1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đất và người Thái Nguyên ( bài viết & ảnh)

Chủ đề trong 'Thái Nguyên' bởi tamhoncuada_spt, 26/05/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. benjaminh

    benjaminh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/04/2004
    Bài viết:
    38
    Đã được thích:
    0
    rất cảm ơn bạn, cho mình hỏi tiếp một câu, hỏi với mục đích tìm hiểu kiến thúc chứ hoàn toàn không có ý thách thức khiêu khích
    tại sao tày với thái với cũng một nhòm nhỉ , thực ra họ giống khác nhau ở chỗ nào, mình tưởng người choang là người nùng chứ bạn nói cho mình càng nhiều càng tốt nhé, mình rất thích thú với vấn đề này. cảm ơn rất rất nhiều
  2. benjaminh

    benjaminh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/04/2004
    Bài viết:
    38
    Đã được thích:
    0
    rất cảm ơn bạn, cho mình hỏi tiếp một câu, hỏi với mục đích tìm hiểu kiến thúc chứ hoàn toàn không có ý thách thức khiêu khích
    tại sao tày với thái với cũng một nhòm nhỉ , thực ra họ giống khác nhau ở chỗ nào, mình tưởng người choang là người nùng chứ bạn nói cho mình càng nhiều càng tốt nhé, mình rất thích thú với vấn đề này. cảm ơn rất rất nhiều
  3. lonelygrit

    lonelygrit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/01/2004
    Bài viết:
    20
    Đã được thích:
    0
    Đây là chỗ giới thiệu về Thái Nguyên sao lại có vụ phỏng vấn vậy nhỉ
  4. tamhoncuada_spt

    tamhoncuada_spt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2004
    Bài viết:
    4.513
    Đã được thích:
    0
    Thái Nguyên-đất lịch sử
    Xưa nay, Thái Nguyên vẫn được xem như một nét gạch nối giữa vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng đại ngàn Việt Bắc. Chính vì địa lý ấy đã góp phần quan trọng bồi đắp nên bề dày lịch sử cho miền đất này.
    Người dân Thái Nguyên, ngay từ trước Công lịch đã tham gia vào cuộc kháng chiến đầu tiên của dân tộc ta chống nhà Tần xâm lược. Trong bản sắc phong ở đền Giá (Phổ Yên) một người dân làng Giá có công đánh giặc Ân đã được các vương chiều sau này ghi công, phong là Mạnh Điền Đại Vương để muôn đời sau thờ phụng.
    Năm 40, Hai Bà Trưng khởi nghĩa đánh đổ bộ máy cai trị của nhà Hán ở Giao Chỉ, nhân dân Thái Nguyên (lúc đó đất Thái Nguyên ngày nay nằm trong huỵên Long Biên, quận Giao Chỉ) đã tích cực tham gia cuộc khởi nghiã của Hai Bà. Qua các tư liệu điền dã mới công bố và ý kiến của một số nhà địa danh học lịch sử có tên tuổi, có thể biết đất châu Giã Năng, thời nhà Tuỳ, Lương cũng là đất của huyện Phổ Yên ngày nay. Nơi đây vừa là quê hương của Lý Bí, vừa gắn liền với cuộc khởi nghĩa nổi tiếng năm 542 đánh thắng giặc nhà Lương của ông.
    Kể từ khi nhà Lý định đô ở Thăng Long, Thái Nguyên trở thành phên dậu trực tiếp che chở cho phía Bắc kinh thành. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống năm 1076-1077, phần đất phía nam Thái Nguyên từng là địa đầu của phòng tuyến sông Cầu, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quan, quân nhà Lý với giặc Tống. Cũng ở thời nhà Lý, năm 1145, quân dân Thái Nguyên dưới sự chỉ huy của thủ lĩnh phủ Phú Lương là Phò mã lang Dương Tự Minh đã đánh thắng giặc nước Tống sang xâm lược châu Tư Lang, Quảng Nguyên (Cao Bằng); miền biên ải phía Bắc quốc gia Đại Việt nhờ vậy mà yên ổn lâu bền.
    Đầu thế kỷ XV, giặc Minh xâm lược nước ta, là mảnh đất có truyền thống quật cường, nhân dân Thái Nguyên liên tiếp đứng lên khởi nghĩa chống giặc. Trong phong trào kháng chiến chống giặc Minh ở Thái Nguyên, đáng chú ý nhất là cuộc khởi nghiã của các nghĩa binh áo Đỏ là người dân tộc thiểu số vùng Đại Từ, họ thoắt ẩn thoắt hiện, liên tục phá quấy, tiêu diệt giặc Minh, tay sai, mở rộng hoạt động sang vùng Tây Bắc vào tận đất Thanh Hoá, Nghệ An.
    Tiêu biểu nhất cho nhân dân Thái Nguyên trong thời kỳ chống giặc Minh thế kỷ XV, phải kể đến Lưu Nhân Chú, ông là người huyện Đại Từ; cùng cha và em rể tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo; là một vị tướng tài ba, thao lược, từng chỉ huy nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch, là chủ tướng trận phục kích ở cửa ải Chi Lăng và trận tiêu diệt toàn bộ viện binh nhà Minh trên cánh đồng Cần Trạm, Xương Giang năm 1427. Ông đã dược Lê Lợi ban phong những chức tước cao nhất của triều đình Lê Sơ.
    Trong suốt nhiều năm của thế kỷ XVI, XVII, đất Thái Nguyên là chiến địa giao tranh của tập đoàn phong kiến Lê-Mạc. Dấu vết một thời của nhà Mạc, với những thành, những luỹ, những câu truyền truyền lại trong dân gian-đây đó còn lại khá nhiều. Thế kỷ thứ XVIII, chiến tranh nông dân chống chiều đình Lê-Trịnh nổ ra liên tục. Thái Nguyên trở thành một trong những địa bàn hoạt động chính của nghĩa quân Nguyễn Thanh Phương (Quận Hẻo) suốt từ 1740 đến 1750 với các căn cứ : Đồn úc Kỳ (Phú Bình), núi ĐộcTôn...
    Vào thời nhà Nguyễn, Thái Nguyên là nơi nổ ra nhiều phong trào khởi nghiã nông dân chống lại phong kiến áp bức. Người dân Thái Nguyên từng tham gia các cuộc khởi nghĩa của Dương Đình Cúc (1816), Nông Văn Vân (1833)...
    Sau nhiều trận đánh ác liệt, chịu nhiều tổn thất, giặc Pháp mới chiếm được thành; nhưng chỉ chiếm giữu thành được một tuần, quân xâm lược phải rút chạy trước sự tấn công liên tục, dũng mãnh của quân dân Thái Nguyên.
    Liền kề với vùng căn cứ khởi nghĩa Yên Thế, trong thập niên 90 của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, đất Thái Nguyên là địa bàn hoạt động thường xuyên, là hậu cứ của Đề Thám và nghĩa quân của ông. Một số trận đánh dữ dội tiêu diệt nhiều quân Pháp của nghĩa quân Đề Thám đã diễn ra ở vùng Bảo Nang, rừng Bà Mụ, Phấn Mễ...
    Một sự kiện vang dội cả nước, làm rung động nước Pháp, ảnh hưởng đến tận các xứ thuộc địa, đã nổ ra tại thị xã Thái Nguyên vào đêm 30, rạng sáng ngày 31/8/1917, cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên do Đội Cấn và Lương Ngọc Quyến lãnh đạo. Nghĩa quân gồm binh lính yêu nước, tù chính trị, thị dân, công nhân, nông dân đã giết giám binh, chiếm toà Công sứ, trại lính khố xanh, phá nhà lao, làm chủ tỉnh thành Thái Nguyên. Lần đầu tiên trong lịch sử cận đại Việt Nam một cuộc khởi nghĩa chống Pháp đã chiếm được tỉnh lỵ, đặt quốc hiệu Đại Hùng, Quốc kỳ là lá cờ nền vàng có 5 ngôi sao đỏ, thành lập quân đội cách mạng Quang Phục quân, định ra tôn chỉ đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập dân tộc. Kết cục, Lương Ngọc Quyến đã anh dũng hy sinh trên chiến địa; sau mấy tháng ròng cùng toán nghĩa binh thân cận vừa di chuyển, vừ chiến đấu, không cam rơi vào tay địch, Đội Cấn đã tuẫn tiết dưới chân núi Pháo (Đại Từ); những trang sử bi hùng của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên đã kết thúc. Dù vậy, Thái Nguyên khởi nghĩa và tên tuổi Đội Cấn, Lương Ngọc Quyến đã thực sự là những nét vàng được chép thêm vào trang sử hào hùng của đất Thái Nguyên, của lịch sử dân tộc.
    Những năm từ 1939 đến trước cách mạng tháng Tám, Tổng bí thư Chường Trinh, đồng chí Hoàng Quốc Việt, Lê Thanh Nghị và nhiều đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng, Thường vụ xứ uỷ Bắc Kỳ thường xuyên qua lại hoạt động, phát triển lực lượng cách mạng ở Thái Nguyên. Vùng Tiên Phong (Phổ Yên), Kha Sơn (Phú Bình) được xây dựng thành ATK II của Trung ương. Tháng 9 năm1941, đội Cứu Quốc Quân II-một lực lượng tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời tại rừng Khuôn Mánh (Tràng Xá-Võ Nhai). Ngày 15-5-1945, tại Định Biên Thượng (Định Hoá), đội Việt nam tuyên truyền giải phóng quân và đội Cứu quốc quân được hợp nhất thành Việt Nam giải phóng quân, chuẩn bị đón Bác về Tân Trào (Tuyên Quang) mở Đại hội quốc dân. Trong cuộc cách mạng tháng Tám, thực hiện quân lệnh số 1 của Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc, đoàn quân giải phóng dưới sự chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp đã tiến về giải phóng Thái Nguyên.
    Đặc biệt, nhờ ở địa thế ?oTiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ?, trong suốt 9 năm của cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp, Thái Nguyên cách mạng lại được Trung ương Đảng, Bác Hồ chọn đặt đại bản doanh lãnh đạo kháng chiến. Thái Nguyên đã trở thành và xứng đáng là ?oThủ đô kháng chiến-Thủ đô gió ngàn? của cuộc kháng chiến trường kỳ.
  5. tamhoncuada_spt

    tamhoncuada_spt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2004
    Bài viết:
    4.513
    Đã được thích:
    0
    Thái Nguyên-đất lịch sử
    Xưa nay, Thái Nguyên vẫn được xem như một nét gạch nối giữa vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng đại ngàn Việt Bắc. Chính vì địa lý ấy đã góp phần quan trọng bồi đắp nên bề dày lịch sử cho miền đất này.
    Người dân Thái Nguyên, ngay từ trước Công lịch đã tham gia vào cuộc kháng chiến đầu tiên của dân tộc ta chống nhà Tần xâm lược. Trong bản sắc phong ở đền Giá (Phổ Yên) một người dân làng Giá có công đánh giặc Ân đã được các vương chiều sau này ghi công, phong là Mạnh Điền Đại Vương để muôn đời sau thờ phụng.
    Năm 40, Hai Bà Trưng khởi nghĩa đánh đổ bộ máy cai trị của nhà Hán ở Giao Chỉ, nhân dân Thái Nguyên (lúc đó đất Thái Nguyên ngày nay nằm trong huỵên Long Biên, quận Giao Chỉ) đã tích cực tham gia cuộc khởi nghiã của Hai Bà. Qua các tư liệu điền dã mới công bố và ý kiến của một số nhà địa danh học lịch sử có tên tuổi, có thể biết đất châu Giã Năng, thời nhà Tuỳ, Lương cũng là đất của huyện Phổ Yên ngày nay. Nơi đây vừa là quê hương của Lý Bí, vừa gắn liền với cuộc khởi nghĩa nổi tiếng năm 542 đánh thắng giặc nhà Lương của ông.
    Kể từ khi nhà Lý định đô ở Thăng Long, Thái Nguyên trở thành phên dậu trực tiếp che chở cho phía Bắc kinh thành. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống năm 1076-1077, phần đất phía nam Thái Nguyên từng là địa đầu của phòng tuyến sông Cầu, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quan, quân nhà Lý với giặc Tống. Cũng ở thời nhà Lý, năm 1145, quân dân Thái Nguyên dưới sự chỉ huy của thủ lĩnh phủ Phú Lương là Phò mã lang Dương Tự Minh đã đánh thắng giặc nước Tống sang xâm lược châu Tư Lang, Quảng Nguyên (Cao Bằng); miền biên ải phía Bắc quốc gia Đại Việt nhờ vậy mà yên ổn lâu bền.
    Đầu thế kỷ XV, giặc Minh xâm lược nước ta, là mảnh đất có truyền thống quật cường, nhân dân Thái Nguyên liên tiếp đứng lên khởi nghĩa chống giặc. Trong phong trào kháng chiến chống giặc Minh ở Thái Nguyên, đáng chú ý nhất là cuộc khởi nghiã của các nghĩa binh áo Đỏ là người dân tộc thiểu số vùng Đại Từ, họ thoắt ẩn thoắt hiện, liên tục phá quấy, tiêu diệt giặc Minh, tay sai, mở rộng hoạt động sang vùng Tây Bắc vào tận đất Thanh Hoá, Nghệ An.
    Tiêu biểu nhất cho nhân dân Thái Nguyên trong thời kỳ chống giặc Minh thế kỷ XV, phải kể đến Lưu Nhân Chú, ông là người huyện Đại Từ; cùng cha và em rể tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo; là một vị tướng tài ba, thao lược, từng chỉ huy nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch, là chủ tướng trận phục kích ở cửa ải Chi Lăng và trận tiêu diệt toàn bộ viện binh nhà Minh trên cánh đồng Cần Trạm, Xương Giang năm 1427. Ông đã dược Lê Lợi ban phong những chức tước cao nhất của triều đình Lê Sơ.
    Trong suốt nhiều năm của thế kỷ XVI, XVII, đất Thái Nguyên là chiến địa giao tranh của tập đoàn phong kiến Lê-Mạc. Dấu vết một thời của nhà Mạc, với những thành, những luỹ, những câu truyền truyền lại trong dân gian-đây đó còn lại khá nhiều. Thế kỷ thứ XVIII, chiến tranh nông dân chống chiều đình Lê-Trịnh nổ ra liên tục. Thái Nguyên trở thành một trong những địa bàn hoạt động chính của nghĩa quân Nguyễn Thanh Phương (Quận Hẻo) suốt từ 1740 đến 1750 với các căn cứ : Đồn úc Kỳ (Phú Bình), núi ĐộcTôn...
    Vào thời nhà Nguyễn, Thái Nguyên là nơi nổ ra nhiều phong trào khởi nghiã nông dân chống lại phong kiến áp bức. Người dân Thái Nguyên từng tham gia các cuộc khởi nghĩa của Dương Đình Cúc (1816), Nông Văn Vân (1833)...
    Sau nhiều trận đánh ác liệt, chịu nhiều tổn thất, giặc Pháp mới chiếm được thành; nhưng chỉ chiếm giữu thành được một tuần, quân xâm lược phải rút chạy trước sự tấn công liên tục, dũng mãnh của quân dân Thái Nguyên.
    Liền kề với vùng căn cứ khởi nghĩa Yên Thế, trong thập niên 90 của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, đất Thái Nguyên là địa bàn hoạt động thường xuyên, là hậu cứ của Đề Thám và nghĩa quân của ông. Một số trận đánh dữ dội tiêu diệt nhiều quân Pháp của nghĩa quân Đề Thám đã diễn ra ở vùng Bảo Nang, rừng Bà Mụ, Phấn Mễ...
    Một sự kiện vang dội cả nước, làm rung động nước Pháp, ảnh hưởng đến tận các xứ thuộc địa, đã nổ ra tại thị xã Thái Nguyên vào đêm 30, rạng sáng ngày 31/8/1917, cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên do Đội Cấn và Lương Ngọc Quyến lãnh đạo. Nghĩa quân gồm binh lính yêu nước, tù chính trị, thị dân, công nhân, nông dân đã giết giám binh, chiếm toà Công sứ, trại lính khố xanh, phá nhà lao, làm chủ tỉnh thành Thái Nguyên. Lần đầu tiên trong lịch sử cận đại Việt Nam một cuộc khởi nghĩa chống Pháp đã chiếm được tỉnh lỵ, đặt quốc hiệu Đại Hùng, Quốc kỳ là lá cờ nền vàng có 5 ngôi sao đỏ, thành lập quân đội cách mạng Quang Phục quân, định ra tôn chỉ đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập dân tộc. Kết cục, Lương Ngọc Quyến đã anh dũng hy sinh trên chiến địa; sau mấy tháng ròng cùng toán nghĩa binh thân cận vừa di chuyển, vừ chiến đấu, không cam rơi vào tay địch, Đội Cấn đã tuẫn tiết dưới chân núi Pháo (Đại Từ); những trang sử bi hùng của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên đã kết thúc. Dù vậy, Thái Nguyên khởi nghĩa và tên tuổi Đội Cấn, Lương Ngọc Quyến đã thực sự là những nét vàng được chép thêm vào trang sử hào hùng của đất Thái Nguyên, của lịch sử dân tộc.
    Những năm từ 1939 đến trước cách mạng tháng Tám, Tổng bí thư Chường Trinh, đồng chí Hoàng Quốc Việt, Lê Thanh Nghị và nhiều đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng, Thường vụ xứ uỷ Bắc Kỳ thường xuyên qua lại hoạt động, phát triển lực lượng cách mạng ở Thái Nguyên. Vùng Tiên Phong (Phổ Yên), Kha Sơn (Phú Bình) được xây dựng thành ATK II của Trung ương. Tháng 9 năm1941, đội Cứu Quốc Quân II-một lực lượng tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời tại rừng Khuôn Mánh (Tràng Xá-Võ Nhai). Ngày 15-5-1945, tại Định Biên Thượng (Định Hoá), đội Việt nam tuyên truyền giải phóng quân và đội Cứu quốc quân được hợp nhất thành Việt Nam giải phóng quân, chuẩn bị đón Bác về Tân Trào (Tuyên Quang) mở Đại hội quốc dân. Trong cuộc cách mạng tháng Tám, thực hiện quân lệnh số 1 của Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc, đoàn quân giải phóng dưới sự chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp đã tiến về giải phóng Thái Nguyên.
    Đặc biệt, nhờ ở địa thế ?oTiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ?, trong suốt 9 năm của cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp, Thái Nguyên cách mạng lại được Trung ương Đảng, Bác Hồ chọn đặt đại bản doanh lãnh đạo kháng chiến. Thái Nguyên đã trở thành và xứng đáng là ?oThủ đô kháng chiến-Thủ đô gió ngàn? của cuộc kháng chiến trường kỳ.
  6. tamhoncuada_spt

    tamhoncuada_spt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2004
    Bài viết:
    4.513
    Đã được thích:
    0
    Thần Sa-Di tích người nguyên thuỷ​
    Hai chữ ?oThần Sa? cho ta ý nghĩ về một vùng đất nhiều sa khoáng quý hiếm. Đúng là như vậy. Từ thủa nhà Lê, nhà Mạc ở Thần Sa đã có mỏ khai thác vàng sa khoáng. Những thập niên 80-90 của thế kỷ XX, Thần Sa lại rộ lên, trở thành một tụ điểm khai thác vàng lớn với những bãi vàng nổi tiếng: Kim Sơn, Bản Ná, Tu Lườn, Boong Say... Nhưng có lẽ, Thần Sa được nhiều người trong và ngoài nước biết đến hơn bởi nơi đây là quê hương của nền văn hoá khảo cổ học Thần Sa nổi tiếng.
    Khu di tích Thần Sa nằm gọn trong địa phận huyện Võ Nhai, cách thành phố Thái Nguyên khoảng 25 km theo đường chim bay về phía Bắc-Đông Bắc. Những dãy đá vôi dày đặc thuộc phần cuối của sơn hệ Bắc Sơn và những dải thung lũng rất hẹp dọc theo đôi bờ sông Thần Sa là nét đặc trưng của điạ hình Thần Sa. Chính trong các hang động ở Thần Sa, vào những thập niên 70-80, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện được một loạt các di khảo cổ có niên đại từ 30.000 đến 10.000 năm cách ngày nay, như: PhiêngTung, Ngườm, Nà Ngùn, Thắm Choong, Hạ Sơn 1, Hạ Sơn2...
    Hang Phiêng Tung nằm ở sườn Đông Nam núi Mèo, có độ cao khoảng 50m so với chân núi. Phiêng Tung, nghĩa tiếng Tày là cao và bằng phẳng. Hang rộng và thoáng có 2 tầng. Tầng trên nhỏ, tầng dưới cao 10m, rộng 10m, sâu 20m, rất thuận tiện cho người nguyên thuỷ cư trú . Qua 4 đợt khai quật vào các năm 1972, 1973, 1980 (2 đợt) các nhà khảo cổ học đã thu thập được 659 công cụ đá với nhiều loại hình công cụ, khác lạ về kỹ thuật chế tác. Đó là các loại: Công cụ hòn cuội, công cụ mũi nhọn, công cụ mảnh cuội, công cụ mảnh tước.
    Mái đá Ngườm, một di chỉ quan trọng nhất của khu di chỉ khảo cổ học Thần Sa nằm trên sườn núi phía Bắc dãy núi Ngườm, thuộc bản Trung Sơn, cách Phiêng Tung chừng 1 km về phía Nam. Đây là một mái đá khổng lồ, chiều rộng khoảng 60m, chiều cao 30m, nằm ở độ cao 30 m so với mặt sông Thần Sa chảy ngang trước mặt. Hố khai quật của di chỉ Ngườm cho thấy 4 điạ tầng văn hoá khảo cổ. Những di vật đá đặc trưng của nền văn hoá Bắc Sơn, Hoà Bình, Vi Sơn nằm ở tầng1, tầng 2. Ở tầng 3 thuần các công cụ đặc trưng của Ngườm. Và ở tầng văn hoá thứ 4 là hàng vạn công cụ đá kiểu Phiêng Tung.
    Như vậy, những phát hiện khảo cổ học ở Phiêng Tung và Ngườm đã giúp các nhà khảo cổ học xác định được: Ở Thần Sa có một nền văn hoá khảo cổ học-Văn hoá Thần Sa; chủ nhân của nền văn hoá này là người Homosapiens (người khôn ngoan)...
    Thần Sa là nơi con người nguyên thuỷ đã sống liên tục trong thời gian dài vài chục nghìn năm, là nơi mà các phát hiện khảo cổ quan trọng đã góp phần chứng minh sự xuất hiện và phát triển liên tục của con người thuộc nền văn hoá khảo cổ trên đất Việt Nam, từ Núi Đọ qua Thần Sa, Sơn Vi, Hoà Bình, Bắc Sơn... để bước sang thời sơ sử-Thời đại kim khí với nền văn hoá Đông Sơn rực rỡ.
    Do ý nghĩa quan trọng về mặt khoa học, có một vị trí đặc biệt quan trọng trong việc tìm hiểu về lịch sử tiến hoá của con người nguyên thuỷ trên đất Việt Nam nói riêng và cả vùng Đông Nam á lục điạ nói chung, khu di tích khảo cổ học Thần Sa đã được Nhà nước xếp hạng cấp Quốc gia.
  7. tamhoncuada_spt

    tamhoncuada_spt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2004
    Bài viết:
    4.513
    Đã được thích:
    0
    Thần Sa-Di tích người nguyên thuỷ​
    Hai chữ ?oThần Sa? cho ta ý nghĩ về một vùng đất nhiều sa khoáng quý hiếm. Đúng là như vậy. Từ thủa nhà Lê, nhà Mạc ở Thần Sa đã có mỏ khai thác vàng sa khoáng. Những thập niên 80-90 của thế kỷ XX, Thần Sa lại rộ lên, trở thành một tụ điểm khai thác vàng lớn với những bãi vàng nổi tiếng: Kim Sơn, Bản Ná, Tu Lườn, Boong Say... Nhưng có lẽ, Thần Sa được nhiều người trong và ngoài nước biết đến hơn bởi nơi đây là quê hương của nền văn hoá khảo cổ học Thần Sa nổi tiếng.
    Khu di tích Thần Sa nằm gọn trong địa phận huyện Võ Nhai, cách thành phố Thái Nguyên khoảng 25 km theo đường chim bay về phía Bắc-Đông Bắc. Những dãy đá vôi dày đặc thuộc phần cuối của sơn hệ Bắc Sơn và những dải thung lũng rất hẹp dọc theo đôi bờ sông Thần Sa là nét đặc trưng của điạ hình Thần Sa. Chính trong các hang động ở Thần Sa, vào những thập niên 70-80, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện được một loạt các di khảo cổ có niên đại từ 30.000 đến 10.000 năm cách ngày nay, như: PhiêngTung, Ngườm, Nà Ngùn, Thắm Choong, Hạ Sơn 1, Hạ Sơn2...
    Hang Phiêng Tung nằm ở sườn Đông Nam núi Mèo, có độ cao khoảng 50m so với chân núi. Phiêng Tung, nghĩa tiếng Tày là cao và bằng phẳng. Hang rộng và thoáng có 2 tầng. Tầng trên nhỏ, tầng dưới cao 10m, rộng 10m, sâu 20m, rất thuận tiện cho người nguyên thuỷ cư trú . Qua 4 đợt khai quật vào các năm 1972, 1973, 1980 (2 đợt) các nhà khảo cổ học đã thu thập được 659 công cụ đá với nhiều loại hình công cụ, khác lạ về kỹ thuật chế tác. Đó là các loại: Công cụ hòn cuội, công cụ mũi nhọn, công cụ mảnh cuội, công cụ mảnh tước.
    Mái đá Ngườm, một di chỉ quan trọng nhất của khu di chỉ khảo cổ học Thần Sa nằm trên sườn núi phía Bắc dãy núi Ngườm, thuộc bản Trung Sơn, cách Phiêng Tung chừng 1 km về phía Nam. Đây là một mái đá khổng lồ, chiều rộng khoảng 60m, chiều cao 30m, nằm ở độ cao 30 m so với mặt sông Thần Sa chảy ngang trước mặt. Hố khai quật của di chỉ Ngườm cho thấy 4 điạ tầng văn hoá khảo cổ. Những di vật đá đặc trưng của nền văn hoá Bắc Sơn, Hoà Bình, Vi Sơn nằm ở tầng1, tầng 2. Ở tầng 3 thuần các công cụ đặc trưng của Ngườm. Và ở tầng văn hoá thứ 4 là hàng vạn công cụ đá kiểu Phiêng Tung.
    Như vậy, những phát hiện khảo cổ học ở Phiêng Tung và Ngườm đã giúp các nhà khảo cổ học xác định được: Ở Thần Sa có một nền văn hoá khảo cổ học-Văn hoá Thần Sa; chủ nhân của nền văn hoá này là người Homosapiens (người khôn ngoan)...
    Thần Sa là nơi con người nguyên thuỷ đã sống liên tục trong thời gian dài vài chục nghìn năm, là nơi mà các phát hiện khảo cổ quan trọng đã góp phần chứng minh sự xuất hiện và phát triển liên tục của con người thuộc nền văn hoá khảo cổ trên đất Việt Nam, từ Núi Đọ qua Thần Sa, Sơn Vi, Hoà Bình, Bắc Sơn... để bước sang thời sơ sử-Thời đại kim khí với nền văn hoá Đông Sơn rực rỡ.
    Do ý nghĩa quan trọng về mặt khoa học, có một vị trí đặc biệt quan trọng trong việc tìm hiểu về lịch sử tiến hoá của con người nguyên thuỷ trên đất Việt Nam nói riêng và cả vùng Đông Nam á lục điạ nói chung, khu di tích khảo cổ học Thần Sa đã được Nhà nước xếp hạng cấp Quốc gia.
  8. tamhoncuada_spt

    tamhoncuada_spt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2004
    Bài viết:
    4.513
    Đã được thích:
    0
    Xòe vòng trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng của ngưòi Thái​
    Người Thái là một trong 54 dân tộc anh em cư trú trên lãnh thổ Việt Nam, tập trung chủ yếu ở vùng Tây Bắc, bao gồm các tỉnh: Sơn La, Lai Châu, Yên Bái, Lào Cai, Thanh Hóa, Nghệ An. Là cư dân nông nghiệp, người Thái thường sống tập trung thành từng bản, định cư khá bền vững ở các thung lũng trù phú được bao bọc bởi những dòng sông và khe suối, tạo nên những cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, thuận lợi cho việc phát triển kinh tế lúa nước.
    Đến với những điệu xòe của người Thái phải kể đến 36 điệu xòe nổi tiếng. Trong bài viết này chúng tôi đề cập đến điệu múa xòe vòng là một hình thức sinh hoạt đậm nét nhất phải kể đến.
    Xòe vòng là một hình thức múa vòng của người Thái, tiếng Thái là ?oxóe voóng?. Những người múa nắm tay nhau nên điệu múa này còn có tên là: Xóe khắm khen (múa cầm tay).
    Xòe vòng là hình thức múa dân gian phản ánh cuộc sống lao động và đấu tranh chống lại sự tàn phá của thiên nhiên, chống lại thiên tai, chống lại giặc ngoại xâm của dân tộc Thái. Mặt khác nó còn thể hiện giấc mơ của người dân về cuộc sống ấm no hạnh phúc.
    Người múa đứng thành vòng tròn nắm tay nhau, xòe vòng ban đầu còn hẹp, dần dần xòe vòng được mở rộng thêm ra vì số người tham gia mỗi lúc một đông, số lượng người tham gia không hạn chế, thường thì nam nữ đứng xen kẽ nhau, một nam ?" một nữ... vòng xòe đơn được chuyển động ngược chiều kim đồng hồ, vòng xòe đôi chuyển động ngược chiều nhau, một vòng đi xuôi , một vòng đi ngược.
    Một trong những yếu tố tạo nên đặc điểm của xòe vòng đã nói ở trên như: Đội hình, động tác... còn là âm nhạc. Nhạc của người Thái thường dùng là trống lớn (trống lớn bao gồm hai loại: Công và Cống. Cống là một loại trống dài gần một mét, làm bằng thân gỗ đục và bịt bằng da trâu, bò; đường kính khoảng 4,5dm. Tiếng Cống đục và vọng gần còn Công là một loại trống dài từ 1,5- 3m: đường kính từ 5- 7dm; bịt bằng da bò; tiếng trong , gọn, vang xa. Công còn được dùng để báo động khi Mường có việc hệ trọng).
    Ngoài ra còn dùng hai chiếc Chiêng, nhạc gõ tạo nên một không khí rộn ràng, sôi động có sức lôi cuốn mọi người vào cuộc xòe vòng. Tiết tấu của trống, chiêng đệm cho xòe vòng ở đây được đệm theo nhịp 2/4. Khi nhịp trống, chiêng càng dồn dập thì người thổi kèn cũng nhún nhảy theo điệu múa, sự kết hợp giữa khèn và trống, chiêng tạo ra một thể âm nhạc làm tăng thêm sự sôi động của xòe vòng.
    Xòe vòng có một sức hút mãnh liệt, nó thu hút mọi tầng lớp, lứa tuổi tham gia, không phân biệt già hay trẻ trai hay gái. Nó co stác đong kiách thích lao động sản xuất, sau những giờ làm việc lao động vất vả con người được hòa nhập với không khí vui tươi của hội xòe vòng, cùng nắm tay nhau nhảy múa quên hết mọi lo âu, mệt nhọc, cân bằng lại được tâm sinh lý. Khi hội tan con người trở lại với cuộc sống đời thường sẽ cảm thấy yêu cuộc sống hơn, hăng say lao động sản xuất để chờ những hội xòe vòng tiếp sau. Xòe là biểu tượng của tình yêu dân tộc Thái, khi tham gia hội xòe vòng còn có cảm giác được gặp nhau hơn, từ tình yêu làng bản cho tới tình yêu lứa đôi.
    Nằm trong hệ thống múa dân gian Việt Nam, xòe vòng đã đóng góp một vai trò to lớn vào vốn múa dân gian cổ truyền. Nó tự hào vì được xem là đặc trưng văn hóa của một tộc người. Nó góp phần đáng kể vào việc xây dựng một cuộc sống tươi vui, lành mạnh, thúc đẩy sản xuất, đóng góp vào mục tiêu xây dựng một nền văn hóa tien tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó phải kể đến sự đóng góp vô cùng to lớn của các Nhà dân tộc học, họ chính là những tư liệu sống để lưu truyền và phát triển và kế thừa vốn xòe vòng và truyền lại cho thế hệ mai sau.
  9. tamhoncuada_spt

    tamhoncuada_spt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2004
    Bài viết:
    4.513
    Đã được thích:
    0
    Xòe vòng trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng của ngưòi Thái​
    Người Thái là một trong 54 dân tộc anh em cư trú trên lãnh thổ Việt Nam, tập trung chủ yếu ở vùng Tây Bắc, bao gồm các tỉnh: Sơn La, Lai Châu, Yên Bái, Lào Cai, Thanh Hóa, Nghệ An. Là cư dân nông nghiệp, người Thái thường sống tập trung thành từng bản, định cư khá bền vững ở các thung lũng trù phú được bao bọc bởi những dòng sông và khe suối, tạo nên những cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, thuận lợi cho việc phát triển kinh tế lúa nước.
    Đến với những điệu xòe của người Thái phải kể đến 36 điệu xòe nổi tiếng. Trong bài viết này chúng tôi đề cập đến điệu múa xòe vòng là một hình thức sinh hoạt đậm nét nhất phải kể đến.
    Xòe vòng là một hình thức múa vòng của người Thái, tiếng Thái là ?oxóe voóng?. Những người múa nắm tay nhau nên điệu múa này còn có tên là: Xóe khắm khen (múa cầm tay).
    Xòe vòng là hình thức múa dân gian phản ánh cuộc sống lao động và đấu tranh chống lại sự tàn phá của thiên nhiên, chống lại thiên tai, chống lại giặc ngoại xâm của dân tộc Thái. Mặt khác nó còn thể hiện giấc mơ của người dân về cuộc sống ấm no hạnh phúc.
    Người múa đứng thành vòng tròn nắm tay nhau, xòe vòng ban đầu còn hẹp, dần dần xòe vòng được mở rộng thêm ra vì số người tham gia mỗi lúc một đông, số lượng người tham gia không hạn chế, thường thì nam nữ đứng xen kẽ nhau, một nam ?" một nữ... vòng xòe đơn được chuyển động ngược chiều kim đồng hồ, vòng xòe đôi chuyển động ngược chiều nhau, một vòng đi xuôi , một vòng đi ngược.
    Một trong những yếu tố tạo nên đặc điểm của xòe vòng đã nói ở trên như: Đội hình, động tác... còn là âm nhạc. Nhạc của người Thái thường dùng là trống lớn (trống lớn bao gồm hai loại: Công và Cống. Cống là một loại trống dài gần một mét, làm bằng thân gỗ đục và bịt bằng da trâu, bò; đường kính khoảng 4,5dm. Tiếng Cống đục và vọng gần còn Công là một loại trống dài từ 1,5- 3m: đường kính từ 5- 7dm; bịt bằng da bò; tiếng trong , gọn, vang xa. Công còn được dùng để báo động khi Mường có việc hệ trọng).
    Ngoài ra còn dùng hai chiếc Chiêng, nhạc gõ tạo nên một không khí rộn ràng, sôi động có sức lôi cuốn mọi người vào cuộc xòe vòng. Tiết tấu của trống, chiêng đệm cho xòe vòng ở đây được đệm theo nhịp 2/4. Khi nhịp trống, chiêng càng dồn dập thì người thổi kèn cũng nhún nhảy theo điệu múa, sự kết hợp giữa khèn và trống, chiêng tạo ra một thể âm nhạc làm tăng thêm sự sôi động của xòe vòng.
    Xòe vòng có một sức hút mãnh liệt, nó thu hút mọi tầng lớp, lứa tuổi tham gia, không phân biệt già hay trẻ trai hay gái. Nó co stác đong kiách thích lao động sản xuất, sau những giờ làm việc lao động vất vả con người được hòa nhập với không khí vui tươi của hội xòe vòng, cùng nắm tay nhau nhảy múa quên hết mọi lo âu, mệt nhọc, cân bằng lại được tâm sinh lý. Khi hội tan con người trở lại với cuộc sống đời thường sẽ cảm thấy yêu cuộc sống hơn, hăng say lao động sản xuất để chờ những hội xòe vòng tiếp sau. Xòe là biểu tượng của tình yêu dân tộc Thái, khi tham gia hội xòe vòng còn có cảm giác được gặp nhau hơn, từ tình yêu làng bản cho tới tình yêu lứa đôi.
    Nằm trong hệ thống múa dân gian Việt Nam, xòe vòng đã đóng góp một vai trò to lớn vào vốn múa dân gian cổ truyền. Nó tự hào vì được xem là đặc trưng văn hóa của một tộc người. Nó góp phần đáng kể vào việc xây dựng một cuộc sống tươi vui, lành mạnh, thúc đẩy sản xuất, đóng góp vào mục tiêu xây dựng một nền văn hóa tien tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó phải kể đến sự đóng góp vô cùng to lớn của các Nhà dân tộc học, họ chính là những tư liệu sống để lưu truyền và phát triển và kế thừa vốn xòe vòng và truyền lại cho thế hệ mai sau.
  10. tamhoncuada_spt

    tamhoncuada_spt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2004
    Bài viết:
    4.513
    Đã được thích:
    0
    Khu công nghiệp Sông Công
    Khu công nghiệp Sông Công nằm ở phía Bắc Thị xã Sông Công, cách Thành phố Thái Nguyên 20 km về phía Nam và cách Thủ đô Hà Nội 60 km theo quốc lộ 3; cách cảng đường sông Đa Phúc 15 km (từ đó đi cảng Cái Lân gần 100 km); cách ga Lương Sơn của tuyến đ­ờng sắt Hà Nội - Quán Triều 1 km và cách sân bay Quốc tế Nội Bài 40 km.
    - Toàn bộ KCN Sông Công được quy hoạch với diện tích 320 ha, trong đó số nhà máy công nghiệp lớn và một số xí nghiệp đang hoạt động chiếm 34,5 ha. Đó là các doanh nghiệp: Công ty Diezen Sông Công, Nhà máy Y cụ II, Công ty Phụ tùng số I, Công ty liên doanh Mani - Meinfa.
    - Trong chiến lược phát triển công nghiệp toàn quốc, tam giác kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh chiếm vị trí hết sức quan trọng, trong đó có vùng công nghiệp Thủ đô Hà Nội và trục công nghiệp Đa Phúc, Đông Triều, Uông Bí hướng ra cảng Cái Lân. Khu công nghiệp Sông Công nằm trong vành đai công nghiệp Thủ đô Hà Nội có mối quan hệ đặc biệt trong sự phát triển các khu công nghiệp phía Bắc và trục quốc lộ đi lên vùng công nghiệp Thái Nguyên và đi các tỉnh phía Bắc.
    - Khu công nghiệp Sông công có sẵn hệ thống hạ tầng tương đối hoàn chỉnh, cụ thể như sau:
    + Nhà máy nước Sông Công có công suất 30.000 m3/ngày đêm, hiện nay mới đang hoạt động ở mức 7.000 m3/ngày đêm.
    + Trạm biến áp 110KV-16 MVA. Tuyến đường điện Đông Anh - Quán Triều đi qua KCN.
    + Hệ thống đường bộ atsphan chất lượng tốt. Đường Cách mạng tháng 10 chạy suốt chiều dài KCN.
    + Khu nhà tập thể có thể đảm bảo chỗ ở cho công nhân trong giai đoạn đầu.
    +Hệ thống thông tin liên lạc của Thị xã: Bưu điện Sông Công đã được xây dựng hiện đại, với tổng đài điện tử thế hệ mới TĐXIB loại RSS và hệ NEC 613 thuận lợi cho việc giao dịch trong nước và quốc tế.
    Khu công nghiệp Sông Công I - Thái Nguyên:
    - Ngày 01/9/1999 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 181/1999/QĐ-TTg về việc thành lập và phê duyệt dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN Sông Công I - Thái Nguyên. Khu công nghiệp Sông Công I là giai đoạn I của Khu công nghiệp Sông Công.
    - Khu Công nghiệp Sông Công I có thời gian hoạt động 50 năm, diện tích 70 ha, tổng vốn đầu tưcho KCN Sông Công I gần 77 tỷ đồng do Công ty Công trình giao thông I - Thái Nguyên làm Chủ đầu tư. Đây là KCN đầu tiên của tỉnh được thành lập và hoạt động theo Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao ban hành kèm theo Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997.
    - KCN Sông Công I có quy mô vốn đầu tưhợp lý. Bố trí cây xanh ở đây bảo đảm kiến tạo một KCN có môi trường trong sạch. Quan điểm kiến trúc - quy hoạch của KCN Sông Công I là giữ gìn cảnh quan, đảm bảo đặc thù địa hình của vùng trung du Bắc bộ, đây là nét độc đáo so với các KCN khác ở miền Bắc.
    - KCN Sông Công I được xây dựng theo hình thức cuốn chiếu, xây dựng đến đâu cho thuê đến đấy. Trước mắt tập trung xây dựng 20 ha phục vụ các nhà đầu tư đã cam kết vào KCN. Tuyến đường Cách mạng tháng 8 đã được sửa chữa nâng cấp và sẽ được mở rộng để đảm bảo nhu cầu về giao thông vận tải theo đúng dự án đã được phê duyệt.
    Các ngành nghề, lĩnh vực khuyến khích đầu tư vào KCN Sông Công I:
    KCN Sông Công I là nơi thu hút dự án thuộc các ngành nghề: Cơ khí chế tạo, Toa xe phụ tùng, Thiết bị điện và lắp ráp, Dụng cụ y tế, Vật liệu xây dựng, Chế biến nông lâm sản, Các ngành công nghiệp nhẹ tổng hợp khác.
    KCN Sông Công I còn là nơi tiếp nhận các dự án cải thiện môi trường sinh thái, di dời cơ sở sản xuất khỏi khu đô thị, các dự án kinh doanh dịch vụ trong KCN
    Được tamhoncuada_spt sửa chữa / chuyển vào 14:11 ngày 10/08/2004

Chia sẻ trang này