1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đế quốc Nguyên Mông - Thành Cát Tư Hãn

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Dilac, 31/07/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. despair

    despair Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/05/2005
    Bài viết:
    6.956
    Đã được thích:
    1.641
    Các bác lưu ý, sau thời An Dương Vương là thời Triệu Đà; Việt Nam hiện vẫn có 2 ý kiến trái chiều, về việc Triệu Đà có phải 1 triều đại ở VN ko? chính sử thì ko thừa nhận..
    Bản thân Triệu Đà là người Tàu, nhưng li khai khỏi chính quyền trung ương !!!
  2. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Chính sử hiện nay không thừa nhận nhưng chính sử thời Lê, Nguyễn thừa nhận, sử gia Lê Văn Hưu còn cho là triều đại dựng nước, mở đầu nghiệp đế vương cho nước Việt.
  3. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Bác châu phi cứ thấy ai nói đến Triệu Đà là lại nhảy vào bảo vệ, cái này đã cãi nhau chán ở cái topic mở nước kia rồi, giờ thấy ai nói về vấn đề này thì cứ lơ đi, chứ làm thế này lại biến topic về Thành Cát đi lạc đề quay lại lịch sử VN mất
    Trở lại vụ Thành Cát, hiện nay ko chỉ Tàu khựa mà mấy chú gần đó thuộc LX cũ cũng nhận vơ ông ấy vaò lịch sử, chú nào cũng dựng tượng, xây mộ...Tuy nhiên ko chú nào = Tàu khựa bởi bọn nó có truyền thống chôm chỉa những cái hay, cái đẹp nhận vơ vào mình (ví dụ như bóng đá là do nó, khám phá châu Mỹ cũng là người nó làm.v.v..v). Vì thế chuyện Tàu Khựa coi Thành Cát là 1 nhân vật lịch sử của mình ko có gì đáng ngạc nhiên, nếu ko nhận thì thử hỏi lịch sử Tàu thời Nguyên Mông và sau này là Mãn Thanh là thời kỳ Tàu bị đô hộ à, thế thì nhục quá nhất là với 1 đế chế lớn như Tàu, do vậy tốt nhất là nhận vào là của mình thế là xong . Mộ Thành Cát hiện chưa biết ở đâu nhưng thằng Tàu đã xây luôn rồi. Còn dưới đây là hình ảnh ngôi mộ đó và 1 bài biết ca ngợi nhé (chú ý là từ Mông Cổ trong bài viết này ko phải nói đến nước Mông Cổ mà hàm ý chỉ dân tộc Mông Cổ thuộc Nội Mông, mà Nội Mông lại thuộc đất Tàu chiếm được nên đương nhiên Tàu đánh đồng điều đó khi coi Thành Cát là của mình)
    [​IMG]
    Đâ?u thế ky? XIII, Tha?nh Cát Tư Hafn đaf thống nhất các bộ lạc trên tha?o nguyên miê?n bắc lục địa châu Á, tha?nh lập nước Hafn Mông Cô?. Trong mấy chục năm sau đó, Tha?nh Cát Tư Hafn va? nhưfng ngươ?i kế vị ông đaf không ngư?ng mơ? rộng thế lực thống trị cu?a nước Hafn Mông Cô?, hi?nh tha?nh một đế quốc rộng lớn có lãnh thổ kéo dài từ Á sang Âu. Giờ đây, khi mà nhưfng năm tháng chinh chiến của vó ngựa Mông Cổ đaf theo do?ng thơ?i gian trơ? tha?nh lịch sư?, ma? lăng mộ cu?a Tha?nh Cát Tư Hafn nă?m trên đô?ng co? Uốc Tốp ở Nội Mông Trung Quốc vẫn như tấm bia đá cao lớn sừng sững ghi chép lại đoạn lịch sư? bê? dâu va? nê?n văn hóa chói lọi cu?a dân tộc Mông Cô?.
    Ông Si-di-ơ-tơ-ni la? cháu tă?ng tôn đơ?i thứ 34 cu?a Tha?nh Cát Tư Hafn, cufng la? vị vương gia? cuối cu?ng trên tha?o nguyên Nội Mông, tự hào giới thiệu ră?ng, Tha?nh Cát Tư Hafn la? niê?m kiêu hafnh cu?a ngươ?i Mông Cô?: ?oCác đơ?i vua Mông Cô? trước khi lên ngôi đê?u đến tế lêf trước lăng mộ Tha?nh Cát Tư Hafn mới được kế thư?a ngôi vị. Co?n thươ?ng người dân thi? trước khi uống rượu va? ăn cơm, đê?u pha?i đem miếng cơm va? chén rượu đâ?u tiên kính dâng lên Tha?nh Cát Tư Hafn?.
    Tha?nh Cát Tư Hafn la? nha? chính trị va? nha? quân sự kiệt xuất cu?a dân tộc Mông Cô?, có cống hiến to lớn cho việc thống nhất các bộ lạc Mông Cô?. Cuối thế ky? XII, Tha?nh Cát Tư Hafn đaf thống lifnh đại quân đánh nam dẹp bắc, thống nhất được vu?ng cao nguyên Mông Cô? trên miê?n bắc Trung Quốc, tha?nh lập nên một đế quốc lớn mạnh. Năm 1227 Tha?nh Cát Tư Hafn qua đơ?i trên đươ?ng đi chinh chiến, theo ghi chép của sư? liệu thi hài Tha?nh Cát Tư Hafn được bí mật chôn cất ơ? phía nam núi A Ơ Thai hiện nay, nơi chôn cất đaf được ha?ng vạn con ngựa đạp bă?ng không để lại một dấu vết, vì thế cho mafi tới nga?y nay, ha?i cốt cu?a ông chôn cất ơ? đâu vâfn la? điê?u bí â?n.
    Sau khi Tha?nh Cát Tư Hafn qua đơ?i, con cháu đaf đem các di vật cu?a ông như yên ngựa, cơ? chiến, roi ngựa đặt trong chiếc lê?u ma?u trắng tám nóc đê? thơ? cúng. Đến giưfa thế ky? XV, các di vật na?y được rơ?i đến Uốc Tốp va? đặt ơ? ví trí cố định hiện nay. Vê? sau do thơ?i đại thay đô?i, chiến tranh liên miên, lăng mộ Tha?nh Cát Tư Hafn đaf tra?i qua mấy lâ?n di rơ?i. Sau khi tha?nh lập nước Trung Hoa mới, theo lơ?i thi?nh nguyện cu?a quâ?n chúng dân tộc Mông Cô?, chính phu? trung ương đaf cư? đoa?n đại biê?u rước lăng Tha?nh Cát Tư Hafn trơ? vê? quê hương Uốc Tốp. Tra?i qua hai lâ?n sư?a xây mơ? rộng, lăng Tha?nh Cát Tư Hafn hiện nă?m giưfa một khu đô?ng co?, ba to?a cung điện kiê?u lê?u Mông Cô? xếp tha?nh ha?ng chưf nhất với phong cách hu?ng hô?n, khí thế ba?ng bạc. Trong ngôi điện chính cu?a lăng viên có thơ? một pho tượng Tha?nh Cát Tư Hafn được tạc bă?ng bạch ngọc cao 5 mét, phía sau la? một tấm ba?n đô? cực lớn, phía trước tượng có lư hương va? đe?n thắp bằng bơ không bao giơ? tắt. Co?n phía sau điện va? hai ngôi điện ơ? phía đông va? phía tây thi? đặt linh cưfu ba vị phu nhân, cu?ng đô? du?ng cu?a Tha?nh Cát Tư Hafn như yên ngựa va?ng, thu?ng sưfa, cờ, roi, giáp v...v.
    Du khách khi đến thăm lăng Tha?nh Cát Tư Hafn, ngoa?i ngắm ca?nh ra co?n có dịp tham gia các hoạt động cúng tế rất đặc sắc cu?a dân tộc Mông Cô?. Việc cúng tế Tha?nh Cát Tư Hafn la? một hi?nh thức cao nhất trong nê?n văn hóa cúng tế cu?a dân tộc Mông Cô?, hoạt động na?y do ngươ?i coi giưf lăng la?m chu? tri?. Ông Cu-di-cha-pu giới thiệu ră?ng: ?oTôi la? cháu đơ?i thứ 38 cu?a đại tướng Pây Han Ơ Su cu?a Tha?nh Cát Tư Hafn. Gia tộc chúng tôi tư? đơ?i tô? tiên đaf bắt đâ?u thi ha?nh chức trách coi giưf lăng Tha?nh Cát Tư Hafn va? chu? tri? việc cúng tế. Thắp đe?n thánh, tụng kinh thư, tôi co?n sef truyê?n nhưfng công việc na?y cho con tôi?. Ông Cu-di-cha-pu còn cho biết, lăng Tha?nh Cát Tư Hafn bốn mu?a đê?u tô? chức hoạt động cúng tế. Hôm đó, trong lăng viên đê?u đặt đa?n tế, tấu nhạc, đô? cúng tế, ha?nh đại lêf, đọc tế văn, dâng rượu lêf v..v.V, hoạt động na?y kéo da?i mafi tới đêm khuya mới thôi. Nội dung chu? yếu la? ba?y to? sự su?ng bái cu?a mi?nh đối với trơ?i, tô? tiên va? các nhân vật anh hu?ng, đaf tái hiện được hi?nh thức tế vật chăn nuôi, tế ho?a, tế tư?u, tế ca cu?a dân tộc Mông Cô? thơ?i cô? xưa.
    Tại khu du lịch lăng Tha?nh Cát Tư Hafn co?n có một viện ba?o ta?ng văn hóa lịch sư? Mông Cô?. Đây cufng la? một viện ba?o ta?ng tô?ng hợp cơf lớn duy nhất chuyên cất giưf, nghiên cứu, trưng ba?y nê?n văn hóa va? lịch sư? cu?a dân tộc Mông Cô?.
    Ha?ng năm đê?u có rất nhiê?u du khách đến đây thăm quan, ngắm ca?nh. Ông Trương Nhân đến tư? miê?n đông bắc TQ nói, lăng Tha?nh Cát Tư Hafn rất có giá trị tham quan. ?oKiến trúc cu?a lăng có khí thế hu?ng vif, nhất la? các pho tượng ơ? đây rất có khí phách. Tôi đến Nội Mông đaf mấy lâ?n. Nhưng lê?u Mông Cô? to lớn như thế na?y la? lâ?n đâ?u tiên tôi nhi?n thấy. Tư? lịch sư? hay nhân vật đê?u bao ha?m nội dung rất phong phú ".
  4. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Tôi thấy nhận Thành Cát Tư Hãn là không hợp lí. Trung Quốc thế kỉ 12 -13 đã định hình quốc gia rõ ràng và có nền văn minh cao hơn hẳn Mông Cổ. Hốt Tất Liệt chiếm Kim, Nam Tống lập ra nhà Nguyên, học theo TQ về tổ chức nhà nước nên có thể nhận là triều đại của mình. Đó là chiếm được về quân sự nhưng không cai trị được văn hoá.
    Ở Ấn Độ, người Mông Cổ đã chiếm Ấn Độ, đánh bại triều đại của người Hồi giáo gốc Thổ Nhĩ Kĩ đang cai trị Ấn Độ, tiến hành cai trị, đồng hoá theo Ấn Độ, khôi phục lại bản sắc văn hoá cổ Ấn Độ vẫn được coi là triều đại của Ấn Độ - triều đại Mogol. Không biết thế này đế chế Mông Cổ khắp Á - Âu, mỗi lãnh thổ là do một thủ lĩnh riêng cai trị trên đất bản địa có còn là đế chế nữa không nhỉ? Khi mà các nước lớn như Trung Quốc, Ân Độ chia sẻ 1 phần của đế chế đó. Ngài Thành Cát Tư Hãn cũng chỉ là vua của người Mông Cổ thôi nhỉ, đâu phải người khai sáng các triều đại Nguyên ở Trung Quốc và Mogol ở Ấn Độ.
  5. kieuphong

    kieuphong Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/01/2002
    Bài viết:
    5.781
    Đã được thích:
    0
    Trước khi chửi thiên hạ thì sao kô nhìn lại mình?
    TQ là Đông Á bệnh phu, thế thì VN mình lúc bị Pháp đánh vô là cái gì?
    TQ tư tưởng Đại Hán, coi bốn phương là di địch, thế thì VN mình đối xử với Champa, Lào, Kmer năm xưa thế nào?
    TQ lịch sử 5000 năm là có thật, còn VN lịch sử chỉ hơn 2000 năm nhưng có 1 thời gian rất dài cứ tung hô thành 4000 thì nên coi là gì đây?
    TQ hèn hạ bỉ ổi thế nào thì kô biết, nhưng cũng sản sinh ra biết bao danh nhân, văn minh Hoa Hạ từng 1 thời là đỉnh cao của nhân loại, triết học TQ từ thời cổ đại đã có nhiều phát triển rực rỡ. Trong khi đó VN mình thời cổ đại đến giờ đã làm được cái gì?
    Hiện tại trên TG số GS người TQ ở các trường ĐH nhiều kô đếm xuể, so sánh với người VN thì thế nào?
    Sơ sơ thế thôi, để thấy VN cần học hỏi thiên hạ (kô chỉ riêng TQ) nhiều điều.
  6. brucelee1306

    brucelee1306 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/08/2006
    Bài viết:
    640
    Đã được thích:
    0
    Thấy trên đây có nhiều anh em ghét TQ quá nhỉ? Thôi tớ xin nói 1 câu công bằng thế này : người TQ ko hẳn ai cũng xấu, nhưng thật tế mình cần nhìn nhận là TQ có nhiều thứ đáng để mình học hỏi, còn về chính sách thù địch của TQ đối với VN thì đúng là ta ko thể nhân nhượng được nhưng ta nên học những cái hay của kẻ thù để làm mạnh mình lên thì cũng là điều rất khôn ngoan đấy!
  7. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Đúng rồi, 1 số đồng chí ko nên nhầm lẫn đi xa chủ để của topic. Tàu thì trong đây ai cũng ghét nhất là về thái độ, hành động của nó với VN, còn về văn hóa của nó thì ok, có nhiều cái hay cái tốt đáng học vì thế ko phải ghet nó là ghét tất. Đừng có mà đánh đồng nhé
  8. hatakekakashivn87

    hatakekakashivn87 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/04/2006
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    0
    Em chả ghét gì dân TQ và nước TQ cả. Đất nước ấy có nhiều điều để chúng ta học hỏi, đó là điều chắc chắn. Không phải vô lí mà cha ông ta thường hay so sánh nước mình và TQ. Lí do đơn giản vì chúng ta có nhiều điểm tương đồng với TQ.
    Nhưng cũng nên nhắc lại: Chúng ta không phải là cái sân sau của bọn nó.
    Em bây giờ mới biết TQ coi Thành Cát Thư Hãn là người mở ra đế quốc Nguyên Mông tại TQ. Đến chịu bọn này.
    Nhà Thanh thì nổi tiếng hơn, và người Hán phải công nhận, do có nhiều hiệp ước mà nhà Thanh đã kí, TQ tiếp tục.
    Theo ý em, các bác cũng nên xem xét lại về TQ ngày nay 1 tí. Đất nước ấy có 56 dân tộc, người Hán đông nhưng không phải là tất cả. Nếu bác là người Mông sống tại TQ, bác sẽ nghĩ thế nào khi thấy cha ông mình được coi trọng trong lịch sử, được coi như 1 triều đại lớn của TQ. Đó sẽ là lòng tự hào, và sau đó là tinh thần yêu nước TQ tăng thêm. Họ sẽ coi TQ là tổ quốc của mình, nơi cha ông họ trước kia đã mở mang.
    Điều tương tự với những người Mãn thôi, họ tự hào khi có 1 quá khứ huy hoàng rực rỡ gắn liền với lịch sử TQ. Không còn nhiều điều về tổ chức trước đó của người Mãn, mà là nhà Đại Thanh rực rỡ.
    Em thấy các bác trong này cứ nghĩ đến TQ là nghĩ đến người Hán. Tuy đây là dân tộc đông nhất, đóng góp nhiều nhất cho TQ, nhưng nó ko đại diện cho toàn bộ đất nước này.
    Vì vậy, những việc làm như thế này của chính phủ TQ theo em là cực kì khôn ngoan, vì nó tăng cường tính đoàn kết dân tộc của TQ- điều cực kì quan trọng ở đất nước này. Ở một đất nước đa sắc tộc, mà các dân tộc đều không hề it, như người Mông gần 10 triệu, người Mãn hơn 20tr, (hơn nhiều nước châu Âu về dân số) thì tinh thần đoàn kết là quan trọng nhất.
    Một trong số những cách như thế là làm cho các dân tộc thấy rằng họ gắn liền với TQ, lịch sử huy hoàng của họ cũng là lịch sử huy hoàng của Trung Hoa. Qua đó, họ sẽ thấy tương lai của mình cũng gắn liền với thịnh suy của đất nước.
    Đó là những ý kiến của em về vấn đề này, các bác có ý kíên khác em vẫn muốn nghe.
  9. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    5. Thành-cát-tư Hãn và những người kế nghiệp
    Thành-cát-tư Hãn có sáu người vợ Mông Cổ và không biết bao nhiêu là vương phi người các nước khác, con cái đông vô kể. Trước khi chết, ông đã định rằng sẽ nối nghiệp mình chỉ là bốn người con trai của người vợ cả Mông Cổ tên là Borte, cưới nhau khi bà này mới 14 tuổi. Đế quốc của ông được chia ra làm bốn, ba hãn quốc ở phương tây và một đại hãn quốc ở phương đông bao gồm đất khởi nguyên Mông Cổ và vùng Đông-Bắc-Á phần cho người con thứ ba mà ông cho là tài giỏi hơn cả. Con cháu Thành-cát-tư Hãn tiếp tục mở rộng đế quốc Mông Cổ.
    Ở phần dưới đây, những chữ đậm nét dùng để chỉ tên những người đã làm ĐẠI HÃN (vua lớn) hoặc Hãn (vua); những chữ số La Mã dùng để chỉ các thế hệ (I là thế hệ Thành-cát-tư Hãn, II là thế hệ các con, III là thế hệ các cháu); bốn chữ cái (A, B, C, D) dùng để chỉ số thứ tự con của Thành Cát Tư Hãn (A là con trưởng, B là con thứ hai, C là con thứ ba, D là con út); những chữ số Ả Rập (1, 2, 3, 4) dùng để chỉ số thứ tự con của từng ngành.
    (I) THIẾT MỘC CHÂN (Temujin) tức THÀNH-CÁT-TƯ HÃN (Genghis Khan).
    (II A) Thuật Xích (Jochi, Juji), có hai con trai là:
    (III A1) Batu.
    (III A2) Berke.
    (II B) Sát Hợp Đài (Chagatai, Jiagatai).
    (II C) OA KHOÁT ĐÀI (Ogodei, Ogotai), có con trai là:
    (III C1) QUÝ DO (Guyuk).
    (II D) Đà Lôi (Tolui, Tule), có bốn con trai là:
    (III D1) MÔNG KHA (Mongke, Manggu).
    (III D2) HỐT TẤT LIỆT (Kubilai).
    (III D3) Ariq-Boke.
    (III D4) Húc Liệt Ngột (Hulagu).
    Khi chọn người thừa kế chức đại hãn, Thành-cát-tư Hãn rất phân vân. Đà Lôi là tướng tài nhưng quá thận trọng và đa nghi. Còn Oa Khoát Đài hơn Đà Lôi về khả năng chính trị. Khi ông băng hà, Hoàng tộc bầu cho Đà Lôi vì theo truyền thống Mông Cổ, con út thừa hưởng gia tài, hơn nữa, Đà Lôi đang nắm quyền lực và quân đội. Nhưng Đà Lôi, theo ý cha, nhường ngôi cho anh là Oa Khoát Đài.
    Đà Lôi lấy Sorghaghtani-Beki sinh được Mông Kha, Hốt Tất Liệt, Ariq-Boke (không biết danh xưng Hán-Việt là gì) và Húc Liệt Ngột. Sau khi Oa Khoát Đài, rồi con là Quý Do chết, các con của Đà Lôi tranh ngôi với con của Thuật Xích. Rồi Hốt Tất Liệt và Ariq-Boke lại tranh nhau.
    6. Đế quốc Mông Cổ: ba Hãn quốc ở phương Tây
    Sau khi Thành-cát-tư Hãn mất, quân Mông Cổ lại kéo nhau sang hướng tây, chiếm đóng các nước mà ông đã đánh bại trong bảy năm viễn chinh trước kia (1218-1225). Rồi các con ông, các cháu ông mở mang thêm bờ cõi để tạo ra một đế quốc rộng lớn chưa từng có. Đế quốc đó gồm ba hãn quốc ở phương tây và một đại hãn quốc ở phương đông.
    Hãn quốc Sát Hợp Đài ở Trung Á: năm 1230, quân Mông Cổ đi về hướng tây-nam sang nước Kyrghizistan, rồi nước Tadjikistan. Hai nước này họp lại thành một nước gọi là Sát Hợp Đài, vua là (II B) Sát Hợp Đài, con thứ hai của (I) Thành-cát-tư Hãn. Hậu duệ của Sát Hợp Đài không mở rộng thêm lãnh thổ. Năm 1370, vua vùng Transoxiane là Thiếp Mộc Nhi (Tamerlan, còn gọi là Timur Lang: 1336-1405), cũng tự nhận là dòng dõi Thành-cát-tư Hãn, đánh diệt hãn quốc Sát Hợp Đài. Hãn quốc này tồn tại được 140 năm.
    Hãn quốc Y Nhi ở Tây-Nam-Á: năm 1231, quân Mông Cổ tiến sang chiếm miền nam nước Ba Tư (Iran), rồi vòng lên phía bắc, chiếm tỉnh Tabriz (ở miền nay là Azerbaidjan). Hai miền này họp lại thành một nước gọi là Y Nhi, vua là (III D4) Húc Liệt Ngột, cháu nội thứ tư ngành út của (I) Thành-cát-tư Hãn. Năm 1236, Húc Liệt Ngột đánh thành Bagdad, rồi năm 1238 đánh chiếm hết nước Irak. Năm 1239, Húc Liệt Ngột mang quân đi đánh hai xứ Syrie và Palestine lúc đó đang là thuộc quốc của Thổ Nhĩ Kỳ, bị thua quân Thổ ở bờ biển Địa Trung Hải. Năm 1344, Thiếp Mộc Nhi đánh diệt hãn quốc Y Nhi. Hãn quốc này tồn tại được 113 năm.
    Hãn quốc Khâm Sát ở Đông-Âu: (II A) Thuật Xích là con trưởng của (I) Thành-cát-tư Hãn được hưởng nước Kazakhstan. Ông này trao quyền cho con cả là (III A1) Batu. Năm 1236, Batu dẫn quân sang châu Âu, có lão tướng Sudebei đi cùng. Viên tướng này đã cầm quân sang những xứ Slaves trong cuộc viễn chinh hồi Thành-cát-tư Hãn còn sống. Quân Mông Cổ vượt dãy Oural vào châu Âu, qua sông Volga, sau năm ngày chiến trận, đại phá quân Nga ở thành Riazan (nằm ở hướng đông-nam thành Moscou), giết hết dân trong thành. Quân Mông Cổ tiếp tục đánh chiếm thành trì của các ông chúa xứ Đông Âu như: Moscou, Vladmir (Nga), Kiev (Ukraine), Varsovie, Cracovie (Ba Lan), Lienitz (Đông Đức), Budapest (Hung Gia Lợi), rồi tiến đến biển Adriatique, tới đâu cũng tàn sát, chỉ tha cho một số để bắt làm nô lệ. Năm 1241, quân Mông Cổ tiến đến sát thành Vienne (Áo). May cho thành này là đúng lúc đó có tin là Đại Hãn Oa Khoát Đài mất ở Mông Cổ. Batu chờ nghe ngóng tin tức, không tiến quân nữa. Lãnh thổ của Batu gọi là Khâm Sát (Kiptchak, Horde d''Or, Golden Horde). Năm 1242, hãn Batu đặt kinh đô ở Sarai, một thành phố nằm bên sông Volga, khí hậu ấm áp. Người Mông Cổ ở Đông Âu sống tách biệt hẳn với người bản xứ. Các lãnh chúa vẫn cai trị dân như trước, chỉ phải nộp thuế cho vua Mông Cổ. Lãnh chúa mà thiếu thuế thì vua Mông Cổ hỏi tội chứ không can thiệp vào nội bộ bản xứ. Vì người Mông Cổ sao nhãng như thế nên các lãnh chúa mới củng cố được thế lực, mở mang được đất đai. Năm 1380 lãnh chúa xứ Moscou là Dimitri Donskoi (1362-1389) thắng được quân Mông Cổ ở Koulikovo (gần thành Riazan), nhưng đấy không phải là một trận đánh quyết định nên người Mông Cổ vẫn cai trị người Đông Âu. Phải đợi đúng một trăm năm sau, năm 1480, lãnh chúa xứ Moscou (lúc đó gọi là vua Nga) là Ivan III (1462-1505) mới tuyên bố không thần phục hãn Mông Cổ nữa. Hãn quốc này tồn tại được 250 năm, bền nhất trong bốn nước.
    7. Đế quốc Mông Cổ: Đại Hãn quốc ở phương Đông
    Cho rằng người con thứ ba là (II C) Oa Khoát Đài tài giỏi nhất trong bốn người con mà mình đã chọn, (I) Thành-cát-tư Hãn giao cho miền đất quan trọng nhất ở Đông-Bắc-Á, bao gồm đất Mông Cổ khởi nguyên, đất của người Toungouses (Mãn Châu ngày nay), bán đảo Triều Tiên (?), nước Đại Hạ, một phần nước Tây Liêu. Năm 1232, Oa Khoát Đài vượt sông Hoàng Hà, đánh kinh đô mới của nước Kim là thành Khai Phong, năm sau thì hạ được thành, vua nước Kim tự sát. Năm 1235, kinh đô của Đại Hãn Quốc là Karakorum được những thợ khéo xây xong. Cũng năm ấy, Oa Khoát Đài phái hai đạo quân cùng tấn công Nam Tống: đạo thứ nhất đánh vào Tứ Xuyên, chiếm được Thành Đô; đạo thứ hai đánh xuống Hồ Bắc, chiếm được Tương Dương. Nhưng đến năm 1238 thì quân Nam Tống phản công, lấy lại được cả hai thành, quân Mông Cổ phải rút lui. Năm 1241, Oa Khoát Đài mất. Con là (III C1) Quý Do nối ngôi Đại Hãn từ năm 1246 đến khi mất vào năm 1248. Đến đây, ngôi Đại Hãn truyền sang ngành thứ tư, ngành út. Năm 1251, (III D1) Mông Kha, người con cả của Đà Lôi, lên nối ngôi Quý Do. Năm 1253, ông sai em ruột là Hốt Tất Liệt mang quân đi đánh nhà Tống. Ông hoàng đệ này lại sai một viên tướng tên là Ngột Lương Hợp Thai (Wouleangotai) đem một đạo quân đi đánh nước Đại Lý (tức là nước Nam Chiếu) ở Vân Nam. Trong vòng hai tháng, nước Đại Lý mất vào tay hai tướng Mông Cổ là Đường Ngột Ngải và Xích Tu Tử. Rồi tiện đường, năm 1257, Ngột Lương Hợp Thai tiến sâu nữa đánh Đại Việt nhằm mục đích bao vây nhà Nam Tống ở mặt tây-nam và mặt nam. Quân Mông Cổ men theo đường sông Thao tỉnh Hưng Hoá, chiếm được kinh đô Thăng Long của Đại Việt, còn thấy sứ Mông Cổ bị xiềng trong ngục. Quân Mông Cổ không chịu nổi mùa nóng tại lưu vực sông Hồng, chết bộn, chưa kịp rút thì đã bị vua Trần Thái Tông (1225-1258) phản công ở Đông Bộ Đầu, thua to, chạy đến trại Quy Hoá thì bị chủ trại đón đánh. Giặc vội vã rút về Vân Nam, không dám cướp bóc nữa, cho nên được người Việt tặng cho mỹ danh là ''?Giặc Phật?''. Một cánh quân Mông Cổ khác cũng kéo sang tàn phá thành Pagan của người Miến Điện. Năm 1258, ba đạo quân Mông Cổ lại tấn công Nam Tống: đạo thứ nhất đánh Tứ Xuyên, bị chống trả rất dữ dội; đạo thứ hai do đích thân Hốt Tất Liệt chỉ huy đánh Hồ Bắc chiếm được thành Vũ Xương; đạo thứ ba đánh Hồ Nam chiếm được thành Trường Sa. Năm 1259, trong một trận ở Hồ Nam, Mông Kha bị thương, mấy hôm sau thì mất. Cả ba đạo đều rút lui do việc hai ông hoàng đệ Hốt Tất Liệt và Ariq Boke tranh nhau ngôi Đại Hãn. Đại Lý thừa dịp giành lại độc lập. (III D2) Hốt Tất Liệt lên ngôi Đại Hãn. Ông cho xây lại kinh đô nhà Kim là Trung Đô (sau này là Bắc Kinh), xong năm 1267 và đặt tên là Đại Đô, rồi thiên đô từ Karakorum về đấy. Cũng năm ấy, Hốt Tất Liệt lại tấn công Hà Nam, Hồ Bắc. Quân Nam Tống chống cự mãnh liệt, mãi đến năm 1273, ông mới chiếm được thành Tương Dương trên sông Hán Thuỷ. Năm 1274 bắt đầu cuộc đại tấn công: đại tướng Bá Nhan chỉ huy hai đạo quân, một đi đường thuỷ, một đi đường bộ cùng xuống Giang Tô, năm 1276, chiếm được kinh đô Hàng Châu của Nam Tống, bắt được vua và hoàng gia. Tướng nhà Nam Tống ở miền nam sông Dương Tử còn chống cự mãi đến năm 1279 mới thôi.
    Năm 1351, Hàn Sơn Đồng và Lưu Phúc Thông sáng lập Bạch Liên giáo, chống lại sự đô hộ của người Mông Cổ. Chỉ vài tháng sau, họ Hàn bị bắt rồi bị xử tử. Họ Lưu dựng cờ khởi nghĩa ở quận Anh Châu, tỉnh An Huy. Quân nổi loạn quấn khăn đỏ trên đầu nên còn được gọi là Hồng Bố Quân. Chả mấy chốc mà quân này có đến 100 ngàn người, dân chúng hai bên bờ sông Hán Thuỷ và sông Dương Tử theo về càng đông. Rồi năm 1352, Từ Huy Thọ nổi lên ở Hồ Bắc, chiếm một dải dọc hữu ngạn sông Dương Tử. Năm 1355, Chu Nguyên Chương, một thủ lãnh của Minh giáo, chiếm được Hàng Châu và nhiều thành quan trọng khác, rồi xông lên chiếm Đại Đô. Vua nhà Nguyên bỏ chạy về Mông Cổ. Họ Chu lập ra nhà Minh (1368-1644).
    Năm 1271, Hốt Tất Liệt đã tuyên bố thành lập nhà Nguyên. Nhưng sử Trung Hoa chỉ công nhận nhà này từ năm 1280 là năm nhà Tống không còn cầm quyền nữa đến năm 1368 là năm người Mông Cổ bị đuổi khỏi Trung Hoa, dài 88 năm, gồm 11 đời vua, kể từ Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt.
    Bốn Đại Hãn đầu (từ Thành-cát-tư Hãn đến Mông Kha) được Hốt Tất Liệt truy phong miếu hiệu. Mười một Đại hãn sau (kể từ Hốt Tất Liệt) thực sự là hoàng đế nhà Nguyên.
    Thành-cát-tư Hãn Thiết Mộc Chân
    (1206-1227), miếu hiệu Nguyên Thái Tổ.

    Oa Khoát Đài (Ogotai)
    (1227-1241), miếu hiệu Nguyên Thái Tông.

    Quý Do (Guyuk)
    (1246-1248), miếu hiệu Nguyên Định Tông.

    Mông Kha (Monke)
    (1251-1259), miếu hiệu Nguyên Hiến Tông.

    Hốt Tất Liệt (Kubilai)
    (1259-1294), miếu hiệu Nguyên Thế Tổ.

    Thêm 10 đời đại hãn nữa
    (1294-1368)
  10. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    8. Nhà Nguyên mở mang bờ cõi nhưng thất bại
    Triều đại Mông Cổ cai trị đại hãn quốc ở phương đông xưng là nhà Nguyên (1280-1368). Nhà này, dưới đời đại hãn Hốt Tất Liệt (1259-1294), nhiều lần định mở mang thêm bờ cõi, nhưng đều thất bại. Những đời đại hãn sau Hốt Tất Liệt đành bằng lòng với việc cai trị người Tàu, hưởng thụ sự sang giàu của nước Tàu, không nghĩ đến việc chinh chiến nữa. Rồi các đại hãn càng về đời sau càng hèn kém.
    Người Tàu có câu cửa miệng ?oBắc mã Nam chu?, phương bắc giỏi về cưỡi ngựa và phương nam giỏi về chèo thuyền, suy rộng ra, người phương bắc giỏi về kỵ chiến và người phương nam giỏi về thuỷ chiến. Những lần Hốt Tất Liệt đánh sang các nước chung quanh đều bị thất bại, và đều thất bại vì thuỷ chiến. Chúng tôi điểm qua về những cuộc viễn chinh này.
    Đánh Nhật Bản lần thứ nhất: năm 1274, Hốt Tất Liệt dùng thuyền mang quân từ Triều Tiên sang đánh Nhật Bản. Đoàn chiến thuyền gặp bão lớn, đắm rất nhiều. Dân Nhật tin là được trời giúp, gọi trận bão ấy là Kamikazé (Thần Phong, Gió Thần). Các nhà khảo cổ học Nhật Bản đã lặn xuống đáy biển nơi đoàn chiến thuyền Mông Cổ bị đắm cách nay hơn bảy thế kỷ, vớt lên những tàn tích để nghiên cứu. Họ có hai nhận xét chính. Thứ nhất là thuyền đóng bằng những loại gỗ mà nước Nhật không có, như thế có nghĩa là những chiến thuyền Mông Cổ được đóng ở những nơi khác, nhiều khả năng là đóng ở Triều Tiên. Thứ hai là lỗ cắm cột buồm không được khít, không ôm chắc lấy cột buồm nên khi thuyền gặp sóng to gió lớn là cột buồm lung lay dễ gẫy và thuyền cũng bị đảo mạnh dễ đắm. Nhận xét này cho phép chúng ta nghĩ gì? Người Triều Tiên nổi tiếng là những nhà đóng thuyền giỏi vào bậc nhất Đông Á. Từ thời cổ, họ đã có khả năng đóng những chiến thuyền vừa to vừa dài, phía trên là mặt bằng dùng làm nơi chiến đấu, phía dưới là nơi những tay chèo đẩy mái chèo để thuyền di chuyển, giống như những chiếc galère xưa ở biển Địa Trung Hải. Nhưng những nhà đóng thuyền Triều Tiên không đóng thuyền cho thuỷ quân của tổ quốc họ mà cho thuỷ quân của Mông Cổ là bọn thống trị họ. Làm sao mà họ có thể đem hết tài năng ra chế tạo cho được những chiến thuyền thật tốt để vượt biển?
    Đánh Nhật Bản lần thứ hai: năm 1281, Hốt Tất Liệt lại tấn công Nhật Bản bằng hai đạo, một đạo từ Triều Tiên, một đạo từ Hàng Châu, cùng trực chỉ đảo Cửu Châu. Lần này thuỷ quân Mông Cổ không gặp bão, nhưng gặp quân Nhật đã phòng thủ sẵn. Quân Mông Cổ vừa đặt chân lên bãi biển, chưa kịp hết say sóng, đã gặp quân Nhật ào ra tấn công điên cuồng. Với lối đánh cận chiến, cung tên của Mông Cổ trở thành vô dụng, giáo và kích dài trở thành vướng víu khó xoay trở, trong lúc quân Nhật dùng kiếm chém giết rất tiện lợi trong cuộc giáp lá cà. Quân Mông Cổ thua ngay trên bãi biển, tàn quân vội vàng rút xuống thuyền bỏ chạy.
    Đánh Đại Việt lần thứ hai và đánh Chiêm Thành: (năm 1253, sau khi chiếm được nước Đại Lý ở Vân Nam, quân Mông Cổ đánh nước Đại Việt lần thứ nhất) năm 1282, triều đình nhà Nguyên gây sự với Đại Việt, sách nhiễu đủ thứ, đòi cống nhân tài, vật lạ, châu báu, đặt quan đạt-lỗ-hoa-xích (tiếng Mông Cổ, có nghĩa là quan chưởng ấn) để giám trị các châu quận. Cho nên vua Trần Thánh Tông (1258-1278) tu binh dụng võ đề phòng. Sứ Mông Cổ là Sài Thung nhũng nhiễu. Vua Trần Nhân Tông (1279-1293) sai chú họ là Trần Di Ái đi sứ. Nguyên bèn lập Ái làm An Nam quốc vương và sai Sài Thung dẫn 1.000 quân mang Ái về. Nhân Tông sai quân đón đường đánh: Thung bị bắn mù một mắt, trốn về Tàu, Ái bị bắt phải tội đồ làm lính.
    Năm 1284, Hốt Tất Liệt sai con là Thoát Hoan cùng các tướng là bọn Toa Đô, Ô Mã Nhi mang 500 ngàn quân sang Đại Việt, giả tiếng mượn đường đánh Chiêm Thành. Vua Trần Nhân Tông không thuận. Quân Mông Cổ chia làm hai đạo cứ kéo bừa sang. Lục quân do Thoát Hoan đích thân chỉ huy, kéo vào Lạng Sơn. Thuỷ quân do Toa Đô chỉ huy, từ Quảng Châu vượt biển sang Chiêm Thành, đổ bộ lên bờ biển nay là Quảng Ngãi, Bình Định. Quân Chàm do hoàng tử Harajit chỉ huy. Harajit cùng mẹ là hoàng hậu Gaurendraksmi lánh lên cao nguyên Ya Heou (nay gọi là An Khê), mộ được 20 ngàn người Thượng của nhiều sắc tộc sơn cước, tổ chức kháng chiến bằng chiến thuật du kích, đêm đêm từ trên núi đánh xuống, gây thiệt hại nặng cho quân Mông Cổ. Toa Đô không làm nên cơm cháo gì, phải bỏ Chiêm Thành, kéo quân ra Nghệ An với ý đồ đánh quân Việt bằng hai mặt. (Năm 1288, Harajit lên làm vua, hiệu là Jaya Simhavarman III, người Việt gọi là Chế Mân. Năm 1306, ông dâng hai châu Ô và Ri làm sính lễ, cưới công chúa Huyền Trân, và công chúa về kinh đô Đồ Bàn, được phong là hoàng hậu Parameçvari).
    Vua Nhân Tông phong cho Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn làm tiết chế. Ông hội tướng sĩ ở Đông Bộ Đầu, được 200 ngàn quân thuỷ bộ. Nhân Tông triệu các bô lão ở điện Diên Hồng, mọi người đều quyết đánh. Lúc đầu, quân Đại Việt thua ở nhiều nơi và kinh đô Thăng Long cũng thất thủ. Năm sau, quân Đại Việt lợi dụng vùng châu thổ Bắc Việt sông ngòi chằng chịt, thắng liên tiếp nhiều trận thuỷ chiến như Hàm Tử (do Trần Nhật Duật và Trần Quốc Toản chỉ huy, phá được quân của Toa Đô), Chương Dương (do Trần Quang Khải và Phạm Ngũ Lão chỉ huy, khôi phục lại Thăng Long), và nhất là Tây Kết (do Trần Hưng Đạo đích thân chỉ huy, Toa Đô bị giết, Ô Mã Nhi trốn thoát về Tàu), để rồi kết liễu bằng trận Vạn Kiếp (do Trần Hưng Đạo chỉ huy, cùng các tướng Nguyễn Khoái, Phạm Ngũ Lão..., Thoát Hoan trốn về Tàu, Lý Hằng, Lý Quán bị bắn chết).
    Đánh Đại Việt lần thứ ba: năm 1281, sau khi thua Nhật Bản lần thứ hai, nhà Nguyên đang chuẩn bị đánh Nhật Bản lần thứ ba thì xảy ra việc thua Đại Việt năm 1285. Nhà Nguyên hoãn việc đánh Nhật Bản, quay sang chuẩn bị đánh Đại Việt lần thứ ba: đóng thêm ba trăm chiến thuyền, tụ tập quân các tỉnh Giang Hoài, Hồ Quảng, Giang Tây, theo đường châu Khâm, châu Liêm đánh báo thù. Năm 1287, Thoát Hoan cùng các tướng A Bát Xích, Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp... đem 300 ngàn quân giả danh đưa người tôn thất nhà Trần là Ích Tắc về nước. Tướng Trương Văn Hổ tải lương theo đường biển. Ngay từ đầu, Trần Khánh Dư cùng Yết Kiêu, Dã Tượng đã cướp được những thuyền lương của địch trong trận Vân Đồn, Trương Văn Hổ trốn về Tàu, quân Nguyên nao núng. Năm sau, trận Bạch Đằng nổi tiếng diễn ra. Lòng sông bị cắm cọc, thuyền địch to nặng vướng phải cọc đổ ngả nghiêng, các tướng địch Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc bị bắt. Quân Việt lấy được hơn bốn trăm thuyền. Thoát Hoan dẫn bộ binh đến ải Nội Bàng gặp Phạm Ngũ Lão, đi đến ải Nữ Nhi và núi Kỳ Cấp lại gặp phục binh bắn tên tẩm thuốc độc, A Bát Xích, Trương Ngọc tử trận. Cuối năm ấy, Đại Việt lại thông sứ với nhà Nguyên để giữ hoà khí, tránh việc binh lửa.
    Đánh Java (trong quần đảo Nam Dương): Năm 1293, quân Mông Cổ từ Hàng Châu đi thuyền xuống đánh đảo Java, nhưng bị thua ngay khi mới đặt chân lên bờ biển. Còn đang bị say sóng chăng?
    Từ đấy, người Mông Cổ chỉ lo việc cai trị người Tàu, không còn chí chinh chiến mở thêm bờ cõi nữa.
    9. Đế quốc Mông Cổ và bán đảo Triều Tiên
    Từ rất sớm, vua Hán Vũ Đế (140-86) đã chinh phục bán đảo Triều Tiên, lập ra bốn quận. Mỗi khi Trung Nguyên mạnh lên thì người Tàu lại tìm đủ mọi cách chinh phục xứ sở Buổi Sáng Yên Tĩnh này, và mỗi khi Trung Nguyên suy yếu hoặc loạn lạc thì người Triều Tiên lại nổi dậy giành tự chủ. Về sau, bán đảo này độc lập, nhưng chia làm ba nước: Cao Câu Ly ở miền bắc, Tân La ở miền đông-nam và Bách Tế ở miền tây-nam. Nước Cao Câu Ly có lãnh thổ là bắc bộ bán đảo và lấn sang miền nay là ?okhu tự trị Yên Biên? trong tỉnh Cát Lâm của Mãn Châu, kinh đô là Bình Nhưỡng. Trong ba nước thì nước Cao Câu Ly có lãnh thổ lớn hơn cả, có nền văn minh cao hơn cả, có nếp sinh hoạt cũng phồn thịnh hơn cả. Từ năm 668, bán đảo bị người Tàu đô hộ một thời gian. Năm 1215, Thành-cát-tư Hãn hạ được thành Trung Đô của nước Kim, đốt phá, cướp bóc, giết người, hãm hiếp khủng khiếp. Cao Câu Ly khiếp sợ, xin triều cống Mông Cổ, được ưng thuận.
    Năm 1225, bên Đại Việt có biến cố lớn: nhà Trần cướp ngôi nhà Lý. Người tôn thất nhà Trần là Thủ Độ rất nham hiểm, tìm đủ mọi cách thủ tiêu tôn thất nhà Lý. Năm sau, một hoàng tử nhà Lý là Lý Long Tường (con thứ sáu của vua Lý Anh Tông và em vua Lý Cao Tông Long Cán), cùng với người họ là Đông Hải công Lý Quang Bật vào nơi thờ vua Lý Thái Tổ là miếu Nam Bình đem hết đồ thờ chạy đến bến Vân Đồn ở Quảng Yên, vượt biển, cập bến Phú Lương Giang, nay đổi tên là Naknaewae (bến của khách viễn phương có mang đồ thờ) thuộc đảo Xương Lân, quận Khang Linh, tỉnh Hoàng Hải (ở đông-bắc bán đảo) tỵ nạn. Vua Cao Câu Ly là Cao Tông phong cho ông tước Hoa Sơn quân, cấp cho đất ở Trấn Sơn, huyện Bồn Tân, tỉnh Hoàng Hải. Ông cưới vợ người Cao Ly, được hai con, đều làm quan trong triều.
    Năm 1233, vua Mông Cổ là Oa Khoát Đài hạ được kinh đô Khai Phong của nước Kim. Quân Mông Cổ tràn qua sông Áp Lục (Yalu), đánh xuống Bồn Tân, bị Hoa Sơn tướng quân Lý Long Tường và Đông Hải quân Lý Quang Bật đánh cho đại bại. Năm 1253, vua Mông Cổ là Mông Kha sai em là Hốt Tất Liệt mang quân đi đánh nhà Tống. Có một đạo quân tách ra đánh xuống bán đảo Triều Tiên. Khi đạo quân này tiến đến Bồn Tân thì Hoa Sơn tướng quân đang bị thương, nhưng được hai con là Lý Cán và Lý Nhất Thanh giải nguy và còn thắng quân địch nữa.
    Vua Cao Tông của nước Cao Câu Ly nhớ ơn Lý tướng quân, cho xây Thụ Hàng Môn, ở đó có bia ghi sự tích Hoa Sơn tướng quân, anh hùng Cao Ly nhưng không quên mình là người Đại Việt. Trên đỉnh núi Quảng Đài Sơn có Vọng Quốc Đàn, nay gọi là Vọng Cố Hương, có một tảng đá gọi là Việt Thanh Nham để Lý tướng quân ngồi ngóng về quê cũ. Năm 1953, chiến tranh Triều Tiên xảy ra, chi chính của dòng họ Lý, gồm hai trăm gia đình chạy xuống Hán Thành của Đại Hàn (Nam Cao). Vào thập niên (19)60, chính phủ Đại Hàn đã dựng tượng Lý tướng quân (còn gọi là Bạch Mã tướng quân) trên đường từ phi trường đến Hán Thành. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua, chính phủ Đại Hàn có gửi một sư đoàn thiện chiến sang tham dự, đó là sư đoàn Bạch Mã lừng danh. Năm 1994, hậu duệ đời thứ 25 của ngài là Lý Xương Căn có về làng Đình Bảng, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh thăm quê cha đất tổ.
    Năm 1392, bán đảo Triều Tiên thống nhất dưới triều đại Lý. Đầu thế kỷ thứ XVII, bán đảo lại là chư hầu của Trung Hoa. Từ năm 1894, nơi đây là sân khấu của sự tranh chấp giữa Tàu và Nhật, rồi Tàu bị lép vế, mất hết quyền hành. Năm 1910, bán đảo Triều Tiên bị quân đội Thiên Hoàng chiếm đóng, mãi đến năm 1945 Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh thì Triều Tiên mới được giải phóng. Nhưng lại bị chia đôi, miền bắc (Bắc Cao) dựa vào Liên Xô và miền nam (Nam Hàn) dựa vào Hoa Kỳ. Từ năm 1950 đến năm 1953, nội chiến xảy ra khốc liệt. Ngày nay, ?okhu tự trị Yên Biên? nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, chỉ có khoảng một triệu dân, văn hoá khác hẳn văn hoá Tàu, thế mà người Tàu cứ nhận bừa là của mình. Sử gia Yeo Ho Kyu của Đại Học Hán Thành nhân dịp này đã phát biểu: ?oNgười Tàu từ xưa thường hay dùng lá bài văn hoá người Hán để thôn tính các nước lân cận, như họ đã làm tại Tây Tạng, Tân Cương. Nay họ đang có tham vọng biến vùng đông bắc Á thành một tỉnh của họ?. Trung Quốc sợ vùng này đòi ly khai rồi trở lại với Triều Tiên thống nhất nên đã nhận vơ nền văn hoá Cao Câu Ly là của mình để dễ đồng hoá. Việc này đang bị cả Bắc Cao lẫn Nam Hàn, cả Nhật Bản nữa, phản đối. Một chính khách Nam Hàn đầu năm 2004 kêu gọi các dân tộc Triều Tiên, Mông Cổ, Mãn Châu, Tân Cương, Tây Tạng, Việt Nam... hãy đoàn kết chống hiểm hoạ Tàu.
    Thư tịch sơ lược
    Đào Duy Anh, Trung Hoa sử cương. Bốn Phương, Sài Gòn, 1954.
    Đặng Vũ Nhuế, Phương đông ?" Phương tây, phiếm luận, Paris, 2004.
    Eberhard W., Histoire de la Chine, Payot, Paris, 1952.
    Gowen Herbert H., Histoire de l?TAise, Payot, Paris 1929.
    Grousset René, Histoire de l?TAisa. PUF No 25, Paris 1958.
    Huc R.E., Souvernirs d?Tun voyage dans la tartarie et le Tibel, Librarie Général Française, 1962.
    Phan Khoang, Trung Quốc sử lược, Sài Gòn, 1958.
    Schafer Edward H., Ancient Chine, Time-Life Books, New York 1967.
    Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Tân Việt: Sài Gòn 1954.
    © 2007 talawas

Chia sẻ trang này