1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đất Tổ Vua Hùng (Truyền thuyết, lịch sử, văn hóa,hình ảnh, địa lý, con người...Phim tài liệu trang 2

Chủ đề trong 'Phú Thọ' bởi ThanhGiongOnline, 05/10/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ThanhGiongOnline

    ThanhGiongOnline Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2004
    Bài viết:
    47
    Đã được thích:
    0
    Đất Tổ Vua Hùng (Truyền thuyết, lịch sử, văn hóa,hình ảnh, địa lý, con người...Phim tài liệu trang 2)

    Việt Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim)

    Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ một lần được một trăm người con trai3. Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: "Ta là dòng dõi Long Quân, nhà ngươi là dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được; nay được trăm con thì nhà người đem 50 đứa lên núi, còn 50 đứa ta đem xuống bể Nam Hải". Gốc tích truyện này có lẽ là từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỷ chia ra những nước gọi là Bách Việt. Bởi vậy ngày nay đất Hồ Quảng (tỉnh Hồ Nam, tỉnh Quảng Đông và tỉnh Quảng Tây) còn xưng là đất Bách Việt. Đấy cũng là một điều nói phỏng, chứ không có lấy gì làm đích xác được.


    Nước Văn Lang.

    Lạc Long Quân phong cho người con trưởng sang làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương.
    Cứ theo sử cũ thì nước Văn Lang chia ra làm 15 bộ:

    1. Văn Lang (Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên)
    2. Châu Diên (Sơn Tây)
    3. Phúc Lộc (Sơn Tây)
    4. Tân Hưng (Hưng Hóa - Tuyên Quang)
    5. Vũ Định (Thái Nguyên - Cao Bằng)
    6. Vũ Ninh (Bắc Ninh)
    7. Lục Hải (Lạng Sơn)
    8. Ninh Hải (Quảng Yên)
    9. Dương Tuyền (Hải Dương)
    10. Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình)
    11. Cửu Chân (Thanh Hóa)
    12. Hoài Hoan (Nghệ An)
    13. Cửu Đức (Hà Tĩnh)
    14. Việt Thường (Quảng Bình, Quảng Trị)
    15. Bình Văn ( ? )


    Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu (bây giờ ở vào địa hạt huyện Bạch Hạc, tĩnh Vĩnh Yên), đặt tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mị Nương, các quan nhỏ gọi là Bồ Chính 4. Quyền chính trị thì cứ cha truyền con nối, gọi là Phụ Đạo.

    Về đời bấy giờ, sử Tàu có chép rằng năm tân mão (1109 trước Tây lịch), đời vua Thành Vương nhà Chu, có nước Việt Thường, ở phía nam xứ Giao Chỉ sai sứ đem chim bạch trĩ sang cống, nhà Chu phải tìm người làm thông ngôn mới hiểu được tiếng, và ông Chu Công Đán lại chế ra xe chỉ nam để đem sứ Việt Thường về nước. Vậy đất Việt Thường và đất Giao Chỉ có phải là đất của Hùng Vương lúc bấy giờ không?

    Họ Hồng Bàng làm vua được 18 đời, đến năm quý mão (158 trước Tây lịch) thì bị nhà Thục lấy mất nước.

    Xét từ đời Kinh Dương Vương đến đời vua Hùng Vương thứ 18, cả thảy 20 ông vua, mà tính từ năm nhâm tuất (2879) đến năm quý mão (258 trước Tây lịch) thì vừa được 2622 năm. Cứ tính hơn bù kém, mỗi ông vua trị vì được non 150 năm! Dẫu là người đời thượng cổ nữa, thì cũng khó lòng mà có nhiều người sống lâu được như vậy. - Xem thế thì đủ biết truyện đời Hồng Bàng không chắc là truyện xác thực.


    Truyện Cổ Tích Về Đời Hồng Bàng.

    Sử chép rằng đời Hùng Vương thứ nhất, người nước Văn Lang làm nghề chài lưới, cứ hay bị giống thuồng luồng làm hại, vua mới bắt dân lấy chàm vẽ mình để những giống ấy tưởng là đồng loại không làm hại nữa5. Sử lại chép rằng thuyền của ta ở đằng mũi thường hay làm hai con mắt, cũng có ý để cho các thứ thủy quái ở sông ở bể không quấy nhiễu đến.

    Trong đời Hùng Vương lại có hai truyện mà ngày nay người ta thường hay nói đến, là truyện Phù Đổng Thiên Vương và truyện Sơn Tinh Thủy Tinh.


    Truyện Phù Đổng Thiên Vương:

    Đời vua Hùng Vương thứ 6 có đám giặc gọi là giặc Ân, hung mạnh lắm, không ai đánh nổi. Vua mới sai sứ đi rao trong nước để tìm người tài giỏi ra đánh giặc giúp nước. Bấy giờ ở làng Phù Đỗng, bộ Võ Ninh (nay là huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh), có đứa trẻ xin đi đánh giặc giúp vua. Sứ giả về tâu vua, vua lấy làm lạ, cho đòi vào chầu. Đứa trẻ ấy xin đúc cho một con ngựa và cái roi bằng sắt. Khi ngựa và roi đúc xong thì đứa trẻ ấy vươn vai một cái, tự nhiên người cao lớn lên một trượng, rồi nhảy lên ngựa cầm roi đi đánh giặc.
    Phá được giặc Ân rồi, người ấy đi đến núi Sóc Sơn thì biến đi mất. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng, về sau phong là Phù Đổng Thiên Vương6.

    Truyện này là truyện tục truyền như vậy, chứ không có lẽ tin làm sự thực được. Họa chăng đời bấy giờ có người tướng giỏi, đánh được giặc, về sau người ta nhớ ơn làm đền thờ thì hợp lẽ hơn. Hiện bây giờ có đền thờ ở làng Gióng tức làng Phù Đổng. Năm nào đến mồng tám tháng tư cũng có hội vui lắm, tục gọi là đức Thánh Gióng.


    Truyện Sơn Tinh Thủy Tinh:

    Tục truyền rằng vua Hùng Vương thứ 18 có người con gái tên là Mỵ Nương, nhan sắc tuyệt trần. Sơn Tinh và Thủy Tinh đều muốn hỏi làm vợ. Hùng Vương hẹn rằng ngày hôm sau ai đem đồ lễ đến trước thì gả cho người ấy. Ngày hôm sau Sơn Tinh đến trước lấy được Mỵ Nương đem về núi Tản Viên (tức là núi Ba Vì ở tỉnh Sơn Tây).
    Thủy Tinh đến sau, thấy Sơn Tinh lấy mất Mỵ Nương, tức giận vô cùng, mới làm ra mưa to gió lớn, rồi dâng nước lên đánh Sơn Tinh, Sơn Tinh ở trên núi không việc gì: hễ nước lên cao bao nhiêu, thì Sơn Tinh làm núi cao lên bấy nhiêu. Sơn Tinh lại dùng sấm sét đánh xuống, Thủy Tinh phải rút nước chạy về. Từ đó Sơn Tinh và Thủy Tinh thù nhau, mỗi năm đánh nhau một lần, dân gian thật là cực khổ.

    Truyện này là nhân vì ở Bắc Việt năm nào đến tháng 6, tháng 7 cũng có nước lũ ở trên mạn ngược chảy xuống tràn vào trong đồng áng, ngập mất cả ruộng đất. Người ta không hiểu là tại lẽ gì, mới tưởng tượng mà đặt ra câu chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh đánh nhau vậy.

    Tóm lại mà xét, nước ta khởi đầu có quốc sử từ cuối thập tam thế kỷ: đến đời vua Thánh Tông nhà Trần, mới có quan Hàn Lâm Học Sĩ là Lê Văn Hưu, soạn xong bộ Đại Việt Sử Ký, chép từ Triệu Võ Vương đến Lý Chiêu Hoàng. Hai trăm rưỡi năm về sau lại có ông Ngô Sĩ Liên, làm quan Lễ Bộ Tả Thị Lang đời vua Thánh Tông nhà Lê, soạn lại bộ Đại Việt Sử Ký: chép từ họ Hồng Bàng đến vua Lê Thái Tổ. Nghĩa là từ ông Ngô Sĩ Liên, ở về thập ngũ thế kỷ trở đi, thì sử ta mới chép truyện về đời thượng cổ. Xem thế thì đủ biết những truyện về đời ấy khó lòng mà đích xác được. Chẳng qua nhà làm sử cũng nhặt nhạnh những truyện hoang đường tục truyền lại, cho nên những truyện ấy toàn là truyện có thần tiên quỷ quái, trái với lẽ tự nhiên cả.

    Nhưng ta phải hiểu rằng nước nào cũng vậy, lúc ban đầu mờ mịt, ai cũng muốn tìm cái gốc tích của mình ở chỗ thần tiên để cho vẻ vang cái chủng loại của mình. Chắc cũng bởi lẽ ấy mà sử ta chép rằng họ Hồng Bàng là con tiên cháu rồng, v.v....

    Nay ta theo sử cũ mà chép mọi truyện, người xem sử nên phân biệt truyện nào là truyện thực, truyện nào là truyện đặt ra, thì sự học mới có lợi vậy.
  2. LegiS

    LegiS Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2004
    Bài viết:
    401
    Đã được thích:
    0
    Đại Việt Sử ký Toàn Thư
    (Bản in Nội Các Quan Bản
    Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697))

    Đ ạ i V i ệ t S ử Ký Ngoạ i K ỷ Toàn Thư - Quyển một
    Lạc Long Quân [2a]
    Tên húy là Sùng Lãm, con của Kinh Dương Vương.
    Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm trứng), là tổ của Bách Việt. Một hôm, vua bảo Âu Cơ rằng: "Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền Nam (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.
    Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Khi trời đất mới mở mang, có thứ do khí hóa ra, đó là Bàn Cổ thị. Có khí hóa ra rồi sau có hình hóa, không thứ gì ngoài hai khí âm dương cả.
    Kinh Dịch nói: "Trời đất nung ủ, vạn vật thuần hóa, đực cái hợp tinh, vạn vật hóa sinh"(1).
    Cho nên có vợ chồng rồi sau mới có cha con, có cha con rồi sau mới có vua tôi. [2b]
    Nhưng thánh hiền sinh ra, tất có khác thường, đó là do mệnh trời. Nuốt trứng chim huyền điểu mà sinh ra nhà Thương (2), giẫm vết chân người khổng lồ mà dấy nhà Chu (3), đều là ghi sự thực như thế. Con cháu Thần Nông thị là Đế Minh lấy con gái Vụ Tiên mà sinh Kinh Dương Vương, tức là thủy tổ của Bách Việt. Vương lấy con gái Thần Long sinh ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai mà có phúc lành sinh trăm con trai.
    Đó chẳng phải là cái đã gây nên cơ nghiệp của nước Việt ta hay sao? Xét sách Thông Giám Ngoại kỷ (4)4 nói: Đế Lai là con Đế Nghi; cứ theo sự ghi chép ấy thì Kinh Dương Vương là em ruột Đế Nghi, thế mà kết hôn với nhau, có lẽ vì đời ấy còn hoang sơ, lễ nhạc chưa đặt mà như thế chăng?

    Hùng Vương [3a]
    Con Lạc Long Quân (không rõ tên húy)(5), đóng đô ở Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc)(6). Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang (nước này đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam), chia nước làm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức; đều là đất thần thuộc của Hùng Vương; còn bộ gọi là Văn Lang là nơi vua đóng đô1. Đặt tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng (chữ Lạc Tướng, sau chép sai là Hùng Tướng2). Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mị Nương. Quan coi việc gọi là Bồ Chính, đời đời cha truyền con nối, gọi là phụ đạo. Vua các đời đều gọi là Hùng Vương. Bấy giờ dân ở rừng núi thấy ở sông ngòi khe suối đều có tôm cá, nên rủ nhau đi bắt cá để ăn, thường bị thuồng luồng làm hại, [3b] đến thưa với vua. Vua nói: "Người man ở núi khác với các loài thủy tộc; các thủy tộc ấy ưa cùng loài mà ghét khác loài, cho nên mới bị chúng làm hại. Rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái ở mình. Từ đấy thuồng luồng trông thấy không cắn hại nữa.
    Tục vẽ mình của người Bách Việt có lẽ bắt đầu từ đấy.
    Đời Hùng Vương thứ 6, ở hương Phù Đổng, bộ Vũ Ninh có người nhà giàu, sinh một con trai, đến năm hơn ba tuổi ăn uống béo lớn nhưng không biết nói cười. Gặp lúc trong nước có tin nguy cấp, vua sai người đi tìm người có thể đánh lui được giặc. Ngày hôm ấy, đứa trẻ bỗng nói được, bảo mẹ ra mời thiên sứ vào, nói: "Xin cho một thanh gươm, một con ngựa, vua không phải lo gì". Vua ban cho gươm và ngựa, đứa trẻ liền phi ngựa vung gươm tiến lên trước, quan quân theo sau, đánh tan quân giặc ở chân núi Vũ Ninh3. Quân giặc tự quay giáo đánh lẫn nhau, chết rất nhiều, bọn sống sót đều rạp lạy, tôn gọi đứa trẻ ấy là thiên tướng, liền đến xin hàng cả. Đứa trẻ phi ngựa [4a] lên trời mà đi. Vua sai sửa sang chỗ vường nhà của đứa trẻ để lập đền thờ, tuế thời cúng tế. Về sau, Lý Thái Tổ phong là Xung Thiên Thần Vương. (Đền thờ ở cạnh chùa Kiến Sơ, hương Phù Đổng).
    Thời Thành Vương nhà Chu [1063-1026 TCN], nước Việt ta lần đầu sang thăm nhà Chu (không rõ vào đời Hùng Vương thứ mấy), xưng là Việt Thường thị, hiến chim trĩ trắng. Chu Công nói: "Chính lệnh không ban đến thì người quân tử không coi người ta là bề tôi của mình", rồi sai làm xe chỉ nam đưa sứ giả về nước.
    Cuối thời Hùng Vương, vua có con ******* là Mị Nương, nhan sắc xinh đẹp. Thục Vương nghe tiếng, đến cầu hôn. Vua muốn gả, nhưng Hùng hầu can rằng: "Họ muốn chiếm nước ta, chỉ lấy việc hôn nhân làm cớ mà thôi". Thục Vương vì chuyện ấy để bụng oán giận. Vua muốn tìm người xứng đáng để gả, bảo các bề tôi rằng: "Đứa con gái này là giống tiên, người nào có đủ tài đức mới cho làm rể". Bấy giờ có hai người từ ngoài đến, lạy dưới sân để cầu hôn. Vua lấy làm lạ, hỏi thì họ thưa rằng một người là [4b] Sơn Tinh, một người là Thủy Tinh, đều ở trong cõi cả, nghe nhà vua có thánh nữ, đánh bạo đến xin lĩnh mệnh. Vua nói: "Ta có một người con gái, lẽ nào lại được cả hai rể hiền?". Bèn hẹn đến ngày hôm sau, ai đem đủ sính lễ đến trước thì gả cho người ấy. Hai người vâng lời, lạy tạ ra về. Hôm sau, Sơn Tinh đem các đồ châu báu vàng bạc, chim núi thú rừng đến dâng. Vua y hẹn gả con cho. Sơn Tinh đón vợ về ở ngọn núi cao trên núi Tản Viên. Thủy Tinh cũng đem sính lễ đến sau, giận tiếc là không kịp, bèn kéo mây làm mưa, dâng nước tràn ngập, đem các loài thủy tộc đuổi theo. Vua cùng Sơn Tinh lấy lưới sắt chăng ngang thượng lưu sông Từ Liêm (4) để chặn lại. Thủy Tinh theo sông khác, từ Ly Nhân vào chân núi Quảng Oai (5) rồi theo dọc bờ lên cửa sông Hát, ra sông lớn (6) mà rẽ vào sông Đà để đánh Tản Viên, nơi nơi đào sâu thành vực thành chằm, chứa nước để mưu đánh úp. Sơn Tinh có phép thần biến hóa, gọi [5a](7) người man đan tre làm rào chắn nước, lấy nỏ bắn xuống, các loài có vẩy và có vỏ trúng tên đều chạy trốn cả. Rốt cuộc Thủy Tinh không thể xâm phạm được núi Tản Viên. (Tục truyền Sơn Tinh và Thủy Tinh từ đấy về sau đời đời thù oán, mỗi năm mùa nước to thường vẫn đánh nhau).
    Núi Tản Viên là dãy núi cao của nước Việt ta, sự linh thiêng rất ứng nghiệm. Mị Nương đã lấy Sơn Tinh, Thục Vương tức giận, dặn lại con cháu phải diệt Văn Lang mà chiếm lấy nước. Đến đời cháu là Thục Phán có dũng lược, bèn đánh lấy nước.
    Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thời Hùng Vương đặt chư hầu để làm phên giậu, chia nước làm 15 bộ. Ở 15 bộ ấy đều có trưởng và tá. Vua theo thứ bậc cắt đặt các con thứ để cai trị. Nói 50 con theo mẹ về núi, làm sao biết không phải là như thế? Vì mẹ làm
    quân trưởng, các con đều làm chúa một phương. Cứ xem như tù trưởng người man ngày nay xưng là nam phụ đạo, [5b] nữ phụ đạo (nay bản triều đổi chữ phụ đạo ___ ___ thành chữ phụ đạo ___ ___ thì có lẽ đúng như thế). Còn như việc Sơn Tinh, Thủy Tinh thì rất là quái đản, tin sách chẳng bằng không có sách, hãy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi).

    Trở lên là [kỷ] Hồng Bàng thị, từ Kinh Dương Vương được phong năm Nhâm Tuất, cùng thời với Đế Nghi, truyền đến cuối thời vua Hùng Vương, ngang với đời Noãn Vương nhà Chu năm thứ 57 [258 TCN] là năm Quý Mão thì hết, tất cả 2.622 năm [2879 - 258 TCN].
    ---------------------------------------------
    1 Kinh Dịch: Hệ từ.
    2 Truyền thuyết Trung Quốc nói là bà Giản Địch (vợ thứ Đế Cốc) nuốt trứng chim huyền điểu, có mang, sinh ra ông Tiết, tổ của nhà
    Ân - Thương.
    3 Bà Khương Nguyên giẫm vết chân người khổng lồ, sinh ra ông Khi, tức Hậu Tắc, tổ nhà Chu.
    4 Thông giám ngoại kỷ: tức phần Ngoại Kỷ của sách Tư Trị Thông Giám (294 quyển) do Tư Mã Quang đời Tống soạn.
    5 Nguyên bản in nhỏ hai chữ "khuyết húy", dễ nhận lầm là khuyết húy của Lạc Long Quân. Nhưng ở trên đã nói Lạc Long Quân húy
    Sùng Lãm. Ở đây nói khuyết húy của Hùng Vương.
    6 Huyện Bạch Hạc thời Lê là một phần đất huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú ngày nay.
    ---------------------------------------------------
    1 Việt Sử Lược chép nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc, trong đó có 10 bộ lạc giống tên như Toàn thư ghi trên đây (Giao Chỉ, Vũ Ninh,
    Việt Thường, Ninh Hải, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Cửu Đức, Văn Lang), và 5 bộ lạc với tên khác (Quân Ninh, Gia
    Ninh, Thang Tuyền, Tân Xương, Nhật Nam). Lĩnh Nam Chích Quái cũng chép đủ tên 15 bộ, nhưng trong các bản hiện còn, tên
    các bộ ấy có nhiều sai khác chênh lệch. Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi chép đúng tên các bộ như Toàn Thư đã ghi trên đây, nhưng
    không có tên bộ Văn Lang.
    2 Chữ "Hùng" và chữ "Lạc" chỉ khác nhau về phía bên trái, dễ đọc và chép lầm.
    3 Lĩnh Nam Chích Quái chép Phù Đổng Thiên Vương đánh giặc Ân dưới núi Trâu Sơn, Sách Việt Sử Tổng Vịnh chú rằng núi Vũ Ninh
    thuộc huyện Quế Dương (nay thuộc đất Quế Võ, tỉnh Hà Bắc).
    4 Sông Từ Liêm: chỉ khúc sông Hồng chảy qua Chèm, Hà Nội.
    5 Tức là sông Đáy.
    6 Tức là sông Hồng.
    7 Nguyên bả n mất tờ in 5a - b, được thay thế bằng tờ chép tay.
  3. chungtm2000

    chungtm2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/01/2004
    Bài viết:
    487
    Đã được thích:
    0

    Đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Phong Châu (Phú thọ) là quần thể di tích lịch sử quốc gia, ghi dấu tích các vua Hùng buổi ban đầu dựng nước, gắn với những huyền thoại được lưu truyền qua bao thế hệ, trở thành niềm tự hào của dân tộc ta.
    Đây là khu đền được tạo lập từ xa xưa và qua nhiều lần sửa sang, tu bổ, trong ngọc phả viết năm Thiên Phúc nguyên niên đời vua Lê Đại Hành (980) ghi rõ có đền Thượng, đền Trung, đền Hạ và chùa. Các triều đại phong kiến Việt Nam đều công nhận khu Đền Hùng là "Nam Việt Triệu Tổ" và dành ruộng giao dân sở tại cày cấy lấy hoa lợi tế lễ.
    Địa thế núi Nghĩa Lĩnh thật đắc dụng, có thể quan sát được cả một vùng đất trung du rộng lớn chuyển tiếp giữa rừng núi và đồng bằng. Phía trước là ngã ba Việt Trì, có hàng chục quả đồi thấp hình đàn rùa bò. Làng Hy Cương (Tiên Kiên) ở phía sau mang hình con phượng cập thư. Phía phải có đồi Khang Phụ (Chu Hóa) tựa như vị tướng quân bắn nỏ. Làng Cổ Tích bên chân núi tọa lạc trên lưng một tuấn mã. Dãy đồi từ Phú Lộc đến Thậm Thình được xem là 99 con voi chầu về đất Tổ. Xa xa phía Tây, dòng sông Thao nước đỏ và phía đông là sông Lô xanh trong.
    Đền Hùng hiện còn một số kiến trúc cổ thời hậu Lê là gác chuông, tam quan, đền Hạ. Với tấm lòng tôn kính các Vua Hùng, nhiều địa phương như TPHCM, các tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Lâm Đồng, Minh Hải... đều có đền thờ. Riêng ở Phú Thọ và Vĩnh Phúc có hơn 600 nơi thờ các vua Hùng cùng gia quyến và các tướng lĩnh. Đặc biệt, Việt Kiều về nước đã xin đất và chân hương ở Đền Thượng, lập bài vị các Vua Hùng đưa sang thờ tại Pari (Pháp) và bang California (Mỹ). Thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng, thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của người Việt Nam. Trước kia, lễ hội Đền Hùng định lệ cứ năm chẵn, có quan triều đình và quan hàng tỉnh về cúng tế. Những năm khác thì do dân "Trưởng tạo lệ" gồm hai làng Hy Cương và Vy Cương sắm lễ cúng Tổ. Năm hội chính, treo cờ thần, 40 làng chung quanh đền rước kiệu tới chầu. Mỗi làng rước ba kiệu: một kiệu trầu cau, hoa quả, rượu hương nến; một kiệu nhang án và một kiệu bánh chưng, bánh dày, có chấm giải và trao thưởng. Những nghi thức hành lễ rất trang trọng và tôn nghiêm. Nhiều trò chơi dân gian và nghệ thuật diễn xướng như hát xoan, hát chèo, hát tuồng diễn ra, thu hút đông đảo công chúng tham dự.
    Hội đủ thế đất "sơn chầu, thủy tụ", dồi dào "khí thiêng sông núi", Đền Hùng chứa đựng những sự tích thần kỳ của nước Văn Lang cổ đại, và là nơi thể hiện tấm lòng gắn bó và thành kính nhớ ơn những bậc tiền nhân của người Việt. Trong dịp kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Đảng 3.2 đầu xuân Canh Thìn 2000, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, ************* Trần Đức Lương đã tới dâng hương, trồng cây tại Đền Hùng và làm việc với Đảng bộ, chính quyền tỉnh Phú Thọ. Vinh dự được sống ở vùng đất Tổ, cán bộ, nhân dân Phú Thọ cố gắng làm tròn phận sự giữ gìn Đền Hùng và tha thiết nghị hai vấn đề chủ yếu. Thứ nhất, ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam phát động phong trào "Cả nước hướng về Đền Hùng" nhằm thu hút sự hỗ trợ của các tỉnh, thành phố, các doanh nghiệp, các cá nhân trong nước và kiều bào ở nước ngoài đầu tư, tu bổ quần thể di tích lịch sử Đền Hùng, xây dựng khu trung tâm lễ hội và làng văn hóa thời HùngVương. Thứ hai, Quốc hội và Chính phủ xem xét, quyết định ngày Giỗ Tổ Hùng Vương mồng 10 tháng ba lịch âm hằng năm là ngày quốc lễ.
    Trong quá trình giao lưu, vùng văn hóa đất Tổ và các vùng văn hóa ở mọi miền đất nước sẽ phong phú thêm, và hình thành rõ nét bản sắc văn hóa dân tộc.
    Nguồn tin: Bộ Văn Hóa Thông Tin

  4. Micro_star2004

    Micro_star2004 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/12/2003
    Bài viết:
    1.446
    Đã được thích:
    0
    Nguồn tin từ: VietShare
    Phú Thọ là tỉnh thuộc miền núi trung du Bắc Bộ. Phía bắc giáp Tuyên Quang và Yên Bái; phía đông giáp Vĩnh Phúc; phía đông nam giáp Hà Tây; phía tây giáp Sơn La; phía nam giáp Hòa Bình. Phú Thọ cách Hà Nội 80 km. Giao thông bằng đường bộ, đường sắt và đường thủy đều thuận lợi. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23,4° C.

    Tỉnh Phú Thọ có hình thể rất hiểm trở với hai dãy núi chính phân cách Hồng Hà và hai chi lưu sông Chảy và sông Hà. Dãy Tam Đảo gồm những ngọn núi cao từ 800 đến 1.000 m (3,000 ft), chia đôi lưu vực sông Hồng và sông Đà. Dãy Ba Vì gồm những đồi phiến nham, sa thạch và đá vôi nằm giữa sông Hồng và sông Chảy. Việt Trì là nơi tiếp hợp của hai rặng núi này, tạo nên một thứ đập thiên nhiên của sông Hồng từ thời kỳ địa chất thứ ba.
    Hệ thống sông ngòi Phú Thọ gồm sông Hồng (dân chúng thường gọi khúc sông Hồng chảy qua tỉnh là sông Thao) và hai chi lưu là sông Lô và sông Đà. Ba sông chính này có nhiều nhánh nhỏ chảy qua các thung lũng, cạn nước vào mùa khô nhưng chảy xiết vào mùa lũ.
    Chi lưu sông Hồng phía hữu ngạn gồm: sông Bứa từ xứ Mường qua Đồn Vang đến Tứ Mỹ, sông Ngòi Gianh từ núi Đại Thân chảy về Tăng Xá, sông Ngòi Lao chạy từ Nghĩa Lộ đến Bằng Dã. Sông Lô có chi lưu là sông Chảy phát nguyên từ Hoàng Tu Phó chảy qua huyện Lục An, Phủ Yên Bình rồi nhập vào sông Lô ở phủ Đoan Hùng. Sông Đà chảy qua một vùng dày đặc cây cối, bóng cây tỏa xuống che khuất mặt trời nên có thêm tên là Hắc Giang, giòng sông thường thay đổi luôn, nước sông mang đầy phù sa, chảy qua xứ Mường vòng quanh núi Ba Vì và đổ vào Hồng Hà ở Trọng Hạ.
  5. chungtm2000

    chungtm2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/01/2004
    Bài viết:
    487
    Đã được thích:
    0
    Đền Hùng - tỉnh Phú Thọ​
    Đền dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, giữa đất Phong Châu, ngày nay là xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
    Phong Châu là đế đô của nước Văn Lang, từ năm 40.000 năm trước. Đấy là đất tổ của dân tộc Việt Nam.
    Tương truyền, xa xưa, các vua Hùng lựa chọn nhiều nơi, cuối cùng mới tìm được thánh địa này để đóng đô. Nơi này ở phía trước có sông tụ hội, hai bên có núi chầu hầu. Bãi sông tiện lợi cho sinh hoạt nhân dân. Đất đai màu mỡ thích hợp việc cày cấy, trồng trọt. Đất gò đồi cao thuận lợi việc lập ấp mở làng.
    Ngày nay, những dấu tích phát hiện được trong các đợt khai quật khảo cổ ở Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Làng Cả... cho thấy quanh vùng đất Phong Châu đều có tính chất tiêu biểu. Điều này chứng minh rằng đây là địa bàn sinh tụ của người Việt cổ thời Hùng Vương. Cuộc sống vật chất và tinh thần của con người ở đây đã đạt tới đỉnh cao văn minh lúc bấy giờ.
    Theo sử cũ, sau khi định đô ở Phong Châu, các vua Hùng đã chọn núi Nghĩa Lĩnh làm nơi tế trời đất, chủ thần và tiên tổ. Với những cái tên được gọi qua nhiều thời điểm khác nhau như là: Hy Chương, Nghĩa Cương, Hùng Lĩnh, núi Hùng, núi Nghĩa Linh cao 175m, nằm trên địa phận thôn Cổ Tích. Cây cối ở đây um tùm, xung quanh là gò đồi nhấp nhô trùng điệp.
    Tương truyền có tất cả 99 ngọn đồi vốn là 99 con voi có nghĩa phủ phục chầu núi Tổ, riêng có 1 con bất nghĩa, quay ngược lại bị chém đầu. Vì vậy, vùng này có một quả đồi có vết xẻ thành khe.
    Du khách đi đến đền Hùng, từ Hà Nội qua Cổ Loa, Đông Anh, khu công nghiệp Việt Trì, khu mộ cổ Làng Cả, cầu Bạch Hạc là nhìn thấy núi Hùng, núi Trọc, núi Văn in hình trên nền trời. Sau đó, tới Ngã Ba Đền Hùng, du khách rời đường lớn, rẽ vào con đường đất đỏ như xẻ qua đồi, dưới rừng cây tỏa rợp bóng mát. Cổng đền Hùng hiện ra ở chân núi phía Tây, bên những gốc thông đại thụ cao vút.
    Cổng xây theo kiểu tam quan, hai tầng, góc mái uốn cong. Bờ nóc có "lưỡng long chầu nhật". Cửa chính giữa cao rộng. Cách hai tường ngắn là hai cột trụ, đỉnh có đắp đèn ***g, con nghê. Phía trên cửa chính có 4 đại tự "CAO SƠN CẢNH HÀNG" có nghĩa là "NÚI CAO ĐƯỜNG LỚN".
    Vào cảnh du khách phải trèo lên 255 bậc đá để đến Đền Hạ. Theo truyền thuyết, ở đây bà Âu Cơ đẻ bọc trăm trứng, nở thành trăm người con: 50 theo cha là Lạc Long quân xuôi về miền biển, 49 người theo mẹ lên núi, để lại 1 người làm vua nước Văn Lang. Đấy là vua Hùng thứ nhất.
    Trong khu vực đền Hạ có chùa Thiên Quang. Trước cửa chùa là cây thiên tuế sống được 700 năm. Tại nơi này, vào ngày 19 tháng 8 năm 1954, bác Hồ nói chuyện với cán bộ và chiến sĩ sư đoàn 308 có nhiệm vụ tiếp quản thủ đô Hà Nội. Bác dặn: "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta hãy cùng nhau giữ nước"
    Từ Đền Hạ, qua nhà đặt bia xinh xắn, bên gốc đại thụ, đi xuống chân núi ở mặt Đông Nam khoảng vài chục bậc đá, du khách đến được Đền Giếng. Đây là nơi thờ hai vị công chúa là Tiên Dung và Ngọc Hoa, con gái vua Hùng thứ 18.
    Trong đền có Giếng Ngọc. Tương truyền, hồi chưa hạ giá, hai công chúa vẫn còn ra đây soi bóng chải tóc. Bây giờ du khách hãy trở lại Đền Hạ, leo 168 bậc lên Đền Trung. Tương truyền đây là nơi các vua Hùng thường đến họp bàn việc nước với quần thần. Tiếp tục lên 102 bậc đá nữa, du khách đến được Đền Thượng, nơi các vua Hùng làm lễ tế Trời Đất. Thần Núi và Thần Lúa.
    Đền có bức hoành phi lớn đề 4 đại tự "NAM QUỐC SƠN HÀ". Trước đền Thượng có một cột đá lớn, dựng trên bệ cao, khói hương ám đen kịt, được gọi là đá thề. Tương truyền đây là nơi vua Thục Phán đã nguyện xin đời đời tế tự các vua Hùng và giữ gìn cơ nghiệp họ Hùng truyền lại.
    Phía bên đền Thượng, thấp hơn vài chục bậc lăng là vua Hùng, tượng trưng cho mộ tổ xây dựng vào đầu thế kỷ 20, kiến trúc giản dị đơn sơ. Toàn bộ khu di tích hiện nay bao gồm 4 đền 1 chùa, 1 lăng, đều được trùng tu hoặc xây thêm cách nay vào khoảng trăm năm.
    Gần đây, những cuộc nghiên cứu khảo sát trên núi Hùng, nhiều di vật của kiến trúc cổ thời Lý Trần trở về trước như gạch ngói cổ, tháp đất nung, cột đá... Ngay cái cột đá được gọi là "đá thề" cũng là cột đền chùa miếu mạo vì trên thân cột còn thấy có lỗ đục để lắp xà..
    Theo lời kể của các cụ già ở địa phương đền Trung có sớm nhất, do thôn Trẹo (tên nôm của làng Triệu Phú, có đông người họ Trẹo, nay đổi thành Triệu) xây dựng từ thời xa xưa để thờ các vua Hùng. Sau làng Trẹo đông dần, chia thành ba làng là: Triệu Phú, Cổ Tích, Vi Cương. Hai làng mới cũng lập đền thờ trên núi. Làng Cổ Tích dựng đền Thượng. Làng Vi Cương dựng đền Hạ. Triệu Phú là làng gốc vẫn trông nom thờ cúng đền Trung như cũ.
    Ba bài vị thờ các thần núi có tên nôm na là núi Cả, núi Vặn, núi Trọc và tên chữ Hán là "Đột Ngột Cao Sơn", "Ất Sơn" (núi gần), "Viễn Sơn" (núi xa) đặt trong các đền. Vỏ trấu lớn bằng đá, về sau làm lại bằng gỗ thờ ở đền Thượng. Tảng đá "cối xay" đường kính trên 2m ở trên núi Trọc được chú ý bảo tồn. Những mảnh đá lớn kê hai bên bệ thờ ở đền Hạ là những dấu tích gợi nhớ những nghi thức thờ cùng nguyên thủy của cư dân thời Hùng Vương.
    Quanh đền Hùng, một loại tên đất, tên xóm làng, còn vang vọng một thời! Xã Thậm Thình là nơi xã giã gạo cho vua. Kẻ Sủ, nơi làm việc cho các quan. Kẻ Đọi là chỗ rèn luyện quân sĩ. Kẻ Gát, nơi vua dựng lầu kén rể, v.v...
    Khu vực Đền Hùng được bảo vệ, tôn tạo khá chu đáo. Đường đi được làm thêm vào thời gian gần đây; bậc đá lên đền được sửa lại; cây được trồng thêm. Ngoài ra, còn xây thêm khu công quán, đào hồ chứa nước Lạc Long Quân...
    Đứng trên núi Nghĩa Lĩnh nhìn xuống, du khách thấy phía xa xa là Ngã Ba Hạc, nơi sông Lô nhập dòng với sông Hồng. Xưa kia, mênh mông như biển cả. Phía bên trái là dãy Tam Đảo hùng vĩ. Phía bên phải là ngọn Ba Vì mờ mờ xanh ẩn hiện... Đồng ruộng, đồi cọ, vườn chè, làng xóm trù phú, cảnh đẹp như tranh, vùng trung du trải rộng ra trước mắt. Đây đó rải rác những đầm hồ lớn lấp loáng như gương dưới ánh xuân.
    nguồn tin: sưu tầm
  6. ThanhGiongOnline

    ThanhGiongOnline Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2004
    Bài viết:
    47
    Đã được thích:
    0
    Tìm về đền Mẫu Âu cơ
    Đền nằm giữa một cánh đồng lúa bên dòng sông Thao thuộc xã Hiền Lương, huyện Hạ Hoà (Phú Thọ). Tương truyền trong số 50 người con theo mẹ Âu Cơ lên núi, người con cả dừng ở đất Phong Châu dựng kinh đô Văn Lang cai quản đất nước truyền ngôi được 18 đời, gọi là các vua Hùng. 49 người con theo mẹ tiếp tục ngược thượng nguồn sông Thao, đến vùng Hiền Lương thấy sơn thuỷ hữu tình, đất đai tươi tốt bèn hạ trại khai hoang lập ấp, dạy cho dân làng nghề trồng lúa, nuôi tằm? Làng xóm từ đó ngày một trù phú, cư dân ngày càng đông đúc. Thấy muôn dân đã thạo nghề cày cấy, một ngày kia mẹ Âu Cơ cùng các tiên nữ bay về trời, vương lại một tấm lụa đào bên gốc đa giữa cánh đồng. Dân làng lập đền thờ tại đó để thờ mẹ, hàng năm mở hội đền vào mùng 7 tháng Giêng là ngày "Tiên giáng"?
    Trong lịch sử tồn tại mấy ngàn năm, đền thờ Mẫu Âu Cơ đã ba lần được các triều đại nhà nước Việt Nam sắc phong. Lần thứ nhất dưới triều vua Lê Thánh Tông (1428-1527), nhà vua đã sai giám quốc sư lên Hạ Hoà phong thần và cấp tiền cho nhân dân tôn tạo đền Mẫu Âu Cơ. Dưới triều Nguyễn, năm 1874 vua Tự Đức sắc phong là đền thờ Quốc Mẫu. Ngày 3-8-1991 đền Mẫu Âu Cơ được Bộ VH-TT cấp bằng công nhận di tích lịch sử quốc gia.
    Trải bao biến thiên của lịch sử, ngôi đền đã được trùng tu tôn tạo nhiều lần. Lần trùng tu gần đây nhất vào năm 1991. Đền có năm gian hình chữ nhất (-), cột gỗ lom, mái lợp ngói vẩy. Cây đa cổ thụ sau đền cành lá xum xuê gần như bao phủ kín ngôi đền bé nhỏ. Pho tượng Quốc mẫu Âu Cơ cao 0,93m đặt trên ngai vị, hai tay đặt trên đầu gối, chân đi hài cong, đầu đội mũ lấp lánh kim cương, dáng hình hiền hậu và thanh tú. Toàn bộ tượng và ngai được đặt trong một khám cao 1,82m, xung quanh trạm trổ tùng, cúc, mai và rồng chầu mặt nguyệt. Các thành phần khác bằng gỗ trong đền đều được chạm trổ cầu kỳ và sơn son thếp vàng?
    Lễ chính đền Mẫu Âu Cơ vào ngày 7-1, kéo dài trong ba ngày, sau khi tế nữ xong mới đến lễ Mẫu dâng hương sớ. Trong dịp này trước sân đền và tại đình làng có nhiều trò chơi dân gian địa phương như: cướp cờ, đánh phết, hát ghẹo, hát xoan? Đặc biệt có tục làm bánh vôi từ bột gạo nếp và nước mía là đặc sản ngon nổi tiếng của vùng Hạ Hoà. Nhân dân địa phương ai cũng thuộc câu ca truyền tụng nhiều đời:
    Mùng bảy đang tiết tháng Giêng
    Dân hiền tế lễ trống chiêng vang trời
    Anh em Bách Việt ta ơi!
    Ngày xuân thong thả tới nơi xem tường
    Đây ngày hội tế Mẫu vương
    Người sinh ra Tổ Hùng Vương nước nhà?
    Đền Mẫu Âu Cơ nằm trong một quần thể có nhiều di tích lịch sử và công trình văn hóa. Cách đền 500m về phía Đông có đình thờ Đức Ông Đột Ngột Cao Sơn - Thánh Vương Nam Việt và hai tướng quân nổi tiếng của vua Hùng là Hùng Trấn Quý Minh và Hùng Trấn Bảo Quốc. Cách đó không xa về phía Tây là chùa Linh Phúc có quả chuông đồng đề bốn chữ lớn "Linh Phúc tự chung" và 20 pho tượng cổ. Vùng đất Hiền Lương còn có nhiều di tích khảo cổ thuộc nền văn hoá Sơn Vi như: Động Lâm, Ấm Thượng, Lang Sơn? Đặc biệt, Hiền Lương - Hạ Hoà là chiến khu văn hoá trong kháng chiến chống Pháp với di tích đền Cả, nơi ra đời Hội Nhà văn Việt Nam và trụ sở của nhiều cơ quan văn hoá nghệ thuật thời đó. Chiến khu Ngòi Vần - Hiền Lương vừa là một di tích cách mạng, vừa là một khu du lịch sinh thái rất lý tưởng. Tiếc là do đường sá cách trở nên thông thường du khách hành hương về Phú Thọ chỉ dừng chân ở khu vực đền Hùng ở Phong Châu?
    (Theo TBDL, saigonnet)
  7. ThanhGiongOnline

    ThanhGiongOnline Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2004
    Bài viết:
    47
    Đã được thích:
    0
    Hang Lạng ở Xuân Sơn
    Xuân Sơn (thuộc huyện Thanh Sơn, Phú Thọ) là một địa điểm có nhiều tiềm năng du lịch của đất Tổ Phú Thọ. Ðến với Xuân Sơn, du khách không thể không đến hang Lạng, một kỳ tích thiên nhiên làm say đắm lòng người.
    Hang Lạng ăn sâu trong lòng núi Ten, cửa vào hang nhìn thẳng ra cánh đồng Mường Lạng. Hang Lạng là hang lớn nhất, dài nhất trong số hang động thạch nhũ ở Xuân Sơn. Vòm hang Lạng có chỗ cao đến mười lăm, hai mươi mét và chiều rộng cũng cỡ khoảng như vậy. Hang chạy dài, dọc dãy núi đá vôi. Người ta thả quả bưởi có đánh dấu vào hang lúc sáng thì chiều tối đã thấy nó ở suối Lấp, cùng dãy núi nhưng cách chỗ thả chừng khoảng 20km.
    Chạy dọc đáy hang là một con suối lớn. Những chỗ hang phình ra, nền hang trải đều một lớp đá củ đậu, cát vàng và đất sét. Nhiều chỗ thạch nhũ buông xuống, qua hàng triệu triệu năm đã tạo nên muôn hình ngàn dạng như ngàn vạn tòa thờ Phật, thờ thần. Lại có nhiều trụ cột, được thiên nhiên đắp, vẽ, điểm tô, chống từ đáy hang lên vòm trần như các cột nối từ cõi âm ti lên đỉnh thiên đàng. Các phiến thạch nhũ tạo cho hang động đẹp một cách huyền bí, tâm linh. ở các pho tượng, nhũ đá vừa giống như ma quỷ, vừa như thần linh, nhô lên giữa dòng suối long lanh trong ánh đèn, ánh đuốc. Nhũ đá ở đây không sỉn thành một màu xám như nhiều hang động núi đá vôi, mà sáng trắng và nhiều chỗ lấp lánh muôn hồng ngàn tía rất kỳ lạ.
    Hang Lạng rộng và dài đủ cho hàng ngàn người cùng vào chiêm ngưỡng. Cách cửa hang vài giờ đi bộ, đáy hang trở thành suối sâu đến 2 mét nước. Từ đây, người ta có thể tiếp tục soi đuốc, ngồi mảng để thăm thú về sự kỳ diệu của thiên nhiên, đã tạo dựng nên một kỳ quan để cho con người vui chơi giải trí. Suối nước trong hang có khá nhiều cá măng, cá ngạnh nặng cỡ dăm bảy ký. Loài dơi màu đen đậu nhan nhản trên trần hang.
    Ngày xưa, cứ vào mồng bốn tết hàng năm, sau khi cúng cấm (cúng vị thần hang cho phép vào cửa), người dân Mường Lạng lại đốt đèn đốt đuốc đưa nhau vào sâu trong hang, chọn bãi rộng để ném còn, hát rang, hát ống, đánh trống đá, đàn đá, những "nhạc cụ" do thiên nhiên tạo ra.
    Hang Lạng không những có cảnh đẹp thiên nhiên kỳ bí mà nó còn hấp dẫn du khách bởi những truyền thuyết đầy huyền bí. Từ xa xưa, dân làng Xuân Sơn đã thờ thần hang Lạng. Thần là con rắn hoá thân thành chàng trai tuấn tú vẫn thường đến giúp việc nhà Thổ Lang xóm Lạng. Nhiều hôm chàng giúp nàng Bạch, con gái Thổ Lang cấy lúa trên những thửa ruộng ở đồng Lạng. Chàng nhổ mạ, cấy gặt nhanh hơn hết thảy mọi người. Dần dà, nàng Bạch đem lòng yêu mến chàng. Một hôm, ăn uống xong, chàng lên giường trùm chăn ngủ. Do ngủ say, vô tình cựa quậy chàng để hở ra ngoài chăn nguyên hình hài một con rắn trắng. Quan Thổ Lang xua đuổi con rắn trắng ra khỏi nhà, nhắc nhở con gái tránh bị rắn hóa thành người lừa lọc cám dỗ. Một hôm, nàng dệt vải, con sợi rơi lăn mãi xuống ao sâu. Nàng ra ao vớt con sợi về thì bị ốm chết.
    Quan Thổ Lang biết con gái mình đã bị rắn bắt đi làm vợ. Dân làng phải đem xác nàng Bạch chôn cao trên đỉnh núi Ten để rắn không lấy được xác nàng đi. Nhưng rồi rắn làm mây mưa tầm tã rạch ngang dọc núi Ten thành sông thành suối để chở xác vợ về hang Lạng sống với mình. Từ đấy, người ta phải cúng rắn thần và nàng Bạch, cầu phù hộ cho mưa gió thuận hoà để có nước cày cấy. Hang Lạng được coi là Thủy cung của thần bảo hộ xóm Lạng. Sau này, người ta mới dựng đình Lạng để các ngày lễ có nơi cầu tế thần phù hộ cho dân khang vật thịnh. Rắn và nàng Bạch từ lâu đã là Thành hoàng của người Xuân Sơn. Giống như nhiều làng Việt, Thành hoàng đều có đền, miếu yên tĩnh để nghỉ ngơi. Miếu thờ Thành hoàng cũng có ban thờ để các ngày sóc, vọng, ông từ của các làng người Kinh, ông mo của các làng người Mường thắp hương cúng thần. Hàng năm vào các ngày tiệc lớn, người ta mới rước thần từ miếu ra đình để cầu tế. Làm xong lại rước thần về ngự ở miếu cũ. Hang Lạng cũng như miếu của làng Việt, là nơi thần ở. Thần là loài sống ở dưới nước nên gọi hang Lạng là Thủy cung. Các ngày sóc, vọng (mồng 1, rằm) hàng tháng, ông mo lại vào hang thắp hương cúng thần. Chỉ các ngày tiệc của làng: lễ cầu mùa, lễ mở cửa rừng, ngày kỵ của vợ thần... người ta mới tổ chức tế lễ ở đình Lạng. Lễ cúng thần bao giờ cũng có gạo và trứng. Gạo là sản phẩm của lúa nước, là âm tính thuộc về thế giới của loài rắn sống dưới nước. Còn trứng biểu tượng cho chim ở trên rừng thuộc về dương. Truyền thuyết thần hang Lạng và tục thờ cũng của người Mường Xuân Sơn phản ánh tư duy thần thoại của tộc người Việt cổ làm lúa nước sống ở vùng Xuân Sơn này. Thần tích này cùng mô típ với thần thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ chỉ khác ở chỗ là nó xuất hiện ở thời kỳ hình thái đã phát triển khá cao, có hôn nhân một vợ một chồng, chế độ mẫu hệ đã bàn giao quyền sang cho người đàn ông. Vợ phải sang ở nhà chồng. ở đây nàng Bạch đã phải sang Thủy cung sống với chồng là con rắn trắng.
    Giải mã truyền thuyết Lạc Long Quân-Âu Cơ và thần Lạng, Thành hoàng làng Mường Xuân Sơn chúng ta sẽ thấy được đôi phần xã hội thời đại Hùng Vương, những quan niệm của cư dân Lạc Việt và tinh thần con người thời đại đó đã ăn sâu trong tâm thức cộng đồng người Việt ở tận nơi thâm sơn cùng cốc này. Huyền thoại hang Lạng đã làm cho tâm hồn các thế hệ người dân Xuân Sơn trường tồn trong lịch sử dài dặc của dân tộc Việt. Hãy gìn giữ thần thoại ấy thành di sản văn hoá làm món quà quý báu dâng cho du khách mai này khi Xuân Sơn trở thành vườn cấm quốc gia, một thắng cảnh kỳ thú, một khu du lịch hiếm hoi ở vùng đất Tổ, nơi Vua Hùng dựng nước.
    (Theo TBDL, saigonnet)
  8. ThanhGiongOnline

    ThanhGiongOnline Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2004
    Bài viết:
    47
    Đã được thích:
    0
    Thêm một bài giới thiệu về lễ hội đền Hùng (nguồn: saigonnet)
    Lễ hội đền Hùng Vương
    Có thể nói Phú Thọ là cái nôi sinh thành của dân tộc Việt Nam ?" nơi mà cách đây hàng ngàn năm đã ra đời Nhà nước đầu tiên của người Việt, cũng là Nhà nước sớm nhất của vùng Đông Nam Á- Nhà nước Văn Lang các vua Hùng. Phú Thọ, nơi có đền Hùng - cội nguồn linh thiêng của cả dân tộc Việt Nam, với sức hút tâm linh không phải dân tộc nào cũng có.
    Thông thường, sự có mặt của một kinh thành không phải bao giờ cũng kéo theo nơi thờ cúng linh thiêng của cả dân tộc. Nhưng ngược lại, tại Phú Thọ, ngọn núi Nghĩa Lĩnh lại từng là nơi tế Thần, nơi tế Đất Trời của nhiều vị vua Việt Nam đầu tiên. Nơi đây lại là nơi gắn kết khằng khít với sự ra đời, với sự nghiệp dựng nước và giữ nước với nền tảng vật thể là nền văn minh Đông Sơn.
    Nhà nước Văn Lang, quá khứ lịch sử xa xôi, một nền văn minh rực rỡ đã ẩn mình trong lòng đất sâu khảo cổ học cùng với một kho tàng văn hóa dân gian cực kỳ phong phú. Nhà nước ấy đã được ghi lại trong các thư tịch cổ, trong kho tàng truyền thuyết đã một thời in đậm trong tiềm thức của người xưa nhưng lại có nguy cơ mờ nhạt dần trong tiềm thức của những thế hệ tương lai.
    Một trong những tác phẩm sử học lâu đời nhất còn lại tới ngày nay là cuốn Đại Việt sử lược có chép về thời Hùng Vương và các Vua Hùng như sau:?Đầu thời Trang Vương nhà Chu (tức vào năm 696-682 trước Công nguyên) ở Bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang? Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương.? (Tiền Hy Tộ: Đại Việt sử lược, quyển I, tờ 1a)
    Như vậy, thư tịch cổ đã chỉ rõ có một nước Văn Lang, có các Vua Hùng ở vào quãng thời gian thế kỷ VII trước Công nguyên, đã có công dựng nước mà địa bàn ban đầu là Bộ Gia Ning, tức Phú Thọ ngày nay. Nhiều thư tịch khác cũng có nhiều đoạn chép về thời Hùng Vương, tuy có khác biệt chút ít nhưng đều nói về sự kiện Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu, nay thuộc tỉnh Phú Thọ, thậm chí còn chỉ rõ việc Vua Hùng đóng đô ở Việt Trì ngày nay (Truyện Hồng Bàng Thị và truyện Núi Tản Viên trong sách Lĩnh Nam Trích Quái)
    Không những thư tịch cổ nước ta mà ngay cả những sách sử Trung Quốc cũng đề cập nhiều về Vua Hùng và nước Văn Lang:?TĐất Giao Chỉ xưa rất phì nhiêu, có quân trưởng là Hùng Vương? (Lưu Hú: Cựu Đường Thư).
    Hàng trăm đền miếu ở khắp đồng bằng, trung du Bắc Bộ và Trung Bộ (riêng ở phú thọ có số lượng) thờ cúng Hùng Vương và các bộ tướng, điều đó đã nói lên lòng tôn kính của nhân dân ta với công lao dựng nước của các Vua Hùng và lòng tự hào lớn lao được mang danh con Lạc, cháu Hồng mang danh là người Việt Nam.
    Bên cạnh thư tịch và các di tích thờ cúng, các truyền thuyết về thời Hùng Vương đã khắc sâu trong lòng nhân dân Phú Thọ, nhất là khu vực quanh Đền Hùng: truyền thuyết Vua HÙng dạy dân cày cấy, truyền thuyết đám cưới Sơn tinh với nàng Ngọc Hoa, truyền thuyết thần Tản Viên giúp Vua Hùng dẹp Thục, Truyện Tam giang Bạch Hạc Đại Vương, truyện Sơn nữ Thần linh từ Tam Đảo đem ba ngàn quân xuống giải cứu kinh đô Văn lang ở ngã ba Bạch Hạc?
    Tiếp đến phải kể đến các lễ hội mang đậm tính ngưỡng dân gian xung quanh chủ đề thời đại các Vua Hùng rất đậm đặc trên đất Phú Thọ như tục hát xoan, hát ghẹo nổi tiếng mà tương truyền là có xuất xứ từ Hùng Duệ vương tức Vua Hùng thứ 17, tục hát giao duyên ở huyện Thanh Ba, tục bơi chải có suốt dọc hai bờ sông Thao, sông Đà cũng có từ thời Hùng Vương được khắc hoạ trên mặt các trống đồng Phú Thọ. Các nhà nghiên cứu còn sưu tầm, phát hiện hàng loạt các tục khác liên quan đến thời vua Hùng Vương: đánh phết, cướp cầu, làm bánh dầy (ở xã Tiên Du, xã Phù Ninh, huyện Phù Ninh), tục đập trâu, chém lợn, tục bánh trưng bánh dày ngày Tết gắn liền với truyền thuyết Lang Liêu làm bánh dâng Vua Hùng?
    Một trong những ngành khoa học đã là cơ sở vững chắc cho việc khẳng định Phú Thọ là đất tổ Hùng Vương chính là khảo cổ học. Từ mây mù truyền thuyết đã hé dần diện mạo lịch sử: một loạt làng cổ, các khu mộ táng, hàng vạn di vật của các nền văn hoá thời đại kim khí là nền tảng cho thời Hùng Vương đã được phát hiện. Niên đại nền văn hoá Đông Sơn phát triển rực rõ nhất trong thời đại này mà mở đầu dường như trùng khít với sự ra đời của Nhà nước Văn Lng của các Cua Hùng như thư tịch cổ ghi lại, đó là vào khoảng thế kỷ thứ VII trước Công nguyên.
    Nhiều sản phẩm điển hình của thời đại Hùng Vương được tìm thấy ngày trong lòng đất Phú Thọ như trống đồng, thạp đồng, âu đồng, giáo, lao, lưỡi cày, lưỡi liềm, đồ trang sức bằng đá ngọc, các loại đồ gốm?.
    Các nhà khảo cổ học đã có thể hoạch định được ranh giới văn hoá Đông Sơn là văn hóa nền tảng vật chất của thòi đại các Vua Hùng: từ các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta trải dài đến tận Đèo Ngang, Quảng Bình. Trong một khu vực rộng lớn đến vậy có hàng trăm di tích thì Phú Thọ lại à điểm có mật độ di tích lớn nhất liên quan đến thời đại này: 83 làng cổ, mộ táng và những nơi phát hiện hiện vật ngẫu nhiên(thống kê của Phòng Kim khí, Viện Khảo cổ học cho đến tháng 12 năm 2000)
    Đáng lưu ý là vùng đất ?o tụ thuỷ, tụ sơn? này là vùng ngã ba sông Bạch Hạc, thành phố Việt Trì, rộng ra là cả huyện Lâm Thao nơi sử sách và truyền thuyết đều cho rằng có kinh thành Văn Lang, thì khoả cổ học đã có những phát hiện hết sức quan trọng: một khu mộ táng Làng Cả nổi tiếng với vài trăm mộ, một chiếc trống đồng Hy Cương có kích thước vào loại lớn nhất nước (đường kính mặt 93 cm, chiều cao 66cm).
    Có thể nói, nếu như phú Thọ là đất Tổ Hùng Vương thì Đền Hùng và ngã ba sông Bạch Hạc chính là một trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế của vùng Đất Tổ.
    Đền Hùng được xây dựng trên núi Nghĩa lĩnh cao 175m so với mặt biển, thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, gồm 4 đền, 1 chùa và 1 lăng mộ tổ Hùng Vương thứ VI, hài hoà trong phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Trên địa thế cao ngoạn mục của núi Nghĩa Lĩnh ta có thể quan sát cả một vùng rộng lớn. Xa xa kia, dòng sông Thao đỏ nặng phù sa, bên phía Đông, dòng sông Lô xanh như hai giải lụa viền thành ranh giới cố đô xưa. Tương truyền, Vua Hùng đã đi khắp mọi vùng trong nước, cuối cùng mới chọn được nơi kỳ thú, đầy khí thiêng sông núi, non nước hữu tình này làm vị trí đóng đô.
    Có khả năng vào thế kỷ thứ X người Việt Nam đã xây nên Đền Hùng và tổ chức ngày giỗ tổ Hùng Vương với những nghi thức, phong tục đầy bẳn sắc dân gian Việt Nam. Vào thế kỷ thứ X, khi Việt Nam giành được độc lập, vua Đinh Tiên Hoàng đã trao cho viết thần tích vào năm Thiên Phúc nguyên niên. Việc xây dựng các công trình kiến trúc và tổ chức ngày giỗ Tổ - Lễ hội Đền Hùng ?" ngày càng được duy trì và hoàn thiện.
    Thời Lý- Trần, Đền Hùng là một khu di tích khá đẹp do lang Cổ Tích dựng nên. Trong một số hố đào thám sát tại đây, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều hiện vật: bát đĩa men ngọc, nhiều viên ngọc trang trí, có cả lon đựng sơn?thuộc thời Lý-Trần.
    Vào thời Lê, làng Cổ Tích và khu di tích Đền Hùng đã bị giặc phương Bắc tàn phá. Sau khi giành lại độc lập, vua Lê đã cho xây dựng lại Đền Hùng, cho soạn Ngọc Phả Hùng Vương (thần tích) vào năm Hồng Đức nguyên niên (1460), được sao lại vào năm Hoàng Địch nguyên niên (1600).
    Kiến trúc ở Đền Hùng có từ thời Lý- Trần đã được tôn tạo qua nhiều thời kỳ, đến nay chỉ còn lại một kiến trúc khá cổ là Gác Chuông, Tam Quan và Đền Hạ có từ thời Hậu Lê, những phần còn lại chủ yếu là các kiến trúc được xây dựng vào thời Nguyễn.
    Thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng đậm đà bản sắc dân tộc. Người xưa thường tổ chức hai cuộc cầu chính vào tháng Giêng và tháng Tám; tháng Ba cùng nhau nô nức mở cửa Đền làm Hội. Vào thời Lê, cư dân xã Hy Cương được đảm nhận ?oDân trưởng tạo lễ? cho một công việc rất hệ trọng của cả nước.
    Kể từ năm 2000 trở đi, theo quyết định của Đảng và Nhà nước, ngày 10 tháng 3 Âm lịch, lễ dâng hương giỗ Tổ Vua Hùng trở thành Quốc lễ.
    Cho tới nay, trên thế giới thường vẫn còn nhiều cuộc hành hương về với gốc rễ tâm linh nhưng hầu hết đều gắn với những nghi thức tôn giáo. Ví dụ như người đi đạo Phật hành hương về Tây Trúc thỉnh kinh, người theo đạo Hồi hành hương về thánh địa Lamecque, người theo Do Thái giáo lại hành hương về đất Tổ Hùng Vương của dân tộc Việt Nam thì lại mang bản ngã riêng, không hoàn toàn tự nguyện, mang ý nghĩa tưởng nhớ cội nguồn dân tộc, không mang màu sắc tôn giáo. Đó là một nét riêng chỉ có ở Việt Nam.
    ?oDù ai đi ngược về xuôi
    Nhớ ngày giỗ Tổ mồng Mười tháng Ba?
    Và trên mảnh đất linh thiêng ấy, người Mường cổ (hay còn gọi là người Việt Mường cổ) đã cùng các dân tộc anh em khác dựng nên văn hoá Đông Sơn trên vùng đất Tổ Phú Thọ, làm nền tảng cho văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc các dân tộc anh em, trong đó có dân tộc Mường.
  9. LegiS

    LegiS Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2004
    Bài viết:
    401
    Đã được thích:
    0
    Phú Thọ điểm đến của các nhà đầu tư
    Tỉnh Phú Thọ đang thực hiện nhiều biện pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa công nghiệp, dịch vụ lên vị trí hàng đầu, mở rộng đô thị để từ nay đến năm 2020 trở thành một tỉnh công nghiệp.
    Là cửa ngõ phía Tây Bắc của Hà Nội, Phú Thọ có địa thế khá thuận lợi để giao thương trong và ngoài nước, với ba con sông lớn sông Hồng, sông Lô, sông Đà chảy qua; giáp các cửa khẩu Lào Cai, Thanh Thuỷ, Hà Giang. Ngoài ra, tỉnh còn có các yếu tố để phát triển kinh tế- xã hội như khu công nghiệp Việt Trì, khu du lịch văn hoá- lịch sử Đền Hùng, khu du lịch sinh thái Xuân Sơn, gần sân bay quốc tế Nội Bài.

    Phú Thọ mở rộng cửa mời gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước cùng đầu tư phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế về nguyên liệu tại chỗ, có khả năng thu hồi vốn nhanh và đạt hiệu quả cao; tập trung vào 4 nhóm ngành công nghiệp chủ yếu là công nghiệp chế biến nông, lâm sản, thực phẩm; công nghiệp khai khoáng, hoá chất, phân bón; công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng.
    Tỉnh đã dành 1.000ha trong quỹ đất của mình ưu tiên cho phát triển các khu công nghiệp tập trung ở phía Bắc, phía Nam và phía Tây thành phố Việt Trì; định hình một số cụm công nghiệp ở các huyện Tam Nông, Phù Ninh, Lâm Thao, Thanh Thuỷ, Thanh Ba, Đoan Hùng; gắn liền với việc thực hiện công nghiệp hoá, đô thị hoá nông thôn.
    Ngoài những chính sách ưu đãi đầu tư chung theo quy định của Nhà nước, tỉnh Phú Thọ còn có những ưu đãi riêng nhằm thu hút mạnh các nhà đầu tư trong và nước. Các doanh nghiệp được hưởng giá thuê đất thấp nhất trong khung giá tiền thuê đất của tỉnh; được chậm nộp tiền thuê đất 5 năm; được tỉnh cấp ngân sách hỗ trợ số tiền tương đương với số thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm, giảm 50% cho 4 năm tiếp theo; được xây dựng đường điện, nước tới chân hàng rào dự án; được hỗ trợ kinh phí đào tạo công nhân từ 500 nghìn đến 1 triệu đồng/ người.
    Đặc biệt, nếu đầu tư vào Phú Thọ, nhà đầu tư sẽ được hưởng dịch vụ miễn phí ở tất cả các khâu theo cơ chế một cửa với thời gian nhanh nhất và không bị phiền hà. Các thủ tục hành chính khác trong quá trình thực hiện dự án như thông quan hải quan xuất nhập khẩu, khắc dấu, đăng ký tài khoản, thuê đất, đăng ký môi trường, phòng chống cháy nổ, lắp đặt điện thoại, cấp nước, đền bù giải phóng mặt bằng cũng được thực hiện với thời gian nhanh nhất.
    Bằng những nỗ lực cải thiện về cơ chế đầu tư nói trên, đến nay, đã có 41 doanh nghiệp đăng ký thuê gần 100ha đất trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh quản lý với tổng số vốn đăng ký hơn 80 triệu USD. Riêng khu công nghiệp Thuỵ Vân đã có 30 doanh nghiệp đăng ký thuê gần 50ha đất, trong đó có 9 doanh nghiệp nhà nước, 5 doanh nghiệp nước ngoài.
    Phú Thọ phấn đấu đến năm 2005 lấp đầy diện tích 100ha khu công nghiệp Thụy Vân và 40ha cụm công nghiệp Bạch Hạc, đưa tổng số vốn đầu tư đạt gần 3.000 tỷ đồng và gần 100 triệu USD, giải quyết việc làm cho 8.000 lao động.
    Nguồn: http://www.vietnam-tourism.com
  10. bigmans_hn

    bigmans_hn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/08/2004
    Bài viết:
    342
    Đã được thích:
    0
    Lễ hội Đền Hùng xưa!​
    Hội Đền Hùng, thời trước quy định như sau: những nZm thường, giao cho hương Trung Nghĩa (nay là Hy Cương - Chu Hóa) chịu trách nhiệm, gọi là dân Trưởng tạo lệ. Nhà nước chỉ gửi về ba đấu gạo nếp thơm (khoảng 30 kg) để đồ xôi cúng Tổ. Cứ 5 nZm tổ chức một hội chính vào nZm chẵn (1925, 1930...), do triều đình chịu trách nhiệm. NZm ấy ngay từ tháng giêng, người ta đã treo lá cờ Thần trên đỉnh núi Nõn để báo cho đồng bào xa gần biết. Phẩm vật tế lễ do dân Trưởng tạo lệ phải lo. Vì là dân sở tại, nên được triều đình giao cho nhiệm vụ trông nom đền miếu đèn, hương tuần tiết, và phục vụ ngày giỗ Tổ. Bù lại, Nhà nước miễn cho khoản sưu thuế phu phen. Ngoài ra còn được cấp thêm chi phí lấy từ thuế điền thổ của hạt Sơn Hưng Tuyên.
    Sau khi đã tiến hành quốc tế, thì thờ các Vua Hùng và vợ con của các vua. Chính các cuộc hành lễ của làng xã mới tạo nên sự xúc động tâm linh mạnh mẽ hướng về cội nguồn. Có trên 40 làng rước kiệu từ đình làng mình tới chầu, tất cả đều đặt ở chân núi để chấm giải. Kiệu nào nhất thì được rước lên Đền Hùng, nơi Mộ Tổ, hết sức vinh dự. Tiêu chuẩn đoạt giải là: trang hoàng đẹp, lễ phẩm khéo và tinh khiết, cờ xí, áo quần nghiêm chỉnh, âm nhạc hay, hầu kiệu đông và có trật tự, đi đứng đúng phép.
    Dải là bức Thần dẫn đầu, 8 người vác cờ đuôi nheo, 8 người vác bát bửu. Ông chủ tế mặc áo hoàng bào thụng kiểu nhà vua, đi trước, các quan viên chức sắc chia nhau hộ giá trước và sau kiệu. Riêng kiệu nhang án có phường bát âm tấu nhạc hầu Thánh, đi hai bên. (Trừ phường bát âm mặc lễ phục cổ điển, thông thường quần trắng; áp the, khZn xếp, còn các quan viên rước kiệu đều Zn mặc theo lối quan vZn võ và binh sĩ trong triều. Những làng ở xa phải rước ba ngày mới tới Đền.
    Cũng nằm trong lễ thức tại Đền Hùng, còn có tiết mục hát Xoan. Hát Xoan xưa gọi là hát Xuân, do công chúa Nguyện Cư con Vua Hùng 17 tập hợp từ múa hát dân gian trong kinh đô VZn Lang (Việt Trì). Đến thời nhà Lý, vợ vua Lý Thần Tông người Hương Nộn (Tam Thanh) có công tổ chức giúp đỡ phường Xuân hoạt động hát lễ ở các cửa đình, nên phường Xuân kiêng tên bà (Lan Xuân), gọi chệch đi là hát Xoan. Đêm hát Xoan kéo dài từ chập tối đến sáng, trình diễn một bài bản có ba phần: 5 đoạn lễ hội, 14 đoạn quả cách và 8 đoạn nam nữ đối đáp. Đội Xoan có 6 nam, 12 nữ trẻ đẹp hát bằng nhiều giọng khác nhau, có lúc dùng điệu bộ chân tay, có lúc múa nhảy, kèm theo trống phách đưa đệm.
    Trên đây là miêu tả sơ bộ phần lễ, có thể xem là hạt nhân của Hội. Hành động Hội là một tổng thể nhiều khía cạnh gây nên hưng phấn cho người có mặt, bao gồm: lễ thức, trò chơi, vZn nghệ, mua bán hàng hóa, Zn uống và kể cả con người (con người góp vào đấy bộ mặt tươi tỉnh, quần áo đẹp và sự đông đúc ồn ào). Dân địa phương bán hoa quả quà bánh, cơm phở, nước nôi chỉ tính chút công lam lũ, để cầu phúc và lấy tiếng khen. Tối đến, ít người về nhà dù ở gần, tục lệ là ngủ lại. Bởi vậy, họ đi chơi cho mệt rã rời, rồi tiện đâu ngủ đấy. Giữa bầu không khí cởi mở ấy, là hàng loạt trò chơi, vZn nghệ biểu diễn ngày cũng như đêm, tự do thưởng thức không mất tiền.
    Ban khánh tiết chỉ cần treo lên ít giải thưởng làm vui, là các làng xã tự đem đến gà chọi, bịt mắt bắt dê, kéo co, bắn nỏ, thi ném còn, kéo lửa nấu cơm thi, đấu vật, cờ người... Cờ người dùng người thật làm quân, từ tướng, sĩ, đến tượng, xe, pháo, mã, tốt, đều là các cô thanh nữ xinh đẹp. Lứa tuổi thanh niên túm tụm nhau trên các ngọn đồi trổ tài hát vè, hát trống quân, sa mạc, cò lả. Các cụ già lại thích nghe nghệ sĩ dân gian gảy đàn bầu, hát vọng cổ, hay kéo nhị hồ, hát xẩm. Nghe xong thưởng ít tiền.
    Ban đêm, bao giờ cũng có hát chèo tuồng ở các bãi rộng. Phường chèo, tuồng đón ở các rạp về, hoặc tự họ xin đến. Cũng có cả các đoàn nghiệp dư của làng xã đến Hội trổ tài. Tất cả các đoàn đó được Ban khánh tiết cho Zn cơm, cá thịt và ít tiền lộ phí, biểu diễn cho toàn dân xem không bán vé. Không có những trò chơi, những tiết mục vZn nghệ lố lZng ầm ĩ trái với bầu không khí trang nghiêm hướng thượng. Lễ hội Đền Hùng xưa kéo dài từ mồng 7, mồng 8 tới 16, 17 tháng 3. Kể từ nZm 1922, Đền Hùng được trùng tu xây dựng như hiện có, nhà Nguyễn quyết định lấy ngày 10-3 triều đình tế lễ, sau đó để làng xã tế lễ. Bởi vậy có câu ca:
    Dù ai đi ngược về xuôi,
    Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba...

    Vào dịp này, đồng bào cả nước về lễ bái và xem hội. Những ngày ấy đứng trên đỉnh núi nhìn xuống xung quanh, sẽ thấy từ mọi con đường tới Đền Hùng, người ta đổ về dự hội như những muôn vàn chấm đông đủ mầu sắc hòa lẫn cây xanh như một rừng hoa tươi thắm trước gió xuân. Mọi người già, trẻ, gái trai náo nức lúc đi, hân hoan lúc đến, lưu luyến lúc ra về, cảnh trí, tình người thân thương tha thiết vô cùng. Thật là một dịp lễ hội để đồng bào cả nước, miền ngược miền xuôi, miền nam miền bắc gặp nhau sum họp trên đất Tổ quê hương, bộc lộ những tình cảm thiêng liêng tự đáy lòng.
    Nguồn: Báo nhân dân
    Bigmans_hn

Chia sẻ trang này