1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đặt tên phố phường: làm sao cho dễ nhớ dễ tìm?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi nvl, 08/11/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. tadathaygi

    tadathaygi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    154
    Đã được thích:
    0
    Hình như là Nhiêu Tứ chứ không phải Nhiêu Tú bác à
  2. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Bác NVL đánh giá tôi quá cao rồi!
    Tuy nhiên, để bổ sung lẫn nhau, tôi sẽ cố gắng nhớ những gì tôi đã từng nghe, hoặc đã từng đọc (có thể có những thông tin chưa chính xác, hoặc sai, mong mọi người bổ sung).
    - Âu Dương Lân, chí sĩ, thi gia cận đại, ông nhiệt tình tham gia kháng chiến chống Pháp, không rõ năm sinh, quê ở Phú Kiết ?" Tịnh Ha - tỉnh Định Tường ( Mĩ Tho, nay là tỉnh Tiền Giang) , từng sát cánh Thủ Khoa Huân khiến bọn bán nước và cướp nuớc phải kinh sợ. Xuất thân làm tri huyện ở Thang Trông, nhưng ông chống quân xâm lược đến cùng.
    Giặc Pháp sai tay sai Trần Bá Lộc vừa đàn áp, vừa khuyến dụ, nhưng không lay chuyển được tấm lòng yêu nước của ông. Đến khi bị bắt, ông thản nhiên tỏ vẻ khinh bỉ quân phản bội giống nòi. Giặc hành hạ ông và cuối cùng đem chém ông tại mé sông Mĩ Tho.
    Mộ ông nay còn tại Mĩ Tho, xây cao với ba lớp đá ong.
    Ông là tác giả một số bài thơ yêu nước.
    - Ba Gia, tên một địa danh của Quảng Ngãi (xã Tịnh Bắc huyện Sơn Tịnh). Đêm 28 rạng ngày 29/5/1965 đến ngày 31/05/1965 bộ đội chủ lực quân khu V và dân quân địa phương đã tiêu diệt 4 tiểu đoàn tinh nhuệ của nguỵ, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn miền Tây Sơn Tịnh và góp phần đánh bại chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam.
    - Ca Văn Thỉnh (1902-1987), nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn học, sử học đầu tiên của Nam bộ những thập niên đầu của thế kỷ XX. Người Bến Tre, bạn của Đặng Thai Mai, Phạm Thiều. Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm ở Hà Nội, ông được bổ làm Đốc học tỉnh Bến Tre. Ông từng đảm đương cách chức vụ Ủy viên Ủy ban kháng chiến Hành chính Nam bộ, quyền Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Ủy viên Tuyên huấn Trung ương cục miền Nam, phụ trách Vụ Đông Nam Á Bộ Ngoại giao và có thời gian làm Đại sứ ở nước ngoài. Ông là thân sinh của nhà thơ Lê Anh Xuân (Ca Lê Hiến), nghệ sĩ nhà giáo Ca Lê Hồng, nhạc sĩ Ca Lê Hồng.
    - Calmette, Albert (1863-1933): nhà vi trùng học người Pháp. Tên ông được đặt cho trực khuẩn bacille de Calmette et Guerin, hay BCG. Đây chính là vacxin phòng lao. Năm 1890, Calmette được cử phụ trách phòng thí nghiệm Vi sinh học mới thành lập tại Sài Gòn. Tại đây nghiên cứu chủ yếu là nọc rắn Hổ mang Cobra capel về mặt miễn dịch học và khả năng làm vacxin.
    - Cao Bá Nhạ, nhà thơ. Ông là con Cao Bá Đạt, cháu Cao Bá Quát, ông nổi tiếng văn chương không kém gì cha và chú. Sau khi Cao Bá Quát thất bại trong cuộc khởi nghĩa chống lại nhà Nguyễn với danh nghĩa phù Lê, cả nhà họ Cao đều bị hại. Duy ông trốn thoát, cải họ đổi tên, lén về một làng thuộc hạt Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông, dạy học kiếm sống.Tám năm sau bị lộ, ông bị bắt giam. Tại đây, ông đã viết một bài biểu trần tình bằng chữ Hán theo lối tứ lục và một khúc ngâm Tự tình bằng quốc âm, theo thể song thất lục bát dài 608 câu. Cuối cùng ông bị phát vãng lên mạn ngược và mất ở đó. Các tác phẩm: ?oTự tình khúc?, ?oCao Bá Nhạ trần tình trạng?.
    - Cầm Bá Thước: lãnh tụ Cần Vương chống Pháp rất oanh liệt ở vùng rừng núi Thường Xuân (Thanh Hóa) gắn bó với phong trào Cần Vương Thanh Hoá, liên kết với Tống Duy Tân. Ông đã hy sinh anh dũng. Tên ông được dùng đặt cho một huyện Bá Thước (Thanh Hóa ?).
    - Châu Văn Liêm (1902 -1930), người Ô Môn, Cần Thơ, sáng lập viên An Nam Cộng sản Ðảng (1929). Ngày 04/5/1930 ông trực tiếp lãnh đạo cuộc biểu tình có hàng nghìn người tham gia ở tỉnh Chợ Lớn, đòi giảm sưu thuế, không được khủng bố nông dân, không được bắt bớ, đánh đập người vô cớ. Tên cảnh sát Dreuil thuộc sở cảnh sát Sài Gòn đã ra lệnh nổ súng vào đoàn biểu tình, đồng thời chính hắn đã bắn chết Châu Văn Liêm.
    - Châu Vĩnh Tế, phu nhân của danh thần đời Nguyễn, Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại (1762-1829). Bà có công giúp chồng đốc sức dân binh đào vét, mở nhiều kênh đào ở miền Nam. Tên bà còn được Gia Long đặt cho một con kênh: Kênh Vĩnh Tế, dài chừng 100km, chạy men theo biên giới Việt - Campuchia, nối liền Châu Đốc và Hà Tiên. Bản thân Thoại Ngọc Hầu cũng được vua Gia Long đặt cho một kênh: Kênh Thoại Hà. Bà và chồng được nhân dân lập đền thờ ở Thất Sơn, An Giang (lăng Thoại Ngọc Hầu).
    - Chiêu Anh Các: Nhóm thơ Tao đàn Chiêu Anh Các do Mạc Thiên Tích, tổng trấn Hà Tiên, sáng lập vào thế kỷ 18 (năm 1736), có 32 thi sĩ. Tao đàn tồn tại trên 40 năm, xuất bản được 6 thi tập, trong đó nổi tiếng có Hà Tiên thập cảnh toàn tập tả 10 cảnh đẹp của đất Hà Tiên.
    - Cô Bắc, (tên thật Nguyễn Thị Bắc), Cô Giang (Nguyễn Thị Giang) là hai chị em ruột, người Bắc Giang, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, tuyên truyền viên cho Việt Nam Quốc Dân Đảng. Cô Giang còn là bạn gái của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học. Khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Nguyễn Thái Học, Cô Bắc bị tử hình, Cô Giang tự sát. (1930)
    - Châu Thới (?): có lẽ tên một ngọn núi ở gần Sài Gòn, nay thuộc Thuận An, Bình Dương, nơi tìm thấy được nhiều di chỉ của người VIệt xưa.
    - Châu Văn Tiếp: danh tướng thời Nguyễn Ánh. Mộ và đền thờ ông còn ở Vũng Tàu.
    - Dương Bá Trạc (1884-1944), hiệu Tuyết Huy; nổi tiếng hay chữ; mới 16 tuổi đã đỗ cử nhân. Không muốn làm quan mà chỉ lo sao nước nhà thoát khỏi vòng nô lệ. Năm 1906 (22 tuổi) ông cùng Phan Chu Trinh tìm cách lên Yên Thế, gặp Hoàng Hoa Thám bàn kế hoạch đánh Pháp. Ông tham gia Đông Kinh nghĩa thục, nhận các việc dạy học, diễn thuyết cổ động tân học, hô hào duy tân, tự cường. Năm 1908, bị Pháp bắt, kết án 15 năm biệt xứ, đầy đi Côn Đảo. Được mấy năm, chúng đưa về an trí tại Long Xuyên. Tới 1917 mới tha, cho ra Bắc. Toàn quyền Pháp nhiều lần mua chuộc, bổ ông làm tri huyện nhưng ông vẫn khảng khái từ chối. Tháng 10/1943, ông bị quân Nhật ở Đông Dương đưa sang Singapore, sau ông bệnh nặng, mất ở đó.
    (còn tiếp)
  3. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Phụ thêm:
    3 anh em Dương Bá Trạc, Dương Quảng Hàm, Dương Tự Quán đều được đặt tên đường.
    - Nguyễn Thị Diệu (1925-1955) quê thôn Tân Phong, xã Phổ Phong, Đức Phổ, Quảng Ngãi. Con của Thượng Thư Nam triều Nguyễn Hiền. Đỗ tú tài Trường Marie Curie. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, bà tham gia hoạt động trong Đoàn phụ nữ cứu quốc Sài Gòn và khi hợp nhất các tổ chức phụ nữ kháng chiến ở Nam Bộ, bà được bầu vào Ban chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Sau Hiệp định Genève, bà được phân công vào nội thành công tác. Tại thành phố, bà vào dạy tại trường Trung học Đức Trí, hoạt động trong Nghiệp đoàn giáo học tư thục và trong phong trào hòa bình Sài Gòn - Chợ Lớn. Ngày 6/7/1955, bà bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt và bị thủ tiêu tại Thủ Đức, lúc đang mang thai ba tháng với người chồng là nhà báo cách mạng Phạm Phong Lẫm (bút danh Hoa Lư).
    - Bành Văn Trân: liệt sĩ
    - Dương Tử Giang (1918 - 1965 ), nhà văn, nhà báo, soạn giả. Tên thật là Nguyễn Tấn Sĩ , quê Giồng Trôm, Bến Tre.
    Ông vốn là công chức ở sở quan thuế Bến Tre. Có lòng yêu nước, ông dứt khoát bỏ sở, tích cực hoạt động báo chí, với tinh thần chống thực dân đế quốc. Nhiều lần bị nhà cầm quyền bắt giam (1947 - 1948). Ngày 8/10/1955 ông bị mật vụ của Ngô Đình Diệm bắt giam ở bót Catinat, rồi đưa lên giam ở Biên Hoà.
    Ngày 2/12/1956 ông hi sinh trong cuộc nổi dậy của tù nhân chính trị phá lao Tân Hiệp, Biên Hòa, hưởng dương 38 tuổi.
    - Ba Vân (?) Nghệ sĩ Nhân dân Lê Long Vân (1908-1988), quê làng An Bình Đông, xã An Đức, Ba Tri, Bến Tre. Từ thuở nhỏ, ông đã theo học nhạc, tập ca hát. Từ năm 1920, ông vào nghề hát theo gánh Đồng Bào Ban rồi lần lượt hoạt động trong các gánh Tái Lập Ban, Tân Hưng Ban, Nghĩa Hiệp Ban, Phước Cương, Đại Phước Cương? Ông là một tài năng kịch nghệ sáng giá, một bậc thầy diễn xuất độc đáo đủ các vai: hề, lão, độc, văn, võ? được khán giả khen tặng biệt hiệu ?oQuái kiệt Ba Vân?.
    - Đoàn Công Bửu (?) Thủ lĩnh đoàn "dân chúng tự vệ" (thành lập 1874) ở Cầu Ngang (Trà Vinh), không cho giặc Pháp bình thường hóa hệ thống cai trị thôn xóm sau khi chúng chiếm được Nam Kỳ.
    - Hà Tôn Quyền (?) đại thần triều Minh Mạng, được xem là nhiều mưu kế??? Từng nổi danh với câu đối của Nguyễn Công Trứ (Quân tử ố kỳ văn chi Trứ, Thánh nhân bất đắc dĩ dụng Quyền)
    - Hồ Bá Kiện (?) liệt sĩ, thân sinh của ***** Tùng Mậu.
    - Hồ Hảo Hớn (1926-1967), bí danh Hai Nghị, quê Bến Tre. Tham gia cách mạng từ năm 1946. Sau hiệp định Genève, ông được phân công công tác ở bộ phận trí vận và dạy học ở một số trường tư thục ở Sài Gòn. Năm 1962 ông là Bí thư Ban cán sự sinh viên học sinh Sài Gòn, đến năm 1965 ông là Phó bí thư khu đoàn Sài Gòn - Gia Ðịnh, rồi Bí thư Thành đoàn thanh niên lao động 1967. Tháng 10. 1967, ông bị giặc bắt ở gần bót Bà Hòa và hy sinh tại đây, hưởng dương 41 tuổi .
    - Hồ Văn Huê: một trong những bác sĩ giỏi nhất Việt Nam thế kỷ 20, cùng với Phạm Ngọc Thạch, Tôn Thất Tùng. Tham gia cách mạng từ 1945.
    - Huyện Toại (?), Tri huyện Toại, không rõ họ tên, một trong những lãnh tụ nghĩa quân chống Pháp, cùng với Thiên Hộ Dương (Nguyễn Duy Dương) tại căn cứ Đồng Tháp Mười)
    - Huỳnh Đình Hai: bí danh Hai Râu, liệt sĩ
    - Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1883), nhà thơ yêu nước đầu thế kỷ 19, người Rạch Giá. Ông đậu Cử nhân, làm tới chức tuần phủ Hà Tiên, là một nhân sĩ yêu nước đứng về hàng ngũ nghĩa quân chống Pháp. Ông nổi tiếng với bài thơ Khóc Nguyễn Trung Trực (Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa, Kiếm bạt Kiên Giang khốc quỷ thần).
    - Huỳnh Văn Bánh: Liệt sĩ
    - Huỳnh Tấn Phát (1913 - 1989), quê Bình Đại, Bến Tre. Lên Sài Gòn học trường Pétrus Ký, tốt nghiệp kiến trúc sư tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội (1938). Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 5-3-1945. Tháng 8-1945, ông tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn. Ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I. Năm 1949, ông ra chiến khu, giữ chức ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, Giám đốc Sở Thông tin Nam Bộ, trực tiếp phụ trách Đài phát thanh Tiếng nói Sài Gòn - Chợ Lớn tự do. Trong kháng chiến chống Mỹ, ông làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, đồng thời là Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng khu Sài Gòn - Gia Định. Tháng 6-1969, ông được Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam bầu làm Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sau ngày đất nước thống nhất, ông đảm trách các chức vụ: Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
    - Ký Con: tên thật là Đoàn Trần Nghiệp (1910-1930), nhà cách mạng, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, bị giặc Pháp xử tử sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái.
    - Lãnh Binh Thăng (?), tên thật là Nguyễn Ngọc Thăng (?), thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp cuối thế kỷ 19, được tôn xưng chức Lãnh binh.
    - Lê Minh Xuân, liệt sĩ. Tên của ông được đặt cho một xã ở Bình Chánh, một nông trường ở Hóc Môn.
    - Lê Thị Riêng: liệt sĩ
    - Lê Tấn Quốc: nhà báo, nhân sĩ trí thức yêu nước đầu thế kỷ 20.
    - Lưu Nhân Chú: khai quốc công thần nhà Lê, quê ở Thuận Thượng, (nay là xã Văn Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên), một trong 18 người dự hội thề Lũng Nhai. Khi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hóa) Lưu Nhân Chú trở thành một tướng lĩnh tâm phúc, từng chỉ huy nhiều trận đánh quan trọng ở vùng Thanh Nghệ, Trường Yên, Thiên Trường, Kiến Xương (vùng đất Thanh Hóa, Nghệ An, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình....ngày nay). Ông là tướng chỉ huy hướng chính trận đánh nổi tiếng ở ải Chi Lăng, chém đầu An Viễn Hầu Liễu Thăng tổng chỉ huy đạo viện binh của Nhà Minh sang cứu nguy cho Vương Thông- góp phần đánh tan giấc mộng xâm chiếm Đại Việt của giặc Minh. Với những cống hiến to lớn chống giặc Minh xâm lược, xây dưng đất nước, là một trong số công thần khai quốc của Vương Triều Lê, tướng Lưu Nhân Chú được nhà Lê ban Quốc tích tháng 6 năm Đinh Mùi (1427), được phong chức Đại Tư Mã Tổng chỉ huy quân đội Lam Sơn... Năm Hồng Đức thứ 15(1484) được truy tặng là Thái Phó Vinh Quốc công.
    - Lữ Gia, thừa tướng Nam Việt, thủ lĩnh phái kháng chiến chống nhà Hán.
    - Mạc Cửu (1655-1755), tổng trấn Hà Tiên, gốc Minh Hương, người có công khai phái đất Hà Tiên. Năm 1708, Mạc Cửu xin cho trấn Hà Tiên thuộc quyền Chúa Nguyễn, sát nhập đất Hà Tiên vào vào bản đồ Đại Việt.
    - Mai Khôi (?), hay Mai Khâu, tức Gò Cây Mai, tên một địa danh cổ xưa ở Sài Gòn.
    - Minh Phụng (?), không rõ, có lẽ bắt nguồn từ ngôi đình cổ Minh Phụng.
    - Mai Xuân Thưởng (1860-1887) , quê ở xã Bình Thành, Bình Khê, Bình Định, rất có hiếu. Ông đỗ cử nhân, giỏi võ, có tinh thần yêu nước cZm thù giặc. NZm 1855, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, ông cùng với các sĩ phu khác chiêu mộ nghĩa quân và đã tiêu diệt nhiều binh lính của địch. Giặc Pháp nhiều lần gửi thư dụ hàng cho Mai Xuân Thưởng nhưng không lay chuyển được ý chí của ông. Bọn giặc đã bắt bà mẹ ông cùng một số nười trong làng. Được tin này, ông đã ra gặp bọn chúng để tránh cho mẹ ông và dân làng khỏi chịu khổ nhục. Giặc dụ ông hàng, ông nói: "Chỉ có thể chém đầu tôi, chứ không thể bắt tôi đầu hàng". Ngày 6-6-1887, giặc Pháp đã xử tử Mai Xuân Thưởng, khi ông mới 27 tuổi.
    - Mai Văn Ngọc (?) học giả yêu nước, con rể nữ sĩ Sương Nguyệt Anh.
    - Nam Quốc Cang (1917-1950), nhà báo yêu nước, tên thật là Nguyễn Văn Sinh , quê Đức Phổ (Quảng Ngãi). Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, ông viết cho báo Tin Điển lúc đó đang nổi tiếng chống thực dân Pháp tái chiếm Việt Nam. Sau đó ông được giữ chức chủ bút báo ?oThời cuộc? rồi sang báo ?oDân Quý? làm quản lý. Ngày 6-5-1950, ông bị ám sát trước tòa soạn báo Dân Quý ở góc đường D''Arras-Frére Louis (nay là Cống Quỳnh - Nguyễn Trãi).
    - Ngô Nhơn Tịnh (1761-1813), danh sĩ đất Nam Kỳ, học trò cụ Võ Trường Toản, cùng với Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức được người đời xưng tụng Gia Định tam gia, tác giả bài Cổ Gia Định phong cảnh vịnh, Thập am thi tập.
    - Nguyễn An Khương, chí sĩ yêu nước, thân phụ của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, một trong những nhà lãnh đạo của phong trào Duy tân, bạn đồng chí của chí sĩ Phan Chu Trinh, người đầu tiên dịch bộ Tam Quốc diễn nghĩa bằng chữ Hán ra Quốc ngữ.
    - Nguyễn Đình Chính, hay Chính Heo (?), liệt sĩ, trưởng ban công tác thành (biệt động thành) thời kháng chiến chống Pháp. Ông được chính tướng Nguyễn Bình giao nhiệm vụ xây dựng lực lượng biệt động thành. Giặc Pháp bắt được, dụ dỗ không thành, đành đưa ông ra tòa án binh. Trong tù, ông viết bức tâm thư bằng máu gửi Hồ Chủ tịch. Ra tòa, ông tự bào chữa bằng tiếng Pháp, vạch trần bản chất cuộc xâm lược. Ông lãnh án tử hình khi còn rất trẻ.
    - Nguyễn Huy Tự (1743-1790), danh nhân văn hóa quốc gia, quê Trường Lưu, Hà Tĩnh, con Thám hoa Nguyễn Huy Oánh. Ông là tác giả truyện thơ Hoa Tiên, được các nhà nghiên cứu văn học đánh giá là "một áng thơ Nôm mở đầu cho dòng thơ nôm lục bát của văn học Việt Nam thế kỷ XVIII, góp phần tích cực tạo cho Nguyễn Du viết nên Truyện Kiều. Con ông là Nguyễn Huy Hổ, tác giả Mai Đình mộng ký, cũng được nhà nước phong tặng danh nhân văn hóa quốc gia.
    - Nguyễn Thần Hiến (1856-1914), còn có tên là Thành Hiến, quê Hà Tiên. Ông học giỏi chữ Hán, tính tình trầm nghị, sớm có tinh thần yêu nước chống Pháp. Hưởng ứng phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, ông đã vận động thanh niên Nam Kỳ du học, quyên góp tiền bạc trợ giúp phong trào rất tích cực. Năm 1908 ông xuất dương sang Nhật, sau đó lại trở về Trung Quốc tham gia Việt Nam quang phục hội. Ông đã từng đi công cán cho hội tại Hương Cảng, Bangkok (Thái Lan), đóng góp phần công sức không nhỏ cho phong trào Cách mạng. Mùa hè năm 1913 ở Hương Cảng, ông cùng với một số anh em đồng chí đang chế tạo tạc đạn thì bị mật thám Anh bắt giao cho thực dân Pháp. Chúng giải ông về nước giam tại Hỏa Lò (Hà Nội). Ông bị chúng tra tấn hết sức dã man nhưng ông vẫn tỏ ra kiên cường bất khuất. Ông mất tại nhà tù ngày 26-1-1914
    - Nguyễn Thiện Thuật (1841-1926) do giữ chức Tán Tương Quân Vụ nên còn được gọi là Tán Thuật, thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp ở Bãi Sậy.
    - Nguyễn Thời Trung (?), tiến sĩ, ông tổ nghề thuộc da.
    - Nguyễn Văn Đậu, bí danh Bảy Xuôi, Phó chánh văn phòng Trung ương cục miền Nam.
  4. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    - Nguyễn Văn Nghi, quê Gò Vấp, Ủy viên thường vụ Xứ ủy, kiêm bí thu Thành Ủy, kiêm bí thư chi bộ Ba Son (1937).
    - Nguyễn Văn Thủ, bác sĩ, Chủ tịch hội Hội Hồng thập tự cộng hoà miền Nam Việt Nam (1973-1976) - Chủ tịch Hội CTĐ Việt Nam (1976-1984)
    - Phạm Phú Thứ (1821-1882), hiệu là Trúc Đường, đỗ tiến sĩ năm 1843, người làng Ðông Bàn, Diên Phước (Ðiện Bàn), Quảng Nam. Ông làm quan rất ngay thẳng, có lần phê phán sinh hoạt triều đình, bị Tự Ðức đưa đi làm lính trạm Thừa Nông. Năm 1863, làm khâm sai đại thần cùng Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp thương thuyết với Pháp về vấn đề Nam Kỳ, sau làm phó sứ cùng Phan Thanh Giản sang Pháp điều đình, dần dần lên thượng thư bộ Hộ, vào Cơ mật viện, làm tổng đốc Hải Dương, hưu trí năm 1881, rồi mất tại quê nhà. Cụ là một nhà chủ trương cải cách dưới triều Tự Ðức, để lại một sự nghiệp sáng tác lớn lao như Tây hành nhật ký, Tây phù thi thảo, Giá Viên thi văn tập...
    - Phan Văn Đạt (1828-1861) tự là Minh Phủ, quê Gia Ðịnh. Đỗ cử nhân khoa Canh thân (1860), nhà rất nghèo, nhưng tính ông trung hậu có tiết tháo được mọi người kính mến. Giặp Pháp xâm lược miền Nam, ông cùng với người cậu bên ngoại là Trịnh Quang Nghị mưu tính việc khởi nghĩa, suy tôn Trịnh Quang Nghị cầm đầu. Khoảng tháng 5/1861 ông chia quân đóng giữ ở phía nam Biên Kiều, tổng Bình Thạnh. Không bao lâu ông bị Pháp bắt, ông không khuất phục chúng giết ông trong khoảng tháng 7/1861 lúc ông mới 33 tuổi. Vua Hàm Nghi sau truy tặng ông Hàm Tri phủ. Ông còn là người bút chiến vạch trần bộ mặt tay sai của Tôn Thọ Tường.
    - Phan Thúc Duyện (?), nhà nho yêu nước, một trong những nhà lãnh đạo phong trào Duy tân cùng với Phan Chu Trinh, Lương Văn Can, Ngô Đức Kế, Nguyễn Thượng Hiền, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Cao Vân, Lê Bá Trinh, Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang, Nguyễn Trọng Lợi... cổ vũ cách dạy học theo lối mới, nghĩa là dạy học trò ý thức học để sau này làm những việc ích nước lợi dân, chứ không phải để đạt đến mục tiêu cuối cùng của đời người là ra làm quan; mở cửa hàng buôn bán (thương cuộc), lập công ty (hợp thương) v.v...
    - Phan Xích Long, tên thật là Phan Phát Sanh, thủ lĩnh tinh thần của nghĩa quân chống Pháp tại Sài Gòn 1913 và 1916. Ngày 22-2-1916, Phan Xích Long cùng 37 đồng chí của ông bị giặc Pháp xử tử tại đồng Tập trận.
    - Tạ Uyên, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ 1940
    - Thoại Ngọc Hầu, tân thật là Nguyễn Văn Thoại (1762-1829), danh thần nhà Nguyễn, quê Diên Phước, Quảng Nam. Trấn Thủ Vĩnh Thanh (gồm các tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Vĩnh Long và một phần Kiên Giang). Ông đã có công lớn trong việc khẩn hoang, lập ấp, đào kinh, đắp đường, phát triển và bảo vệ vùng đất Tây Nam. Các công trình lớn của ông để lại cho đời sau là: Đắp lộ Núi Sam ?" Châu Đốc dài 5km (1826 ?" 1827); Đào kinh Thoại Hà dài hơn 30 km ở Núi Sập (Thoại Sơn) vào 1818; Đào kinh Vĩnh Tế dài theo biên giới Tây Nam nối liền Châu Đốc ?" Hà Tiên, nối lưu thông sông Châu Đốc và Vịnh Thái Lan, dài hơn 90km (1819 ?" 1824).
    - Thiên Hộ Dương, tên thật là Võ Duy Dương (1860-1886), anh hùng dân tộc, thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp ở Đồng Tháp Mười.
    - Võ Trường Toản (?-1792), nhà giáo, danh sĩ Nam Kỳ, người huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (không rõ năm sinh, cũng như không rõ gốc gác, chỉ biết ông là người học rộng, tài cao, thông đạt kim cổ...). thầy dạy của Trịnh Hoài Đức, Lê Bá Phẩm... Những nho sĩ tiết tháo thuộc thế hệ sau như Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị cũng chịu ảnh hưởng về đạo đức, học phong, sĩ khí của nhà giáo họ Võ, được vua tôn xưng là "Gia Định xử sĩ". Sau khi cụ mất, lúc ba tỉnh miền Đông rơi vào tay giặc Pháp, một số sĩ phu ở Gia Định (trong đó có Phan Thanh Giản, Nguyễn Thông, Phạm Hữu Chánh, Trương Gia Hội) không muốn cụ Võ Trường Toản nằm lại trong vùng bị tạm chiếm, đã chủ trương dời phần mộ về làng Bảo Thạnh (nay thuộc xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri) ngày 15-12-1965. Những trước tác của cụ Võ Trường Toản hầu như bị thất lạc... đến nay chỉ còn lưu truyền một bài phú duy nhất, bài Hoài cổ dài 24 câu.
  5. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Phù!
    Tạm ngắt quản phần lịch sử các con đường lại, mời các bác thưởng thức một bài ... bức rức.
    Trận đồ bát quái từ tên đường, số nhà
    TP.HCM có đến vài ngàn con đường, trong đó hơn 1.600 tuyến được đặt tên. Thế mà hằng hà sa số những con đường này lại có tên trùng với nhau!
    Điển hình như chỉ một vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn nhưng đã được đem đặt cho ít nhất 4 tuyến đường, đó là đường Trần Hưng Đạo ở Quận 1, Trần Hưng Đạo ở Quận 5, Trần Hưng Đạo ở Quận Tân Bình và Trần Quốc Tuấn ở Quận Gò Vấp. Thậm chí trên tuyến đường Trần Hưng Đạo nối Quận 1 với Quận 5 người ta còn "dũng cảm" gắn thêm hai chữ A và B vào sau tước vị của vị tướng lẫy lừng thời nhà Trần này khiến nhiều người ngộ nhận có đến hai ông Trần Hưng Đạo! Hay như đã có đường Hai Bà Trưng lại còn có thêm đường Trưng Trắc, đường Trưng Nhị. C
    ứ nhìn trên bản đồ chỉ dẫn đường phố của thành phố Hồ Chí Minh thì chỉ ngay trong khu vực trung tâm đã có không biết bao nhiêu tuyến đường trùng tên với nhau. Tên các nhân vật Phan Xích Long, Nguyễn Đình Chiểu, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Bình, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Thượng Hiền, Trần Bình Trọng... được lặp lại với tần suất nhiều nhất. Việc có quá nhiều tên đường trùng nhau như vậy khiến nhiều người ngỡ rằng do số lượng đường của thành phố quá lớn cùng với tốc độ phát triển đô thị quá nhanh nên không đủ tên theo đúng tiêu chí để đặt tên cho từng tuyến đường, vì vậy việc đường trùng tên là chuyện dĩ nhiên. Song thực tế không phải như vậy bởi hiện thành phố vẫn còn rất nhiều tuyến đường có tới 2- 3 tên và trong ngân hàng tên đường của thành phố vẫn còn dự trữ một lượng tên khá dồi dào, đa dạng.
    Bên cạnh đó, mặc dù đã có tiêu chí "chỉ đặt một tên đối với những đường dài nhưng thông suốt", vậy mà không hiểu sao người ta vẫn cứ cố tình ngắt một số tuyến đường thông suốt ra làm nhiều đoạn và gắn cho mỗi đoạn ấy một cái tên. Nhiều tuyến đường thông suốt nhưng không dài cũng bị cắt khúc như Phan Đình Phùng - Hai Bà Trưng, Nguyễn Văn Trỗi - Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phan Đăng Lưu - Bạch Đằng, An Dương Vương - Hồng Bàng... Điển hình như đường Cách Mạng Tháng Tám trước giải phóng mang một tên khác, sau giải phóng, tuyến đường này được chia làm 3 đoạn với 3 tên khác nhau, sau đó cả tuyến đường thông suốt này được đổi lại thành một tên chung là Cách Mạng Tháng Tám, rồi đùng một cái, năm 2000 người ta lại đem cắt khúc tuyến đường này ra làm hai là Cách Mạng Tháng Tám và Trường Chinh! Việc đổi tên này đã kéo theo bao nhiêu phiền phức khác cho người dân, từ hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân đến giấy tờ nhà đất và bao nhiêu thứ liên quan khác gắn liền với quyền lợi và đời sống của hàng ngàn hộ dân hai bên tuyến đường suốt gần 20 năm qua.
    Rất nhiều người đi tìm đại chỉ ở TP.HCM phải thốt lên "tên đường, số nhà cứ như một mớ bòng bong!". Quả thật, nếu người đưa địa chỉ không ghi rõ phường, quận đằng sau số nhà, tên đường thì "tài thánh" cũng chẳng tìm ra. Rất nhiều tuyến đường ở TP Hồ Chí Minh nhà chẳng được sắp xếp theo một nguyên tắc nào cả, nhà đang số chẵn nhảy ngay sang số lẻ, đang số tiến lại thấy số lùi, rồi nhà trùng số lung tung, đầu đường có số 2, giữa đường cũng có số 2, thậm chí cuối đường cũng lại thấy xuất hiện số 2 khiến người tìm hoa cả mắt. Điển hình nhất của sự lộn xộn này là các số nhà trên đường Quang Trung (Quận Gò Vấp). Số nhà ở đây chẳng khác gì đánh đố người đi tìm. Địa chỉ nhà mặt tiền tìm đã khó, tìm nhà trong hẻm còn trần ai gấp bội. Đơn cử như địa chỉ 33/3E Quang Trung lại không nằm trên đường Quang Trung, muốn đến căn nhà này phải đi vào đường Lê Văn Thọ rồi sẽ sang đường Cây Trâm, rẽ tiếp sang một con hẻm không số, cua vài ba đoạn mới tới! Không hiểu người ta căn cứ vào đâu để đặt số cho căn nhà này?
    Sự lộn xộn này không chỉ dừng lại ở đó mà còn bi hài hơn ở chỗ hai nhà cùng nằm trên một tuyến đường, sát vách với nhau nhưng tên lại khác nhau. Đi dọc tuyến đường Trường Chinh, cứ nhìn vào biển số nhà sẽ không thể biết đây thực sự là đường Trường Chinh hay đường Cách Mạng Tháng Tám bởi biển tên nhà chỗ thì ghi là đường Trường Chinh, chỗ lại ghi là đường Cách Mạng Tháng Tám. Trên đường Hồng Bàng, An Dương Vương hoặc một số đường trước đây thông suốt nay bị đổi tên cắt đoạn cũng xảy ra tình trạng tương tự. Song lộn xộn, rắc rối nhất là khu vực đường Nguyễn Thông, Nguyễn Phúc Nguyên, Trần Văn Đang và đường Rạch Bùng Binh. Tên đường rõ ràng, tuyến đường thông suốt là thế, vậy nhưng các biển tên nhà vẫn rất lung tung. Ngay trên đường Nguyễn Phúc Nguyên, biển tên nhà nơi thì ghi là Trần Văn Đang, chỗ thì ghi là Nguyễn Thông hoặc Nguyễn Phúc Nguyên. Trên đường Rạch Bùng Binh còn thấy xuất hiện cả tên Nguyễn Thông và Nguyễn Phúc Nguyên trên các biển tên nhà. Nếu người ngoại tỉnh "lọt" vào khu vực này thì đúng như lọt vào "trận đồ bát quái? chẳng biết đâu mà lần!
    Đã có tên đường ắt phải có biển tên. Biển tên đường theo như tiêu chí của các nước tiên tiến không chỉ là bảng tên thông thường với mục đích hướng dẫn giao thông, quản lý đô thị mà còn phải bao hàm cả yếu tố nội dung và hình thức. Nội dung là phải mang tính giáo dục, giới thiệu truyền thống lịch sử mà con đường ấy được vinh dự mang tên; còn hình thức phải đẹp, phải có tính thẩm mỹ, quan trọng nhất là phải dễ đọc, dễ thấy và bắt mắt. Tuy nhiên, từ trước tới nay khi gắn biển tên đường chúng ta chưa chú ý đến hai yếu tố này. Biển tên đường nếu chỉ ghi mỗi họ tên nhân vật sẽ khiến nhiều du khách không biết được nhân vật ấy là ai, địa danh, sự kiện ấy là gì, thậm chí ngay cả những người hàng ngày gắn bó với tên đường đó nhiều khi cũng không hiểu được ý nghĩa của nơi mình sinh sống. Cách ghi biển tên đường như hiện nay còn làm cho người đọc cảm thấy sự hời hợt và thiếu tôn trọng đối với các nhân vật lịch sử.
    Cách nào thoát ''''mê hồn trận''''?
    Để lập lại trật tự trong việc đặt, đổi tên đường, số nhà, đồng thời để đảm bảo tính khoa học, tính ổn định lâu dài của tên đường, số nhà, thành phố cần phải có những quy định chặt chẽ hơn trong việc duyệt các dự án quy hoạch như chỉ phê duyệt dự án khi đường sá trong các khu quy hoạch đã có tên. Đồng thời, thành phố cũng cần đưa ra những tiêu chí rất cụ thể trong việc đặt, đổi tên đường. Đã có cả một ngân hàng tên đường đã được duyệt, vì thế thiết nghĩ thành phố nên uỷ quyền lại cho cơ quan chuyên môn trong việc đặt tên đường. HĐND chỉ nên thông qua tên các nhân vật, các địa danh, các sự kiện lịch sử trước khi đưa vào ngân hàng dự trữ tên đường. Có như vậy mới đáp ứng kịp thời tốc độ phát triển đô thị nhanh như hiện nay.
    Đối với các tên đường, chừng nào còn sử dụng tên các nhân vật, các địa danh, các sự kiện thì ngoài họ tên thông thường còn cần phải ghi rõ danh hiệu, năm sinh, năm mất hoặc địa danh đó gắn với sự kiện gì... Như thế mới đầy đủ nội dung để tên đường bao hàm luôn cả yếu tố giáo dục, giới thiệu. Biển số nhà cũng cần phải có quy định cụ thể về hình thức cũng như vị trí gắn để đảm bảo tính thẩm mỹ cho bộ mặt đô thị.
    Tên đường, số nhà lộn xộn không chỉ gây khó khăn trong vấn đề quản lý đô thị mà còn thể hiện "đẳng cấp? của đô thị đó. Để trở thành một thành phố văn minh, hiện đại, thiết nghĩ chính quyền thành phố cần phải lập lại trật tự trong việc đặt tên đường và số nhà để sớm ổn định sinh hoạt của người dân.
    (CA TP.HCM)
  6. nvl

    nvl ĐTVT Moderator

    Tham gia ngày:
    31/01/2002
    Bài viết:
    4.304
    Đã được thích:
    6
    Gửi bác Thainhi_VN: quả nhiên em đã không nhìn lầm người. Bác thuộc được ngần ấy chi tiết lịch sử thì đúng là quá siêu sao rồi. Danh hiệu ?ođệ nhất sử quán? nhẽ ra phải thuộc về bác mới đúng. Tiếc rằng đại hiệp Bắc-Nam đã bỏ đi mất nên chưa kịp đưa tên tuổi của bác vào bảng Phong Thần. Để em nghiên cứu thêm, có gì mấy ngày nữa sẽ viết một bài về bác trong ?oNam Châu Diễn Sử?
    Về cái bài báo mà bác đăng lên ấy, nó viết chí lí quá bà con ạ. Em cũng có thêm một số nhận xét sau:
    - Nếu là liệt sĩ có chiến công lớn hoặc bị giặc sát hại một cách dã man (ví dụ như anh thanh niên bị CIA bắn chết rồi vứt xác xuống đường băng hay người phụ nữ có mang bị mật thám ám sát) thì đem đặt tên còn có lý. Chứ có một số vị rất vớ vẩn, chỉ là liệt sĩ bình thường thôi chứ cũng chẳng có công trạng gì nổi bật mà cũng đem đặt tên cho đường. Thậm chí có một số vị chẳng phải liệt sĩ, chỉ làm đến chức bí thư ở đâu đó, rồi chết vì già, cũng được đặt tên. Quá dở. Nói theo như bài báo trên thì là ?oCách ghi biển tên đường như hiện nay còn làm cho người đọc cảm thấy sự hời hợt và thiếu tôn trọng đối với các nhân vật lịch sử.?
    - Khá thú vị ở chỗ, có nhiều vị là họ hàng với người nổi tiếng, tất nhiên là cũng có cùng chí hướng mà may mắn được đặt tên. Thí dụ như anh em nhà giáo sư Dương Quảng Hàm hay cháu rể của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu hoặc em vợ của nhà yêu nước Nguyễn Thái Học chẳng hạn. Những nhân vật này thực chất cũng chẳng có mấy tên tuổi trong lịch sử, đặt tên để nêu gương cho người đời sau thì không nổi bật, mà để gợi nhớ thì cũng chẳng ai biết đấy là đâu. Có vẻ như Hội Đồng đặt tên chỉ cốt làm cho qua chuyện.
    - Chẳng hiểu những người hữu trách nghĩ sao mà đặt tên theo kiểu bí danh như vậy. Thí dụ như: Cụ Phan Chu Trinh chính là Phan Tây Hồ, Đoàn Trần Nghiệp còn được gọi là Ký Con. Theo đúng bài báo trên, thì cách đặt tên này sẽ làm mọi người tưởng đó là những nhân vật khác nhau. Đây chứng tỏ là kiến thức lịch sử của những nhà phát minh ?ođặt tên? quá non kém.
    - Một điều đặc trưng nữa là tên tuổi của nhiều vị quan triều Nguyễn. Triều đại này trước đây bị xem nhẹ, chê bai vì có ông tổ là Gia Long đánh Tây Sơn của người anh hùng áo vải và hậu duệ là Bảo Đại đi theo giặc Pháp. Gần đây, các nhà nghiên cứu đã tìm lại những tài liệu để khôi phục lại những thông tin khách quan hơn về một triều đại lớn trong lịch sử VN. Do vậy, kiến thức về lịch sử triều đại này đối với một số người (trong đó có em) là rất yếu kém. Nhờ cách đặt tên trong TP. HCM mà chúng ta sẽ có được cái nhìn gần gũi hơn với các danh nhân của thời kì đó.
  7. TulipMan

    TulipMan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/02/2003
    Bài viết:
    1.766
    Đã được thích:
    0
    Có lần fải đến khu này, hỏi đường Nguyễn Văn Huyên thì hầu như ko ai biết. Còn hỏi ông Nguyễn Văn Huyên là ai thì ở quanh đó bói ko ra 1 ngừơi biết. Về hỏi gia đình, bạn bè cũng không ai có câu trả lời, đành tự đi tìm hiểu

    [​IMG]
    GS.TS. Nguyễn Văn Huyên
    Nguyễn Văn Huyên (giáo dục, sử; 1908 - 75), nhà sử học, dân tộc học, nhà giáo dục Việt Nam. Sinh tại Hà Nội. Người Việt Nam đầu tiên bảo vệ luận án tiến sĩ văn chương tại Trường Đại học Xoocbon (Sorbonne; Paris, 1934). Năm 1935, về nước, khước từ làm quan, chọn nghề dạy học. Những năm 1935 - 38, dạy ở Trường Bưởi; uỷ viên thường trực Trường Viễn Đông bác cổ. Tham gia Hội truyền bá quốc ngữ từ 1938 - 45. Sau Cách mạng tháng Tám là Tổng giám đốc Đại học vụ kiêm giám đốc Trường Viễn Đông bác cổ. Những năm 1946 - 75, bộ trưởng Bộ Giáo dục nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đại biểu Quốc hội khoá II, III, IV và V, uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Để lại nhiều bài nghiên cứu có giá trị như "Phù Đổng", "Thành hoàng Lý Phục Man", "Lịch sử thành lập một làng ở Bắc Kỳ", "Hát đám cưới của một người Thổ ở Lạng Sơn, Cao Bằng"... và hai cuốn sách (bằng tiếng Pháp): "Sự phụng thờ thần thánh ở nước Nam" (1944), "Văn minh nước Nam" (1944), tập hợp trong chuyên khảo lớn "Góp phần xây dựng văn hoá Việt Nam". Trong lĩnh vực giáo dục, Nguyễn Văn Huyên đã trực tiếp chỉ đạo và tham gia xây dựng nền giáo dục mới của Việt Nam. Tác phẩm về lĩnh vực này: "16 năm phát triển giáo dục quốc dân Việt Nam (1945 - 60)", "Tiếng Việt - một vũ khí sắc bén để xây dựng nền giáo dục dân tộc" (trong cuốn "Tiếng Việt và dạy học bằng tiếng Việt"), tập hợp lại trong tập sách "Những bài toán và bài viết về giáo dục". Các công trình của ông in trong "Toàn tập Nguyễn Văn Huyên" gồm 3 tập. Giải thưởng Hồ Chí Minh về lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn (2000).
    Nguồn: Từ điển Bách khoa Việt Nam
  8. TulipMan

    TulipMan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/02/2003
    Bài viết:
    1.766
    Đã được thích:
    0
    Theo kinh nghiệm đi lang thang và để ý phố phường HN của tôi thì cách đánh số nhà có quy tắc là
    Số nhà tăng dần theo hướng Bắc - Nam, Đông - Tây
    và cũng theo hướng Bắc-Nam, Đông - Tây, số chẵn bên tay phải, số lẻ bên tay trái.
    Tuy nhiên hình như cũng có vài đường các bác đô thị nhà ta ko làm theo quy tắc trên, cũng chả hiểu tại sao.
    Tôi thấy cái chủ đề này rất hay, chúng ta (0 cứ ở Sài Gòn) có thắc mắc về tên đường phố nơi mình cư trú hay nơi mình đi qua, ko hiểu về tên danh nhân, tên địa danh thì có thể post lên đây, ai có khả năng thì giải đáp thắc mắc.
  9. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Thực ra tên đường cũng là một dịp để chúng ta kiểm nghiệm lại kiến thức lịch sử của chính mình. Tôi không biết Tạ Uyên là ai cho đến ngày tôi được biết ông là một trong những lãnh đạo chủ chốt của khởi nghĩa Nam Kỳ. Hoặc tôi đã từng thuộc câu "Đằng giang tự cổ huyết do hồng" mặc dù mãi sau này tôi mới biết là của cụ Giang Văn Minh. Hoặc, tôi chỉ biết vùng địa đạo huyền thoại ở Củ Chi nếu như không có đường Địa Đạo, nơi bảo tồn một di tích địa đạo huyền thoại giữa lòng Sài Gòn.
    Một góp ý vui, những cái tên đường bị trùng lặp ư? Chuyện nhỏ, ở TP.HCM, ngừoi ta còn biết đến những ông Đinh Bộ Lĩnh (BT)- Đinh Tiên Hoàng (Q.1), Trần Hưng Đạo (Q.1,5) - Trần Quốc Tuấn (GV), Quang Trung (GV) - Nguyễn Huệ (Q.1)...
  10. Voldo

    Voldo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    1.057
    Đã được thích:
    1
    Có vẻ như phần lớn những bác trong forum này đều bàn về tên phố ở Sài Thành.
    Ở HN cũng có nhiều bất cập về chuyện đặt tên phố. Nhiều vị có vẻ như không có tên tuổi lắm vẫn được lên tên phố trong khi nhiều danh nhân được lịch sử ghi nhận lại không được đặt tên.
    Xin đơn cử:
    Vua Duy Tân, người có tư tưởng chống Pháp mạnh mẽ.
    Duy Tân (1900 - 1945)

    Niên hiệu Duy Tân

    Năm sanh, năm mất 1900-1945

    Giai đoạn trị vì 1907-1916

    Miếu hiệu .

    Tên Húy Nguyễn Phúc Hoảng, Nguyễn Phúc Vĩnh San

    Vua Duy Tân sinh ngày 19-9-1900, con trai thứ 5 của vua Thành Thái và bà Nguyễn Thị Ðịnh. Vua Thành Thái rất đông con, đáng lẻ phải chọn người con trưởng kế vị, nhưng Pháp sợ Vua trưởng thành khó sai khiến nên phải tìm chọn một người càng nhỏ tuổi càng hay.
    Hôm Khâm sứ Lévecque cầm danh sách các Hoàng tử con Vua Thành Thái vào Hoàng cung chọn vua, trong lúc điểm danh thì thiếu mất «mệ Vĩnh San». Triều đình hốt hoảng chạy đi kiếm thì thấy Vĩnh San đang chui dưới gầm giường bắt dế. Vĩnh San bị lôi ra, mặt mày lem luốt, quần áo ướt nhẹp vì mồ hôi. Không kịp đưa về nhà tắm rửa, bọn thị vệ đưa ngay Vĩnh San ra trình diện quan Pháp.
    Mới trông thấy Vĩnh San, các quan Pháp vừa ý ngay vì theo họ đứa bé mặt mày dơ tèm lem có vẻ nhút nhát và đần độn, chắc dễ sai khiến sau nầy. Thế là Pháp chọn Vĩnh San làm Vua, mới 7 tuổi đầu. Triều đình thấy Vua nhỏ bèn xin tăng thêm một tuổi thành tám. Nghĩ tình Vua Thành Thái suốt đời ước nguyện đổi mới mà không làm được, nên những người phò tá còn chút quyền hành đã lấy niên hiệu cho người nối nghiệp là Duy Tân.
    Ngay sau lễ Tôn Vương một ngày (5-9-1907), vua Duy Tân đã tỏ ra khác hẳn hôm qua, Vua không hề có một cử chỉ nhúc nhát sợ Tây, ông tiếp quan toàn quyền Ðông Dương thẳng bằng tiếng Pháp. Một nhà báo Pháp đã thuật lại là «...Một ngày lên ngai vàng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cậu bé lên tám».
    Ðể kiểm soát vua, Pháp đã bày ra những việc sau:
    -Lập một phụ chính gồm sáu ông đại thần là Tôn Thất Hân, Nguyễn Hữu Bài, Huỳnh Côn, Miên Lịch, Lê Trinh và Cao Xuân Dục để cai trị nước Nam dưới sự điều khiển của Khâm sứ Pháp.
    -Ðưa ông Ebérhard, một tiến sĩ sinh học qua dạy cho Vua Duy Tân học khoa học (có sách nói mục đích là để theo dõi những hành động của Vua Duy Tân).
    Khoảng năm 1912, ông Mahé lên làm Khâm sứ Pháp ở Huế. Mới lên khâm sứ ít lâu ông ta đã mở một chiến dịch tìm vàng ráo riết. Mahé lấy tượng vàng đúc từ thời Nguyễn Phúc Chu (đầu thế kỷ thứ 18) trên tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ, đào mả lăng Vua Tự Ðức để tìm vàng và đào xới lung tung trong Ðại Nội để tìm vàng. Vua Duy Tân phản đối quyết liệt những hành động thô bạo đó, nhưng Mahé vẫn làm ngơ.
    Vua Duy Tân ngày đêm ăn ngủ không yên, ông ra lệnh đóng cửa Cung và không tiếp ai hết. Toà Khâm Sứ Pháp làm áp lực với nhà Vua thì nhà Vua đe doạ là sẽ tuyệt giao với các nhà đương cục ở Huế lúc bấy giờ. Cuối cùng Tây phải triệu toàn quyền Sarraut ở Hà Nội vào giải quyết. Gặp toàn quyền Vua Duy Tân đã vạch tội của Khâm Sứ Pháp ở Huế. Ðể xoa dịu, toàn quyền Sarraut đã khiển trách Mahé về hành động bất nhân đó. Vua Duy Tân mới hạ lệnh cho mở cửa Hoàng Thành.
    Năm Vua Duy Tân 13 tuổi, ngày lục lọi giở ra xem những hiệp ước mà hai nước Việt-Pháp đã ký với nhau rồi một hôm giữa triều đình, nhà Vua tỏ ý muốn cử ông Nguyễn Hữu Bài là người giỏi tiếng Pháp sang Pháp để yêu cầu duyệt lại hiệp ước ký năm 1884 (Patenôtre) vì ông cảm thấy việc thi hành của hiệp ước ấy không đúng với những điều kiện mà hai bên đã ký kết với nhau, nhưng cả triều đình không ai dám nhận chuyến đi đó.
    Năm 15 tuổi, Vua Duy Tân đã triệu tập cả sáu ông đại thần trong Phụ Chính, bắt buộc các vị phải ký vào biên bản để đích thân Vua sẽ cầm qua trình với toà Khâm Sứ nhưng các ông đại thần sợ Tây giận sẽ kiếm chuyện nên từ chối không ký và phải xin yết kiến bà Thái Hậu để nhờ bà can gián nhà Vua. Từ đó không những nhà Vua có ác cảm với thực dân Pháp mà còn ác cảm với Triều đình.

    Nguyễn Hữu Bài

    Biết được vua Duy Tân là người yêu nước chống Pháp nên Việt Nam Quang Phục hội quyết định móc nối. Mùa hè năm 1915 vua ra cửa Tùng nghỉ mát, người tài xế tên Phan Hữu Khánh là người trong hội có đưa cho Vua một bức thư của 2 lãnh tụ là Trần Cao Vân và Thái Phiên. Vua đọc thư cảm động lắm và đòi gặp 2 người. Thế là ông Trần Cao Vân và ông Thái Phiên cùng vua Duy Tân mưu đồ khởi nghĩa đánh Pháp, nhưng không ngờ ngày vua xuất thành (3-5-1916) để làm cách mạng thì có người phản bội đi báo Tây, 2 ngày sau vua Duy Tân bị bắt, Pháp bắt Triều đình ta phải xử, Thượng thư bộ Học Hồ Ðắc Trung được ủy nhiệm thảo bản án.

    Trần Cao Vân
    Ông Trần Cao Vân tuy bị giam trong ngục nhưng nhờ được người đưa được một mảnh giấy cho ông Hồ Ðắc Trung xin được lảnh hết tội và xin tha cho Vua. Ông Hồ Ðắc Trung làm án đổ hết tội cho 4 ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Ðề và Nguyễn Văn Siêu. Bốn ông đều bị chém đầu còn vua Duy Tân thì bị đày đi đảo Réunion cùng với vua Thành Thái (1919).
    Vua Duy Tân mặc dù bị đày nhưng vẫn thiết tha với quê hương, ông vẫn tìm cách trở lại với đất nước. Ðệ nhị thế chiến xảy ra, ông nghĩ đó là cơ hội để ông có thể thoát ra khỏi nơi giam cầm bằng cách xin đi lính cho Tây. Và đúng như tiên liệu, sau đó vua Duy Tân đã có dịp sang Pháp gặp Tướng De Gaulle (1945) và được ông nầy hứa là sang năm sẽ đích thân đưa Vua về Việt Nam để trở lên ngôi mặc cho bộ Thuộc địa phản đối. Vua Duy Tân mừng lắm có tuyên bố với nhiều người cuộc hồi hương sắp tới nầy nhưng rất tiếc chiếc phi cơ chở ông trên đường từ Pháp về đảo để thăm vua cha và gia đình đã bị rớt, không ai sống sót (tháng 12 năm 1945). Ðây vẫn là một nghi vấn cho lịch sử.
    (Nguyễn Tấn Lộc)
    Vua Hàm Nghi
    Niên hiệu Hàm Nghi

    Năm sanh, năm mất 1871-1943

    Giai đoạn trị vì 1884-1885

    Miếu hiệu .

    Tên Húy Nguyễn Phúc Minh, Nguyễn Phúc Ưng Lịch

    Sau khi vua Kiến Phúc mất rồi, đáng lẽ con nuôi thứ hai của vua Tự Ðức là ông Chánh Mông lên ngôi mới phải. Nhưng hai ông Tường và ông Thuyết sợ lập vua lớn tuổi thì các ông ấy mất quyền hành nên chọn ông Ưng Lịch là em ruột ông Chánh Mông mới 12 tuổi, tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi.
    Viên Khâm sứ Rheinart thấy hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cứ tự tiện lập vua không hỏi ý ông trước đúng như đã giao kết nên gởi quân vào Huế bắt Triều đình phải xin phép. Ông Thuyết và Tường phải làm tờ xin phép bằng chữ Nôm nhưng viên Khâm sứ không chịu, bắt làm bằng chữ Nho (chữ Tàu), hai ông phải viết lại, viên Khâm sứ mới chịu và sau đó đi cửa chính vào điện làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi.
    Năm sau (1885), Thống Tướng De Courcy được chánh phủ Pháp cử sang Việt-Nam để phụ lực vào việc đặt nền bảo hộ ở Việt-Nam. Tướng De Courcy muốn vào yết kiến vua Hàm Nghi nhưng lại muốn là toàn thể binh lính của ông, 500 người, đi vào cửa chánh là cửa dành riêng cho đại khách. Triều đình Huế xin để quân lính đi cửa hai bên, chỉ có các bật tướng lảnh là đi cửa chánh thôi cho đứng với nghi thức triều đinh, nhưng tướng De Courcy nhất định không chịu.
    Ông Nguyễn Văn Tường và ông Tôn Thất Thuyết thấy Pháp khinh mạn Vua mình như thế đều giận lắm bèn nhất định tấn công trại binh của Pháp ở đồn Mang Cá vào đêm 22 rạng 23 tháng 4 âm lịch, đến sáng thì quân Pháp phản công, quân ta thua chạy.
    Ông Nguyễn Văn Tường cho người rước Vua Hàm Nghi (lúc nầy mới 13 tuổi) trực chỉ tới thành Quảng Trị để lánh nạn nhưng sau đó thì ông ta lại ra trình diện với quân Pháp. Tướng De Courcy hẹn cho ông hai tháng phải tìm cách để rước Vua về. Ông Tường viết sớ ra Quảng Trị xin rước Vua về nhưng ông Thuyết cản thư không cho Vua biết.
    Ông Thuyết ở Quảng Bình làm hịch Cần Vương để kêu gọi dân chúng giúp Vua chống Pháp, dân chúng nổi dậy rất đông, đâu đâu cũng có kháng chiến nhưng vì rải rác các nơi nên lực lượng không mạnh (mạnh nhất là phong trào của Ðề Thám). Có thuyết kể rằng khi ông Tường tới kêu vua bỏ trốn, vua trả lời rằng "ta có đánh với ai đâu mà phải chạy ?" nhưng quân hộ vệ đã nhào tới ôm vua bỏ lên kiệu và tuông thành trốn. Khi ông Thuyết ra hịch Cần Vương, kể tội ác của Pháp thì vua Hàm Nghi mới trả lời rằng : "Bây giờ Trẫm mới hiểu" và từ đó đã trở thành một lãnh tụ kháng chiến dũng cảm.
    Hết hạn hai tháng thì cả gia đình ông Nguyễn Văn Tường bị ông De Courcy đày ra Côn Ðảo rồi sau đó bị đưa tới đảo Haiti ở Thái Bình Dương. Ðược ít lâu thì ông Tường mất, xác được đưa về chôn ở quê nhà.
    Trong thời gian nầy, quân Tàu lại xung đột với quân Pháp ở Bắc kỳ vì Triều đình Trung Hoa không chấp nhận cái hoà uớc mà tướng Lý Hồng Chương đã ký, viện cớ là Triều đình Tàu không hay biết gì về vụ đó (có sách nói là Tàu giận vụ Pháp bắt hủy cái ấn của Tàu ban cho Việt Nam), cuộc chiến bùng nổ dữ dội ở Tuyên Quang, Lạng Sơn, ... Hải quân Pháp bắn phá Phúc Châu và vây Ðài Loan. Tới năm 1885, chánh phủ Tàu thấy chiến tranh không lợi nên thuận ký tờ hoà ước Thiên Tân với Pháp ngày 27 tháng 4 năm Ất Dậu, trong đó Tàu chấp nhận là Việt Nam thuộc Pháp chứ không thuộc Tàu nữa và bắt đầu vẽ lại một cách chánh thức biên giới Việt-Hoa. Từ đây trở đi coi như Pháp đã chiếm hết nước ta (xin coi hình ảnh trong trang "Những tấm hình của ông Bác sĩ Hocquard"
    (Nguyễn Tấn Lộc)
    Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ
    Khúc Thừa Dụ với công cuộc khôi phục quyền tự chủ nước Việt thế kỷ 10
    Cuối thế kỷ thứ 9, triều đình Trường An đổ nát. Nạn cát cứ của các tập đoàn quân phiệt phong kiến (phiên trấn) ngày càng ác liệt. Khởi nghĩa Hoàng Sào (874 - 884) đã làm lung lay tận gốc nền thống trị của nhà Đường. ở miền tây - nam (Vân Nam), Nam Chiếu cường thịnh, trở thành một nước lớn, luôn luôn đánh cướp đất An Nam. Cuối năm 862 đầu năm 863, Nam Chiếu đem 50 vạn quân xâm lấn An Nam, chiếm phủ thành Tống Bình; nhà Đường bỏ An Nam đô hộ phủ, chỉ lo phòng giữ Ung Châu. Ba năm trời, An Nam bị quân Nam Chiếu chiếm, chính quyền nhà Đường vì hèn yếu đã tự thủ tiêu quyền thống trị của mình trên đất Việt. Các hào trưởng địa phương người Việt tự mình đem quân chống lại quân Nam Chiếu. Và điều đó đã châm ngòi cho phong trào đấu trành giành quyền tự chủ dân tộc của dân Việt suốt ba thế kỷ 7, 8, 9 sau một đêm dài tăm tối.
    Sau khi Độc Cô Tổn, viên Tiết độ sứ ngoại tộc cuối cùng rời khỏi đất An Nam, chớp thời cơ chính quyền trung ương nhà Đường rệu rã, chính quyền đô hộ như rắn mất đầu, nhân dân Việt lại một lần nữa kiên quyết đứng dậy tự quyết định lấy vận mệnh của đất nước. Hào trưởng Hồng Châu là Khúc Thừa Dụ, được dân chúng ủng hộ, đã tiến quân ra chiếm đóng phủ thành Tống Bình (Hà Nội); tự xưng là Tiết độ sứ, xóa bỏ thực chất của chính quyền đô hộ nhưng khéo léo lợi dụng bộ máy và danh nghĩa của bọn đô hộ cũ để chuyển sang giành quyền độc lập dân tộc một cách vững chắc.
    Khúc Thừa Dụ (? - 907)
    Việt sử thông giám cương mục (Tiền biên, quyển 5) viết : "Họ Khúc là một họ lớn lâu đời ở Hồng Châu (*). Khúc Thừa Dụ tính khoan hòa, hay thương người, được dân chúng suy tôn. Gặp thời buổi loạn lạc, nhân danh là hào trưởng một xứ, Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ...". Mở đầu chính sách ngoại giao khôn khéo trong ứng xử với triều đình phong kiến phương Bắc: "độc lập thật sự, thần thuộc trên danh nghĩa", Khúc Thừa Dụ, sau khi đã nắm được quyền lực thực tế trên miền đất đai "An Nam" cũ trong tay, vẫn giữ danh nghĩa "xin mệnh nhà Đường" buộc triều đình nhà Đường phải công nhận sự đã rồi. Ngày 7-2-906 vua Đường phải phong thêm cho Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ tước "Đồng bình chương sự". Khúc Thừa Dụ phong cho con là Khúc Hạo chức vụ "Tĩnh Hải hành quân tư mã quyền tri lưu hậu" tức là chức vụ chỉ huy quân đội và sẽ thay thế cha nắm quyền hành Tiết độ sứ.
    Tuy còn mang danh hiệu một chức quan của nhà Đường, về thực chất, Khúc Thừa Dụ đã xây dựng một chính quyền tự chủ bãi bỏ quan lại chế độ cũ kết thúc về cơ bản ách thống trị hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc.
    Lịch sử ghi nhớ công lao của Khúc Thừa Dụ như là một trong những người đặt cơ sở cho nền độc lập dân tộc. Ngày 23-7-907, Khúc Thừa Dụ mất. Mặc nhiên, Khúc Hạo nối nghiệp cha.
    (Trần Quốc Vượng)
    Dương Đình Nghệ
    NZm Tân Mão (931), Dương Đình Nghệ, một tướng của Khúc Hạo ở đất A''i Châu (Thanh Hoá), mộ quân đánh đuổi Lý Khắc Chính và Lý Tiến, chiếm thành Đại La, tự xưng làm Tiết độ sứ. Được 6 nZm, Dương Đình Nghệ bị người nha tướng là Kiều Công Tiễn, hào tướng đất Phong Châu giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Nền độc lập mới giành được sau đêm trường Bắc thuộc lại bị đe doạ.
    Những vị này không thấy được đặt tên phố. Những vị như Dương Đình Nghệ hay Khúc Thừa Dụ có thể coi là do "quên" nhưng liệu các cụ như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân có phải bị "trù ẻo" vì có dính dáng đến triều đinh nhà Nguyễn???
    Cứ phải tay tôi, tôi sẽ nhấc phố Lê Duẩn ra ngoại thành và đổi tên nó là phố Duy Tân

Chia sẻ trang này