1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đặt tên phố phường: làm sao cho dễ nhớ dễ tìm?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi nvl, 08/11/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. nvl

    nvl ĐTVT Moderator

    Tham gia ngày:
    31/01/2002
    Bài viết:
    4.304
    Đã được thích:
    6
    Đặt tên phố phường: làm sao cho dễ nhớ dễ tìm?

    Trong một thành phố thì đặt tên thì cần phải đặc trưng cho khu vực đó và có thêm ý nghĩa lịch sử. Thí dụ ở HN ngày xưa có 36 phố phường, hàng nọ hàng kia rất dễ nhớ. Về sau này người sửa đổi thành tên những người có công với nước, về ý nghĩa kỉ niệm thì hay nhưng về mặt đặc trưng cho khu vực dân cư thì rất dở. Vào SG còn khó khăn hơn: Nếu là phố nhỏ thì đặt tên lắt nhắt, trùng lặp lung tung. Nếu là phố to thì nó lại quá dài, khi đi taxi cứ phải nói đến quận mấy thì người ta mới biết đằng mà rẽ. Đã thế tên phố lại còn khó nhớ vì toàn là tên các vị lạ lẫm không hiểu xuất hiện trong đoạn nào của lịch sử, công trạng ra sao? Có lẽ do kiến thức về lịch sử Nam Bộ của em hơi kém nên muốn nhờ bác nào rành thì giải thích hộ xem những nhân vật sau có công trạng gì (tóm tắt)

    Nguyễn Oanh
    Lê Văn Sỹ
    Lê Quang Định
    Nơ Trang Long
    Bùi Hữu Nghĩa
    Đoàn Văn Bơ
    Phạm Viết Chánh
    Phạm Văn Hân
    Nguyễn Ngọc Phượng
    Mai Thị Lưu
    Lý Chính Thắng
    Nguyễn Trung Hoan
    Võ Văn Tần
    Sương Nguyệt Ánh
    Nguyễn Cư Trinh
    Nguyễn Thái Bình
    Lê Thị Hồng Gấm
    Đoàn Nhữ Hài
    Lê Quốc Hưng
    Nguyễn Thị Điệu
  2. aqcharles

    aqcharles Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/07/2004
    Bài viết:
    2.668
    Đã được thích:
    1
    Ở Việt Nam mình đúng là rất mệt vì đi tìm đường. Nhưng chắc là phải ở đâu quen đó thôi. Bên này Anh TQ đặt tên đường vui lắm. BK được chia ra làm các vòng lấy Cố Cung làm Trung Tâm . Một đường kính chạy qua Thiên An Môn làm trục ngang, các đường khác phân ra các vòng để tìm theo các hướng đông tây nam bắc.Ví dụ ở Cầu Kiến Quốc Môn đông vòng 2, cầu chạy về hướng tây về phía thiên an môn(hướng vào trong) được gọi là Kiến Quốc Môn nội, chạy về hướng đông gọi là Kiến Quốc Môn ngoại, chạy về hướng hướng nam (vòng 2) gọi là kiến quốc môn nam, và hướng bắc gọi là kiến quốc môn bắc, rất dễ cho du khách xác định phương hướng.Một cách khác nữa là gọi đường 1 đường 2 và tất cả các đường đều có biển chỉ dẫn hướng đông tây nam bắc (nhưng chuối hơn nhà mình là các nhà ven đường không ghi địa chỉ như nhà mình nên muốn tìm đường đều phải chạy đến đầu đường hoặc ngã rẽ mới biết). Vui ra phết !!
    Nhà mình thì tên đường tên phố cứ thay đổi xoành xoạch mà có công bố gì đâu!! Ngay như phố vào viện bảo tàng to nhất ĐNÁ (Bảo tàng Dân Tộc Học VN) được lấy tên là Nguyễn Văn Huyên , nhưng mà hỏi các nhà quanh đường này là có biết giáo sư Huyên là ai không thì toàn lắc đầu cả. Nói chung lấy tên 1 vị nào đó có công với dân tộc đặt tên đường thì rất tốt nhưng cũng thật nhiều . . .
  3. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Nguyên tắc đặt số nhà ở TP.HCM tính cơ bản là tính từ hướng Trung Tâm đi ra, càng xa, số càng lớn.
    Tên đườn được đặt đều có Hội đồng đặt tên đường quy định, mỗi cái tên đều có lịch sử của nó. Bạn có thể tìm hiểu thêm với CD Sài Gòn 300 năm, có phần nêu lịch sử tên đường.
    VD:
    - Sương Nguyệt Anh (1864 - 1921) (Viết sai thành Sương Nguyệt Ánh)
    Tên thật là Nguyễn Xuân Khuê, con gái của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Bà học giỏi, thường làm thơ bằng chữ Hán hay quốc ngữ, bày tỏ tâm sự trước cảnh nước mất nhà tan, nhân dân lầm than đau khổ. Năm 1918 bà làm chủ bút tuần báo Nữ Giới Chung (xuất bản ở Sài Gòn), trở thành người phụ nữ Việt Nam đầu tiên là chủ bút tờ báo của giới phụ nữ nước ta.
    - Nguyễn Thái Bình (1948-1972), quê Cần Giuộc, Long An. Sinh viên phản chiến. Được cấp học bổng Leadership đi du học tại Mỹ từ năm 1968, năm 1972, tốt nghiệp kỹ sư công nghiệp thực phẩm và ngư nghiệp với hạng danh dự tại Viện đại học Washington. Anh tham gia các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam, viết nhiều bài báo (bằng tiếng Việt và tiếng Anh) tố cáo những tội ác mà quân viễn chinh Mỹ gây ra cho đồng bào mình, làm thơ, vẽ tranh, sáng tác nhạc bày tỏ khát vọng độc lập và hòa bình của nhân dân Việt Nam. Đặc biệt trong lễ phát bằng tốt nghiệp đại học (5-1972) anh công bố tài liệu Nợ máu (Blood Debt), lên án Chính phủ Mỹ đã gây ra bao đau thương, chết chóc và tàn phá trên quê hương anh. Chính phủ Mỹ phải ra lệnh trục xuất anh về nước. Mười giờ sáng ngày 2-7-1972 khi chiếc Boeing 747 mang số hiệu 841 của hãng hàng không Liên Mỹ PAN AM vừa đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất, Nguyễn Thái Bình đã bị William H. Mills, nhân viên cơ quan tình báo Mỹ CIA, cùng đi trên máy bay bắn 4 phát đạn vào ngực rồi ném xác anh xuống đường băng.
    - Lê Quang Định (1759 - 1813) hiệu Cấn Trai, quê huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Học với Võ Trường Toản, kết bạn với Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, được người đương thời xưng tặng là Gia Định Tam gia, lập Thi xã Bình Dương, được sĩ phu đường thời khen ngợi. Năm 1788, Nguyễn Ánh chiếm Gia Định, mở khoa thi, ông và Trịnh Hoài Đức trúng tuyển, được cử làm Hàn Lâm viện chế cáo, rồi thăng đến Thượng thư bộ Binh, Thượng thư bộ Hộ. Biên soạn Hoàng Việt nhất thống địa dư chí. Ông mất năm Quý Dậu 1813.
    - Lê Văn Sĩ (1910 - 1948) tên thật là Võ Sĩ, quê ở thôn Minh Tân, xã Đức Minh, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội năm 1927. Nguyên trong Xứ ủy Nam Bộ, Chính ủy Quân khu 8, rồi năm 1947 được chỉ định làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn. Tháng 10-1948, ông hy sinh trong một cuộc càn quét lớn của địch vào vùng Láng Le, Vườn Thơm - Long An.
    - Nguyễn Oanh (bí danh Bạch Đằng Lớn), quê ở Gia Lâm, Xứ uỷ viên kiêm bí thư ban ban cán sự Thành (bí thư thành uỷ) từ 1943 đến 5/1945)
    - Nơ Trang Lơng (A-ma Trang Lơng, Ma Trang Sơn) là tù trưởng một bộ tộc người Bí (Tây Nguyên), thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa các dân tộc Tây Nguyên chống Pháp (1912-1935). Tháng 6-1935, quân Pháp tập kích căn cứ của nghĩa quân, bắt được A-ma Trang Lơng, toàn bộ ban chỉ huy và ra lệnh tàn sát.
    - Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872) (Thủ khoa Nghĩa): Nhà thơ yêu nước, hiệu Nghi Chi, đỗ Giải nguyên năm Ầt Mùi 1835. Ông là một nhà nho tiết tháo, cương trực, có nhiều tác phẩm lớn, được nhân dân tôn vinh là một trong bốn Rồng vàng đất Nam Bộ. Vở tuồng nổi tiếng Kim Thạch Kỳ duyên của Cụ được coi là cổ nhất Việt Nam, từng lưu diễn khắp lục tỉnh, trên cả ba miền và cũng là vở tuồng đầu tiên của nước nhà được dịch ra tiếng Pháp. "Nếu nói đến Mạc Thiên Tích là nói biển, nói núi, nói hồ ở Hà Tiên, đọc Trịnh Hoài Đức là đọc cảnh vật miền Đông thì với cụ Thủ khoa là nói về trời nước Hậu Giang vậy", "Nói đến tuồng thì Trung Bộ có Đào Tấn còn Nam Bộ chính là Bùi Hữu Nghĩa". Trong vụ án rạch Láng Thé, do đứng về phía nhân dân, Bùi Hữu Nghĩa bị Bố chánh Truyện vu cho ông tội kích dân làm loạn và giết người. Đứng trước nỗi oan của chồng, bà Nguyễn Thị Tồn (vợ Bùi Hữu Nghĩa) không ngại đường xa nguy hiểm chèo ghe bầu ra Huế đánh trống Đăng Văn để xin minh xét cho chồng. Nhờ đó, Bùi Hữu Nghĩa mới được tha tội tử hình "song phải quân tiền hiệu lực, lập công chuộc tội". Bà Từ Dũ - mẹ vua Tự Đức - cho người mời bà thủ khoa vào Nội khen ngợi và ban cho bốn chữ vàng "Liệt phụ khả gia".
    - Đoàn Văn Bơ: cán bộ lãnh đạo Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, bị Mỹ - Diệm tử hình theo luật 10/59 cùng với các cán bộ khác như Trần Quốc Thảo, Nguyễn Trọng Tuyển.
    - Lý Chính Thắng (1917-1946) tên thật là Nguyễn Đức Huỳnh, quê ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, tham gia hoạt động cách mạng ở Nam Bộ, tham gia Thành uỷ Sài Gòn - Chợ lớn và gây dựng cơ sở Đảng ở khu vực Đakao, Tổng thư ký Tổng Công đoàn Nam Bộ. Tháng 3-1945, ông ra Bắc để xin chỉ thị của Trung ương Đảng, sau đó lại trở về Nam, mang theo nghị quyết về khởi nghĩa vũ trang cho Xứ uỷ Nam Kỳ, đại biểu Quốc hội khoá I (1946). Sau ngày Nam Bộ kháng chiến, ông hoạt động trong ngành giao thông liên lạc tại vùng Sài Gòn bị giặc Pháp chiếm đóng. Giặc bắt, tra tấn cực hình, ông không khai báo, và đã mất tại bệnh viện Chợ Rẫy ngày 30-9-1946.
    - Võ Văn Tần, Còn gọi là già Tần, người 18 thôn vườn trầu, Hóc Môn, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng (khóa I), Bí thư Xứ ủy Nam kỳ (1940), bị giặc Pháp bắt ngày 21-4-1940 và xử bắn sau khi khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại cùng với Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai... tại ngã ba Giồng.
    - Nguyễn Cư Trinh (1716 - 1767), quê Thừa Thiên Huế, nhà thơ, danh thần thời chúa Nguyễn, bút hiệu Đạm Am. Văn võ song toàn, đỗ hương tiến (cử nhân), làm quan đến Thượng thư Bộ Lại. Ông rất được trọng vọng bởi am hiểu chính trị, doanh điền, ngoại giao, lập công lớn trong việc mở nước, an dân, có bản tính liêm khiết và tài năng thơ phú; từng gia nhập Chiêu anh các - một hội thơ quy tụ những cây bút nổi tiếng ở Đàng Trong, được nể phục bởi bút pháp độc đáo và phong thái tao nhã. Thơ văn ông còn truyền tụng nhiều, cả chữ Hán lẫn chữ Nôm, đặc sắc nhất là bài vè Sãi vãi. Tác phẩm này dài tới 340 câu, đề cao Nho giáo, châm biếm tà đạo, được viết với phong cách hoạt kê đa dạng, vừa trang nghiêm vừa hài hước, hùng biện mà dí dỏm, mang tính triết lý nhưng rất sinh động, có ảnh hưởng lớn đến nhiều sáng tác văn học dân gian nước nhà.
    - Lê Thị Hồng Gấm (1951-1970) quê ở Long Hương, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, tham gia cách mạng từ khi còn nhỏ tuổi, làm giao liên du kích, xã đội phó rồi trung đội phó của bộ đội địa phương tỉnh Mỹ Tho. Năm 1970, trong một chuyến đi công tác cùng với hai phụ nữ ở địa phương, chị bị máy bay trực thăng đổ quân vây bắt. Hồng Gấm đã chỉ đường cho đồng đội chạy thoát, một mình ở lại kiên cường chiến đấu, bắn rơi 1 máy bay Mỹ. Khi hết đạn, chị huỷ súng và hy sinh.
    Ngày 20-9-1971, Lê Thị Hồng Gấm được Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
    - Đoàn Nhữ Hài là danh nhân thời Trần. Ông người làng Trường Tân, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Thuở nhỏ, ông ham học, thông minh, linh hoạt, có chí lớn. Đoàn Nhữ Hài là một nhà chính trị và ngoại giao có tài, ông là người bình dân đầu tiên được vua Trần trọng dụng không qua thi cử. Đoàn Nhữ Hài giữ chức Ngự sử, làm quan trải ba triều vua: Trần Anh Tông, Trần Minh Tông và Trần Hiến Tông.
    ...
  4. nvl

    nvl ĐTVT Moderator

    Tham gia ngày:
    31/01/2002
    Bài viết:
    4.304
    Đã được thích:
    6
    Cảm ơn bác Thainhi_vn đã giải đáp, em rất khâm phục kiến thức lịch sử của bác. Em sẽ đi mua cái CD SG 300 năm về để bổ sung cho chỗ khuyết của mình về lịch sử Nam Bộ. Tuy nhiên, nhìn danh sách những người mà bác đã nêu thì có thể thấy đã có khá nhiều nhân vật bình thường, không nổi bật mà được đặt tên cho phố (ex: Đoàn Văn Bơ, Nguyễn Oanh...). Đó là chưa kể đến những vị như Nguyễn Ngọc Phượng, Mai Thị Lưu, Nguyễn Thị Điệu... thì cả đời em chưa nghe nói bao giờ. Em chỉ khúc mắc nhất là cái đoạn đặt tên không có tính chất gợi nhớ, cũng chẳng đặc trưng cho địa phương gì cả.
    Theo bác nói, ở TP đã có cả một hội đồng đặt tên, thì sao người ta lại còn đặt tên phố trùng lặp nhau nhiều như vậy, chẳng lẽ đã lại hết tên người nổi tiếng? Mà đâu có nhất thiết phải đặt tên người, thiếu gì cách đặt tên địa danh, lịch sử khác tốt hơn? Không hiểu trước năm 75 thì ở SG người ta có quy hoạch khác không nhỉ?
  5. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    Tên đường thì chẳng bao giờ sợ quên! Ai cần thì phải ghi lại chứ! Có bao giờ nhớ số nhà mà quên tên đường không! Ý nghĩa của tên đường thì đa số người không biết được. Cho nên dù có đặt kiểu nào thì cũng chẳng bao giờ thoả mãn được tất cả mọi người! Mà tên người với chữ số thì cái nào dễ nhớ hơn!
    Số nhà thì thường theo nguyên tắc tăng dần từ Đông sang Tây, Từ Nam lên Bắc. Hồi xưa thì hay cho mấy ông nhà văn nhà thơ ở chung với nhau, mấy vua ở chung nhau như Nguyễn Huệ, Lê lợi..
    Vui nhất là chuyện đặt tên đường theo công trạng, ông nào công lớn được đặt cho đường to! Nếu đường chưa có tên thì làm thế cũng được nhưng đằng này nhiều khi cứ đổi tên đường liên tục, làm tốn hao của cải của xã hội!
  6. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Rất đơn giản, đó là những thông tin tôi còn nhớ, hoặc còn tìm được. Còn những vị còn lại, đều có công lớn với đất nước, mới được đặt tên đường. Rất tiếc là tôi không có tư liệu.
    Một góp ý nhỏ, Nguyễn Ngọc Phượng thì tôi không rõ, 2 tên còn lại viết chính xác là Mai Thị Lựu (q.1) và Nguyễn Thị Diệu (q.3). Cả hai vị này không những chỉ được đặt tên đường, mà còn được đặt tên cho 2 trường tiểu học, trung học cơ sở ở Q.3.
    Ngoài ra, còn rất nhiều nhân vật bạn có thể không biết như Cô Bắc, Cô Giang, Trương Quốc Dung (đúng ra là Trương Quốc Dụng)... mà chúng ta ít có điều kiện biết được công nghiệp của các vị này.
    Vệc bất cập trong đặt tên đường, đánh số thì cũng nhiều người nói rồi. Và người ta cũng đặt tên theo địa danh (như Trường Sơn, Hoàng Sa, Hậu Giang...) hoặc theo sự kiện (như CMT8, Thống Nhất, NKKN...) đấy chứ.
    Trước kia người ta cũng đặt tên đường như vậy. Tôi chỉ nhớ vài cái tên như Chasseloup Laubat (nay là Lê Quý Đôn), Catinat (trước 1975: Tự Do; nay: Đồng Khởi), Galliéni (nay: Trần Hưng Đạo), Bonard (nay: Lê Lợi), Charner (nay: Nguyễn Huệ)...; hoặc Hồng Thập Tự (nay: NTMK), Công Lý (NKKN), Lê Văn Duyệt (CMT8)...
    Điều thú vị là hiện nay không phải người ngoại quốc nào cũng được đặt tên đường. Trường hợp Pasteur, Yersin, Alexandre de Rhode là ngoại lệ. Phần còn lại, bạn có thể tự tìm hiểu.
    Được thainhi_vn sửa chữa / chuyển vào 12:05 ngày 09/11/2004
  7. nvl

    nvl ĐTVT Moderator

    Tham gia ngày:
    31/01/2002
    Bài viết:
    4.304
    Đã được thích:
    6
    May quá, ngày xưa người ta còn đặt tên Tây, khó nhớ hơn cả bây giờ. Tuy nhiên, không hiểu tại sao ở SG bây giờ lại có đến mấy cái phố cùng tên là Lê Văn Tám, Nguyễn Huệ các bác nhỉ? Hội đồng đặt tên không hiểu có biết việc này không?
  8. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    trước 75, Sài gòn và Gia Định (Bình Thạnh, Gò vấp.. bây giờ) là 2 thành phố tách biệt nên có một số tên đường giống nhau.
  9. nvl

    nvl ĐTVT Moderator

    Tham gia ngày:
    31/01/2002
    Bài viết:
    4.304
    Đã được thích:
    6
    Bác đúng là thông thái thật nhưng cái này thì nhầm rồi. Trước năm 75 mà chính quyền cũ cho phép đặt tên phố là Lê Văn Tám à? Với lại người ta từ xưa đến nay chỉ hay nói giải phóng SG, biệt động SG, ... chứ chưa từng nghe nói đến Gia Định bao giờ. Cái tên GD chắc chỉ có từ thời chúa Nguyễn !
  10. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    Tớ có nói LVT là do nguỵ đặt tên đâu! Cũng có thể là do ta làm ẩu! Nhưng mà LVT là đường ở đâu thế!
    Còn chữ Gia Định nó còn nhiều lắm ở Bình Thạnh ấy: bệnh viện, trường học, quán ăn... Muốn rõ hơn thì tìm lại tài liệu cũ mà xem! Chắc hồi xưa tụi nguỵ nó chia thế để có nhiều tỉnh mà bán chức tỉnh trưởng ấy mà!!

Chia sẻ trang này