịu khó giảng dạy cho người xung quanh, cho thân chủ, để sự thực được soi sáng.
    Phần thứ nhất:
    Dẫn nhập
    1.- Nguồn gốc Trong hằng trăm nghìn ngôi chùa Phật-giáo trên thế giới, không một ngôi chùa nào được tiểu thuyết hóa, huyền thoại hóa và thần thánh hóa bằng chùa Thiếu-lâm bên Trung-quốc (1). Và cũng trong hằng triệu vị tăng, không vị nào được viết, được nói, được tôn sùng bằng ngài Bồ-đề Đạt-ma. Bỏ ra ngoài vấn đề tôn giáo, quả thực Ngài là một trong những người đã đem Thiền-công vào Trung-quốc, và làm cho quảng bá.
    Ghi chú, Trung-quốc có 3 ngôi chùa đều mang tên Thiếu-lâm. 1, Hà-Nam đăng phong Tung-sơn Trung-châu Thiếu-lâm tự, 2, Hà Bắc Bàn-sơn Thiếu-lâm tự, 3, Phúc-kiến Tuyền-châu Nam Thiếu-lâm tự.
    Một trong những sự kiện người ta từ thần thánh hóa ngài, rồi đi đến ngụy tạo ra những bộ Thiền-công, Khí-công và gán cho ngài là tác giả. Trong đó có bộ Dịch Cân Tẩy Tủy Kinh. Bài tựa bộ Thiếu-lâm tự tư liệu của Vưu Cốc, Diêu Nguyên, do Văn-hiến xuất bản xã Bắc-kinh, xb. tháng 10-1984, phần tựa, trang 2 viết: "Từ trước đến nay, mật bản Dịch Cân kinh nói là nội công Thiếu-lâm, rồi được lưu truyền trên trăm năm đến giờ. Căn cứ vào sự kết thành của nội dung bộ sách cũng như cú pháp thì không thể nào tin được. Bộ này chỉ có thể được viết vào thời Thanh Khang-hy (1662-1723), Ung-chín h(1723-1736) là quá. Trong thời vua Quang-tự (1875-1909), chính Phúc-sơn Vương Tổ Nguyên cũng đã viết: Xét đến Tung-sơn Thiếu-lâm tự, người ta mạo ra tập Nội-công đồ, phổ biến rất rộng".
    Thực sự Dịch Cân kinh là bộ sách Khí-công do các Đạo-gia Trung-quốc soạn ra vào cuối đời Minh hay đầu đời Thanh, tương đương với bên Đại Việt vào cuối đời Lê sang đời Nguyễn. Lúc mới xuất hiện Dịch Cân Kinh chỉ là một trong hằng trăm bộ sách Khí-công, không quá siêu việt. Bộ sách này trước năm 1950 chẳng nổi tiếng cho lắm. Nhưng từ khi nhà văn Kim Dung, tiểu thuyết hóa đi trong Thiên-long Bát-bộ, thì bộ kinh này trở thành thánh kinh. Nổi tiếng đến độ đã có người bị ngã gẫy chân, thay vì đi tìm thầy điều trị, lại nằm ỳ ở nhà luyện, hút nữa phải cưa chân. Tác giả Dịch Cân kinh không biết là ai. Dịch Cân kinh ra đời khoảng 1662-1736, thế nhưng Kim-Dung lại cho nhân vật tiểu thuyết Mộ Dung Bác, Du Thản Chi, Cưu Ma Trí luyện vào đời Bắc Tống (960-1127). Có lẽ Kim Dung cho rằng mình viết tiểu thuyết, nên không cần sự chinh xác, rồi ông cũng và gán cho tác giả là ngài Bồ-đề Đạt-ma của chùa Thiếu-lâm. Thành ra từ thập niên 60 thế kỷ thứ 20, người Việt không hề thấy bộ sách này, rồi cho rằng đó là bộ sách trong huyền thoại, không có thực. Một số người thất học, trong đó có vài võ sư, vài thầy lang Việt-Nam, chưa hề thấy bản Dịch Cân Kinh trên, họ phịa ra nhiều bản Dịch Cân kinh, rồi đem phổ biến. Tất nhiên quần chúng tin ngay.
    Trong thời gian 1960-1975 ở miền Nam Việt-Nam, ngay khi ra ngoại quốc (1975-2001) lưu truyền "một phương pháp" luyện Dịch Cân kinh, bằng tiếng Việt, chỉ có một thức duy nhất là đứng thẳng buông lỏng rồi vẫy tay như chim non tập bay. Đính kèm còn chép thêm rằng nhiều người tập, đã chữa khởi ung-thư gan, lao thận, Parkinson, huyết áp cao, và hàng chục thứ bệnh nan y. Cho rằng đây là một ấn bản khác của Dịch Cân Kinh, tôi đã bỏ công tra trong các thư viện của những Đại-học Y-khoa Thượng-hải, Giang-tô, Hồ-Nam, Phúc-kiến, dĩ chí đến các gia, các phái võ thuộc các hệ Thiếu-lâm ở Hương-cảng, Đài-loan, nhưng cũng không thấy. Vì vậy tôi đặt tên bản này là Dịch Cân Kinh Việt-Nam (DCKVN), vìø được sáng tác vào thời kỳ 1960-1975.
    Gần đây một vài tờ báo Việt-ngữ bên Hoa-kỳ lại lưu truyền một bản Dịch Cân kinh nữa, hơi giống bản DCKVN, hơn nữa còn đăng lời xác nhận giá trị của Bác-sĩ Lê Quốc Khánh (sinh 1932), người từng học ở Đại-học Quân-y, từng làm việc chung với các bác sĩ Pháp, Mỹ, Phi-luật-tân, và cộng tác với Bác-sĩ Đinh Văn Tùng trong công cuộc nghiên cứu trị ung thư bằng Phẫu-thuật (1936-1965), nghĩa là ông Khánh mới 3 tuổi đã thành bác sĩ. (Tài liệu đính kèm). Tôi không phủ nhận tập tài liệu này, tôi hứa sẽ nghiên cứu kỹ rồi xác nhận sau. Từ năm 1974, một số Đại-học Y-khoa Trung-quốc dùng Dịch Cân kinh làm khóa bản giảng dạy cho các thầy Tẩm-quất (Kinésithérapeutre) và Bác-sĩ Thể-thao để luyện lực phục hồi sau khi trị bệnh bị tiêu hao chân khí. Tài liệu còn dùng trị bệnh kết hợp Tây-y, Trung-dược, Châm-cứu: _ Lão khoa, _ Thần kinh, _ Não khoa, (Neurology) _ Niệu khoa (Urology) _ Phong thấp (Rhumatology) _ Phế khoa (Pneumology) _ V.v... Đến đại hội Y-khoa toàn quốc năm 1985, các trường Đại-học Y-khoa trao đổi kinh nghiệm, đã chú giải, phân tích, tước bỏ phần có hại, hoặc không có kết quả đi. Từ đấy Dịch Cân kinh được giảng dạy chung với một số bộ Khí-công khác, theo thứ tự là:
    1, Dịch Cân kinh,
    2, Tráng yêu bát đoạn công, (8 thức luyện cho lưng khỏe).
    3, Ngũ cầm công, (năm thức luyện nhái theo 5 loại thú).
    4, Bát đoạn cẩm, (8 thức Khí-công đẹp như gấm).
    5, 24 thức luyện công của Trần Hy-Di.
    6, Nội đơn thuật (căn cứ vào Kinh Dịch, Đạo Đức kinh).
    7, Thất diệu pháp môn (bẩy phép luyện công tuyệt diệu).
    Sở dĩ Dịch Cân kinh được đưa lên hàng đầu vì những lý do sau:
    _ Dễ luyện,
    _ Luyện mau kết quả,
    _ Khi luyện dù trẻ con, dù người già, dù ngộ tính kém cũng thu được kết quả.
    _ Dù luyện sai, chỉ thu kết quả ít, chứ không sợ nguy hiểm.
    Tuy vậy nếu bàn về kết quả luyện thần, luyện thể thì Dịch Cân kinh thua xa 24 thức luyện của Trần Hy Di. Vì luyện Thiền-công, Khí-công từ nhỏ, nên trong thời gian học tại Đại-học Y-khoa Thượng-hải, tôi theo dõi những buổi giảng Khí-công rất kỹ. Sau khi rời Thượng-hải, trở về Paris, tôi luyện Dịch Cân kinh liên tiếp 5 năm. Trong lúc luyện tôi đã gặp những khúc mắc khó khăn, nan giải, đành chịu, không biết bàn với ai. Phải chờ đến 1987, tôi sang Úc, ở tại nhà bào đệ là Trần Huy Quyền vấn đề mới được soi sáng. Trong gia đình 6 anh em tôi, thì Quyền là người thông minh nhất. Bất cứ vấn đề gì rắc rối, bí hiểm đến đâu, Quyền chỉ suy nghĩ khoảng nửa giờ là kiến giải sáng suốt. Tôi là thầy thuốc thiếu kinh nghiệm dạy võ thuật, lại nữa tôi chỉ dạy Khí-công cho những sinh viên đã tốt nghiệp Đại-học Y-khoa, nên không có cái nhìn tổng quát. Còn Quyền thì dạy đệ tử nhỏ nhất là 6 tuổi, lớn nhất có khi tới 80, lại có đủ trình độ kiến thức. Vì vậy Quyền nhiều kinh nghiệm sư phạm hơn tôi. Tôi đem Dịch Cân kinh ra bàn với Quyền. Vì Quyền đã học võ từ năm 11 tuổi, dạy võ 22 năm (năm đó Quyền 42 tuổi), rất nhiều kinh nghiệm. Trong một tháng, anh em đã trao đổi, bao nhiêu khúc mắc đều giải được hết. Năm sau (1988) tôi trở lại Úc, chúng tôi ra soạn thành tài liệu. Nay nhân đại hội Y-khoa Châu-âu của ARMA, do yêu cầu của anh em, một lần nữa tôi sửa đổi, thêm kinh nghiệm, đem ra giảng dạy. Tôi tin rằng anh chị em sẽ hội lĩnh được hết. Trước là luyện cho thể kiện, tâm an, thần tĩnh. Sau là dạy cho thân chủ, giúp họ trị bệnh.
    2.- Nội dung Bản Dịch Cân Kinh mà các Đại-học Y-khoa Trung-quốc dùng là cổ bản từ cuối đời Minh, đầu đời Thanh, lưu truyền tới nay. Nội dung Dịch Cân kinh chia ra làm 12 thức. Mỗi thức gồm nhiều câu Khẩu-quyết, theo thể văn vần để dễ nhớ. Tôi không phiên âm, cũng như dịch nguyên văn, vì tối vô ích. Tôi chỉ giảng nghĩa, phân tích các câu quyết đó rất chi tiết. Tuy nhiên sau mỗi thức tôi cũng chép nguyên bản bằng chữ Hán, cũng như hình vẽ trong cổ bản để độc giả tham chước. Về tên mỗi thức, tôi không theo cổ bản mà theo bản của các Đại-học Y khoa Trung-quốc. Cũng như tất cả thư tịch Trung-quốc, trải qua một thời gian dài, các câu Khẩu-quyết này bị nạn tam sao thất bản.
    Khi san định, phân tích để đem làm tài liệu, ban tu thư các Đại-học đã vứt bớt đi hầu hết các bản, chỉ nghiên cứu 27 bản mà thôi. Phần tôi trình bầy đây là theo bản của Đại-học Y-khoa Thượng-hải và tham chước bản của các Đại-học Thành-đô, Giang-tô, Bắc-kinh, Vân Nam. Mỗi thức gồm có:
    _ Động tác và tư thế, để chỉ thế đứng khởi đầu, rồi các động tác biến hóa, thở hít.
    _ Hiệu năng (actions), để chỉ tổng quát của kết quả đạt được nếu luyện đúng.
    _ Chủ trị (Indications). Tôi dùng chữ Chủ-trị sát nghĩa hơn là chữ Chỉ-định.
    _ Vị trí, huyệt vị. Mỗi khi định vị trí trên cơ thể, tôi diễn tả rất chi tiết, để đọc giả có thể luyện một mình. Tuy nhiên tôi lại mở ngoặc định rõ chỗ ấy thuộc kinh nào, huyệt nào, để các vị Bác-sĩ, Châm-cứu gia, Võ-sư, dễ nhận hơn. Độc giả chẳng nên thắc mắc làm gì.
    Phần thứ nhì:
    Chuẩn bị
    1.- Điều kiện để luyện,
    _ Từ sáu tuổi trở lên.
    _ Chỗ luyện phải thoáng khí, không bị nhiễu loạn vì tiếng động, không nóng hay lạnh quá (20 đến 30 độ C).
    _ Ăn vừa đù no, không đói quá, không no quá, không say rượu.
    _ Y phục rộng.
    _ Giải khai đại tiểu tiện trước khi luyện.
    _ Luyện từng thức theo thứ tự.
    _ Không nhất thiết phải luyện đủ 12 thức một lúc.
    _ Khi mới luyện, luyện từng thức một. Tỷ dụ hôm nay luyện thức thứ nhất. Ngày mai ôn lại thức thứ nhất, rồi luyện sang thức thứ nhì. Ngày thứ ba ôn lại hai thức đầu rồi luyện thức thứ ba.
    _ Mỗi ngày luyện một hay hai lần.
    _ Trong toàn bộ tôi dùng chữ: thổ nạp để chỉ thở hít hay hô hấp. Thổ (hô) để chỉ thở ra. Còn gọi là thổ cố nạp tân (thở khí cũ ra, nạp khí mới vào). Nạp (hấp) để chỉ hít vào. Thổ nạp dài ngắn tùy ý, không bắt buộc.
    _ Dẫn khí, tức dùng ý dẫn khí, hay tưởng tượng dẫn khí theo hướng nhất định.
    2.- Trường hợp không nên luyện Dịch Cân kinh,
    _ Đang bị cảm, cúm, sốt.
    _ Bị thương các vết thương chưa đóng sẹo.
    _ Phụ nữ có thai từ 3 tháng trở đi (Phụ nữ đang cho con bú luyện rất tốt).
    _ Ăn no quá hay đói quá.
    _ Sau khi làm việc quá mệt.
    3.- Tư thức dự bị lúc mới luyện.
    Đứng: thân ngay thẳng tự nhiên.
    _ Hai chân mở vừa tầm, rộng bằng hai vai,
    _ Gối, bàn chân tự nhiên, thẳng,
    _ Hai vai, tay buông thõng, hai bàn tay khép nhẹ,
    _ Mắt nhìn thẳng phía trước, không lưu ý vào hình, cảnh, Tiến hành toàn thân buông lỏng: Mắt đầu, cần cổ, hai vai, hai tay, ngực, lưng, bụng, đùi, chân... Buông lỏng hay còn gọi là phóng túng, nghĩa là thả cho cơ thể tự do, không cố gắng, không chú ý, không suy nghĩ.
    _ Ý niệm: thần tĩnh, không suy nghĩ, không chú ý đến âm thanh, mầu sắc, nóng lạnh.
    _ Hơi thở bình thường. Đây là tư thức căn bản, lấy làm gốc khởi đầu cho nhiều thức.
    Tất cả các thức Dịch Cân kinh đều là lập thức (thức đứng). Không có Ngọa thức (thức nằm) và Tọa thức (thức ngồi).
    4.- Hiệu năng,
    _ Điều thông khí huyết,
    _ Tăng vệ khí,
    _ Ích tủy thiêm tinh,
    _ Kiên cân, ích cốt.
    _ Gia tăng chân-nguyên khí,
    _ Minh tâm, định thần,
    _ Giữ tuổi trẻ lâu dài.
    _ Gia tăng nội lực.
    5.- Chủ trị,
    _ Có thể trị độc lập, hay phụ trợ cho việc trị bệnh bằng bất cứ khoa nào: Tây-y, Châm-cứu, Trung-dược v.v.
    _ Phục hồi sức khỏe sau khi trị bệnh: Trị tất cả các bệnh khí: khí hư, bế khí, khí hãm. Trị tất cả các bệnh về huyết: huyết hư, bần huyết. Trị tất cả các chứng phong thấp. Trị tất cả các bệnh về thần kinh. Trị tất cả các bệnh tâm, phế.
    Phần thứ ba:
    12 thức Dịch Cân kinh
    Thức thứ nhất: Cung thủ đương hung (Chắp tay ngang ngực).
    Thức Thứ Nhì: Lưỡng Kiên Hoành Đản (Hai vai đánh ngang).
    Thức Thứ Ba: Chưởng Thác Thiên Môn (Hai tay mở lên trời).
    Thức Thứ Tư: Trích Tinh Hoán Đẩu (Với sao, đổi vị).
    Thức Thứ Năm: Trắc Sưu Cửu Ngưu Vỹ (Nghiêng mình tìm đuôi trâu).
    Thức Thứ Sáu: Xuất Trảo Lượng Phiên (Xuất móng khuất thân).
    Thức Thứ Bảy: Bạt Mã Đao Thế (Cỡi ngựa vung đao).
    Thức Thứ Tám: Tam Thứ Lạc Địa (Ba lần xuống đất).
    Thức Thứ Chín: Thanh Long Thám Trảo (Rồng xanh dương vuốt).
    Thức Thứ Mười: Ngoạ Hổ Phốc Thực (Cọp đói vồ mồi).
    Thức Thứ Mười Hai: Đề Chủng Hợp Chưởng (Đưa gót hợp chưởng).
    Phần thứ tư: Tổng kết.
    Giới thiệu: Trung-tâm Khí-công được ARMA công nhận.
    Phụ lục: Tài liệu Dịch Cân Kinh ngụy tạo.
  9. KIMQUIUFC

    KIMQUIUFC Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    21/08/2005
    Bài viết:
    258
    Đã được thích:
    0
    12 thức Dịch Cân kinh
    Thức thứ nhất
    Cung thủ đương hung (Chắp tay ngang ngực)
    1.- Động tác tư thế,
    [​IMG]
    (1), Tý tiền bình cử (hai tay đưa ngang về trước), hai tay duỗi thẳng, hai bàn tay từ từ úp vào nhau, rồi đưa lên tới vị trí ngang ngực. (H1).
    (2) Cung thủ hoàn bao (vòng tay khép lại): cùi chỏ từ từ co lại, cho đến khi hai cánh tay ép nhẹ vào thân. Hai bàn tay hướng thượng. Hai vai hạ xuống, xả khí trong ***g ngực. Xương sống buông lỏng. Khí trầm đơn điền. Lưỡi đưa sẽ chạm lên nóc vọng (palais). Giữ tư thức từ 10 phút đến một giờ, mắt như nhìn vào cõi hư vô, hoặc nhìn vào một vật thể thức xa. Cứ như vậy trong khoảng một thời gian nhất định, tâm trung cảm thấy thông sướng. Đó là cách thượng hư hạ thực.(H2).
    [​IMG]
    2.- Hiệu năng,
    Trừ ưu, giải phiền, Giao thông tâm thận.
    3.- Chủ trị,
    Mất trí nhớ, tim đập thất thường. Dễ cáu giận, Nóng nảy, thiếu kiên nhẫn, Trong lòng lo sợ vô cớ, Thận chủ thủy, tâm chủ hỏa. Khi tâm thận bất giao, tức thủy không chế được hỏa, sẽ sinh mất ngủ, mất trí nhớ. Thức này có thể điều hòa tâm thận.
    4.- Nguyên bản
    [​IMG]
  10. KIMQUIUFC

    KIMQUIUFC Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    21/08/2005
    Bài viết:
    258
    Đã được thích:
    0
    Thức thứ nhì
    Lưỡng kiên hoành đản, (Hai vai đánh ngang)
    1.- Động tác, tư thế,
    (1), Án chưởng hành khí (án tay, khí lưu thông), tiếp theo thức thứ nhất, hai bàn tay từ hợp rời nhau, úp xuống tới bụng, rồi đưa ra sau lưng (H3), đồng thời ý-khí theo bàn tay trầm đơn điền.
    [​IMG]
    (2), Lưỡng tý hoành đản ( hai tay ngang vai), hai tay từ từ đưa lên ngang vai, hai bàn tay hướng lên trời, mắt khép lại, dùng ý dẫn khí phân ra hai vai, bàn tay. Mắt từ từ mở ra. Lưỡi từ nóc vọng hạ xuống. Ý khí trên đầu, hông, đùi buông lỏng. Giữ tư thức càng lâu càng tốt.(H4)
    [​IMG]
    2.- Hiệu năng,
    Tráng yêu, kiên thận (làm cho lưng mạnh lên, giữ thận chắc chắn.) Xả hung lý khí (làm cho ***g ngực mở ra, giữ khí điều hòa).
    3.- Chủ trị, Trị chứng yếu thắt lưng, Bảo vệ thận, Trị chứng uất kết ***g ngực (thần kinh), Giữ toàn thể xương sống khi bị yếu (sau khi bệnh, tuổi già).
    4.- Nguyên-bản
    [​IMG]

Chia sẻ trang này