1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Dạy tiếng Việt cho người nước ngoài.

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi ivory, 12/11/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ivory

    ivory Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2002
    Bài viết:
    6
    Đã được thích:
    0
    Dạy tiếng Việt cho người nước ngoài.

    Dạy tiếng Việt cho người nước ngoài như thế nào để có hiệu quả nhất đây???? Ai co kinh nghiệm thì cứu em với!

    Shang ah
  2. canandcannot

    canandcannot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    0
    Tớ từng đi dạy tiếng Việt cho người nước ngoài rồi em ạ. Đứa nào nó muốn học thực thụ thì còn đỡ, đứa nào nó ko muốn học lắm thì cực lắm!
    Em kiếm lấy một cuốn giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài ấy, cuốn do Nguyễn Quế Anh biên soạn là hay nhất. Dựa trên nội dung cơ bản đó mà dạy. Mỗi hôm mở rộng giáo trình một tí (ko có trong giáo trình ấy). Em cứ nhìn xung quanh có cái gì chỉ cái ấy mà dạy từ mới, cũng phải được khá thời gian mới hết ấy chứ.
    Với lại theo kinh nghiệm của tớ thì tuỳ vào ngành nghề của người học mà dạy thêm về nội dung ngành đó.
    Dạy phát âm mới thật là chuối, nhưng đành phải kiên nhẫn thôi.
    Hồi trước, tớ nhớ hôm ấy dạy đến từ giò lụa thế là tớ phải mua 1 khoanh giò đến cho nó ăn thử, để nó nhớ nhanh. (nhưng mà chỉ thi thoảng thôi nhá, hôm nào cũng mua thế thì hết bà nó tiền công dạy roài)
    Can
  3. kydd

    kydd Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/11/2003
    Bài viết:
    26
    Đã được thích:
    0
    Ông anh tốt bụng ơi, nhưng tui dạy tiếng Việt cho một lũ cấp 3, đàu óc củ chuối, lại không ở VN nữa cơ.........Ông bảo tui nên thế nào? Hồi sinh viên dạy tiếng Anh cho một ông Hàn quốc đã thấy ớn lắm cái đầu HQ rồi..........Hu hu, help me!
  4. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Bài viết này nói về vấn đề dạy Tv, nhưng nhất thiết khong phải là người nước ngaòi, cũng khá lí thú, nên post lên cho mọi người đọc
    Chuyện dạy tiếng Việt như một ngôn-ngữ-một-rưỡi
    ...?oÐã thông thạo tiếng Việt?? Thật ra, viết như thế, tôi biết, thật mơ hồ. Thông thạỏ Có hàng chục mức độ thông thạo khác nhaụ Không phải năm nào, bước vào lớp, tôi cũng hiểu ngay mức độ thông thạo ấỵ Có năm, buổi khai giảng, bước vào lớp, thấy rất đông sinh viên, tôi mừng vô hạn. Bắt đầu là vài câu thăm dò, thấy ai cũng biết chào hỏi, đối đáp bằng tiếng Việt khá trôi chảy, tôi càng mừng. Sau đó, giới thiệu chương trình trong học kỳ, thấy sinh viên chăm chú lắng nghe, thậm chí, có vẻ thích thú, tôi lại càng mừng. Mừng sinh hứng, tôi nói huyên thuyên về những cái hay, cái đẹp, những sự tinh tế và những sự phức tạp của tiếng Việt và văn chương Việt Nam: lớp học im phăng phắc, thỉnh thoảng năm bảy cái đầu gật gù, tán thưởng. Thao thao đâu gần cả tiếng đồng hồ, tôi mới dừng lại, hỏi sinh viên có thắc mắc gì không. Chờ lâu, thật lâu, một trong năm bảy em sinh viên hay gật gù có vẻ tán thưởng nhất mới rụt rè đưa tay lên, hỏi: ?oThưa thầy, ''tinh tế'' hay ''phức tạp'' nghĩa là sao, hả thầỷ? Nghe hỏi, tôi ngạc nhiên đến bàng hoàng. Lặng người một lát, tôi mới giải thích chữ ?otinh tế? và ?ophức tạp?, rồi hỏi lại em sinh viên ấy: ?oVậy, hồi nãy đến giờ, em có hiểu những gì thầy giảng không?? Em sinh viên đỏ bừng hai má, gật đầu: ?oChút chút.? Tôi kinh ngạc: ?oỦa, sao em có vẻ gật gù như thích lắm vậỷ? Em sinh viên ngượng nghịu: ?oDạ, em không hiểu lắm, nhưng nghe thầy đọc thơ, giọng cứ lên xuống, lên xuống, nghe... dzui quá.?
    Thật tình, trong đời, chưa bao giờ tôi tưởng tượng ra cảnh mình có thể ?ogóp vui văn nghệ? cho sinh viên thành công đến như vậỵ Sau đó, tôi tởn. Trước khi giảng bất cứ bài thơ hay bài văn nào, tôi cũng đều yêu cầu sinh viên đọc thật kỹ, và giảng tất cả những từ ngữ khó. Một hôm, đọc đến câu thơ ?oTuổi ấu thơ hòn cù lao xa khuất / Và tình yêu như đám lau buồn? của Thanh Tâm Tuyền, tôi dừng lại, hỏi sinh viên về chữ ?ocù lao?. Cả lớp im. Rồi một em giơ tay lên, hăm hở: ?oThưa thầy, em nhớ rồị? Tôi mừng, hỏi: ?oCù lao nghĩa là gì?? Em sinh viên ấy đáp, giọng đầy tự tin: ?oCù lao là cái lẩụ? Tôi chưng hửng, nhưng, ừ, thôi thì... cũng được, ít ra em cũng biết cái lẩu còn có tên là cái cù laọ Lần khác, không nhớ giảng về điều gì đó, gặp chữ ?ochiến dịch?, tôi lại hỏi các sinh viên; một em nhanh nhẩu trả lời bằng tiếng Anh: ?oduck egg?. Tôi ngơ ngác, hỏi đi hỏi lại, mới biết là em nhầm ?ochiến dịch? với chữ ?otrứng vịt? mà em phát âm theo giọng miền Nam là ?ochứng dzịt?. Lần khác nữa, gặp chữ ?otái tê?, tôi lại hỏị Không ai trả lời, nhưng một sinh viên vọt miệng hỏi ngược lại tôi: ?o''Tái tê'' có gì giống với ''tái chín'' hay ''tái nạm'' không hả thầỷ?
    Những chuyện như vậy, kể ra, hẳn nhiều người ngạc nhiên. Trên tạp chí Hợp Lưu số 73, ra vào tháng 10 và tháng 11, 2003, trong mục ?oVới văn hữu và độc giả?, có lá thư của một người tự xưng nguyên là ?ogiáo sư tư thục? tại Sài Gòn trước đây, bày tỏ sự bất bình và lo âu trước trình độ tiếng Việt của các sinh viên Việt Nam tại đại học Berkeley, Hoa Kỳ khi thấy, trong một bài viết đăng trên Hợp Lưu trước đó, một sinh viên hiểu lầm chữ ?ophụ? trong ?ophụ nữ? là phụ thuộc. Vị giáo sư ấy kết thúc lá thư bằng giọng đầy ưu thời mẫn thế: ?oTôi không biết trường đại học Hoa Kỳ Berkeley giảng dạy Việt văn ra sao nhưng như thế này thì nguy quá...?. Không biết vị giáo sư ấy, đọc những gì tôi kể trên, sẽ cảm thấy tình trạng giảng dạy Việt văn tại Úc ?onguy ngập? đến đâụ
    Ai muốn lo thì cứ việc tự nhiên lo, nhưng xin đừng quên là, với phần lớn các sinh viên Việt Nam ở hải ngoại hiện nay, thuộc lứa tuổi từ khoảng 18 đến 21, tiếng Việt không còn là ngôn ngữ thứ nhất như thế hệ phụ huynh của họ. Một số khá đông sinh trưởng ở ngoại quốc, chưa từng bao giờ đặt chân đến Việt Nam cả. Một số khác, tuy sinh đẻ ở Việt Nam, nhưng lại rời Việt Nam trước khi bước chân vào mẫu giáọ Họ học tiếng Việt chủ yếu từ cha mẹ, ông bà và họ hàng. Tiếng Việt của họ là thứ tiếng Việt mang tính khẩu ngữ, thường được sử dụng trong gia đình, xoay quanh chuyện nhà cửa, quần áo, giày dép, và nhất là chuyện ăn uống. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà phần lớn các lầm lẫn mà các sinh viên của tôi vấp phải đều có quan hệ xa gần với chuyện ẩm thực.
    Ðối với những người có trách nhiệm giảng dạy tiếng Việt ở hải ngoại, điều đáng lo không phải là lo cho người đi học mà, thành thực mà nói, lo cho chính người đứng trên bục giảng. Bởi, dạy tiếng Việt cho học sinh hay sinh viên Việt Nam ở hải ngoại chắc chắn là khác hẳn với việc dạy tiếng Việt ở Việt Nam. Ở Việt Nam, tiếng Việt là ngôn ngữ thứ nhất của học sinh và sinh viên: trước khi vào lớp, ngay cả lớp vỡ lòng, tiếng Việt của các em đã khá lắm rồi; trong suốt thời gian đi học, tiếng Việt của các em không ngừng được bồi bổ từ trong gia đình đến ngoài xã hội, từ các cuộc giao tiếp trong đời sống hàng ngày đến các phương tiện truyền thông đại chúng chung quanh. Vai trò của thầy cô giáo, do đó, chỉ chiếm một phần khá nhỏ. Thầy cô giáo không giỏi, học trò vẫn có thể nói tiếng Việt giỏị Ở hải ngoại thì khác. Vùng không gian sử dụng tiếng Việt thật hẹp: may lắm là trong gia đình và trong các lớp tiếng Việt. Nói là ?omay? vì ngay trong phạm vi gia đình và trong lớp tiếng Việt, thời gian các em sử dụng tiếng Việt cũng không nhiều, chủ yếu là với bố mẹ và thầy cô giáo; còn chuyện trò với anh em hay bạn bè, các em vẫn thường sử dụng tiếng Anh hay một thứ tiếng nào ở bản xứ là chính. Ðó là chưa kể vây bọc chung quanh các em, từ truyền hình đến truyền thanh, từ phim ảnh đến âm nhạc, hầu hết đều không phải là tiếng Việt
    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  5. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Tuy nhiên, với các học sinh hay sinh viên Việt Nam ở hải ngoại, tiếng Việt cũng không hẳn đã là ngôn ngữ thứ haị Một người Việt Nam sinh trưởng ở hải ngoại đi học tiếng Việt, cho dù là lần đầu tiên, cũng không giống với một người Úc hay một người thuộc các sắc tộc khác học tiếng Việt. Không giống, ít nhất, ở hai điểm. Thứ nhất, trong bốn kỹ năng chính của ngôn ngữ: nghe, nói, đọc và viết; kỹ năng nghe của học sinh và sinh viên Việt Nam, nói chung, thường rất khá. Họ có thể viết vụng, đọc yếu, nói năng ngọng nghịu nhưng thường hiểu rất nhanh khi nghe giảng bàị Lý do chủ yếu là vì, cho đến nay, trong phần lớn các gia đình người Việt, cha mẹ và ông bà thường vẫn giữ thói quen nói tiếng Việt với con cháụ Trong khi đó, một người Úc hay bất cứ một người ngoại quốc nào, khi học tiếng Việt, việc trau dồi kỹ năng nghe bao giờ cũng rất khó, nếu không nói là khó nhất: khi nói, người ta có thể chủ động, và có thể chuẩn bị trước được; còn khi nghe, người ta hoàn toàn bị động và ở trong thế bất ngờ, đòi hỏi phải ứng phó ngay tức khắc. Thứ hai, người học ngôn ngữ từ thuở bé và trong gia đình, bất chấp vô số các hạn chế về từ vựng và kiến thức ngữ pháp, vẫn có một ưu thế hơn hẳn những người ngoại quốc mới bắt đầu học một ngôn ngữ xa lạ trong nhà trường, đó là ở khả năng đoán nghĩạ Khả năng này thường rất dễ thấy ở trẻ em: xem tivi, chúng có thể nắm bắt câu chuyện dễ dàng, dù, nếu chúng ta chận lại hỏi ý nghĩa của một từ nào đó vừa mới nghe, chúng sẽ nghệch mặt ra, không thể giải thích được, và thật ra, cũng không biết được. Thế nhưng toàn câu chuyện thì chúng hiểụ Chúng hiểu, chủ yếu là nhờ đoán. Trong khi đó, một người ngoại quốc cần phải có thật nhiều thời gian và phải đạt đến một trình độ tương đối khá cao, mới có thể đoán được những chữ mình hoàn toàn chưa học như thế.
    Không phải ngôn ngữ thứ nhất, cũng không phải ngôn ngữ thứ hai, với học sinh hay sinh viên Việt Nam ở hải ngoại, tiếng Việt là thứ ngôn-ngữ-một-rưỡị[9] Loại ngôn ngữ này có những đặc điểm riêng, và do đó, những yêu cầu về phương pháp luận riêng: dạy ngôn-ngữ-một-rưỡi như một ngôn ngữ thứ nhất, người học sẽ chán vì thấy quá khó; dạy như một ngôn ngữ thứ hai, họ cũng chán vì thấy quá dễ. Tiếc, tất cả những điều này đều chưa được nghiên cứu kỹ dù đó là một thực tế mà chúng ta phải đối diện hàng ngày ở hải ngoạị Hơn nữa, đối diện với thực tế ấy, chúng ta có rất ít điều để thừa hưởng: phần lớn các tài liệu ngôn ngữ học có sẵn, bằng các thứ tiếng phổ thông ở Tây phương, đều tập trung vào việc dạy và học ngôn ngữ thứ nhất hoặc ngôn ngữ thứ haị Rất hiếm có tài liệu nào bàn luận về loại ngôn-ngữ-một-rưỡi, một loại ngôn ngữ chủ yếu chỉ phổ biến trong các cộng đồng lưu vong.[10] Và cũng chỉ phổ biến trong một giai đoạn nào đó mà thôi: khi cộng đồng lưu vong mới hình thành, nó chưa có; khi thế hệ thứ nhất của cộng đồng lưu vong ấy hoàn toàn biến mất, chắc nó cũng sẽ không còn nữạ Hoặc nếu còn, chỉ còn ở mức độ thật èo uột.
    Ngôn-ngữ-một-rưỡi khác ngôn ngữ thứ nhất và ngôn ngữ thứ hai ở nhiều điểm.
    Trước hết, trình độ khởi đầu chung của những người học ngôn ngữ thứ nhất cũng như ngôn ngữ thứ hai khá ổn định: với người học ngôn ngữ thứ hai, đó là con số không to tướng; với người học ngôn ngữ thứ nhất, đó là những từ vựng và ngữ pháp căn bản mà mọi đứa trẻ bình thường đều biết. Trình độ khởi đầu chung của ngôn-ngữ-một-rưỡi phức tạp hơn nhiều: chúng thay đổi theo từng gia đình và điều kiện giáo dục cụ thể của từng ngườị Ở đây, nói chung hình như những học sinh và sinh viên sinh trưởng trong gia đình lao động lại có nhiều cơ hội nói tiếng Việt giỏi hơn những gia đình trí thức cao; những người sống trong gia đình đông người, ngoài cha mẹ, còn có cả ông bà, chú bác dễ giỏi tiếng Việt hơn những người chỉ sống với bố mẹ, nhất là khi bố mẹ cùng đi làm ở ngoài; những người sống ở các địa phương tập trung nhiều người Việt cũng dễ thông thạo tiếng Việt hơn những người sống hoà lẫn với những người bản xứ hoặc các sắc tộc khác. Chính vì vậy, hầu hết các lớp tiếng Việt ở hải ngoại đều bao gồm nhiều trình độ khác nhau: có sinh viên nói, đọc và viết đều khá; và có cả những sinh viên chỉ biết nói, còn đọc và viết thì lại kém, hay có khi, rất kém. Dạy những lớp đa trình độ ấy là một công việc phức tạp và nhọc nhằn. Phức tạp và nhọc nhằn hơn nữa khi mỗi năm trình độ sinh viên mỗi khác, đòi hỏi một chương trình và một cách dạy khác. Những sự thay đổi này làm cho tham vọng tìm kiếm một phương pháp luận giảng dạy phổ quát và cố định dễ trở thành một giấc mơ hão huyền.
    Thứ hai, khác với người sử dụng ngôn ngữ thứ nhất vốn có khả năng cảm nhận ngôn ngữ như những kinh nghiệm cụ thể và trực tiếp, người sử dụng ngôn-ngữ-một-rưỡi và ngôn ngữ thứ hai thường chỉ có khả năng cảm nhận ngôn ngữ như những khái niệm trừu tượng và do đó, mơ hồ. Chính điều này làm cho những người sử dụng tiếng Việt như một thứ ngôn-ngữ-một-rưỡi khó, và những người sử dụng tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai cực kỳ khó, có thể cảm thụ được cái hay trong âm vang của một chữ, một câu, yếu tố quan trọng nhất làm nên cái đẹp của thơ văn Việt Nam. Tôi đã nhiều lần loay hoay, và cuối cùng, tuyệt vọng trong nỗ lực làm cho sinh viên hiểu được những cái hay thật tế nhị trong một cách dùng từ hay một hình ảnh, một sự ví von trong thơ văn Việt Nam. Mà kể cũng phải thôị Ngôn ngữ đâu phải chỉ là chữ. Và chữ đâu phải là những ký hiệu vô hồn trên trang giấỵ Mỗi chữ có bề dày văn hoá của nó. Những bề dày ấy được hình thành từ lịch sử, từ nếp sinh hoạt trong xã hội, từ tính chất liên văn bản: các văn bản khác sẽ vang âm trong văn bản này, khiến chữ cũng xôn xao, cũng ngân nga, như có cuộc hoà nhạc tự bên trong. Không thâm nhập được vào cái bề dày văn hoá thăm thẳm, có khi vô tận ấy, người ta khó có hy vọng tiếp cận được cốt tuỷ của thơ văn. Chẳng hạn, không từng thấy cánh cò, không từng nghe lời ru ?ocánh cò bay lả bay la?, không từng biết đến ruộng đồng và nếp sống êm ả ở các miền quê Việt Nam, có lẽ người ta khó cảm được hết cái hay và cái ấm trong những câu ca dao kiểu ?oCon cò mà đi ăn đêm...?
    Viết như thế, tôi không hề có ý chê bai trình độ của những người sử dụng tiếng Việt như một ngôn-ngữ-một-rưỡị Thật ra, mất cái này, họ được cái khác. Cảm nhận tiếng Việt như những khái niệm chứ không phải kinh nghiệm, một mặt, sinh viên khó cảm thụ được thơ văn, nhất là thơ văn cổ, nhưng mặt khác, họ lại dễ dàng phát huy khả năng phân tích để từ đó, dễ phát hiện ra những đặc điểm có tính chất ngôn ngữ học hay văn hoá đằng sau các con chữ ngỡ như bình thường nhất. Những ?ophát hiện? ấy chưa chắc đã có ý nghĩa khoa học gì đáng kể nhưng ít nhất chúng cũng giúp cho quá trình học tiếng Việt trở thành lý thú và có hiệu quả nhanh. Chữ ?otái tê? rõ ràng không có quan hệ gì với các chữ ?otái chín? hay ?otái nạm? trong các tiệm phở, nhưng dù vậy, sự liên tưởng ấy vẫn hợp lý: chúng nảy sinh từ sự tương đồng giữa các hình vị ?otái?. Lợi dụng thói quen liên tưởng ấy, chúng ta có thể giúp người học tiếng Việt như ngôn-ngữ-một-rưỡi mở rộng vốn từ của mình: từ chữ ?onhỏ? mà ai cũng biết, người ta sẽ dễ dàng biết thêm các chữ ?onhỏ nhoi?, ?onhỏ nhắn?, ?onhỏ nhen?, v.v... Rồi từ âm ?ooi? trong các chữ như ?olẻ loi?, ?oít oi?, ?oloi thoi?; các âm ?oắn? trong ''vuông vắn?, ?ođỏ đắn?, ?ongay ngắn?, ?othẳng thắn?...; và các âm ?oen? trong ?oven?, ?olen?, ?omen?... sinh viên sẽ dần dần hình dung ra những khác biệt trong màu sắc ngữ nghĩa của những chữ ?onhỏ nhoi?, ?onhỏ nhắn? và ?onhỏ nhen?, v.v... Nói cách khác, học từ mới là học luôn cả chùm từ vựng mới, những từ có quan hệ với nhau hoặc về ngữ nghĩa hoặc về cấu trúc ngữ âm và hình tháị
    Với thói quen phân tích được trau dồi từ nền giáo dục Tây phương, những người sử dụng tiếng Việt như ngôn-ngữ-một-rưỡi đặc biệt thích thú với việc truy tìm những đặc điểm văn hoá ẩn giấu đằng sau ngôn ngữ. Họ rất thích đặt những câu hỏi ?oTại saỏ?. Tại sao biểu tượng của đất nước, trong tiếng Anh là vùng đất để trồng trọt và chăn nuôi (country); trong tiếng Việt, lại chỉ là nước? Tại sao với người Việt Nam, dù có từ ghép ?ođất nước?, ?onước? rõ ràng vẫn quan trọng hơn ?ođất?, gắn liền với tình cảm và mang tính khái quát hơn ?ođất?? Tại sao ?onước? lại chiếm vai trò quan trọng đến như vậy trong tư duy của người Việt? Tại sao một số khá nhiều các nhận thức về con người và cuộc sống của người Việt Nam đều xuất phát từ kinh nghiệm họ có với nước: từ chuyện ?onông / sâu? trong nhận thức đến chuyện ?odạt dào / khô cằn? trong tình cảm, chuyện ?omặn mà / lạt lẽo? trong quan hệ giữa người và người, chuyện ?ochìm đắm? trong thói quen, chuyện ?otrôi nổi / lênh đênh? trong số phận, chuyện bài học đạo đức ?ouống nước nhớ nguồn?? Tại sao thế? Tất cả những điều đó có quan hệ gì đến vai trò của nước trong sinh hoạt nông nghiệp ở Việt Nam: ?onhất nước, nhì phân??? Vân vân. Rồi tại sao từ ?oăn? lại là từ nhiều nghĩa nhất trong tiếng Việt? Tại sao người Việt Nam dùng chữ ?oăn? để chỉ những sự tiếp nhận (ăn muối, ăn lương...), sự hài hoà (ăn đèn, ăn ảnh?), sự thắng bại (ăn /thua), và cả cách sống của con người nói chung (ăn ở / ăn nói / ăn học...)? Sự phong phú trong quá trình chuyển nghĩa của chữ ?oăn? liệu có quan hệ gì với việc thịnh phát của đề tài tham ăn trong kho tàng truyện tiếu lâm Việt Nam hay không? Rồi tại sao người Việt Nam gọi thịt chó là thịt cầỷ Tại sao, ngoài chữ thịt cầy lại có vô số những cách gọi khác, như: thịt nai đồng quê, thịt cờ tây, rồi lại phải nói lái chữ ?ocon cầy? thành ?ocây còn? rồi dịch ra chữ Hán để có một từ Hán Việt giả cầy là ?omộc tồn?? Tại sao phải nói năng lòng vòng và nhiêu khê như vậỷ Tại sao sự lòng vòng và nhiêu khê ấy không xuất hiện với các loại thịt khác như thịt heo, thịt bò và thịt trừu như trong một số ngôn ngữ Tây phương, nơi, chẳng hạn, như tiếng Anh, thịt của con pig được gọi là pork, thịt con cow, bull hay ox thì được gọi là beef, thịt con sheep thì được gọi là lamb?
    Với cách học như thế, ngay trong các lớp có vẻ như chuyên hẳn về văn học, mục tiêu chính mà sinh viên nhắm tới không phải là tìm hiểu cái hay và cái đẹp của thơ văn mà, qua các bài thơ và áng văn ấy, mở rộng kiến thức về ngôn ngữ và khám phá một số khía cạnh văn hoá ẩn kín đằng sau ngôn ngữ và đằng sau các sự kiện văn học.
    Và bản thân tôi, bị lôi cuốn - có khi bị xô đẩy - vào các cuộc khám phá như thế, một lúc nào đó, ngoảnh lại, lòng bỗng dưng thoáng chút bùi ngùi, thèm được nói về thơ, dẫu chỉ một câu thơ thôi, với những người có cùng kinh nghiệm văn hoá với mình, để có thể hiểu được, như mình, những cảm xúc bâng khuâng trong tiếng ngân của một chữ, hay có khi, một thanh bằng thanh trắc, kiểu ?oTài cao, phận thấp, chí khí uất / Giang hồ mê chơi quên quê hương?.
    Ủa, mà thơ của ai thế nhỉ? Nghe xa lắc như một giấc mơ của thuở thiếu thờị
    Melbourne 05.11.2003
    Nguyễn Hưng Quốc
    (Tạp Chí Việt )
    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]

Chia sẻ trang này