1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

**** đêm

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi pathros, 13/11/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. pathros

    pathros Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/02/2006
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    0
    Thế mà hôm sau và nhiều hôm sau nữa, Hoàng vẫn chưa thổ lộ với Yến những điều anh định nói. Tâm trạng chán chường dường như đã vợi bớt nhưng để bắt đầu một cuộc tình mới, hình như anh chưa thật sẵn sàng. Có những điều tự nhiên đến rồi cũng tự nhiên đi. Và Yến vẫn khổ đau trong mối tình đơn phương ấy. Cô chưa hề biết cái điều mới mẻ đang diễn ra trong lòng Hoàng. Cô vẫn tận tâm với anh và xem đó là niềm hạnh phúc.
    Rồi một ngày cuối tuần, Hoàng về quê thăm bố. Anh nhờ cô dọn giúp căn phòng bừa bộn. Đó là một ngày đẹp trời. Yến rửa bát, lau sàn và xếp lại đống giấy tờ vương vãi trên bàn cho vào ngăn kéo. Cô chợt trông thấy cuốn nhật ký, bên ngoài ghi dòng chữ nắn nót "Tặng Thanh thương yêu của anh!". Bản tính tò mò của con gái trỗi dậy, Yến không kìm nổi lòng mình, tim cô đập thình thịch. Sau cùng, Yến đóng chặt cửa phòng rồi giở cuốn sổ ra. Nước mắt nhạt nhòa, cô ngồi đọc bằng hết tập nhật ký. Hoàng đã yêu Thanh với mối tình trong sáng và cao thượng biết bao! Yến ngạc nhiên thấy mình không hề ghen tuông với nàng. Họ đã yêu nhau đến thế, còn đâu chỗ cho mình nữa! Hoàng đã yêu Thanh say đắm và tuyệt vọng nhường nào! Yến bỗng thấy tiếc cho Thanh và giận Hoàng. Anh đã chẳng làm gì để giành lấy nàng! Còn Thanh, sao quá ư yếu đuối? Nàng cũng buông xuôi theo số phận, không hề gắng công để có được Hoàng! Chắc Thanh không biết Hoàng yêu Thanh đến mức này!? Yến thấy tim mình tràn ngập lòng thương xót. Cô bỗng nghĩ đến một việc lạ lùng mà chỉ ít phút trước đây cô không hề ngờ đến: Yến sẽ tìm Thanh, sẽ trao cho Thanh cuốn nhật ký! Thanh sẽ hiểu Hoàng đã yêu nàng ra sao? Rồi Thanh sẽ có được can đảm để thuyết phục cha mẹ và đấu tranh với hoàn cảnh éo le...
    Nghĩ thế nào thì làm như thế, Yến vội vã tìm gặp Thanh. Cô hẹn Thanh đến một tiệm cà phê. Đầu giờ chiều, quán còn vắng khách. Yến trao cho nàng cuốn nhật ký không một lời giải thích. Thanh ngỡ ngàng đọc dòng chữ ngoài bìa, rồi ngước lên nhìn Yến. Đôi mắt Thanh thâm quầng, không còn lóng lánh như xưa nữa. Yến bảo Thanh cứ đọc đi, Yến sẽ chờ nàng. Đã đôi lần họ gặp nhau ở phòng Hoàng như những người bạn, nhưng chưa bao giờ nói chuyện riêng với nhau. Thoáng chút ngần ngại nhưng không kìm lòng nổi, Thanh giở cuốn sổ ra. Yến bước sang phòng bên gọi thêm ly trà Dimah, rồi lặng lẽ ngắm Thanh qua khung cửa sổ tròn ngăn giữa hai chiếc bàn.
    Đọc xong dòng cuối cùng, Thanh buông cuốn sổ xuống. Lòng nàng tan nát. Thanh úp mặt vào hai tay, nước mắt lã chã. Yến quay lại, xé chiếc khăn lạnh đưa cho Thanh. Rồi Thanh bình tâm lại, nghẹn ngào nói với Yến:
    - Muộn mất rồi, Yến ạ.
    - Sao!? Muộn... là thế nào?
    - Thanh đã... có thai với người ấy!
    - Trời ơi! Thanh chưa...
    Yến buông lửng câu nói. Thanh tiếp lời:
    - Thanh sẽ làm đám cưới trong tháng tới. Yến đến dự nhé!
    Yến thở dài, gật đầu. Cô không nghĩ đến kết cuộc này. Yến cầm lại cuốn nhật ký:
    - Thế mà Yến cứ nghĩ sẽ giúp được gì đó cho hai người...
    - Yến tốt quá!
    Thanh cảm kích nắm chặt lấy tay Yến, rồi quay đi. Yến đứng nhìn theo dáng người thanh mảnh của Thanh hồi lâu. "Mình sẽ không nói gì với Hoàng cả. Coi như mình chưa hề biết chuyện riêng của Thanh". Yến chạy xe lang thang trên đường, vừa đi vừa nghĩ mông lung.
    Vừa leo lên đến tầng ba, Yến giật mình thấy Hoàng đang chờ trước cửa. Chết rồi! Hoàng đã về! Sao lại về sớm thế? Yến đâu biết rằng trưa nay đang ăn cơm với bố, Hoàng sực nhớ tới cuốn nhật ký. Sợ Yến tò mò đọc, anh vội vã lên xe về sớm. Yến bất giác giấu chiếc túi xách ra sau lưng, cố làm vẻ tự nhiên. Yến sẽ lén để cuốn sổ lại chỗ cũ. Cô không ngờ cửa vừa mở Hoàng đã lao lại, mở ngay ngăn kéo. Đúng như anh dự đoán, cuốn sổ đã biến mất. Hoàng quắc mắt nhìn Yến. Cô muốn chui xuống đất trước đôi mắt giận dữ của anh.
    - Cô đã đem nó đi đâu? Đi khoe với tất cả mọi người à? Đàn bà thật hay buôn chuyện!
    - Anh để em nói đã nào...
    Yến thốt lên rồi bỗng im bặt. Cô phải nói thật với Hoàng chuyện đã gặp Thanh, và Thanh đã có thai?! Nếu không, làm sao cô giải thích được với Hoàng lý do khiến Thanh không thể quay trở lại? Cô hiểu mình đã làm một việc thật dại dột. Cô muốn giúp Hoàng, muốn hy sinh vì Thanh nhưng lại làm cho họ thêm đau đớn! Không, cô không thể nói gì! Hoàng muốn nghĩ về cô ra sao thì nghĩ! Cô cúi đầu, mở chiếc xách tay ra, lấy cuốn sổ đặt lên bàn rồi quay người bỏ chạy.
    Hoàng cầm lấy cuốn sổ và trong cơn giận điên cuồng, anh xé nát từng trang nhật ký, vo viên lại rồi ném vào góc phòng. Bao nhiêu cảm tình anh dành cho Yến đã bay biến cả, chỉ còn trong anh một nỗi muộn phiền vô hạn. Anh quyết định sẽ rời thành phố này, đến một nơi nào có thể quên hết những con người đã làm anh khổ sở. Phải, anh sẽ xin việc làm ở một thành phố khác và sẽ ra đi! Hoàng chạy ra phố, mua một chồng báo và cặm cụi dò tìm những dòng chữ giới thiệu việc làm.
    Hôm sau, Hoàng nhận được một cuộc điện thoại và đờ đẫn cả người. Thanh đã kể hết cho Hoàng về Yến và cuốn sổ nhật ký. Thanh xin lỗi Hoàng đã không trở lại được với anh vì nàng sắp làm đám cưới. Nàng cầu chúc cho Hoàng và Yến được hạnh phúc. Bằng linh cảm của một người tinh tế, Thanh đoán rằng Yến đã yêu Hoàng nhưng không dám hy vọng ở anh. Thanh buông điện thoại xuống, rồi thổn thức khóc. Nàng chỉ có thể làm được đến thế để đáp lại lòng cao thượng của Yến và tấm tình yêu dấu của Hoàng.
    Duy chỉ có một điều nàng không hề nói ra với cả hai người. Bố mẹ Hưng quyết định hủy bỏ đám cưới vì biết rằng nàng đã có thai. Họ không tin đó là con của Hưng! Nàng bàn với Hưng trốn đi. Nhưng Hưng lắc đầu, bảo nàng phải phá cái thai đã. Và nàng ra đi một mình, sinh con ở một thành phố khác. Nàng đã can đảm nuôi con với sự giúp đỡ lén lút của mẹ nàng.
    Ba năm sau, trong một tua du lịch, vợ chồng Hoàng và Yến gặp Thanh trong một nhà hàng xinh xắn. Nàng đã trở thành một bà chủ đẫy đà và tươi tỉnh. Bên cạnh nàng là một người đàn ông nhanh nhẹn, hóm hỉnh. Anh vui vẻ đón tiếp hai người bạn thân của vợ với nụ cười rộng mở. Giữa chừng bữa tiệc, một bé trai khoảng hai tuổi chạy ào vào. Anh bế cậu ta lên, hôn chùn chụt vào đôi má bụ bẫm của nó và bảo khách với vẻ tự hào: "Con trai chúng tôi đấy! Có dễ ghét không?"
    Thanh và Yến nhìn nhau. Thanh nói nhỏ vào tai bạn: "Anh ấy thương thằng bé lắm, dẫu biết rằng nó không phải con ruột của mình".
    Bên kia chiếc bàn, Hoàng và chồng của Thanh đang cụng ly và ngửa cổ uống cạn thứ rượu nho say nồng mà Thanh khoe rằng tự tay nàng chưng cất lấy. Mặt nàng hồng hào với nụ cười tươi rói. Rồi nàng xin lỗi để đi tiếp những thực khách vừa mới đến. Hoàng và Yến nhìn theo Thanh, lòng cũng vui lây với hạnh phúc của nàng...
    P.T.T.L.


    Được pathros sửa chữa / chuyển vào 22:20 ngày 29/11/2006
  2. pathros

    pathros Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/02/2006
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    0
    GIẤC MƠ MỸ
    Phan Thị Thu Loan
    Lâm là cô gái dong dỏng cao, nước da bồ quân đậm đà, sống mũi thẳng với cặp mắt sáng, đôi môi mọng gợi cảm. Thứ nhan sắc mà người ngoại quốc rất ưa nhìn. Bởi thế khi John gặp cô lần đầu tại một khách sạn nổi tiếng bên sông Hương thì hắn đã bị hút mất hồn vía. Hắn theo Lâm sát rạt và trong lúc cô đang dọn bàn ăn thì hắn buông vài câu chào hỏi làm quen. Với cái vốn tiếng Anh bập bẹ của một tiếp viên nhà hàng, Lâm cũng khiến cho John khoái chí. Chỉ sau vài hôm hắn đã ngỏ lời yêu và đòi cưới Lâm làm vợ.
    Thực ra John không phải là một người Mỹ lãng mạn và ngờ nghệch, hắn từng ở Việt Nam trong một đơn vị biệt động gần sân bay Phú Bài. Trên lương tâm hắn hẳn đã có vài linh hồn khóc than đòi trả mạng. Sau chiến tranh hắn trở lại Việt Nam đã vài lần, song không phải để thăm hay trợ giúp người dân nơi hắn từng bắn giết mà đơn giản chỉ là để tìm mua những phù hiệu, bảng tên, kỷ vật cũ... tóm lại là những gì liên quan đến lính Mỹ còn sót lại đem về bán cho đồng đội, những kẻ đã từng tham chiến tại Việt Nam, muốn sưu tầm những kỷ vật của một thời trai trẻ nhưng chưa đủ can đảm quay lại chốn này.
    Đó là những phi vụ mua bán khá béo bở. Số tiền thu được sau mỗi chuyến đi đủ cho hắn tiêu xài một thời gian và chuẩn bị cho một chuyến đi mới. Sau khi đã chán cái không khí quay cuồng bên kia trái đất, hắn trở lại Việt Nam bằng những chuyến du lịch dài ngày. Mặc kệ những đồng hương đau đớn, xót xa với mặc cảm đã bắt buộc phải có mặt trong cuộc chiến tàn khốc năm xưa, hắn khoan khoái tận hưởng cảm giác dễ chịu với sự hiếu khách, thân mật của người bản địa. Lâu dần đâm nghiện, hắn thấy thích nói chuyện với người Việt, đến nỗi nảy ra ý định lấy vợ khi vừa nhìn thấy Lâm. Trong sự tính toán của hắn, Lâm sẽ là cầu nối an toàn cho sự buôn bán lâu dài và là lý do chính đáng cho những cuộc viếng thăm đất nước này. Hắn đã hơi ngán ngại mỗi khi bắt gặp cặp mắt nghiêm nghị của người công an xuất nhập cảnh. Cặp mắt sắc lạnh của anh ta nhìn những con dấu thị thực nối tiếp nhau rồi lại soi thẳng vào đáy mắt hắn. Đó là cảm giác khó chịu duy nhất khi hắn đến cái thành phố êm ả bên bờ sông Hương này.
    Hắn đã gặp may. Lâm đang nuôi một giấc mơ Mỹ. Như nhiều cô gái có nhan sắc cô vẫn đinh ninh lấy chồng ngoại quốc là tột đỉnh hạnh phúc. Cô cũng đã quá chán ngán việc dan díu với một anh chàng có vợ, cho dù anh ta giàu và thực lòng yêu thích cô. Lâm muốn làm lại từ đầu đoạn đời đã rách nát của mình và còn gì hơn nữa là vá víu lại mảnh đời ấy bằng cuộc hôn nhân với một người Mỹ. Lâm nhận lời lấy John sau một lần chối từ cho có lệ và đến lượt John cảm thấy mình may mắn nhất trên đời.
    Song đồng tiền nào cũng có hai mặt. Việc tác hợp của họ không phải không gặp trở ngại. Thậm chí nhiều là khác. Đầu tiên là việc anh chàng Sinh, người mà Lâm đang chung chăn gối, biết được mối quan hệ của cô và John qua mạng lưới tiếp viên nhà hàng đang tím mặt vì ghen tỵ với sự may mắn của Lâm. Anh ta làm mình làm mẩy, đòi gặp John để làm cho ra lẽ khiến Lâm hoảng hốt. Sợ anh chàng họ Sở này làm tan vỡ giấc mơ đẹp của mình, Lâm bèn thuyết phục anh ta rằng đây chỉ là một cách để nhập cư vào Mỹ và cô thề sống thề chết sẽ bảo lãnh cho Sinh sang đó, sau khi cô trở thành công dân của thiên đường mặt đất ấy. Lâm sẽ bỏ John để lấy Sinh nếu anh ta muốn, chí ít thì họ cũng tiếp tục cuộc tình đang phải dở dang này. Biết chẳng thể bỏ ngay người vợ đã từng nuôi mình ăn học thành tài và hiện đang chu cấp phần lớn chi tiêu cho mình để lấy Lâm, Sinh bèn đồng ý với điều kiện sẽ tố cáo Lâm với John nếu cô ta thất hứa. Lâm gật đầu, nhẹ nhõm hẳn với cảm giác đã nhổ được một cái gai khỏi vết thương đang sưng tấy.
    Lâm và Sinh đâu biết rằng John đã có được thông tin về cuộc tình của hai người sau buổi nói chuyện với một cô bạn đồng nghiệp của Lâm. Báo hại cho Lâm phải ràng buộc với một lời hứa nguy hiểm như quả bom nổ chậm treo lơ lửng trên hạnh phúc còn rất mong manh của mình. Sau một cơn mưa nước mắt khi John hỏi thẳng về Sinh, Lâm kể rằng Sinh lừa gạt cô, không cho cô biết mình đã có vợ, khi phát hiện ra sự thật thì mọi chuyện đã muộn màng... Mất đời con gái, Lâm đành phải sống nhờ vào Sinh và đợi ngày được giải thoát! Không biết John nghĩ thế nào nhưng kết cục hắn bảo Lâm rằng hắn chính là người sẽ giải thoát cho cô. Khỏi phải nói Lâm vui sướng ra sao khi nghe những lời nói đó và để bày tỏ niềm biết ơn của mình, Lâm đã dâng hiến cho John trọn vẹn. Họ thuê một khách sạn khác sang trọng hơn và Lâm không bao giờ bước chân trở lại nơi làm việc cũ. ?oMình đã được nâng cấp rồi?, Lâm tự nhủ và cũng không còn lo lắng gì đến lời hứa với Sinh. John đã chấp nhận, thế mà hay, khỏi phải bận lòng! Nhưng Lâm chợt lạnh người khi nhớ lại vẻ mặt thâm thúy của Sinh khi nói rằng sẽ tố cáo Lâm. Người ta không dùng chữ ấy khi nói về lầm lỗi của mình, đó chỉ có thể là nói riêng về Lâm thôi. Không, thà chết chứ cô không thể để Sinh nói ra chuyện đó! Lâm, một cô gái có nhan sắc mặn mòi, phải ràng buộc với Sinh, một kẻ đã có vợ, chán vợ nhưng không dám bỏ vợ dù đã nhiều lần hứa hẹn. Lâm đã phải cam chịu thiệt thòi chỉ vì Sinh biết một bí mật nhục nhã của đời cô...
    Lâm không phải là một người thuần Việt. Sống mũi thẳng, đôi mắt to, nước da nâu huyền bí của cô là chứng tích của một tội ác chiến tranh. Mẹ cô đã bị hiếp trong một trận Mỹ càn và Lâm là hậu quả. Đau đớn và tuyệt vọng nhưng mẹ Lâm vẫn rất yêu thương Lâm - đứa con lai có khuôn mặt giống người cha khốn nạn có nước da nâu đỏ, mái tóc sẫm màu. Lâm không phải là đứa trẻ lạc loài duy nhất trong cái xã hội ?onhất đĩ, nhì Mỹ? lúc bấy giờ: Con lai Mỹ nhan nhản khắp nơi đủ mọi màu da, sắc tóc. Nhưng mẹ Lâm tủi hổ với người làng đã bế Lâm bỏ ra thành phố lang thang làm mướn nuôi con. Rồi cũng có một ngày hạnh phúc mỉm cười với mẹ con Lâm. Đúng ra là với mẹ Lâm thôi vì bà đã tưởng thế, còn với Lâm đó là chuỗi ngày nhục nhã, đắng cay, đầy nước mắt. Người chủ tiệm tạp hóa góa vợ nơi mẹ Lâm làm thuê đã sớm nhận ra nhan sắc chưa hẳn tàn phai của người đàn bà trẻ và nhất là vẻ đẹp đầy hứa hẹn của đứa con. Gã đã ngỏ lời và mẹ Lâm trở thành vợ không cưới hỏi của gã, một thứ người ở được trả công bằng hai bữa ăn và chỗ ngủ. Bù lại bà phải phục dịch tính ham hố nhục dục vô độ của gã chồng hờ...
    Rồi điều phải đến đã đến, một ngày nọ đi chợ về sớm, mẹ Lâm chết giấc khi thấy cửa hiệu khép chặt và trên giường ngủ của họ gã chồng đang đè nghiến Lâm xuống mặc cho cô bé khóc lóc, kêu la... Người đàn bà hai lần nhục nhã ấy không thể chịu đựng nổi, bà xách luôn cái cối đá nhỏ mới mua về để giã tỏi nện ngay lên đầu gã. Máu phụt ra, gã ngất lịm. Mẹ Lâm hoa mắt, lôi Lâm dậy, mặc quần áo cho con sau khi đã chùi vội đám máu tươi trên người Lâm. Họ cuống cuồng bỏ trốn. Năm ấy Lâm mới mười ba tuổi!
    Về làng rồi, họ nem nép sống trong lo sợ. May mà người hàng phố không biết mẹ con Lâm từ đâu trôi dạt tới nên họ thoát nạn. Duy chỉ có người đàn bà hàng xóm tò mò đoán biết được những lần gã bố dượng cưỡng bức Lâm qua những tiếng quát nạt, dỗ dành cố nén của gã và tiếng la khóc của Lâm. Chính bà ta đã đánh tiếng cho mẹ Lâm biết mà về sớm trong buổi sáng định mệnh kia...
    Vậy mà không hiểu sao Sinh lại biết toàn bộ sự việc ấy. Khi Lâm nói rằng nếu Sinh không bỏ vợ được thì Lâm sẽ bỏ anh ta, Sinh cười, không tin: ?oCô làm răng mà bỏ được tui! Bỏ tui thì ai dám chứa cô? Huế nhỏ lắm, không che đậy được mô?. Lâm gạn hỏi và hiểu rằng Sinh đã biết mọi sự. Thì ra người đàn bà hàng xóm nọ vốn có họ hàng với Sinh. Một lần về quê đúng dịp mẹ Lâm chết, bà đã nhận ra Lâm đang khóc lóc bên quan tài. Chính tiếng khóc tắc nghẹn của Lâm khiến bà để ý vì nó gợi lại ký ức ghê sợ năm xưa... Biết Sinh dan díu với Lâm bà buộc phải kể hết cho anh ta. Đây cũng là một lý do khiến Sinh không thể nào cưới Lâm được. Dẫu sao thì Lâm vẫn phải hai lần biết ơn bà bởi đã góp phần giải thoát cho Lâm và không tố cáo mẹ con Lâm với cảnh sát...
    Lâm giục John làm đám cưới. John đồng ý ngay vì đó cũng là điều hắn muốn. Đống hàng hóa phong phú do có Lâm góp phần giao dịch đang chờ hắn mang về Mỹ để biến thành đô la trang trải cho những khoản ?otình phí? thời gian gần đây. Hắn hỏi Lâm thủ tục kết hôn tại Việt Nam và muốn viếng thăm gia đình Lâm trước khi cưới. Lâm đã chuẩn bị sẵn cho tình huống này. Cô nói cha mẹ cô đã mất tích trong chiến tranh, cô chỉ còn lại một mình. Chỉ cần xong thủ tục hành chính và một bữa tiệc tại khách sạn là đủ. Mọi việc đều nên đơn giản, mặc dù xưa nay đám cưới ở Huế đòi hỏi nhiều nghi lễ khá rườm rà. Riêng tiệc đãi khách phải thật to và thật sang. Cô muốn được nở mày nở mặt trước người quen, nhất là với đám bạn tiếp viên đầy đố kỵ. Cô sẽ mời tất cả mọi người để họ thấy rằng cô đâu phải là kẻ bỏ đi! Hai người đang ráo riết chuẩn bị cho lễ cưới thì bất ngờ một vị khách không mời xuất hiện như từ trên trời rơi xuống. Không, từ địa ngục chui lên thì đúng hơn bởi người đó chính là bố dượng hờ của Lâm!
    Gã chờ Lâm từ mấy hôm nay, rình xem lúc nào cô chỉ ở một mình. Gã đã thuê căn phòng đối diện với căn phòng của John và Lâm. Gã ra vào kín đáo không để cho Lâm thấy, nhưng từ con mắt nhỏ trên cửa phòng mình gã quan sát không ngừng. Gã thất vọng vì bao giờ John và Lâm cũng rời phòng và trở về cùng với nhau. Gã đã nhẩm đến thuộc lòng từng câu sẽ nói với Lâm và hình dung nét mặt kinh hoàng của cô khi gã xuất hiện. Đúng lúc gã đã bắt đầu nản chí thì cánh cửa phòng Lâm chợt mở. John đi ra một mình, mặc đồ bơi, tay cầm chiếc túi bạt đựng áo quần. Hắn đi tắm ở bể bơi dưới vườn. ?oRất tốt?, gã nghĩ, như vậy gã vừa nói chuyện với Lâm vừa quan sát được John khi hắn chuẩn bị lên phòng. Gã đẩy nhẹ cánh cửa và thấy mình đã ở trong phòng Lâm. Cô đang say sưa với giấc ngủ trưa muộn màng, khuôn mặt đẹp dãn ra sau cơn hoan lạc làm gã nổi điên. Cố ghìm cơn ghen xuống gã tự nhủ : ?oBình tĩnh! Khéo hỏng việc mất?. Nhẹ nhàng tiến đến bên Lâm gã từ từ đặt bàn tay cứng như sắt lên miệng cô...
    Lâm tỉnh dậy ngay. Tim cô như ngừng đập khi nhận ra gã. Lâm đờ người ra không cử động được như con cua bất lực trước một con ếch. Cô tưởng mình vừa sa xuống địa ngục. Đối với cô gã là người đã chết. Cô không thể quên cảnh gã ngã vật xuống khi bị cái cối đá đập vào đầu. Nhưng bên tai cô vang lên lời nói sống động của gã :?Đừng sợ! Tui muốn nói chuyện với cô?. Lâm hiểu rằng gã chưa chết và ký ức kinh hoàng về những lần bị lạm dụng sống lại. Cô vùng vẫy, muốn la hét nhưng tiếng kêu cứ tắc nghẹn trong bàn tay sắt của gã. ?oTui ở phòng đối diện. Cô mặc đồ vô rồi qua ngay. Tui không muốn ông John bắt gặp tui ở đây. Nếu cô không nghe tui, đám cưới của cô sẽ bị hủy bỏ. Ông John sẽ biết tất cả!?. Dẫu đang thất thần vì sợ hãi Lâm vẫn hiểu rõ ý nghĩa lời nói của gã. Cô nằm im không cựa quậy. Gã nhấc tay lên và nhanh nhẹn bước khỏi phòng.
    Lâm quay cuồng với bao ý nghĩ : Làm sao thoát ra khỏi tình cảnh này? Bỏ chạy và chịu mất tất cả, hay thú thật với John chuyện cả hai mẹ con cô đã ăn nằm với gã bố dượng? Không được! Viễn cảnh giấc mơ đổi đời sắp tan nát làm tim cô đau nhói. Không, cô sẽ sang phòng gã, sẽ van xin, sẽ chiều chuộng gã để gã buông tha cho cô. Dẫu gã thật đáng ghê tởm nhưng cô cũng không còn là cô thiếu nữ mười ba tuổi trinh trắng nữa. Cô sẽ làm tất cả để lấy được John! ?oChẳng còn cơ hội khác nữa đâu...? Điệp khúc này cứ vang lên trong đầu khiến tim cô nhảy thình thịch. Cô cuống cuồng choàng chiếc váy lên người rồi chải vội mái tóc nâu sẫm, chỉ sợ John xuất hiện bất ngờ. Ra tới cửa, cô sực nhớ và quay lại bàn, viết vài chữ rằng cô ra phố có chút việc cần. Băng qua hành lang nhỏ, gõ gấp gáp cửa phòng đối diện, lập tức cô đã ở trong vòng tay gã.
    Gã đăm đắm nhìn Lâm. Như một cái máy, chẳng nói chẳng rằng, cô kéo mạnh sợi dây cột vội. Chiếc váy mỏng rơi xuống để lộ một thân hình tuyệt mỹ... Cô nhắm mắt, nín thở, cố gạt đi cảm giác ghê sợ đang dâng lên cổ. Nhưng chẳng có gì xảy ra cả! Gã đứng lặng, thở hổn hển nhưng không hề động đậy. Rồi đột nhiên gã bỏ đi, nhìn ra cửa sổ. Dưới vườn John vẫn đang vùng vẫy trong làn nước mát. Khi gã quay người lại thì Lâm đã mặc xong chiếc váy. Cô hỏi gã :
    - Ông muốn chi ở tui ?
    - Tiền! - Gã đáp gọn. - Tui bị bất lực từ sau cú đánh của mẹ cô. Tui cần tiền, còn cô sẽ rất giàu. Hãy đổi bí mật của chúng ta với giá mười ngàn đô la. Tui sẽ im lặng. Bằng không cô đừng trách!
    - Nhưng tôi đào mô ra chừng đó tiền? - Lâm rên lên.
    - Tui đã có cách. Cô nhận tui là cha, bị thất lạc trong chiến tranh, nay tìm lại được nhau. Tui sẽ thách cưới và hắn sẽ phải chung đủ mới cưới được cô!
    - Trời ơi, ông ác lắm! Ước chi ngày đó ông chết cho rồi! - Lâm không nén được nỗi uất hận. Mặt gã nhơn nhơn:
    - Cô không phải rủa, tui còn sống cũng như đã chết. Số tiền đó là tiền bồi thường đời đàn ông của tui...
    - Còn đời con gái của tui thì răng ? - Lâm tức tối nhảy xổ vào gã cào cấu, gầm gừ như con thú hoang. Lập tức gã giơ bàn tay sắt bịt miệng cô lại.
    - Im ngay! Hay cô muốn ông John biết tất cả?
    - Không đời mô John tin lời ông. Tui sẽ nói là ông bịa chuyện để tống tiền.
    - Nếu như tui không có người làm chứng đáng tin...
    - Ai? Nói láo! Mẹ tui đã chết rồi, không ai biết cả.
    - Có. Thằng Sinh và bà dì của hắn. Đủ chưa?
    Lâm gục xuống như một thân cây bị đốn. Trong cuộc mưu sinh khắc nghiệt cô đã gặp nhiều bất trắc nhưng lần phản bội này quả là chua xót. Cô đành khuất phục và lặng lẽ trở về phòng.
    ..............
  3. pathros

    pathros Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/02/2006
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    0
    Cái tin Lâm tìm được cha khiến John mừng lắm. Dù sao thì hắn cũng cưới được một người vợ có gia đình đầy đủ như người khác. John hí hửng cùng Lâm đến thăm nhà cha vợ. Cái hiệu tạp hoá cũ nay đã được sửa sang lại, bày nhiều món hàng đẹp mắt. Gã bố dượng của Lâm hồ hởi ra đón hai người. Bên cạnh gã là một thanh niên sáng sủa, thông dịch viên mà gã đã thuê. Gã muốn cuộc nói chuyện với chàng rể được rõ ràng, đúng theo ý gã.
    John gần té ngửa khi nghe số tiền thách cưới. Hắn lắp bắp như một kẻ cà lăm bẩm sinh và hỏi đi hỏi lại rằng điều hắn nghe có đúng không. ?oÔng muốn ... muốn... bán con gái à? Nhưng tôi... tôi... không định ... định mua?. Bực bội với chính mình hắn ngưng lại rồi bỗng nhiên rít lên: ?oChúng tôi sẽ cưới nhau không cần đến sự cho phép của ông!?. Gã bố dượng cười: ?oNếu tui không cho phép, con tui sẽ không dám lấy ông mô. Đúng không con gái??o Lâm tức uất, muốn hét vào cái mặt đểu giả của gã nhưng không dám. Cô chỉ im lặng gật đầu.
    John nhẩm tính rất nhanh giữa cái lợi và sự tốn kém. Rồi hắn nói rõ ràng bằng tiếng Việt: ?oMột nghìn đô, không thêm!?. Thì ra thói quen mặc cả khi mua bán với người Việt đã nhập vào hắn. Lâm xót xa nghe người ta ngã giá mình như một món hàng. Cuối cùng thì họ cũng thống nhất được với cái giá bốn ngàn đô la. John hằm hằm ra về, không thèm chào ai. Bên cạnh hắn Lâm im lặng như một cái bóng...
    Cuối cùng thì đám cưới của họ cũng được tổ chức. Quan khách rất đông, ngoài dự kiến ban đầu của John vì còn có thêm bà con, họ hàng gã bố dượng. Gã muốn làm oai với mọi người vì có con rể Mỹ. Lâm xinh đẹp, tươi rói trong bộ áo cưới trắng muốt, còn John mặc sơ mi trắng, quần đen, ngang lưng quấn mấy vòng khăn đỏ. Tuy hơn Lâm gần hai mươi tuổi nhưng hôm nay trông hắn trẻ hẳn ra, nước da nâu đỏ mà John rất tự hào bữa nay bóng bẩy chứ không tím rịm như hôm mặc cả ở tiệm tạp hóa.
    Đám bạn tiếp viên khoác bộ mặt tươi cười, ra sức lấy lòng Lâm. Họ khen Lâm xinh, áo cưới đẹp, bữa tiệc sang trọng... Lâm cười thầm, ngẩng cao khuôn mặt đẹp kiêu kỳ, đi lại giữa đám quan khách như con công lượn giữa bầy gà. Quá hạnh phúc nên Lâm không nhìn thấy Sinh đứng sững bên kia sảnh nhìn cô với vẻ mặt vừa cay cú vừa thâm hiểm.
    Sau lễ cưới John mừng rơn khi Lâm cho biết mình đã có thai. Hắn chuẩn bị về nước lo thủ tục bảo lãnh cho Lâm . Họ thuê một căn nhà vườn nho nhỏ xinh xắn bên sông Hương. Sau khi John đi rồi Lâm chăm chút cái bầu với niềm hạnh phúc như ấp ủ giấc mơ đã gần thành hiện thực. Chỉ cần ít tháng nữa thôi Lâm sẽ rời xứ sở này, với Lâm vậy là chấm dứt tất cả buồn khổ của kiếp người mà Lâm đã mang nặng từ lúc chưa được sinh ra...
    Sáu tháng sau John mới quay lại. Sáu tháng trời đằng đẵng Lâm nhốt mình trong căn nhà nhỏ không hề đi ra ngoài. Không phải là không có lý do. Lâm giấu không cho ai biết mình ở đây, ngoài cô giúp việc mà John trả lương khá hậu hĩnh để mua sự im lặng. Lâm sợ Sinh và gã bố dượng tiếp tục quậy phá cô. Huế khá nhỏ để che dấu một bí mật như thế, không hiểu sao Lâm được sống yên lành trong suốt nửa năm. ?oCuối cùng họ cũng đã quên ta!?, cô sung sướng tự nhủ, đâu có ngờ tới tấm lưới thâm độc mà gã bố dượng và Sinh đang tiếp tục dệt để bẫy Lâm - con mồi đã trở nên béo tốt theo cả nghĩa bóng và nghĩa đen.
    Những tháng cuối cùng của kỳ thai nghén John ở lại cùng Lâm. Họ đợi giấy phép xuất nhập cảnh. Tới khi Lâm sinh hạ một bé gái, thủ tục vẫn chưa xong. Đành phải chờ xin phép cho cả Marry nữa. Cô bé giống cha như lột khiến John vô cùng thích thú. Hắn cao hứng nói với Lâm: ?oCon gái tốt lắm! Bên Mỹ đàn bà số một, trẻ nhỏ thứ hai, chó xếp thứ ba, đàn ông thứ chót!? Lâm lườm yêu hắn, thấy mình có uy thế với chồng rồi chứ không lép vế như trước nữa.
    Rồi ngày ra đi đã đến. Lâm cùng Jhon rời Việt Nam trên chiếc Boing sang trọng. Lâm tự hào bế đứa bé bước lên thang máy bay trước những con mắt thèm muốn của các cô tiếp viên hàng không. John theo sau, tay xách lỉnh kỉnh đồ lặt vặt dành cho Marry trong chuyến bay dài. Ngắm nhìn con gái đang say ngủ Lâm mỉm cười: Giấc mơ đẹp của Lâm giờ đã trở thành hiện thực!
    Lâm có hạnh phúc cùng chồng con ở nước Mỹ không? Chẳng ai biết cả nhưng một buổi chiều sau đó vài tháng, nhóm tiếp viên hàng không sân bay Tân Sơn Nhất bỗng nhận ra John và Lâm trên chuyến bay trở lại Việt Nam. Họ không mang theo con gái và không nhìn nhau âu yếm như lần bay trước. Lâm có vẻ buồn, mắt thâm quầng như người mất ngủ dài ngày. John lạnh lùng, thô lỗ với cả những người phục vụ. Họ ngạc nhiên nhìn hai người hành khách kỳ cục với vẻ khó hiểu. Một tuần sau lại chính số tiếp viên đó thấy Lâm chạy vào sảnh sân bay, mắt ướt nhoè nhoẹt! Cô hốt hoảng cuống cuồng hỏi thăm danh sách khách bay sang Mỹ hai hôm nay có tên John không? Người trực ban sân bay mở máy kiểm tra: John vừa rời Việt nam trong chuyến bay buổi sáng! Lâm oà lên khóc. Cô đã bị bỏ rơi!
    Như một người điên liều mạng, Lâm gào lên, khóc than cho số phận hẩm hiu của mình. Thế là hết! John đã lừa cô trở về đây rồi bỏ mặc, sau khi đã đem theo toàn bộ tiền bạc, tư trang và hộ chiếu của hai người. Mất chồng, mất đứa con yêu thương đã khiến Lâm hoá dại. Người ta xúm lại nghe Lâm kể lể. Vài người từ tâm khuyên Lâm nhờ Công an sân bay xác nhận sự việc để có căn cứ xin Đại sứ quán Mỹ cho phép nhập cảnh. Cầm giấy xác nhận trong tay Lâm thất thểu bước đi vô định. Trong chiếc túi xách tay Lâm chỉ còn số tiền đủ mua một chiếc vé tàu về Huế!
    Trên chuyến tàu tối hôm ấy Lâm không sao ngủ được. Những ngày sống tại Mỹ như cuốn phim chiếu chậm trong óc cô. Vừa sang đến nơi, cả nhà John ra đón họ tận sân bay: Mẹ, chị và em trai của John đều có mặt. Họ ôm hôn John và đứa bé, nhưng lại khá lạnh nhạt với Lâm, cô con dâu có vẻ mặt lai Á Đông xa lạ. Hình như quyết định của John khi lấy vợ Việt Nam không được họ tán đồng. Nhưng không sao, có John và Marry là quá đủ! Lâm tỏ vẻ bất cần nghĩ vậy. Chỉ mấy ngày sau Lâm thấy mình sai lầm. Gia đình John xét nét Lâm đủ thứ: nào là không biết giao tiếp, nào là chăm con không đúng cách, nào là ăn mặc không hợp thời... Nói tóm lại là chẳng ra gì! Lâm không hiểu hết những gì họ trao đổi với nhau nhưng qua thái độ của họ, Lâm khổ sở lắm. John biết vậy nên một tuần sau họ dọn ra ở riêng tại ngôi nhà nghỉ đông của gia đình John trong một thị trấn nhỏ, nơi có khá nhiều người Việt sinh sống. Lâm đỡ buồn hơn, hàng ngày đi chợ, gặp vài người đồng hương, chăm sóc Marry và đợi John đi làm về. Những tưởng đã được yên thân thì bỗng đâu giông gió ập đến. Bắt đầu là bức thư của Sinh, hắn nhắc lại lời Lâm đã hứa, tiếp đó là cú điện thoại của gã bố dượng, đòi Lâm phải tiếp tục chi tiền. ?oCô đã thành bà chủ, lẽ đâu không nhớ tới người đã cưu mang mẹ con cô trong chiến tranh! Nay một bước lên bà, phải trả giá chứ!? Lâm bàng hoàng buông rơi điện thoại. Cô đâu có ngờ một trong những người Việt mới nhập cảnh đã nhìn thấy cô và tin cho Sinh biết. Bởi hễ nghe ai sắp qua Mỹ, hắn đều đến nhờ tìm giúp tông tích của Lâm.
    Như một con thú đã cùng đường, Lâm quyết định nói hết sự thật với John. Dù sao Lâm cũng đã là vợ chính thức của John, là mẹ của Marry. Qua những ngày chung sống. John cũng tỏ ra yêu quý Lâm. Nghĩ thế nên sau vài lần bị gã bố dượng và Sinh hối thúc, đe dọa, Lâm đã đánh liều kể toàn bộ cuộc đời của mình cho John nghe...
    Lâm không dám nghĩ tiếp nữa, nhưng ký ức nóng hổi vẫn tiếp tục giày vò cô... John nghiến răng, mắt trợn trừng, nhìn Lâm như lạc tròng. Hắn nặng nhọc thốt lên: "Tao giết! Giết! Giết hết!" Mỗi từ trong điệp khúc ấy lại được điểm nhịp bằng một cái chỉ tay: hết vào Lâm, vào đứa con, rồi vào ngực mình. Lâm điếng hồn vì quá hãi hùng, nhìn John đang gục mặt vào hai tay khóc nghẹn ...
    Từ hôm đó họ không còn chung chăn gối nữa. Đứa con đã được John gửi về nhà mẹ. Đột ngột phải ngưng cho con bú, ngực Lâm cương nhức. Nhưng nỗi nhớ con còn lớn hơn nỗi đau thể xác. Lâm không có tiền để đi tầu tới quận Cam thăm con. John đã mang theo người đến đồng tiền lẻ cuối cùng. Sẩm tối, hắn mang về cho Lâm một túi đồ ăn nguội, ném lên bàn ăn và sang phòng khách nằm dài. Lâm len lét ăn vội bữa ăn khốn khổ và cất vào tủ lạnh một phần cho trưa mai. Lâm không thể chết, cô phải sống để gặp lại con mình! Ý nghĩ ấy giúp Lâm từ bỏ ý định tự đâm một nhát dao vào ngực.
    Cứ như vậy cho đến một tuần sau, John bảo Lâm họ sẽ quay lại Việt nam. Lâm không dám hỏi lý do song John nói: ?oCần tiền! Về mua ít đồ lính sang bán?. Lâm buồn nỗi phải xa con nhưng lại mừng vì John đã lo chuyện làm ăn. ?oRồi hắn sẽ nguôi đi? - Lâm nghĩ. ?oRồi mọi việc sẽ trở lại như xưa? - Lâm hy vọng...
    Nhưng mọi việc không như Lâm mong muốn. Về đến Tân Sơn Nhất, John mua vé đi Huế ngay. Hắn đưa cho Lâm ít tiền rồi bảo cô đi tìm hàng trước.?Khi nào gom đủ số, báo để tôi trả tiền!?. Hắn thuê căn phòng nhỏ tại một khách sạn xa thành phố và ngay tối đó hắn bỏ cô lại một mình. ?Tôi có việc phải giải quyết, đừng đợi tôi!?. Lâm hãi hùng nhớ lại những từ ?oGiết! Giết!?... ?oTrời ơi! Hắn tìm Sinh và gã bố dượng để trả hận!? Lâm nghĩ, suốt đêm tưởng tượng ra những cảnh đẫm máu. Cô rộc người đi, mắt trũng xuống.
    Năm hôm sau John xuất hiện. Lâm mừng rỡ nhưng không dám vồ vập. Hắn bước vào, nhìn Lâm bằng ánh mắt đau đớn, khác hẳn vẻ hung bạo gần đây. Lâm không sao hiểu nổi hành động cuối cùng của hắn: John bước lại gần Lâm, nhẹ nhàng gỡ bỏ chiếc áo choàng mặc trong nhà của Lâm ra và đăm đăm nhìn vào ngực cô. Như người bị ma ám, hắn bưng mặt rú lên, hai bàn tay run bần bật. Lâm kinh hoàng quỳ thụp xuống.
    Jhon bỏ đi, không nói với cô một lời. Quá đỗi lạ lùng, cô thao thức suốt đêm. Ngày hôm sau nữa hắn không về. Đêm hôm đó một cảm giác lo sợ cứ bóp nghẹt trái tim Lâm. Sáng ra người phục vụ vào phòng đưa cho cô một bức fax từ bưu điện sân bay Tân Sơn Nhất. Bức fax chỉ vỏn vẹn dòng chữ: ?oVĩnh biệt!?. Đầu óc quay cuồng, Lâm moi hết số tiền John đưa cho cô, mua vé đi Tân Sơn Nhất ngay trong buổi sáng ấy...
    ...Và bây giờ Lâm đang trở về Huế, trên chuyến tàu đêm. Cô đi tìm một sự giúp đỡ dẫu là vô vọng. Cô phải qua Mỹ bằng mọi giá! Cô sẽ kiện John! Phải đòi lại con! Muốn sang Mỹ cần có tiền. Cô nghĩ đến Sinh, đến gã bố dượng. Chính họ đã đẩy cô vào bước đường cùng. Nếu họ chưa bị John giết thì họ phải giúp cô! Nếu không, cô sẽ kết liễu đời những tên đểu cáng đó!
    Nhưng người quen cuối cùng mà cô gặp không phải là họ. Không phải vì họ đã bị John giết chết. Số phận đã sắp đặt để cô gặp trên chuyến tàu định mệnh này một chứng nhân cuối cùng: người đàn bà cùng quê đã chứng kiến cảnh mẹ Lâm bị John hãm hiếp!
    Thì ra mấy ngày qua hắn trở về làng cũ, tìm bằng được người thiếu phụ ấy - cô gái năm xưa đã cuống cuồng bỏ chạy khi thấy hắn lồm cồm bò dậy, trên mặt đất là mẹ Lâm nằm ngất lịm... Dẫu chỉ giáp mặt trong khoảnh khắc ghê rợn đó, bà vẫn không thể quên mặt Jhon với nước da nâu đỏ và mái tóc sẫm màu. Hắn nhờ bà dẫn ra mộ mẹ Lâm, người đã bị hắn tước đoạt đời con gái. Hắn ôm mặt khóc rưng rức bên nấm mộ làm bà cũng thấy tội nghiệp. "Tên ác nhơn nớ đã sám hối. Chừ thì mẹ cô đỡ cực lòng rồi!". Bà hồn hậu kể.
    Lâm thở dốc, hỏi bà có biết tên hắn không? "Rôn hay Don chi đó...". Lâm lẩy bẩy moi túi xách, đưa cho bà xem bức ảnh chụp hắn với Lâm và Marry. "Đúng là hắn đó!", bà reo lên, rồi tái mặt: "Cô gặp hắn rồi hả? Hắn là chi với cô?". Lâm ngất đi, không hay biết gì nữa... Khi tỉnh lại cô thấy mình đang nằm trong bệnh viện. Lâm chợt hiểu vì sao sau khi nghe cô kể hết chuyện đời mình Jhon đã đưa cô đi thử máu ngay.
    Đêm hôm ấy, cô trốn khỏi bệnh viện, lang thang mãi bên bờ sông Hương...
    Phải rồi, không còn nghi ngờ gì nữa! Hắn đã bưng mặt rú lên khi mở áo Lâm ra... Lâm có khuôn mặt giống cha và vóc dáng giống mẹ, nhất là bộ ngực với nốt ruồi son làm duyên bên trái, chính chỗ có trái tim!
    Ba hôm sau, dân Huế sửng sốt nghe tin ghe khách vớt được xác một cô gái trên sông Hương. Khuôn mặt người ấy đã trương lên. Nhưng cặp mắt vẫn he hé mở, như đang dõi theo những giấc mơ dài...
    P.T.T.L

    Được pathros sửa chữa / chuyển vào 20:02 ngày 01/12/2006
    Được pathros sửa chữa / chuyển vào 07:22 ngày 02/12/2006
  4. pathros

    pathros Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/02/2006
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    0
    TUỔI THƠ ĐÁNH MẤT
    Phan Thị Thu Loan

    Điều đầu tiên Hà nhớ được trong đời là những cuộc cãi nhau triền miên của bố mẹ. Khi ấy nó còn bé lắm, chỉ khoảng năm tuổi là cùng. Vậy mà cuộc chiến của họ đã kéo dài được ba năm. Sáu năm chung sống họ đã kịp có bốn mặt con, đủ nếp đủ tẻ, vậy mà không hiểu vì sao bố nó liên tục đâm đơn ra toà. Đã ba lần toà xử, ba lần toà bác đơn và hoà giải. Mỗi lần như thế họ lại về sống với nhau và chỉ ba tháng sau mẹ nó lại mang bầu. Thế nhưng đúa trẻ chưa tròn năm thì bố mẹ nó lại cãi nhau và lại ra toà. Thật là khốn khổ!
    Trong cái thị trấn nhỏ gia đình Hà đã sống những năm 60, đây là một việc tầy đình không ai không biết. Mới nghe cứ tưởng là chuyện của hai con người thiếu hiểu biết, nhưng họ lại là giáo viên và y sĩ nhi khoa, số cán bộ hiếm hoi của tỉnh lúc bấy giờ. Mọi người càng tò mò vì không sao hiểu nổi lý do của những cuộc bất hoà kia. Hà cùng lũ em lại càng không hiểu gì vì chúng còn quá nhỏ. Nhưng Hà vẫn đau lòng khi thấy người ta xúm đông xúm đỏ lại xem bố mẹ chúng cãi cọ, đôi khi đánh chửi nhau. Cho đến bây giờ, khi đã lớn, Hà vẫn không sao quên được tiếng quát xen lẫn tiếng khóc của mẹ nó: ?o Hà! Chạy lên toà án gọi bác Linh về đây! Mau lên!? Chẳng là qua rất nhiều lần hoà giải, cả nhà Hà đã xem bác Linh, chánh án toà dân sự gần như là người nhà. Cuống cuồng vì sợ hãi và xấu hổ, Hà dắt díu lũ em đi dọc con đường nhựa dẫn lên khu tập thể toà án. May mà thời ấy xe cộ còn ít, Hà và ba đứa em lít nhít hột gà hột vịt hốt hoảng chạy băng qua ngã ba đường. Hà muốn bác Linh đến ngay để can bố mẹ ra, nhưng bác ấy chỉ thở dài rồi bảo ?o Các cháu cứ về đi, rồi bác đến ?o. Nó lại dắt các em chạy về. Trái tim bé nhỏ của nó nhảy loi thoi trong ***g ngực. Nó vốn yếu tim như bà ngoại, hơi hồi hộp một tý là tim đập thình thịch như trống làng...
    Về đến nơi Hà chết khiếp vì thấy người ta vừa lôi bố nó từ dưới giếng lên, khiêng vào nhà và đặt lên giường. Hà sụt sùi, không dám khóc to. Nó còn phải trông chừng đàn em nhỏ. Mẹ nó lúc này đã thôi la hét, khóc lóc, bà ngồi bất động trong góc phòng. Hà và các em xúm quanh bố, sợ điếng người, nhưng may quá bố nó đã nặng nhọc mở mắt ra. Bố nó vốn xanh và gầy, lại thấp chỉ đến tai mẹ. Người ta vẫn thường đồn đại rằng mẹ nó luôn là người thắng trong các cuộc đấu tay đôi ấy.
    Họ lại đưa nhau ra toà. Đây là lần thứ tư. Cũng như ba lần trước, kết quả cuộc hoà giải này đem lại cho họ một đứa con gái. Họ đặt tên là Nhung, có lẽ vì mong muốn cuộc sống chung sẽ êm dịu hơn chăng? Nhưng bất hạnh vẫn không rời bỏ họ. Đứa con út này không sống qua sáu tháng. Hà thương em lắm. Nó nhớ mãi cảnh em nó khóc đòi sữa, mà mẹ nó thì đạp xe đi làm mãi tận miền núi, cách thị xã đến hai chục cây số. Buổi chiều về đến nhà mẹ nó sốt ruột vì tiếng khóc của bé Nhung, vội cho con bú ngay, người còn đầm đìa mồ hôi và bụi đường. Không hiểu vì thế hay vì ăn nước cháo nguội vào bữa trưa mà em nó đau bụng đi chảy, phải vào cấp cứu trong bệnh viện. Bố nó lúc này đang đi thi lớp chuyên tu bác sĩ tận Hà nội. Sau mấy đêm thức trắng chăm con ở bệnh viên, mẹ nó quay về mếu máo báo tin em Nhung đã chết. Hà khóc mãi, nó nhớ đứa em nhỏ hiền lành, xinh xắn nằm trong nôi, là người bạn duy nhất của nó khi mẹ vắng nhà. Những đứa em khác bố nó đã gởi lên trại trẻ của tỉnh, cuối tuần mới đón về. Nghe tin dữ bố nó vội đáp tàu về và suốt đêm hôm đó bố bế xác đứa em khốn khổ đi lang thang khắp thị xã như một ngưòi điên. Ông quyết định sẽ vĩnh viễn rời bỏ vợ, ?ongười mẹ đuểnh đoảng không biết nuôi con? như lời ông thường bảo.
    Khốn khổ cho người mẹ vừa mất đứa con thơ nay lại nghe tin chồng đâm đơn ly dị. Bà nằm vật xuống, ốm mấy tháng ròng. Cái tang chung này không kéo họ lại gần nhau mà mãi mãi đẩy họ xa nhau.
    Hà nhớ mãi lần cuối cùng bố mẹ ra toà. Đó là lần thứ năm. Trước hôm toà xử, mẹ nó gọi riêng nó ra và dặn: ?o Khi nào toà hỏi con muốn ở với ai thì con nói con với em Minh muốn ở với mẹ nhé. Còn em Anh và em Thu thì ở với bố. Con nhớ đấy nhé!? Tuy không quên lời dặn của mẹ nhưng ra toà Hà lại nói khác. Thằng Minh đã kéo tay nó bảo: ?o Chị ơi! Em muốn ở với bố, em muốn đi Thủ đô cơ, ở đó vui lắm không buồn như ở đây.? Thương em nên khi toà hỏi, nó đứng lên nói: ?o Các em cháu muốn đi theo bố, còn cháu, cháu ở với mẹ?. Thế là mẹ nó giận và ghét nó, còn bố nó thì nghĩ nó không thích ở với ông. Không phải đâu, nó thích Hà nội lắm. Hà không muốn ở lại cái thị xã này một chút nào, nơi chất chứa đầy những đau buồn, nơi mà bất hạnh đã sớm len vào cuộc đời non trẻ của nó. Nhưng nó thương me. Nó không thể đòi đi, bỏ mẹ ở một mình...
    Thế là bố mẹ chúng bỏ nhau. Khi chia tay, bố không nói với nó một lời nào. Nó nhìn bố đứng lặng dưới hàng cây cạnh toà án, tay bứt những chiếc lá thả xuống đường. Nó chờ đợi, nhưng bố đã quay đi, tay dắt theo ba đứa em nhỏ. Mẹ nó ra sau, vẻ mặt như người thua cuộc. Trong phiên toà bà vẫn nói : ?o Chồng tôi muốn bỏ tôi nhưng tôi không bỏ anh ấy?. Thế là thế nào? Nó không sao hiểu nổi. Khi đã khóc hết nước mắt, Hà mới lờ mờ hiểu ra rằng bố mẹ chúng vẫn thương nhau, không dễ bỏ được nhau, chỉ vì cuộc sống gian nan quá, lại sớm có nhiều con nên họ đã đánh mất hạnh phúc của cả đời mình, lẫn của con cái...
    Hà ở với mẹ và bà ngoại. Bà thường kể:
    - Cháu là con đầu lòng nên hồi nhỏ, cháu là đứa sướng nhất đấy.
    - Thật hả bà?
    - Ừ. Bố ****** mua toàn tã lót viền đăng ten, cả nôi, phích Trung quốc nữa... Cưng cứ như cục vàng ấy. ****** đi dạy học xa. ****** mua hàng két sữa để dành cho mày ăn vào buổi trưa ...
    - Thế cháu sướng hơn các em hả bà?
    - Chứ sao! Nhưng ****** mắn quá, cứ sòn sòn năm một. Người thì cứ yếu đi. Tiền lại không đẻ được. Đến lượt thằng Minh thì chẳng còn sữa mà ăn. Ây thế nhưng năm sau lại đẻ thêm cái Thu. Đến là khổ!
    Hà bắt đầu hiểu ra vì sao mẹ hay cáu gắt, còn bố thì nghiến răng chê mẹ đoảng, nhà cửa bề bộn, con cái bẩn thỉu. Và bố mẹ lại cãi nhau...
    Những ngày đầu xa bố và các em, Hà buồn lắm. Nó nhớ các em đến quay quắt. Nhất là em Nhung. Hà thường khóc thầm mỗi khi ở một mình. Mẹ đã đi làm lại nhưng tâm tính thay đổi bất thường. Mẹ hay mắng oan nó và hình như còn giận chuyện ở toà án. Nó thấy cô đơn, trống trải lạ lùng. Buổi trưa nằm trong góc buồng, nó mải nhìn nắng soi qua những lỗ nhỏ của tấm liếp tre, lấp lánh như những chùm sao ban ngày. Mỏi mắt, nó thiu thiu ngủ. Trong mơ Hà gặp lại em Nhung, dễ thương, xinh xắn, nằm trong chiếc nôi tre. Nó ru em nhè nhẹ, em Nhung đu đưa nhẹ nhàng theo nhịp tay của nó, rồi từ từ lẫn vào những vì sao xa lắc. Nó muốn bay theo đuổi theo em, nhưng chân tay nó như bị trói chặt. Nó choàng tỉnh, những vì sao lấp lánh còn kia nhưng em Nhung thì không thấy đâu nữa! Hà oà lên khóc. Tiếng khóc của nó làm mẹ thức dậy. Thế là mẹ mắng nhiếc nó tự nhiên khóc lóc làm rộn cả nhà mà không hề hỏi nó lý do. Nó không dám kể lại giấc mơ của mình và cũng từ đó không bao giờ chia sẻ nỗi đau của nó với mẹ, cho dù đấy là những nỗi đau chung.
    ...............
  5. pathros

    pathros Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/02/2006
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    0
    Rồi Hà cũng nguôi dần đi. Dù sao nó vẫn là trẻ con, chóng nhớ mau quên. Nó tìm vui với đám bạn cùng tuổi. Chúng nó nghịch lắm, hay hét lên trêu Hà:? Ê! Ê! Đầu bẹp cá trê, tóc dài đuôi ngựa!?. Chẳng là nó vốn còi xương, mẹ lại có bầu sớm, phải cai sữa nó từ khi bốn tháng tuổi. Bà thì đau ốm luôn nên Hà chẳng mấy khi được ai bồng bế. Nằm mãi trên giường gỗ nên đầu nó lép xẹp. Bù lại nó có mái tóc đen dài, óng mượt. Lũ bạn quái ác kia lại ghép cả ưu và nhược điểm của nó để trêu chọc. Nhưng Hà buồn nhất khi chúng nó hát rằng: ?oBến sông kia bên bồi bên lở. ****** bỏ vợ mày ở với ai?? Những lúc như thế Hà chỉ muốn khóc.
    Nó bỏ về nhà, quanh quẩn bên bà. Bà dạy nó nhồi bếp mùn cưa sao cho chặt, vần nồi cơm sao cho khéo. Mới sáu tuổi đầu nó đã biết nấu cơm, giặt quần áo. Nhưng khó nhất là múc nước từ giếng sâu lên. Nó xoạc hai cẳng chân gầy gò đánh vật với gàu nước nặng chỉ chực lôi tuột nó xuống đáy, rồi kéo xềnh xệch lên khỏi thành giếng. Những lúc như vậy lại nghe bà nhắc:?o Hà, nhẹ tay thôi kẻo hỏng gàu đấy!?.
    Một lần bà thả một con ba ba xuống giếng. Hà rất thích ngắm nó bơi, bà dặn đi dặn lại: ?o Múc nước phải cẩn thận, đừng có kéo nó lên. Nó mà đớp vào tay thì phải sấm nổ nó mới nhả ra đấy!?. Những lúc rỗi việc, Hà hay ngồi bên thành giếng, cạy đám rêu xanh rì thả xuống cho ba ba ăn. Nó thích màu xanh của rêu non và tưởng tuợng đó là đám cỏ xanh trong một khu vườn bí ẩn, còn con ba ba là con bò mộng nó thả đi ăn. Đó là những giây phút yên tĩnh, thanh thản nhất trong tuổi thơ khốn khổ của Hà. Con ba ba rất thích ăn vỏ chuối cắt nhỏ. Nó đớp nhoay nhoáy ra dáng thèm thuồng và lớn lên trông thấy. Một hôm gặp Hà đang thả vỏ chuối xuống giếng bà mắng:? Ba ba chỉ ăn rêu trong giếng thôi. Cứ bỏ bậy bạ xuống, thối hết nước!? Bà không mua chuối cho Hà nữa.Tội nghiệp con ba ba cứ thấy bóng Hà là nổi lên, ngỏng cái cổ chờ đợi, mãi mới chịu lặn xuống. Bẵng đi mấy ngày, đoán rằng con ba ba đã quên món vỏ chuối, Hà rứt nhúm rêu định làm quà cho nó nhưng chờ mãi không thấy con ba ba đâu. Bà đi qua bảo: ?oBà bán nó cho tiệm cơm tàu ở ga rồi. Đừng thả rêu xuống, bẩn nước!? Hà quay đi, không dám khóc trước mặt bà... ?o Bà già rồi lại ốm đau nên khó tính?, nó nhớ đến lời mẹ dặn nên cố không làm bà bực mình...
    Hà vui nhất là khi trong nhà xuất hiện một con mèo đen tuyền. Bà nó xin về vì nhà lắm chuột. Nó thân với con mèo con lắm, như hai người bạn. Con mèo rất hiền mặc dù trong đêm tối mắt nó xanh lè trông cũng sờ sợ. Bà đặt tên cho con mèo là Huyền. Đêm ngủ nó cho Huyền nằm cạnh, thấy đỡ trống trải mỗi khi mẹ phải đi họp đêm. Nhưng niềm vui của nó không được lâu. Một hôm Huyền đi chơi rồi không về nữa. Bát cơm để phần trong góc bếp vẫn còn nguyên. Hà buồn lắm, như hồi em Nhung vừa chết ấy. Nó đi tìm con Huyền cả buổi tối. Bà chép miệng bảo:? Mèo đen là hay bị bắt hầm làm thuốc lắm?. Hà nhấp nhổm, tưởng tượng cảnh con Huyền bị giết nấu cao. Một tiếng nghêu ngao từ xa vọng lại, Hà vọt ngay ra đường quên cả xin phép bà. Lúc sau nó thất thểu quay về, mắt ngân ngấn nước. Huyền bị bắt thật rồi. Hà không bao giờ quên được con mèo đen tuyền, xấu xí mà thân thương đó...
    Rồi cũng đến lúc Hà được đi học. Trái với suy đoán của mọi người, nó thuộc mặt chữ rất nhanh. Chỉ sau nửa năm nó đã biết đọc, biết viết. Nó say sưa đọc hết những câu ca dao và nhất là những chuyện cổ tích trong quyển sách Tập đọc lớp 1 của mẹ nó. Bà vốn là giáo viên môn văn. Nó thích nhất là câu chuyện ?o Anh nông dân và con cò ?o và nhớ mãi câu ca mọi người chế giễu anh: ?o Công anh bắt tép nuôi cò. Cò ăn cò béo cò dò lên cây!? Nó thấy thương anh và giận những kẻ vô tâm đã chê cười con người tốt bụng ấy. Rồi nó ao ước được đọc những câu chuyện khác trong cuốn sách Tập đọc lớp 2. Nó không dám thổ lộ điều này với mẹ, chỉ dám nói với cậu Thông, con nuôi của bà. Cậu sốt sắng hứa sẽ mua tặng nó trong chuyến thăm nhà lần sau. Rồi cậu đi mãi không trở về. Bà khóc, nói rằng cậu đi vào Miền Nam và đã hy sinh.
    - Cậu mày chết rồi, là liệt sĩ như ông ngoại ấy.
    Hà nhìn lên tấm bằng ?oTổ quốc ghi công? trên tường có ảnh ông ***g ở một góc. Mặt ông nhìn nghiêng, đằng sau có nòng súng gí vào gáy. Mẹ bảo thế.
    - Bà chỉ có mỗi tấm ảnh này cắt ra từ báo đăng tin Pháp xử bắn ông thôi.Từ ngày ấy bà mắc chứng đau tim, hay bực bội, hồi hộp lắm. Con đừng trái ý bà!
    Hà chẳng dám trái ý một ai. Nó không nói với bất cứ người nào những điều nó nghĩ. Chẳng ai quan tâm đến Hà và hiểu nó cả. May ra chỉ có một người. Một người duy nhất mà nó dám thổ lộ ước muốn thầm kín của mình. Đó là chú Tuấn, sĩ quan quân đội học ở Liên xô. Chú là người bà quý nhất trong số con nuôi của mình. Chú thường hay viết thư cho mẹ, mỗi lần đọc thư chú, Hà thấy mẹ bớt buồn hơn. Vì thế Hà quý chú lắm. Chú về nghỉ hè nửa tháng, bà và mẹ vui mừng làm cơm ngon đãi chú. Chú Tuấn rất hiền, hay nói chuyện với Hà. Chú hỏi nó thích đồ chơi gì, chú sẽ mua cho. Hà ngập ngừng mãi mới dám nói nó thích có một con búp bê nhựa bày ở Cửa hàng Bách hoá của thị xã. Con búp bê ấy sẽ thay thế em Nhung, con ba ba, con Huyền và sẽ không bị chết, bị bán hay bị giết...
    Chú Tuấn đạp xe chở nó đi, nhưng cô bán hàng nói: ?oHàng mẫu không bán?. Hà thất vọng quá. Nhìn mặt nó chú Tuấn bảo: ?o Thôi, đợt này đi Hà nội thăm bố cháu và các em, chú nhất định sẽ mua cho cháu. Đừng buồn nhé?. Rồi chú mua cho nó chiếc bong bóng màu xanh da trời. Hà thích lắm, hết buồn ngay. Nhất là vì nghe chú nói sẽ cho mẹ con nó đi thăm bố và các em. Chú Hà chở nó về. Nó cầm sợi chỉ cột chiếc bong bóng, tự hào nghĩ rằng nó sẽ có cái để khoe với lũ bạn nghịch ngợm kia. Bỗng nhiên chiếc bong bóng tuột khỏi tay nó và bay lên. Nó tiếc điếng người, không kịp nghĩ gì, vội vã nhảy xuống xe để chộp lấy quả bóng. Nó ngã rất đau, trợt cả đầu gối, còn bong bóng thì đã kịp bay lên trời! Hà lồm cồm bò dậy chờ nghe tiếng quát của chú Tuấn. Thế mà chú chẳng mắng nó một lời nào. Chú chỉ dặn lần sau đừng nhảy xuống như thế, lỡ ôtô cán phải. Hà thấy chú tốt quá. Ước sao chú ở mãi với nhà mình đừng đi Liên xô nữa!
    Nhưng kỳ nghỉ hè của chú Tuấn đã gần hết. Chú mua vé tàu cho mẹ và Hà ra Hà nội. Bà mệt nên không đi được. Hà thấy mẹ rất vui. Nó mừng lắm. Trước ngày lên tàu sang Liên xô, chú chở Hà đi Bách hoá Tổng hợp gần Bờ Hồ. Nó hoa cả mắt khi nhìn thấy những con búp bê đủ loại đang nằm ngồi rất ngộ nghĩnh trong tủ kính. Cô bán hàng tươi cười bảo: ?oĐến giờ đóng cửa rồi. Em đã bàn giao cho ca khác. Ngày mai anh ra mua nhé!?. Quả thực cửa ra vào chuẩn bị đóng, khách hàng đã về gần hết. Hà gần phát khóc. Chú Tuấn dắt nó ra cửa rồi dỗ: ?o Đừng buồn! Sang Liên xô chú sẽ mua cho cháu con búp bê đẹp hơn nhiều. Nó biết nhắm mắt, mở mắt và biết khóc nữa. Chờ chú nhé!? Hà đã quá quen với những sự đổ vỡ, mất mát, thất vọng. Nó chỉ còn biết gật đầu.
    Chú Hà đi rồi. Mẹ buồn hẳn, nhưng bù lại mẹ con nó được gặp bố và các em. Bố mẹ chẳng nói gì với nhau. Các em đi học hè chưa về. Bố hỏi thăm nó vài câu. Nó vui miệng kể về chú Tuấn và chuyện mua búp bê không thành. Bố dắt nó qua phòng làm việc và lấy từ trên giá xuống cái tượng cô gái đọc sách bằng thạch cao sơn màu rất đẹp. Nó mừng rỡ nhận món quà quý giá, dẫu đó không phải là búp bê thực thụ. Nó nhìn bố với vẻ biết ơn. Có tiếng ríu rít ở phòng bên. Thì ra các em nó đã về. Mẹ đang chia kẹo cho chúng nó. Khi Hà chạy sang thì cả ba đứa trố mắt nhìn: Chúng lạ lẫm khi thấy một cô bé đen đủi, gầy nhẻm đang cười thật tươi với chúng.
    - Chị Hà đấy. Mẹ bảo
    - Chị Hà đây á ? Không phải. Chị Hà đẹp cơ, trắng cơ, béo cơ. Cái Thu thốt lên.
    - Chị của các con đấy. Chào chị đi!
    Hà chạy lại gần các em, muốn ôm lấy chúng, dắt cái Thu đi chơi đồ hàng bằng lá bàng và hoa phượng mỗi dịp hè về như trước, nhưng cả thằng Anh, thằng Minh và cái Thu cứ lùi lại không muốn đến gần Hà. Nó lúng túng chưa biết phải làm sao thì thằng Minh chạy đến giằng cái tượng từ tay Hà.
    - Trả đây. Trả lại đây. Đồ ăn cắp!
    - Không phải! Bố cho chị mà.
    Hà oà lên khóc, nhìn thằng Minh ném mạnh cái tượng xuống sàn nhà. Cô gái xinh xắn kia chỉ còn là những mảnh vụn nửa trắng nửa hồng. Cái đầu với mái tóc đen nhánh văng ra góc phòng. Bố chạy sang, nắm hai tay thằng Minh, phát cho nó một cái vào mông. Đến lượt thằng Minh khóc. Mẹ bực tức, đỏ mặt lên gắt bố. Cuộc hội ngộ chẳng như mong đợi này sắp biến thành một cuộc đấu khẩu. Mẹ kéo Hà ra về. Dọc đường mẹ trút mọi nỗi buồn phiền xuống đầu nó:
    - Mày không đụng vào của nợ ấy thì làm gì có chuyện. Lúc nào cũng phá rối. Cả chú Tuấn cũng không yên vì mày!
    Hà chả biết nói sao. Nó đã quen im lặng. Nó chỉ thấy buồn bã, khổ sở vì lũ em không muốn nhận mình. Trong tâm tưởng, nó vẫn nhớ từng gương mặt thân yêu của những đứa em mà nó đã thay mẹ chăm sóc từ thuở lên bốn, lên năm. Nỗi mất mát này lớn hơn những gì nó đã trải qua. Gương mặt nó sắt lại, nhìn càng thêm già trước tuổi...
    ...........
    Được pathros sửa chữa / chuyển vào 23:31 ngày 05/12/2006
  6. pathros

    pathros Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/02/2006
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    0
    Rồi Mỹ ném bom miền Bắc. Hà cùng mẹ chuyển về ngôi trường cách thị xã hơn chục cây số. Bà thì theo trại an dưỡng sơ tán về vùng quê xa hơn. Nó không còn được nhổ tóc sâu cho bà nữa. Bù lại Hà rất thích ngôi trường nơi mẹ nó dạy học. Mẹ con nó được phân một căn phòng sát trạm xá và một khoảnh vườn xinh xinh. Mẹ dạy Hà cuốc đất, trồng rau. Mùa nào thức nấy, hết mùa rau cải Hà trồng đậu vàng, su hào hay dền đỏ. Hà rất thích ngắm những cây rau non lớn dần lên. Hà tập gánh nước tưới rau. Lúc đầu là gánh hai chiếc nồi vồm, thứ nồi đất nung lớn bán ở chợ làng, dần dần Hà gánh được hai thùng sắt tây của người lớn. Khi ấy Hà chín tuổi. Nhìn con bé gầy đét chạy liêu xiêu dưới sức nặng của đôi thùng nước, lại còn không biết đổi vai, ai cũng ái ngại, chép miệng lắc đầu. Mẹ Hà bảo: ?oTập lao động cho quen, lại khoẻ người?. Hà còn nhỏ tuổi nên những gánh nước hàng ngày đó làm nó đẹt lại không cao lên được. Rau trồng nhiều quá ăn không hết, mẹ sai Hà đem bán. Nó không thích việc này chút nào. Nhớ lần Hà gánh cải đi bán, mẹ dặn: ?o Giá một hào một mớ. Nhớ đấy!? Nó bán gần hết gánh rau, chỉ còn ba mớ cuối cùng. Đi mãi không có người mua, Hà định quay về thì có bà cụ ở gần trường gọi lại bảo: ?o Còn ba mớ này bán cho bà lấy hai hào nhé. Rau nát quá rồi?. Nó bằng lòng bán và đem tiền về cho mẹ. Nghe kể thế mẹ bực mình bắt nó đòi đủ ba hào. Hà không dám trái ý mẹ, nó bối rối đến nhà bà cụ, ấp úng xin thêm tiền. Bà cụ sầm mặt xuống, ra cây sào nhấc mấy bó cải đang phơi xuống trả cho nó. ?o Gớm! Rau già khú chỉ để làm dưa, bán rồi lại đòi thêm. Rõ cái thứ người...? Bà bỏ lửng câu nói nhưng Hà xấu hổ lắm. Trong thâm tâm nó thấy mẹ hơi quá. Mình trồng rau, đi mượn xóm giềng từng cái cuốc, gánh nước, quang thúng, thế mà...Nó trả tiền, cầm rau lủi thủi ra về, còn mẹ nó bảo: ?oThế cũng được, dễ dãi, người ta quen thói mua rẻ đi?. Hà chỉ thích trồng rau chứ chẳng thích đi bán nhưng nó không dám cãi.
    Dạo ấy cây bầu trên mái nhà ra nhiều quả to. Mẹ bảo Hà trèo lên hái. Hà chưa bao giờ leo cao cả. Nó hay chóng mặt. Nhưng mẹ đã nói thì đó là mệnh lệnh. Hà lẩy bẩy trèo lên. Lớp ngói vẩy cá cũ đầy rêu, trơn trượt. Hà sợ lắm nhưng vẫn bấm chặt ngón chân xuống dò từng bước, hai tay bám hú họa vào những dây bầu. ?Đừng kéo mạnh mà hỏng dây bầu đấy?. Hà biết rõ chỉ cần tuột tay thì nó sẽ lăn ngay xuống đất. Cái sống cái chết chỉ nương vào mỗi một dây bầu. Mồ hôi lạnh rỏ giọt xuống mái ngói, nhưng cuối cùng thì nó cũng hái được quả bầu xuống. ?o Đem ra chợ bán đúng một đồng mốt để còn nộp học phí ?o, mẹ bảo. Nhớ lại chuyện bán cải, lần này Hà không dám bớt dù chỉ một hào. Bao nhiêu người trong buổi sáng đó đến xăm soi quả bầu to, láng mướt, đầy lông tơ óng ả nhưng chỉ trả đúng một đồng. Mẹ Hà thỉnh thoảng lại ghé qua xem và bảo:? Các bác trả cho cháu đồng mốt để cháu đóng học phí?. Vài người bĩu môi chê đắt. Rồi họ lần lượt ra về để lại vô vàn dấu móng tay trên quả bầu. Họ bấm xem bầu có non không? Từ những vết móng tay đó nhựa ứa ra, trong veo như nước mắt. Chợ sắp vãn, mẹ Hà gắt: ?oThôi một đồng cũng được. Bán mà về!? Nhưng chẳng ai mua bầu nữa. Họ đi hết cả rồi. Hà lặc lè vác trái bầu về. Hết luộc lại kho. Hết kho lại xào. Rồi nấu canh. Khúc cuối cùng ngâm muối. Cả tuần đó Hà ăn bầu phát chán, lại còn phải dậy đi tiểu một đêm mấy lần vì giống bầu vốn mát! Lần đó mẹ Hà hình như cũng hiểu ra cái sự ?o già néo đứt dây ?o, bà không bắt Hà đi bán lẻ nữa mà gánh cả gánh ra phố giao sỉ cho bà hàng rau quen biết.
    Ngoài những lúc trồng rau, học bài, gánh nước, nấu cơm ra, còn chút thời gian nào Hà lại đến kho sách của thư viện trường. Giấu mình trong đó, Hà say sưa ngốn đủ loại sách. Mẹ Hà được giao giữ cái kho này. Hà sung sướng đọc thoả thích, cho bõ những nỗi thèm khát lâu nay. Nhớ khi còn ở trên thị xã, Hà đã đứng hàng giờ trước hiệu sách tư nhân trước bến xe liên tỉnh, thèm thuồng nhìn tập Truyện cổ Grim. Trang bìa có vẽ một cô gái choàng chiếc khăn trắng mỏng nổi bật trên nền trời xanh biếc đầy những vì sao. Hà làm gì có tiền để mua những tập sách thần tiên ấy. Nó đứng mãi, mở to hai con mắt vốn đã quá to ra mà ngắm nghía đến nỗi người chủ hiệu sách thương hại, hỏi nó có thích đọc không? Hà mừng rơn, ngốn ngấu tại chỗ cuốn sách mới toanh có những truyện cổ tích lạ lẫm nhưng thật hay cho đến khi nghe tiếng gọi của bà. Bây giờ thì Hà đã có cả một kho sách để mà đọc, để mà quên đi những buồn khổ của mình.
    Những giờ phút hạnh phúc của Hà trong kho sách sớm chấm dứt khi chiến tranh trở nên ác liệt. Trường phải chuyển toàn bộ thư viện, vật dụng khác vào chân núi Mật, chỉ để lại bàn ghế cho học sinh ngồi tạm. Ngoài vườn, những chiếc hầm tránh bom thế chỗ những luống rau. Ngay cả trong nhà, mẹ và Hà cũng đào một chiếc hầm trú ẩn dưới gậm giường.
    ?o Để phòng những lúc Mỹ ném bom ban đêm ?o, mẹ bảo. Quả thật không thừa vì ngay trong tháng ấy, xưởng cưa dưới chân núi Mật đã bị trúng rốc két. Tiếng máy bay gầm thét lúc nửa đêm và người ta kìn kìn khiêng người bị thương xuống trạm xá sát phòng ở của mẹ con Hà. Tiếng la thét xoáy vào óc nó. Hà không ngủ được, mở cửa chạy sang. Chú Tâm y sĩ đang thay băng cho một thằng bé bị thương vào đầu. Chắc nó đau lắm, vừa khóc vừa chửi tục. Còn mẹ thằng bé thì bị cả một cây nứa xuyên suốt bắp chân. Cô Tính bác sĩ đang xẻ miệng vết thương để gắp dăm nứa ra. Cô ấy quằn quại nhưng không gào lên như đứa trẻ. Hà khiếp quá chạy tọt về phòng. Mẹ đi cứu thương rồi, chỉ có mình nó ở nhà. Nó bịt tai lại, không muốn nghe tiếng khóc của thằng bé nữa.
    Hôm sau người ta chở về trường mấy chiếc quan tài. Không còn chỗ cất vì các phòng học đã dành hết cho người bị thương nằm. Họ khiêng luôn vào để trong phòng Hà. Bọn trẻ con trong làng thường doạ nó: ?o Nửa đêm quan tài dựng đứng lên rồi người chết bước ra bóp cổ mày đấy...!?. ?o Bậy, đây là quan tài mới kia mà!?, mẹ bảo và dùng luôn làm tủ đựng gạo và thức ăn ?o cho khỏi gián chuột ?o. Nhưng Hà vẫn sợ bởi ban đêm mẹ nó thường vắng nhà đi trực cứu thương. Có đêm Hà đang nằm trên giường đợi mẹ thì một bàn tay thò vào khe cửa thông hơi, múa máy liên hồi. Nó quay mặt vào tường, sợ run cầm cập. Có tiếng đập cửa, Hà điếng người, nằm im như chết. Bỗng tiếng bác Tuyển bảo vệ quát lên: ?oHà, mở cửa ngay, mẹ cháu bị thương đây này!?. Hà lập cập ra mở cửa. Mẹ được hai người dìu vào nhà, đặt lên giường.
    ?o Mẹ cháu bị sức ép bom?. Một người giải thích. Bác Tuyển đi gọi chú Tâm đến. Mẹ nằm nghẹo đầu, mềm như sợi bún, mắt ngắm nghiền. Hà thương mẹ quá, khóc oà lên. Chú Tâm đến khám cho mẹ xong bảo nó.
    - Mẹ cháu còn sống nhưng bị ngất. Cháu cứ trông nom mẹ. Có gì cháu gọi chú nhé.
    - Chú đừng đi lâu, cháu sợ lắm. Nó mếu máo dặn.
    - Không, chú ở ngay trong trường thôi. Đừng sợ!
    Hai hôm sau mẹ nó mới mở mắt ra nhưng hình như đã trở thành một người khác. Mẹ hay đau đầu và cáu gắt. Chú Tâm bảo mẹ bị chấn thương não. Nhiều lúc trở trời mẹ đâm lẫn lộn. Có lần giận nó mẹ bảo: ?o Mày không phải là con tao?. Hà tủi lắm, ?onhưng mẹ ốm kia mà?, nghĩ thế nó lại không giận mẹ nữa.
    Bệnh mẹ không bớt mà nặng dần lên theo ngày tháng. Bây giờ mẹ hay quên, lại đâm sợ tiếng máy bay. Mẹ nghỉ dạy học, suốt ngày ở dưới hầm trú ẩn ngoài vườn, nhiều buổi quên cả ăn. Hà phải đem cơm xuống hầm cho mẹ. Rồi một ngày nọ Hà đau bụng, những cơn đau xé ruột, tức buốt đội lên làm nó bật rên. Nó rên suốt mấy ngày liền, không ăn uống gì được. Bác Tuyển đi xuống hầm tìm mẹ thì mẹ đã bỏ đi đâu mất. Bác gọi chú Tâm đến. Khám xong chú bảo :
    - Chắc nó bị giun chui ống mật. Phải mổ ở bệnh viện tỉnh.
    - Nhưng mẹ nó đi đâu từ sáng, ai đưa nó đi bây giờ? Bác Tuyển hỏi.
    - Phải chờ mẹ nó về đã. Tôi đi khám thương đây.
    Chú Tâm dặn bác Tuyển chăm sóc nó rồi đi ngay. Bác loay hoay hỏi nó ăn gì? Nó chỉ lắc đầu rên rỉ. Bác ép nó uống chút nước rồi ra về. Bác còn phải trông chừng nhiều người bị thương nữa. Hà nhìn chồng quan tài ở giữa nhà, nhiều cái đã được mang đi và lại được chuyển đến. Nó không sợ chết. Nó sẽ nằm vào một trong những chiếc hòm gỗ đó. Hết cả đau đớn. Hết cả buồn khổ. Nhưng chợt nó nghĩ đến mẹ. Mẹ nó giờ ở đâu? Có biết nó đau nhiều thế này không? Còn bà ngoại nữa. Nó sẽ chết đi mà không gặp bà và mẹ ư? Đột nhiên nó hoảng sợ. Nó muốn gọi bác Tuyển lại, muốn xin bác cho ăn để còn sống mà gặp bà, gặp mẹ. Nhưng bác Tuyển đã đi xa. Còn nó chẳng còn hơi sức nào mà gọi...
    Nó nằm trong tuyệt vọng đến trưa thì mẹ về. Mẹ nhìn nó hồi lâu rồi lặng lẽ đi nấu cháo. ?oHình như mẹ khỏi ốm rồi?, nó vui mừng nghĩ. Mẹ múc bát cháo còn nóng, mở cái gói lá mới đem về, lấy ra một con cá nục kho nồi để lên trên rồi đỡ nó dậy, đút cho nó ăn. Thìa cháo đắng nghét trong miệng nhưng nó cố nuốt không để mẹ phải chờ. Kỳ lạ thay, cơn đau dịu dần, chiều đó nó hết đau bụng và thoát khỏi ca mổ đáng sợ kia.? Chắc giun hút hết mật, lại chui xuống ruột rồi?, bác Tuyển bảo mẹ Hà: ?o Cô phải thương lấy nó chứ. Nó là con ruột cô kia mà?. Mẹ ngơ ngẩn gật đầu nhưng ít hôm sau mẹ lại lên cơn đau. Mẹ la hét, mắt trợn trừng như người hoá dại. Nó chạy vào ôm lấy mẹ, thì bị mẹ vớ cây chổi cán dài ở góc nhà đánh tới tấp. Nó đau lắm nhưng không giận mẹ, chỉ thấy thương và sợ. Qua cơn đau, mẹ nó lại ôm mặt khóc. Từ hôm ấy Hà liên tiếp bị đòn. Tính nó vốn hay quên. Nó nhớ chữ rất lâu, học bài chóng thuộc nhưng có tật bỏ đâu quên đó. Mỗi lần mẹ hỏi vật gì là y như rằng nó phải nghĩ mãi, tìm mãi mới ra. Mẹ nó sốt ruột, bốc hoả lên đầu, vậy là nó lại bị đòn. Hà không dạn đòn được như những đứa trẻ khác. Lần nào bị đánh, nó cũng đau như nhau. Nó kêu khóc, nhưng có lẽ tiếng kêu của nó làm mẹ nó càng thêm điên tiết. Bà đánh mãi đến khi có người nhào vào can mới thôi.
    .................
  7. pathros

    pathros Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/02/2006
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    0
    ?o Mẹ cái Hà bị điên rồi?. Người ta đồn vậy.? Tội nghiệp con bé. Người cứ quắt như con cá mắm vậy mà mẹ nó cứ đánh suốt.?. Nhưng Hà biết mẹ không điên. Mẹ nó chỉ khổ quá thôi. Mỗi lần đánh nó mẹ vừa khóc vừa trách móc bố, nhắc tới thằng Anh, thằng Minh, cái Thu. Nhất là em Nhung. Nó biết mẹ nhớ các em và giận bố. Sau mỗi trận đòn, vừa hết đau, nó lại muốn mẹ ôm lấy nó dỗ dành. Nhưng mẹ chẳng bao giờ làm thế. Nó nằm trong bóng đêm câm lặng, không dám oán trách ai, chỉ nghĩ rằng lớn lên đi làm được tiền, nó sẽ chữa bệnh cho mẹ, sẽ nuôi mẹ đến già. Và không bao giờ lấy chồng để khỏi khổ như mẹ...

    Sau khi mẹ Hà chết, nó được bố đón ra Hà nội. Những năm sơ tán ở Hà tây, Hà thay bố chăm sóc các em. Nó gánh nước, nấu cơm, giặt giũ cho bầy em nhỏ. Lúc Hà mới ra đây, lũ em đang còn ở trong trại trẻ sơ tán. Chúng ghẻ lở, chốc đầu nhìn đến khiếp. Hà nghe người lớn mách, xin lá vối về vò nát đun sôi kỹ rồi pha nước gội đầu cho thằng Minh. Được ba lần thì vết chốc lành hẳn. Hàng ngày Hà hái lá xoan về tắm cho các em và bôi thuốc ghẻ đều đặn. Một tuần sau chứng ghẻ lâu nay hành hạ mấy đứa em cũng hết dần. Bố nó đến thăm, mừng lắm. Lần đầu tiên bố thấy nó cũng đáng yêu. Ông vẫn ác cảm với Hà bởi ?osao cái mặt giống mẹ nó thế?. Khổ thân cho Hà, nó nào được chọn cha, chọn mẹ. Càng không được lựa chon mình sẽ giống ai. Đôi khi bố mẹ thường vẫn bất công với con cái mà không tự biết.
    Mỹ tạm ngừng ném bom miền Bắc. Hà cùng các em được chuyển về Hà nội. Ở trường Hà bị lũ bạn đặt tên là ?o bà già đau khổ ?. Hà chẳng lấy thế làm buồn. Từ nhỏ nó đã quen với những lời trêu chọc đầy ác ý. Mà cái tên ấy với Hà lại khá hợp vì trông nó lúc nào cũng buồn rười rượi. Đôi mắt nâu mở to nghiêm nghị, hầu như chẳng mấy khi cười. Thân hình gầy gò tựa như đứa trẻ mười ba dù năm nay Hà đã mười sáu tuổi và đang học lớp 9. Tuổi thơ bất hạnh còn in đậm trong ký ức Hà, không dễ gì phai nhạt. Hà học giỏi. Liên tiếp là học sinh loại A, điểm trung bình cao nhất khối. Nhưng nó trầm lặng ít nói, lạc lõng giữa đám bạn vô tư cùng trang lứa. Những đứa con gái trạc tuổi Hà đã bắt đầu làm duyên, làm dáng. Giữa giờ học còn thì thào chuyện đầu tóc, áo quần. Riêng Hà chăm chú nhìn lên bảng, nuốt từng lời giảng của thầy cô. Với nó được yên ổn học hành đã là may lắm.
    Nó chỉ có hai đứa bạn gái thật thân. Một đứa tên Thanh, lành như cục đất, một đứa tên Hiền, ngang như cành bứa. Ba đứa ngồi chung một bàn, đi đâu cũng có nhau. ?o Đại gia đình ?o của nó - như trong lớp vẫn gọi - là niềm an ủi lớn cho Hà trong những năm cuối của đời học trò.
    ?o Cháu Hà học giỏi đều, lại rất chăm. Tương lai cháu sẽ nhiều hứa hẹn lắm?. Mỗi lần đi họp phụ huynh, bố Hà lại nở cả mặt mày vì những lời khen của thầy chủ nhiệm. ?oTiếc là sức khoẻ cháu không được tốt. Gia đình nên quan tâm đến cháu hơn ?. Bố nó nhớ đến lời dặn của thầy, cảm thấy mình có lỗi với con. Quả thật Hà rất gầy. Mười sáu tuổi mà chỉ nặng ba mươi sáu cân. Hà thường xuyên nhịn phần quà sáng cho các em. Ngoài hai bữa cơm đạm bạc ra nó hầu như không còn gì ăn thêm nữa. Lương bác sĩ của bố chẳng đủ cho năm miệng ăn dù tằn tiện theo khẩu phần tem phiếu. May mà có thêm số tiền học bổng của Hà bằng một phần tư lương của bố. Hà đem cả về nhà. Mỗi tháng bố nó giành lại vài đồng bạc lẻ phòng khi đứa nào ốm đau thì mua cho tô phở. Còn lại thì đưa cả cho Hà. Nó tự tính toán, chi tiêu trong tháng. Bố chẳng phải lo gì nữa. Cuộc sống nghèo khó nhưng thanh bạch khiến nó hài lòng, không khi nào phàn nàn, đẫu rằng việc lo sao cho đủ chừng ấy miệng ăn không phải là dễ.
    Điều làm Hà khổ tâm nhất là hình như trong tiềm thức sâu xa, bố vẫn chẳng bao giờ yêu nó như các em. Mỗi lỗi lầm của nó bố đều trừng phạt nghiêm khắc hơn với lý do ?o mày lớn nhất, phải làm gương!? còn các em bao giờ cũng đúng vì ?o chúng nó còn nhỏ, đã biết gì!?. Lũ em thấy vậy nên thường xuyên bắt nạt nó. Chúng biết bố bao giờ cũng bênh mình nên chẳng sợ gì Hà. Đôi khi tức quá, Hà giận các em nhưng chẳng được lâu. Nó lân la muốn làm lành nhưng thằng Minh, cái Thu mặt cứ gườm gườm, giận dai nhanh nhách.
    Năm học cuối cùng của cấp III, lớp 10 của Hà đón một thành viên mới: Một anh bộ đội mới từ chiến trường ra. Anh xung phong nhập ngũ cách đây bốn năm, khi đang học dở lớp 10. Bị thương và phải giải ngũ, anh trở về trường cũ. ?o Đại gia đình ?o của Hà nhìn anh với ánh mắt nể phục. Chỉ hơn bọn Hà có bốn tuổi, vậy mà Thân đã có một quá khứ oai hùng! Khổ nỗi là anh chàng lại học yếu vì chữ nghĩa đã bay đâu hết cả sau từng ấy năm tháng chiến trường. Vẻ phong sương còn in dấu trên khuôn mặt sáng sủa, trông lại rất hiền. Đám con gái trong lớp lao xao, liếc nhìn Thân, mỉm cười đầy ý tứ. Nhưng Thân hầu như chẳng để ý một ai. Anh còn mải đánh vật với nào những Toán - Lý - Hoá ... hóc búa, lại thêm môn tiếng Nga rắc rối với giống đực, giống cái, giống trung nhì nhằng! Học kỳ một bị xếp là học sinh yếu, Thân rất lo. Thầy chủ nhiệm còn lo hơn cả anh, bèn phân công cho Hà kèm Thân học. Thầy giao nhiệm vụ cho Hà phải giúp Thân thi đỗ tốt nghiệp. Còn Hà tự hứa với mình sẽ giúp anh đậu luôn đại học. ?oĐại gia đình? từ nay có bốn người, vui hơn trước nhiều. Đám bạn gái trong lớp nhìn họ với ánh mắt ghen tỵ. Hà thường đến nhà kèm anh học. Căn nhà trong khu tập thể gần chợ Mới, rộng rãi và thoáng mát. Được Hà kèm cặp, Thân tiến bộ trông thấy. Thầy chủ nhiệm rất mừng, thường xuyên biểu dương đôi bạn học tập này trước lớp.
    Ngày sinh nhật của Thân sắp đến. Hà chẳng biết mừng anh món quà gì. Thanh và Hiền khoe với nó cuốn sổ tay cùng cây bút Kim tinh rất đẹp. Chúng nó góp tiền mua chung. Đối với Hà đó là cả một gia tài. Nó không có tiền mua cho anh dù là một món quà nhỏ bé. Đêm trước ngày sinh nhật, Hà thức rất khuya. Nó ngồi làm thơ tặng Thân. Bài thơ được chép trong tờ giấy màu xanh nhạt mà Hà đã kỳ công cắt những đường hoa văn rất đẹp viền quanh. Bữa tiệc nhỏ ở nhà Thân cỏ đủ bố mẹ và hai em của anh cùng ?ođại gia đình?. Khi Hà bối rối trao tặng Thân món quà giản dị thì mọi người vỗ tay cười, bắt Hà phải đọc bài thơ lên. Hà xấu hổ đỏ mặt nhưng bố mẹ Thân nhiệt tình khuyến khích. Hà đành phải đọc trọn bài thơ về anh bộ đội áo xanh mà Hà đã viết với tất cả lòng mến phục. Thân cảm động, hơi ngượng nghịu ngước nhìn Hà. Trong chiếc sơ mi trắng giản dị, mặt Hà hồng lên dưới ánh đèn, đôi mắt thông minh sáng ngời, đôi môi nhạy cảm rung theo lời thơ. Thân bỗng nhận ra vẻ đẹp tinh thần hiếm có ở Hà. Tim anh đập rộn trong ***g ngực...
    Khi tiệc tàn trời đã về khuya. Những vì sao đêm trải rộng tới chân trời. Vầng trăng thượng huyền vằng vặc chiếu sáng con đường nhỏ dẫn vào nhà Hà. ?o Đại gia đình ?o cùng nhau đạp xe trên con đường bỗng trở nên huyền diệu dưới ánh trăng. Lần đầu tiên trong tâm hồn Hà, tình yêu cuộc sống trỗi dậy mạnh mẽ như mầm cây sau cơn mưa mùa hạ, những chồi non mà Hà đã yêu biết mấy trong tuổi thơ buồn tủi của mình. Tiếng Hiền hát lảnh lót phía sau: ?o Đường vào nhà em, mây hồng chung lối. Chúng mình đẹp đôi, có trăng ven đồi?... Thanh và Hiền khúc khích cười. Thì ra cả hai đã dừng lại ngắm Thân và Hà sóng đôi đạp xe phía trước. Hà quay lại, vẫy chúng nó rồi xuống xe, chào Thân và định rẽ vào ngõ. Thân liếc nhìn lại phía sau rồi mạnh dạn nắm lấy ghi đông xe Hà:
    - Hà làm thơ hay lắm. Cám ơn em nhé! Lần đầu tiên Thân gọi Hà là em. Hà bối rối:
    - Hà chỉ viết những gì Hà nghĩ. Thôi anh Thân về nhé.
    Thân nhìn Hà bằng ánh mắt xao xuyến. Anh đã mến cô bé mảnh khảnh có đôi mắt sáng và tấm lòng nhân hậu kia từ lâu, nhưng đến hôm nay, anh mới nhận ra khuôn mặt Hà dưới ánh trăng nhuốm vẻ đẹp tinh khiết lạ kỳ. Vầng trán cao thanh tú ẩn dưới suối tóc đen huyền tết thành hai bím dài óng mượt. Một vẻ đẹp không quyến rũ nhưng vẫn vô cùng gợi cảm. Thân muốn nói thật nhiều nhưng cổ anh nghẹn lại. Hà thoáng hiểu những gì Thân định nói. Mặt Hà đanh lại. Hà đẩy chiếc xe đạp tuột khỏi tay anh:
    - Em vào nhà đây. Chào anh nhé.
    - Hà! Hà ơi!
    Thân gọi khẽ nhưng bóng Hà đã khuất sau ngõ nhỏ. Hà sợ nghe những gì Thân sẽ nói. Hà sợ tình yêu, sợ cảnh vợ chồng cãi cọ. Không! Hà sẽ không yêu ai, sẽ không lấy ai! Hà không muốn trở thành người điên dại như mẹ. Không muốn đơn chiếc như bố. Không muốn con của Hà phải khổ như nó và các em!
    Trong nhà cúp điện tối om. Hà chợt hiểu vì sao đêm nay trăng sáng hơn ngày thường. Hà dựng chiếc xe đạp ở hiên, đẩy của bước vào nhà. Nó giật nảy mình vì tiếng quát của bố:
    - Hà! Mày đi đâu giờ này mới về?
    - Con đi dự sinh nhật anh Thân. Hà đáp, chói mắt vì ánh đèn bố soi tận mặt nó.
    - Dự sinh nhật hay đàn đúm hả?!
    Hà định giải thich cho bố hiểu nhưng cổ nó nghẹn lại. Nó không quen tâm sự với bố, nhất là về những chuyện như thế này. Nó ấp úng:
    - Bố ... đừng nói thế! Hà quay người định dắt xe vào nhà.
    - Tao đã thấy cả rồi mà mày còn cãi hả?
    Bố tức giận giơ chân lên đá nó một cái. Hà cảm thấy một cơn đau ghê gớm dội lên. Bụng dưới quặn thắt, nó thảng thốt quay nhìn lại phía sau. Bất ngờ cây đèn sắt tây từ tay bố bay vọt tới đập vào mặt Hà. Dầu hoả toé đầy má nó. May mà ngọn bấc vừa tắt nếu không thì chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra. Bóng tối ập lên căn nhà, phủ kín nỗi đau câm lặng của nó. Hà cắn môi đến tê dại, lê người ra khỏi căn nhà, bước đi như người mất hồn. Ra đến bờ hồ trước ngõ, nó ngồi dưới một bụi cây rậm rạp, nức nở khóc. Nước mắt tràn xuống má Hà, ướt đẫm cả cổ áo. Vầng trăng lên cao hơn, ánh trăng vằng vặc dát bạc từng lá cây, ngọn cỏ nhưng trong lòng nó trăng đã lặn rồi. Nó muốn nhảy xuống làn nước đẫm ánh trăng kia mà chết đi, nhưng tiếng lội nước ì oạp bên cạnh đã làm nó bừng tỉnh khỏi cơn tuyệt vọng. Bố đang cởi trần lội bì bõm, tay khua khua trong nước. Bố đi tìm Hà.
    Chắc bố đoán nó nhảy xuống hồ nên cuống cả lên. Nó thở dài ra khỏi chỗ nấp, lặng lẽ bước vào nhà.
    Từ đó Hà lặng lẽ như một người chỉ sống vì bổn phận. Hà vào đại học, tiếp tục góp một phần học bổng vào lương của bố để nuôi các em. Rồi Hà đi làm, lại góp một phần lương của mình cho bố. Các em Hà học xong đại học, đều đã lấy vợ, lấy chồng. Nhưng nghe nói cũng không ai hạnh phúc. Còn Hà, cứ ở vậy nuôi bố, mặc cho Thân chờ đợi mỏi mòn...
    Giá như bố mẹ đừng cãi cọ. Giá như mọi người biết hy sinh, nhường nhịn lẫn nhau thì cuộc đời Hà đã không khốn khổ thế này! Hà nghĩ thế nhưng không thổ lộ với ai. Hà đã quen im lặng như ngày xưa, lúc còn là một cô bé ốm yếu với hành trang duy nhất là tuổi thơ đã đánh mất của mình....
    P.T.T.L.
  8. pathros

    pathros Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/02/2006
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    0
    ?oCHIA LÔ! CHIA LÔ!?
    Phan Thị Thu Loan

    Bạn đọc đã nghe ai gọi điện thoại mà lại bắt đầu bằng câu ?oChia lô!? thay vì nói ?oA lô!? không nhỉ?
    Lúc đầu nghe kể thế tôi còn phì cười, cho là chuyện bịa. Sau ngẫm nghĩ lại, thấy cũng phần nào có lý. Thiên hạ rất có thể dùng câu nói ấy để mở đầu một cuộc điện đàm lắm chứ. Tại sao không? Nó có khả năng phân loại, đánh giá đối tượng cơ đấy!
    Này nhé: Nếu bạn không cùng hội cùng thuyền, tưởng nhầm người kia nói nhịu mà đáp lại rằng ?oA lô? thì vứt! Người phát tín hiệu sẽ dập máy hay bấm nút tắt ngay. Thật nhất cử lưỡng tiện! Nhưng xuất xứ ở đâu ra cái kiểu liên lạc ?oChia lô!? ấy nhỉ? Tôi tò mò tìm hiểu thì tình cờ phát hiện ra một nhân vật cực kỳ thú vị. Bạn có muốn làm quen với ông ta không?
    Mới thoạt nhìn qua, người ta dễ nhầm ngài cầm tinh con gấu. Nhưng gấu lại không có vinh dự đứng trong hàng ngũ mười hai con giáp, nên không được tính là nguyên mẫu để các bà mụ theo đó mà nặn ra ngài. Mặc dù ngài là một phiên bản khá trung thành với loài hảo ngọt, hễ cứ đánh hơi thấy mật là thò tay vét nhẵn, mặc cho con ong cái kiến bâu chặt quanh đấy, kêu khóc như ri.
    Ngài sinh vào năm Tí. Có lẽ mười hai bà mụ mải vui nặn nhầm chăng? Sau này mới biết thiên hạ đã trách nhầm. Vì cầm tinh cái nòi hay đục khoét mà ngài mới có được thân hình đồ sộ với tấm lưng hơi gù đỡ lấy cái đầu quá khổ. Bộ mặt lúc nào cũng dương dương tự đắc, chẳng mấy khi nở được một nụ cười. Cặp mắt hum húp ẩn dưới đôi mày rậm rịt, nhìn ai cũng khiến cho người ấy cảm thấy mình bé nhỏ trước đấng chí tôn...Tóm lại, quan phụ mẫu đúng là hạng người tai to mặt lớn, sinh ra đã có tướng mạo khác người.
    Xuất thân từ một kỹ sư, cuối con đường học vấn là tiến sĩ, quan ngài thuộc thành phần trí thức ?ochăm phần chăm?. Nhưng không hiểu sao ngài lại hết sức ác cảm với giới trí thức và văn nghệ sĩ?! Có người bảo nguyên do vì ngài tu nghiệp theo kiểu bằng thật mà học giả. Ngài vẫn học, vẫn thi nhưng toàn đi mua điểm. Cuối khoá đậu xuất sắc nhưng luận án của ngài vốn xuất xứ từ một quán sách chui trên đường Láng. Ở đấy bán đầy những luận án tốt nghiệp của biết mấy đời nghiên cứu sinh. Mua về chỉnh lại dăm điều ba sợi cho phải phép, thế là ngài tha hồ múa mép, làm mưa làm gió ở buổi bảo vệ luận án trước một hội đồng khoa học từ lâu vốn là thân tín của ngài.
    Có thần có thế, trong tay lại sẵn đồng tiền nên cái sự học đối với ngài không phải mồ hôi nước mắt như bao kẻ khác. Thế nhưng thói đời lại cứ hay suy bụng ta ra bụng người, cho rằng thiên hạ ai cũng đều đi mua kiến thức như mình cả, nên ngài coi bọn có học chẳng là cái đinh.
    Một ngày nọ có nhà đầu tư cám cảnh sinh viên chen chúc đi thi mà địa phương lại thiếu trường thiếu lớp, đã hồ hởi gặp quan ngài xin phép mở đại học dân lập. Ngài thản nhiên hỏi lại rằng: ?oMở thêm trường để cho sinh viên có chỗ mà biểu tình hay răng??. Hoảng hốt vì bị ghép cho tội danh âm mưu gây mất ổn định xã hội, nhà đầu tư nọ bối rối cáo lui.
    Trong cuộc hội thảo ?oVì sự tiến bộ của phụ nữ? hưởng ứng ngày lễ quốc tế mùng tám tháng ba, một nhà văn mạnh dạn đề đạt với ngài sáng kiến lập một quỹ nhỏ của thành phố để in ấn các sáng tác văn học mới của chị em, lập tức được ngài ban tặng cho một bài diễn văn mười lăm phút về sự bất tài của giới văn nghệ sĩ cả nam lẫn nữ ở địa phương và kết luận: ?oIn làm chi? Để tài trợ cho nhà máy giấy Bãi Bằng à? Bữa ni bên đó đang ế giấy có phải không??. Bẽ bàng vì ?otrăm dâu đổ một đầu tằm?, nhà văn nọ ngồi thụp xuống, không dám tơ tưởng gì đến sự tiến bộ của phụ nữ nữa.
    Nói đi thì cũng phải nói lại cho công bằng. Chẳng phải lúc nào quan ngài cũng cứng nhắc thế đâu. Có những lúc trái tim ngài cũng đa sầu đa cảm lắm. Cũng trong buổi lễ nói trên, ngài vô cùng xúc động khi nghe một nữ giám đốc trẻ thưa rằng: ?oKính thưa đồng chí? Tôi thường xuyên đi họp ở Hà Nội, nghe mọi người ngoài đó khen đồng chí nhiều lắm. Tôi cũng được hưởng lây cái thơm của đồng chí! Tôi mong sẽ được hưởng cái thơm của đồng chí nhiều hơn nữa, lâu hơn nữa!?. Nét mặt ngài nở ra rạng rỡ. Cánh phóng viên lười biếng, cứ nguyên văn câu nói trong máy ghi âm gởi đồng nghiệp đem về mà chép, có hiểu lầm cái thơm ấy thành ra cái hôn không nhỉ? Chịu!
    Nhưng phóng viên xứ nọ lười đi họp cũng có nguyên do của họ đấy. Chường mặt ra mà nghe quan ngài nhiếc móc giữa thanh thiên bạch nhật đâu phải ai cũng có gan? Một bài báo phê phán hiện trạng quy hoạch thành phố lên khuôn, hôm sau đã nghe ngài nói với các trợ thủ: ?oHắn có đói thì cho hắn chút ít, chớ răng để hắn viết bậy viết bạ ri??. Đến kỳ đại hội nhà báo, ngài chỉ mặt tổng biên tập mà rằng: Có anh ngồi đây tôi mới nói, để phóng viên ưng chi viết nấy rứa thì có làm hết trách nhiệm không??. Bầu cử xong, kiểm phiếu, tổng biên tập rớt ghế chủ tịch hội. Mấy tháng sau rớt luôn chức tổng biên tập. Lãnh đạo của tờ báo lớn mà còn thế, nói gì đến số phận bé mọn của một phóng viên?
    Người ta vẫn rỉ tai nhau vụ xì căng đan xảy ra với một Em xi (MC) thâm niên mười năm trên màn ảnh nhỏ. Hôm nhà đài truyền hình trực tiếp cuộc đối thoại giữa ngài với đại diện thanh niên địa phương, chàng Em xi lỡ miệng giới thiệu: ?oĐồng chí ? nguyên chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố?? Ngài sa sầm mặt. Như thế có khác nào tuyên bố hạ bệ ngài trước bàn dân thiên hạ hay không? Chàng Em xi mặt cắt không còn giọt máu. Từ lúc ấy chàng bỗng dưng liên tục ấp úng cứ như đang ngậm hột thị. Chàng sợ là phải. Hai hôm sau chàng nhận được quyết định cho nghỉ việc vì không đạt tiêu chuẩn phóng viên.
    Giới truyền thông địa phương co rúm lại. Báo đài viết gì, phát gì có liên quan đến những vấn đề nhạy cảm cứ phải thông báo với thư ký Uỷ ban xin ngài cho chủ trương. Thế là ổn cả. Cực kỳ an toàn. Ở xứ ấy ngài là vua. Chả thế mà dân gian vẫn truyền nhau câu hát ?oTrời của ông, đất của ông, con chim trên đồng là của quỹ công! Thành phố quê ông lại rỗng thùng!?. Chao ơi là bia miệng thế gian! Trời đất là của ông rồi, con chim trên đồng hắn bay đi mấy hồi mà dám gọi là quỹ công cơ chứ!
    Sở dĩ có câu hát ?otrời của ông, đất của ông?? là vì quan ngài tuy không tốt nghiệp đại học Kiến trúc nhưng lại vô cùng đam mê Quy hoạch. Một ngành khoa học ứng dụng nhưng hai chục năm trở về trước vốn vô cùng trừu tượng đối với dân ta. ?oMồm cá chép, mép quy hoạch!?, diễn nôm ra là dân quy hoạch chỉ khéo cho người ta ăn bánh vẽ. Chứ hồi ấy làm gì sẵn tiền mà đền bù với lại giải toả?
    Bây giờ thì quy hoạch đã trở thành đề tài cập nhật của mọi nhà. Ai cũng hiểu ít nhiều về quy hoạch. Nào là quy hoạch treo, quy hoạch định hướng, quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn? Gớm! Già trẻ lớn bé ra đường gặp nhau là bàn tán, đàm đạo không ngừng, miệng mồm cứ tanh tách như tép nhảy. ?oA, lần này làng tôi quy hoạch xong rồi nhé. Đường nhựa mở ngay trước mặt nhà tôi?. ?oThế là đổi đời rồi đấy bác ạ! Tấc đất tấc vàng đấy!?. ?oTấc vàng là thế nào? Nghìn vàng mới đúng chứ! Hí, hí??. ?oA, miếng đất hồi ấy tôi mua, tận cái nơi chó ăn đá, gà ăn sỏi nhé. Thế mà bây giờ quy hoạch xong, hoá thành đất trung tâm đô thị mới. Một vốn bốn trăm lời đấy bà ạ. He. He ??. ?oÔi dào ôi, các ông các bà sung sướng quá nhẩy. Còn tôi, thân làm tội đời. Trước khi quy hoạch người ta trả giá trên giời không bán. Bây giờ ấy à, phải ở nhà tạm, chờ xây nhà tái định cư. Chưa kịp hoàn thiện, cái nhà chung cư đã nứt toác ra, sàn nhìn xuyên được xuống tận tầng dưới. Hu, hu??. Người ngoài cười ré, người trong khóc tràn. Đấy là hiệu quả tức thời và trước mắt của quy hoạch.
    Còn về lâu về dài, đương nhiên nó ảnh hưởng rất lớn đến bộ mặt huyện thị và cả quốc gia. Đã quan trọng như thế thì làm sao quan ngài đứng ra ngoài quy hoạch được? Nhưng cái cách ngài quan tâm ở đây nó cứ sát sàn sạt, đến mức, hễ không vừa lòng nét vẽ nào đó trên bản đồ quy hoạch, là ngài vớ ngay cây bút HB trong tay anh cán bộ đang thuyết trình cho ngài nghe mà phạc, phạc! ?oÝ tui như rứa đó! Cứ vậy mà chỉnh lại nghe!?. Ngài đâu cần biết đến những nguyên tắc cơ bản của cái ngành khoa học ai cũng cho rằng mình biết rõ, tưởng cực kỳ dễ hiểu mà lại rất khó tiếp thu ấy! Rủi máy miệng mà thưa thốt lại thì ngài nghiêm mặt mà rằng: ?oAnh không quy hoạch được thì tôi sẽ? quy hoạch anh!?.
    ............
    Được pathros sửa chữa / chuyển vào 07:45 ngày 10/12/2006
  9. pathros

    pathros Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/02/2006
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    0
    Đến đây thì chắc độc giả đã biết rằng vì sao có cái vụ gọi điện thoại mà lại bắt đầu bằng ?oChia lô! Chia lô!? rồi chứ?
    Dưới sự chỉ đạo quy hoạch của ngài, mọi loại đất đai dọc những con đường mới mở trong địa phương ngài cai quản cứ là chia lô tất! Chia để bán, để biếu, để chuyển nhượng theo giá duyệt và không duyệt. Dọc những con đường thẳng tắp hay uốn cong, trong nội thị hay ngoài bãi biển, chỗ nào đủ dài rộng để chia lô được là băm vụn ra bằng hết. Làm gì còn chỗ cho công viên vườn hoa, cho dải cây xanh chắn gió Lào và cát cháy!
    Toàn thành phố san sát những lô nhà chi chít, mặt tiền bốn hay năm mét, chiều sâu hai mươi, hai lăm mét. Nhà ống mọc lên san sát, loại nhà ở mà hiện nay các nước trong khu vực đang ra sức phá dỡ để lấy chỗ cho các chung cư cao tầng, công viên cây xanh, các công trình phúc lợi công cộng hay kinh doanh bề thế.
    Thôi thì cũ người mới ta! Một hai chục năm nữa, sẵn tiền vay nước ngoài, lại quy hoạch, đền bù, giải toả thì đã chết? con ma nào đâu? Có chết là chết cái lũ hậu sinh khả ố, cứ hay đâm thọc vào chuyện quản lý vĩ mô, chứ lúc ấy ngài đã hạ cánh an toàn rồi, làm quái gì được mà lo? Thích thì cứ nói, cứ thắc mắc cho thoả đi. Đến khi nào phải nai lưng ra trả nợ ngân hàng thế giới như Achentina hay Châu Phi thì chúng nó cứ gọi là rã họng ra, còn sức nào mà nhiều chuyện?
    Có người thắc mắc: thế còn con dòng cháu giống nhà ông ấy không phải cùng lo hay sao? Ôi dào, lo bò trắng răng! Mình nghèo chứ cái giới ?oNăm xê? đâu có nghèo! Của nổi của chìm ăn mấy đời cho hết? Chưa kể là giới Năm xê ấy còn được cái đức ?ocon nhà tông không giống lông cũng giống cánh?, đời nào phải lo toan trả nợ mà hiểu được cái lý người Mèo!
    Người ta cứ xì xào, bàn tán như thế và các nghệ nhân dân gian địa phương được dịp sáng tác và truyền khẩu những câu chuyện tiếu lâm hiện đại.
    Có chuyện kể rằng một thời thành phố mọc lên dày đặc những căn (nhà) vệ sinh lưu động. Không thể gọi thẳng ra là nhà vì nó toen hoẻn rộng chưa đầy một mét vuông, cao khoảng mét rưỡi, lại làm toàn bằng sắt phế thải nên đích danh nó là một cái lò sấy đúng nghĩa, nóng như rang giữa mùa hè nhiệt đới. Lại chẳng hề có một chút nước để dội bồn cầu. Ai có can đảm vào đây một lần chắc suốt đời bị ám ảnh bởi những cơn ác mộng nồng nặc mùi xú uế.
    Một thời gian lê lết khắp các không gian công cộng, chẳng ai dám chui vào bụng các con quái vật bằng sắt ấy lần nữa trừ mấy ông mãnh chuyên chích choác lấy đó làm phi trường để tập bay. Thế là dẹp bỏ. Tốn cả núi tiền. Vậy mà bản tin không chính thức dám loan lên rằng các tác phẩm độc đáo ấy được chính quan ngài thân chinh vác tiền đi đặt hàng tận tỉnh ngoài cơ đấy.
    Chuyện khác kể rằng có ông thi công muốn trúng thầu, đã bỏ vào bì thư hai tỷ, đích thân đem đến tận nhà cho quan ngài. Thế mà hai tháng sau ông nghe ngài nói nhỏ vào tai giữa bữa tiệc khởi công: ?Này, cậu còn quên chưa chung gì cho tớ đấy!?. Vị giám đốc kia ngớ người ra, tưởng ngài nhầm, toan hé môi cãi thì ngài lừ mắt: ?oKhởi công thì dễ, nhưng khánh thành thì không đơn giản thế đâu!?.
    Ngồi trong phòng lạnh mà mồ hôi túa ra như tắm, vị giám đốc nọ đành cười trừ, nhã nhặn đáp: ?oDạ, em nhớ rồi ạ?. Lục phủ ngũ tạng không ai bóp nặn mà bỗng dưng cứ lộn tùng phèo hết cả lên. Ăn tiệc mà cứ như nhai rơm, khổ thế! Bảo là tham nhũng thì chẳng hoá ra quá lời ư? Đấy chỉ là phân chia lại lợi nhuận cho công bằng. Anh ăn cơm thì phần tôi chút cháo. Thế thôi!
    Khổ nỗi nói dzậy mà không phải dzậy! Có ai chịu ăn cơm, húp cháo suông đâu! Toàn xơi loại thực phẩm cao cấp biệt chế từ sắt thép, xi măng, gạch đá, phụ gia chống thấm đấy. Bởi thế mà cây cầu bắc qua sông Cái chưa kịp lao dầm đã nứt toác móng ra. Báo, Đài trung ương vào cuộc, ngài mới lập binh bố trận, đẩy ông giám đốc thi công kia vào tù.
    Thí tốt xong, ngài tiếp tục yên vị, mặc cho ông nọ phẫn chí, đã cung cấp cả hai trang báo dài dằng dặc tên tuổi, chức vụ các vị đầy tớ nhân dân từng húp cháo từ cái nồi nhà mình. Trong đó lù lù cái tên quan ngài đứng đầu sổ. Phen này thì ngài tiêu tùng thật rồi! Chạy đằng trời cũng đố mà thoát được! Những hãng thông tấn vỉa hè lại được dịp sôi lên như ve sầu mùa hạ.
    Nhưng lời tiên đoán ấy cũng như bản tin dự báo cơn bão số 1 năm nay: cô biên tập viên thời tiết nhà đài eo thon hông nở giơ tay chỉ một đằng nó lại đi một nẻo. Ngài vẫn chẳng hề hấn gì, cứ thản nhiên, bình chân như vại. Cái ô, cái nấm nào mọc lên từ những khoảnh đất biếu không đã che chắn cho ngài hẳn là to lắm!
    Nhiều đoàn người làm đơn khiếu nại ngài ba cái vụ đất đai, từng kéo nhau ra thủ đô ăn vạ nằm vật mấy tháng liền mà chẳng nước non gì. Ngài cười khẩy, phẩy tay: "Thích chăng bạt nằm ở vườn hoa Lý Tử Trọng hả? Cứ việc! Hết nắm tiền còm lận lưng tự khắc phải dắt díu nhau về thôi! ". Ngài vẫn tiếp tục tại vị. Lại lớn tiếng tuyên bố nhiều sáng kiến phục vụ quốc kế dân sinh. Thành phố ngài cai quản thường xuyên được cấp trên nêu gương điển hình về quy hoạch và chỉnh trang đô thị.
    Quan chức cả một loạt tỉnh thành háo hức muốn nêu theo tấm gương sáng của ngài, quyết phen này về mở đường bán đất! Trong những cuộc hội nghị quan trọng ngài tìm mọi cách chen lên đứng cạnh các nguyên thủ quốc gia. Những bức ảnh đó được đăng trên trang nhất những tờ báo có uy tín. Phen này không chừng ngài trúng cả bộ trưởng hay thủ tướng nữa chứ chả chơi!
    Dư luận đang xôn xao ?obình lựng? thì đùng một cái, vụ đóng băng đất đai kéo dài mấy năm nay vẫn ngấm ngầm làm khó cho ngài, đến bây giờ mới thật sự phát huy tác dụng.
    Số là trong khi các tỉnh thành khác, cùng có điều kiện địa lý và xã hội như quê hương của ngài, đang vững chãi đi lên bằng con đường phát triển sản xuất, lấy công nông nghiệp và du lịch làm đòn bẩy kinh tế thì lâu nay ngân sách của địa phương ngài chủ yếu có được từ tiền bán đất.
    Hàng chục ngàn lô đất trên các địa điểm đẹp nhất thành phố được chia lô đều tăm tắp như vắt chanh, một thời lả lơi khêu gợi lòng thèm muốn sôi sục của các nhà đầu tư, đầu cơ, đầu nậu bây giờ chết cóng. Hạ giá kiểu gì cũng không có người mua. Đúng như ông bà ta đã nói: ?otham thì thâm!?.
    Vụ đóng băng gần cuối thiên niên kỷ trước kéo dài đúng mười năm. Còn vụ đóng băng đầu thiên niên kỷ này khi nào mới tới hồi kết thúc? Không ai dám vỗ ngực xông ra làm nhà tiên tri cả.
    Thế nên một loạt công trình phúc lợi mà ngài từng tung ra như một chiêu bài nâng cao uy tín bản thân liên tục bị cắt giảm vốn, kéo dài tiến độ không biết đến bao giờ. Chẳng cần đợi cái lúc phải còng lưng trả nợ như Achentina, hay Châu Phi thì ngài cũng như các chủ đầu tư, đầu cơ, đầu nậu đất cũng cuống cuồng lên như đỉa phải vôi rồi.
    Dân thi công thì đã hẳn là khốn khổ khốn nạn vì phần lớn trong số họ đều phải vay vốn ngân hàng. Bây giờ chỉ được thành phố thanh toán nhỏ giọt, lời chẳng bằng một phần lãi đi vay. Nhiều người méo mặt than trời: cứ mỗi sáng tỉnh dậy là bay mất một giấc mơ! Đương nhiên! Thiên hạ đua nhau cười nhạo. Tỉnh rồi còn mơ thế quái nào được mà chả bay? ?oẤy không, khổ lắm! Là mỗi sáng ngủ dậy phải trả số lãi bằng đúng giá trị của một con ?oDream? đấy!?. ?oThế cơ à??. ?oChứ còn gì nữa!?.
    Dân thi công đau khổ đã đành, quan ngài cũng khổ đau chẳng kém. Trận bão kinh hoàng đi qua thành phố đã thổi bay nóc hàng chục nghìn ngôi nhà ven biển. Gần vạn căn nhà tái định cư đổ sập, "cuốn theo chiều gió" bởi chẳng còn động cát hay rừng dương che chắn như xưa. Lại thêm nỗi toàn được xây bằng vữa kém mác. Lúc bão ập vào, xem ti vi, tinh mắt đến mấy cũng chẳng ai nhìn thấy quan ngài lộ diện, giúp dân chạy nạn cả. Chẳng bù lúc sóng yên biển lặng, lên ti vi phát biểu là cái khoái thứ năm của ngài sau "tứ khoái" tầm thường của mọi chúng sinh!
    Kỳ bầu cử nhiệm kỳ mới đang đến gần. Giấc mơ làm bộ trưởng, thủ tướng không khéo là đi đứt! Còn chưa dám chắc có được ngồi tiếp trên cái ghế quan đầu tỉnh hay không? Lại còn mấy kẻ chuyên tát nước theo mưa, nhè đúng lúc nước sôi lửa bỏng này mà tung ra loạt bài phê phán chủ trương quy hoạch chia lô, băm nát cảnh quan thành phố! ?oHừ, ông mà tái đắc cử, thì có đứa ra bã, không còn cái răng mà nhai cơm!?.
    Tôi nghe xong câu chuyện, chẳng biết có nên cám ơn cái vụ đóng băng đất đai đã làm lạnh cóng giấc mơ thăng tiến của quan ngài hay không? Nếu ngài cứ gặp may, giả dụ được lên làm thủ tướng, thì bộ mặt nước nhà lúc ấy sẽ ra sao? Có bị xé lẻ, băm nát ra như cái đô thị quê ngài không nhỉ?
    Và khi cần gọi điện thoại liên lạc với các quốc gia khác, liệu ngài có quen miệng mà bắt đầu bằng ?oChia lô! Chia lô!? nữa chăng?
    Nghĩ đến đấy, tự dưng tôi bỗng toát mồ hôi!
    P.T.T.L.
    Được pathros sửa chữa / chuyển vào 07:55 ngày 10/12/2006
    Được pathros sửa chữa / chuyển vào 08:44 ngày 11/12/2006
    Được pathros sửa chữa / chuyển vào 08:45 ngày 11/12/2006
  10. pathros

    pathros Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/02/2006
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    0
    DÌ TÔI
    Phan Thị Thu Loan
    Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì ... ( Tục ngữ )
    Dì tôi mang tên một loài hoa rất đẹp: hoa Ngọc Lan. Từ nhỏ tôi đã yêu quý những bông Ngọc Lan trắng muốt, thon dài như một ngón tay xinh. Chưa kịp hé những cánh hoa bé bỏng, Ngọc Lan đã tỏa mùi hương ngạt ngào nhưng thanh khiết. Bà tôi thường chưng một đĩa hoa Ngọc Lan trên bàn thờ ông ngoại vào ngày giỗ. Bà yêu Ngọc Lan lắm nên mới đặt tên này cho cô con gái út tội nghiệp không hề biết mặt cha. Bà sinh ra dì tôi ngay sau ngày ông ngoại bị Pháp giết. Từ đó bà ở vậy tần tảo nuôi hai mụn con gái. Gánh hàng la ghim trên vai đã theo bà đi từ vùng tản cư về thị xã suốt cả chục năm ròng. Hòa bình lập lại, ông tôi được công nhận là liệt sĩ, tấm bằng Tổ quốc ghi công mang tên ông được bà treo ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách. Bà tôi cũng được nhận Huân chương Kháng chiến do có công liên lạc cho Cách mạng. Chúng tôi thường tự hào nhìn bức tường đầy dấu tích chiến công của ông bà ngoại và đòi bà kể cho nghe chuyện ngày xưa. Câu chuyện của bà bao giờ cũng bắt đầu bằng năm Ất Dậu với những người chết đói đầy chợ đầy đường. Ông bà tham gia chống Pháp để không còn ai phải chết đói nữa. Tôi thường nằm trong lòng bà, nghe bà kể mãi rồi ngủ thiếp đi...
    Từ nhỏ tôi đã không thấy dì tôi ở nhà. Dì đi học đại học ở Hà Nội. Dì học giỏi, lại có lý lịch tốt nên được giữ lại dạy ở trường. Tôi chỉ gặp dì khi dì lấy chồng. Chồng của dì cũng dạy đại học. Cả nhà tôi đi tàu hỏa ra Thủ Đô dự lễ cưới của dì. Đó là chuyến du lịch đầu tiên trong đời tôi. Tôi vui sướng lắm, nhất là khi mẹ bảo tôi hát tặng dì một bài trong lễ cưới. Từ nhỏ tôi rất thích múa hát, có lần làm bố tôi phát bực vì cứ đòi trèo lên sân khấu hát chung với các anh chị đoàn viên của khu tập thể. Bố không cho, tôi òa khóc. Dỗ mãi không nín, cuối cùng chị phụ trách bế tôi đặt lên sàn gỗ. Tôi chẳng thuộc bài hát "Tiến lên đoàn viên" vì đang học mẫu giáo! Nhưng tôi không chịu đi vào, cứ đứng trên sân khấu, xoắn mãi chiếc khăn lụa quàng trên cổ cho đến khi tiết mục chấm dứt. Cả hội trường cười nghiêng ngả. Bố tôi cũng cười, nhưng hẳn người bực lắm vì sau đó bố bảo "Lần sau không cho đi xem văn nghệ nữa. Hư lắm!"
    Tôi ngỡ ngàng trước đám cưới sang trọng của dì tôi. Bao nhiêu là hoa, là bánh kẹo! Tôi thích nhất loại bánh ga tô nhân trứng và kem bày đầy bàn tiệc. Thứ bánh này tôi chưa bao giờ nhìn thấy trong thị xã bé nhỏ của mình. Dì tôi mặc chiếc áo dài xanh trứng sáo, cành hoa trắng muốt gắn trên mái tóc dài sao giống hoa Ngọc Lan thế. Tôi chờ đợi với nỗi niềm mong ước ngây thơ là được đứng lên hát tặng dì tôi bài" Em có đôi bàn tay trắng xinh". Bài hát về những ngón tay xinh như những nụ hoa Ngọc Lan dì tôi đã mang tên. Trong lòng tôi dì là người vừa giỏi lại vừa đẹp, là người tôi yêu mến nhất dù chỉ mới gặp lần đầu.
    Nhưng tôi không bao giờ được hát tặng dì tôi bài hát ấy. Đám cưới trang trọng quá, toàn là khách sang đến dự, không thể để trẻ con hát múa được. Tôi rất thất vọng nhưng không dám vòi vĩnh, khóc lóc như lần trước vì sợ làm cho dì tôi buồn. Tôi sẽ không "hư", không hát nữa! Tôi ngoan ngõan ăn bánh, uống nước ngọt, và ngồi yên cạnh bố mẹ để ngắm dì tôi khoác tay chú rể đi lại như cô tiên giữa những bàn tiệc...
    Sau đám cuới trở về thị xã, tôi nhớ dì lắm lắm. Tôi chờ thư của dì như lời hứa nhưng cả tháng cũng chẳng có lá nào. Cả nhà xúm lại viết cho dì hết thư này sang thư khác. Bà tôi chờ mãi không thấy hồi âm, sợ dì gặp chuyện chẳng lành mới nhờ người đánh dây thép ra trường đại học hỏi thăm. Dì tôi vẫn khỏe mạnh, chỉ vì quá bận việc nên chưa kịp viết thư. Mãi nửa năm sau bà mới nhận được thư dì. Bà đeo kính đọc, rơm rớm nước mắt. Tôi đòi bà đọc to lên xem dì có viết cho tôi dòng nào không thì bà lắc đầu, đưa lá thư cho bố mẹ tôi. Đọc thư xong bố mẹ tôi thở dài, bảo tôi ra ngoài chơi. Tôi miễn cưỡng bỏ đi nhưng trong lòng vô cùng buồn bực. Tôi chưa biết chữ, không thể biết dì viết những gì nhưng cũng đoán được rằng cả nhà giận dì. Chẳng lẽ dì cũng "hư" như tôi làm bà bực mình ư?
    Những ngày sau, tôi loáng thoáng nghe được câu chuyện giữa bà và mẹ: Dì tôi muốn bà gởi tiếp tiền trợ cấp cho dì như những ngày dì còn đi học vì "cuộc sống ngoài này đắt đỏ lắm, lương cả hai chúng con chỉ đủ ăn mà còn phải trả nợ tiền làm đám cưới." Thì ra dì tôi cũng vòi bà cho tiền như tôi. Những lúc có gánh cháo lươn hay bánh rán đi qua phố, tôi thường đòi bà cho ăn bằng được. Bà cười móm mém, moi từ trong túi áo mấy tờ bạc lẻ đưa cho tôi. Tôi sung sướng đổi nó lấy vài cái bánh hay sì sụp húp bát cháo lươn nóng hổi, lòng vô cùng biết ơn bà. Tôi biết bà tôi vất vả lắm mới kiếm được tiền. Nhà tôi ở trước bến xe liên tỉnh. Bà cho khách chờ xe thuê giường ngủ, mỗi đêm được hơn đồng bạc. Bà phải thức suốt đêm để chờ khách, vì xe vào bến bất kể giờ nào. Bà ngủ bù vào ban ngày, nhưng nhà mặt phố ồn ào, loa phóng thanh oang oang cả buổi. Bà tôi lại khó ngủ, cứ trở mình luôn luôn. Bà còn bị bệnh sỏi thận hành hạ, phải ăn nhạt, lâu lâu lại bị phù hai chân, đi lại rất khó khăn.
    Tôi chỉ dám vòi bà những món tiền nho nhỏ, những đồng bạc lẻ bà để sẵn trong túi áo, dành cho tôi. Nếu tôi ngủ dậy muộn bà vẫn mua cho tôi những món quà đạm bạc, để khi thức dậy tôi lại vui mừng ôm lấy cổ bà, cười khanh khách. Vậy mà bà lại buồn khi dì tôi xin tiền. Chắc dì cần nhiều tiền lắm, bà không có đủ để cho nên bà buồn. Tôi nghĩ thế, rồi chợt nhớ đến chuyện bố mẹ tôi nói về chú và dì. "Cả hai người đều lương cao lắm". Mẹ thường tấm tắc khoe với bố. Ông chỉ cười nụ, thường không bàn luận gì. Duy cái hôm bà khóc khi đọc thư dì, bố bảo với mẹ: "Học cho lắm mà vẫn là bất hiếu. Cưới hỏi rình rang vào, bây giờ còn hành tội bà già bệnh tật! ".
    Tôi biết bất hiếu là tội to lắm. Bà vẫn dạy tôi thế. Tôi nghĩ đến đám cưới sang trọng của dì ở Thủ đô, đến những gói quà cưới chất cao ngất trên chiếc bàn dài, lòng thầm nghĩ sao dì không bán đi mà trả nợ. Bố mẹ tôi vẫn thường bàn nhau phải bán đi thứ này thứ nọ để trả tiền thuốc men mỗi khi bà ốm. Sao dì tôi không làm thế nhỉ? Tôi băn khoăn nhưng không dám hỏi ai. Mấy năm sau dì tôi về thăm nhà. Lúc này tôi đã lớn hơn, biết tự mình nấu cơm, giặt quần áo. Tôi đã học lớp hai và giúp được bà nhiều việc. Gặp dì tôi mừng lắm, quên bẵng câu chuyện buồn ngày nào. Dì về một mình, không có chú tôi. Cả nhà đón dì rất vui vẻ. Tôi đi ngủ với cái vòng nhựa đỏ trên cổ tay, món quà của dì cho tôi lần ấy.
    Nửa đêm, giấc ngủ của tôi bị đứt quãng vì tiếng ồn ào. Dì tôi đang cãi nhau với cả nhà. Dì vừa khóc vừa kể lể. Tiếng mẹ tôi quát lên bảo dì im đi. Khách trọ bị đánh thức, giương những con mắt ngái ngủ lên nhìn. Chuyện gì lạ thế này? Tôi chẳng khi nào thấy mẹ cãi lại bà, thế mà dì tôi đã cáu gắt, nhiếc móc bà rồi chạy ra sang hàng xóm, lu loa với mọi người. Họ xúm đông xúm đỏ nghe dì tôi nói. Tôi hiểu dì đang kể xấu về bà và bố mẹ tôi. Bọn trẻ con cùng phố, ngày thường đã hay bắt nạt và trêu chọc tôi, nay được dịp lè lưỡi chế nhạo, chỉ chỏ dì tôi rồi cười hi hí. Tôi cảm thấy xấu hổ và tức giận. Bao nhiêu yêu thương tôi dành cho dì trong phút chốc bỗng biến thành nỗi uất ức. Tôi chen vào giữa đám người vô công rỗi nghề, nắm lấy bím tóc dài mượt của dì tôi, giật mạnh một cái. Tiếng dì thét lên sau lưng tôi, nhưng tôi chạy về nhà, rút chiếc vòng dì cho ném mạnh qua cửa sổ. Thế là hết. Tôi đã hiểu thế nào là sự thất vọng của bà, nỗi phẫn uất của bố mẹ khi thấy họ ngồi như những pho tượng bất động. Từ phía nhà hàng xóm vẫn không ngớt vọng sang tiếng la khóc của dì. Mệt mỏi và sợ hãi trước biến cố lạ lùng này, tôi ngủ thiếp đi trong lòng bà. Sáng hôm sau, khi tôi thức dậy thì dì đã ra đi. Câu chuyện tối qua như một cơn ác mộng, không bao giờ tan biến hẳn trong trí nhớ non nớt của tôi.
    Những năm sau đó Mỹ ném bom miền Bắc. Cả nhà tôi cùng sơ tán về nông thôn. Tôi theo cơ quan bố mẹ về Đông Vệ, còn bà tôi thì sang tận Lai Thành. Tôi nhớ bà lắm và thường nhận việc mang cho bà khi dăm cân gạo, lúc vài lạng thịt mà bố mẹ được cơ quan chia cho. Những hôm ấy, tôi chọn đường đi tắt qua sân bay trực thăng cho gần. Sân bay này có từ thời Pháp, nay để hoang, ngổn ngang những phuy xăng dầu đã cạn. Tôi chọn con đường ấy cũng vì có một mương nước trong vắt chảy dọc theo. Dưới đáy mương, những con ốc nhồi béo mẫm lê la kiếm mồi. Tôi chỉ việc thò tay xuống bắt, bỏ vào chiếc túi vải, mang cho bà. Tôi được ăn ốc nhồi hầm chuối xanh thỏa thích. Bà tôi vốn nấu nướng rất khéo. Ăn xong tôi sà vào lòng bà, hít hơi trầu nồng ấm tỏa ra. Chợt nhớ đến dì, tôi hỏi:
    - Bà ơi, dì cháu có viết thư cho bà không? - Bà ngồi lặng, dân dấn nước mắt:
    - Không. Bà đã từ dì rồi cháu ạ.
    Tôi không hiểu hết "từ" là gì, nhưng thấy bà rất buồn nên không dám hỏi nữa. Một buổi chiều, máy bay ném bom rất gần nơi bà ở. Mặt đất chao mạnh như đưa võng. Bà cháu tôi không kịp xuống hầm. Tôi run lên vì sợ hãi. Bà đẩy tôi xuống đất, nằm ép người lên, che chở cho tôi. Trận bom qua rồi, tôi thấy bà gượng ngồi lên nhưng không đứng dậy được nữa. Bà bị mảnh rốc két găm vào lưng. Trưa hôm sau thì bà qua đời trước nỗi đau câm lặng của bố mẹ và tiếng gào khóc không ngừng của tôi. Dì tôi nhận được tin nhưng không về. Chắc vì chiến tranh còn ác liệt. Năm sau, hiệp định Pa ri được ký kết. Máy bay không còn ném bom nhưng dì tôi vẫn không về, mặc cho bố mẹ tôi nhiều lần viết thư và nhờ người nhắn tin. Tôi biết bố mẹ buồn lắm. Chúng tôi thường ra trước mộ bà, thắp những nén nhang thơm ngát, thầm thì khấn vái, mong cho vong linh bà được nhẹ nhàng nơi chín suối.
    ...............

Chia sẻ trang này