1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ðổi mới văn học từ chiều sâu văn hóa

Chủ đề trong 'Văn học' bởi hoainiem_2004, 19/02/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hoainiem_2004

    hoainiem_2004 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/07/2004
    Bài viết:
    1.237
    Đã được thích:
    0
    Ðổi mới văn học từ chiều sâu văn hóa

    Ðổi mới văn học từ chiều sâu văn hóa

    Nhà xuất bản Ðà Nẵng vừa cho ra mắt tập ?oLý luận phê bình văn học? của Phương Lựu, người từng nêu lên những khuyết điểm đã trở thành căn bệnh của văn học như "dựa dẫm trong phê bình và nhai lại trong lý luận".

    Sự hẫng hụt của công tác lý luận, phê bình văn học trong giai đoạn hiện nay là có thật; tìm nguyên nhân và phương pháp bổ cứu cho nó cũng là một yêu cầu bức xúc. Trong công trình ?oLý luận phê bình văn học?, Phương Lựu đề cập nhiều mặt rất cơ bản trong vô số những vấn đề cần trao đổi ý kiến, nhằm góp phần đẩy tới những bước tiến mới của học thuật văn chương.

    Ðiều cần chú ý trước tiên là tác giả đã khẳng định và lý giải một yêu cầu thiết thân: "Ðổi mới văn học phải từ chiều sâu văn hóa". Chỉ có bắt nguồn từ mảnh đất văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa thời đại mới bao quát được cái cần đổi mới.

    Văn chương, nghệ thuật (hay nghệ thuật nói chung, bao gồm cả nghệ thuật ngôn từ) là thành tố hàng đầu của văn hóa, nên càng đặt tác phẩm văn học trong bối cảnh văn hóa mà nó khắc họa, miêu tả, và "phát hiện cho được những tố chất văn hóa ẩn chứa trong tác phẩm" để kích thích phát triển.

    Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã kết luận rằng, một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến những sai lầm trong các khuynh hướng văn học phi nhân bản là do văn học tách rời văn hóa, xa rời các giá trị đạo lý làm thành sợi dây kết dính cộng đồng trong tiến trình lịch sử.

    Do yêu cầu sống còn của đất nước, văn học dồn tâm sức vào khắc họa cái phẩm chất yêu nước của con người VN trong giai đoạn giải phóng dân tộc, và đó là mặt nổi bật trong hàm nghĩa văn hóa. Nhưng giờ đây trong cơ chế thị trường định hướng XHCN, phẩm chất văn hóa lan tỏa theo diện rộng và chuyển hướng theo nhiều cung bậc khác nhau. Chỉ có đi vào chiều sâu văn hóa, văn học mới đủ sức vươn lên.

    Từ ý nghĩa nêu trên, Phương Lựu đã có những kiến giải đúng: Văn học nước ta chỉ có thể "đổi mới từ những bài học cách mạng". Không thể khác được. Những thành tựu của văn học VN hơn nửa thế kỷ qua đều gắn bó máu thịt với cách mạng và do cách mạng hướng đường. Không xuất phát từ tiêu điểm đó, sự đổi mới trong văn học sẽ chông chênh, thiếu cụ thể và không khoa học.

    Chỉ có đổi mới từ bài học cách mạng, văn học nước ta mới có thể tìm ra và trở lại với những luận điểm tinh hoa, mới khắc phục được ngộ nhận do nhận thức một chiều, và mới đủ lý - tình khi tiếp cận chân lý. Giai đoạn nào của lịch sử cũng để lại cho ta những vấn đề cần xem xét kỹ. Cái cũ lạc hậu, lỗi thời phải bị vượt qua, đi đôi với tiếp tục đề cao những gì còn phát huy tác dụng lâu dài; cũng như luôn cổ vũ cái mới, khuyến khích sáng tạo, nhưng cái mới phải phù hợp quy luật tiến hóa chứ không phải là cái mà hôm qua chưa từng có. Phân biệt rạch ròi giữa đúng - sai mới là cái cần cho đổi mới văn học. Mặt khác - như tác giả viết: "Ðổi mới tuy phải đúng nhưng không nên nghèo, mà phải giàu có, phong phú. Gạn khơi những chỗ đúng đích thực trong những quan điểm sai lầm và phiến diện, rồi tích cóp lại, cũng là một cách làm giàu cho trí tuệ và thẩm mỹ".

    Từ những luận điểm và cũng là quan niệm về đổi mới văn học, tác giả đã triển khai nhiều vấn đề phong phú: Từ lý thuyết về văn học, nhà văn và bạn đọc, về tác phẩm, loại thể và phương pháp sáng tác đến đánh giá tác phẩm của một số nhà văn Việt Nam; từ quan điểm văn nghệ của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh đến di sản lý luận văn học dân tộc và nhân loại và một cái nhìn về nhiều mặt cơ bản trong văn học thế giới.

    Không chấp nhận đổi mới theo "tác phong cũ, lề thói cũ", tác giả tha thiết với ý thức thường trực: "Giữ uy tín khoa học cho đổi mới lý luận văn học".

    Chúng ta biết rằng, bất cứ khoa học nào, uy tín đầu tiên đập vào nhận thức con người vẫn là sự chính xác. Cái chính xác trong văn học nói riêng và khoa học xã hội nói chung, tuy không thể đo đạc bằng thực nghiệm nhưng lại được kiểm nghiệm bằng thực tiễn, theo quy luật vận động của mỗi lĩnh vực. Khoa học về văn chương chữ nghĩa gắn bó với đặc thù tinh tế và thẩm mỹ, nên đổi mới đòi hỏi một sự nghiêm túc, tâm huyết, tài năng và sự trải nghiệm cần có. Lý thuyết suông chẳng những là điều tối kỵ đối với khoa học, mà còn tỏ ra lạc lõng trong giai đoạn hiện nay của đất nước. Ði sâu vào phân tích, tác giả khẳng định rằng: "Khoa học đã là lý luận, nhưng lại có khoa học luận, tức lý luận về (chứ không phải của) khoa học"; song tác giả cũng không quên: "Phải có tư duy lý luận trước đã rồi mới nói chuyện đổi mới, chưa có tí gì cả, lấy gì mà đổi mới?".

    Ðổi mới lý luận văn học chung quy lại, làm cho "hệ thống và phạm trù của mình được chặt chẽ, toàn diện và phong phú hơn, ngày càng phù hợp thực tiễn đa dạng, xưa cũng như nay trong các nền văn học của nhiều nước và nhiều khu vực hơn".

    Cũng từ đề cao phương pháp luận chính xác, tác giả có lý khi đánh giá vị trí đường lối văn hóa văn nghệ của Ðảng trong đời sống văn nghệ đất nước. Ðường lối ấy không ngừng được hoàn chỉnh, bổ sung theo yêu cầu phù hợp tiến trình cách mạng. Thực hiện đường lối văn hoá văn nghệ hiệu quả và chính xác nhất là tiếp thụ tinh thần đạo đức và khoa học toát ra từ luận điểm đổi mới. Cũng như vận dụng đường lối một cách sáng tạo và linh hoạt tạo khí sắc cho lý luận văn học và mọi ngành nghệ thuật. Biện chứng trong lý luận cũng chính là biện chứng trong phương pháp vận dụng đường lối.

    Trở lên trên là mấy ý kiến ngắn trong một bài báo ngắn.

    Qua tập sách của Phương Lựu, bạn đọc nhận thấy, tác giả luôn say mê kiếm tìm "hạt nhân hợp lý" trong bất cứ sự kiện, khuynh hướng, trào lưu, tác phẩm và tác giả văn học nào để phát huy mặt tích cực, và cũng từ đó góp phần hạn chế những cái không hợp lý nảy sinh trong "bếp núc văn chương". Sự trung thực và chân thành, thẳng thắn và liều lượng ở tác giả là điều cần ghi nhận.

    Theo Nhân Dân
    do hoainiem_2004 ST
  2. hoainiem_2004

    hoainiem_2004 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/07/2004
    Bài viết:
    1.237
    Đã được thích:
    0
    Thơ về ẩm thực

    Thơ ngày Xuân luôn được coi trọng, nay nhân ngày Tết bàn về thơ ẩm thực.
    Các nhà thơ cổ kim đông tây viết về rượu đều rất hay (Thảnh thơi thơ túi rượu bầu ?" Nguyễn Công Trứ; hay Trăm năm thơ túi rượu vò/ Nghìn năm thi sĩ, tửu đồ là ai - Tản Đà, hoặc Gặp nhau là nhớ mùi rượu Hiếu - Nguyễn Trọng Tạo), nhưng lại ít làm thơ về các món ẩm thực trong cuộc sống.
    Âu thứ gì thân thuộc với cuộc sống con người cũng đều là chất liệu thơ cả, nhưng rượu có lẽ dễ gửi gắm tâm trạng hơn các món ăn. Thơ về ẩm thực khó viết vì ai lại đi đưa chuyện ăn uống trần tục vào thơ! Nói thế, nhưng thơ về ẩm thực nhiều đến độ có thể xuất bản thành một tuyển tập!
    Cao Bá Quát, thời làm quan ở Huế giữa thế kỷ XIX, một chiều trên con đò Sông Hương, đậu bến chợ Đông Ba, cùng bạn bè thưởng thức một món Huế rất đặc biệt, nhớ đời. Đó là món sanh cầm (bắt sống), tức bắt con cá diếc nhỏ đang bơi trong chậu, cuộn vào bánh tráng nhúng với các loại rau, gia vị rồi chấm tiêu muối, làm mồi uống rượu.Vào miệng rồi con cá còn ngọ nguậy! Chưa ăn thì sợ, nhưng ăn rồi thấy ngon, thấy khoái, thấy bữa rượu tri âm đầy cảm kích. Thế là có thơ:
    Tú hà phong tiếp giải ngao phong
    Lan thú hành ca mộ thị dông
    Tiếu thố bồn tiên đại như chỉ,
    Ngũ bôi tam khẩu dĩ nang không
    (Hương Giang tạp vịnh, bài 8).
    (Thái Trọng Lai dịch nghĩa: Gió tôm thêu tiếp gió cua rùa/Người lái ghìm thuyền vừa làm vừa hát chỗ chợ Đông Ba vào phiên chiều/Cười đưa ra chậu cá tươi (con) lớn bằng ngón tay/(Chỉ) năm chén (rượu) ba cuốn bánh đã rỗng túi)
    Tản Đà cũng là nhà thơ viết nhiều về thú ăn chơi. Ông ca ngợi các món ẩm thực miền Trung, Nam, Bắc: Hà tươi cửa biển Tu-ran/Long Xuyên chén mắm, Nghệ An chén cà/Sài Gòn nhớ vị cá tra/Cái xe song mã, chén trà Nhất Thiên/Đa tình con mắt Phú Yên/Hữu tình rau bí ông quyền Thuận An? (Nhất Thiên là một tiệm cao lâu ở Sài Gòn xưa; Ông quyền Thuận An là người lính gác Trần Hải quan cửa Thuận An).
    Các nhà thơ VN thời hiện đại cũng có nhiều người viết về ẩm thực. Nhà thơ Võ Quê có cả chùm thơ về các món ăn nổi tiếng của Huế như cơm hến, bánh bèo, bánh nậm, bánh bột lọc, bánh phu thê? ?oĐã nghe ớt đỏ cay nồng/Tìm trong vị hến một dòng Hương xanh/Ruốc thơm, cơm nguội, rau lành?/Mời anh buổi sáng chân thành món quê? (Cơm hến).
    Có nhà thơ có câu thơ rất hình tượng về món cá dìa hấp của Huế: ?oCá dìa đầy đĩa trăng đơm?. Về tình quân dân trong kháng chiến, Hồ Vi có bài thơ Lời quê, trong đó có đoạn nói về món ăn đồng quê rất cảm động:
    Chị ơi! đem dũi ra ngoài ruộng
    Kiếm ít đam cua chút của đồng
    Thêm đôi ba miếng anh em đỡ
    Của nhà quê kiểng buổi thu đông
    Nhà thơ Phùng Quán xưng tụng ẩm thực Việt rất giỏi! Ông viết về món Cà Gióng ?o?Ăn hết bảy nong cơm/Ba nong cà/Chú bé không cha/Làng Phù Đổng/Vươn vai đứng dậy thành Thánh Gióng/Người-cứu-nước-khổng-lồ?, rồi ?oCà Nghệ thịt giòn ruột đặc?/Muối một vại cà/ăn một năm?/Bù đi bù lại/Đánh hai đế quốc to/Hết hai chục vại cà!?. Món cà muối trong thơ Phùng Quán là biểu tượng của sức mạnh thần kỳ VN. Trong bài thơ Tự Vấn, cũng viết về ẩm thực, Phùng Quán tự cật vấn: ?oTôi có quyền gì được no hơn nhân dân tôi một miếng ăn?!?. Đó chính là đạo lý ẩm thực Phùng Quán!
    Ở Huế còn lưu truyền một cuốn sách dạy nấu ăn bằng thơ, rất hy hữu! Đó là cuốn Thực phổ bách thiên của bà Trương Thị Bích, con dâu nhà thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, viết từ thế kỷ thứ XIX. Anh Hoàng Phủ Ngọc Tường tặng tôi một bản phôtô sách tái bản tại Hà Nội thời Pháp thuộc. Sách quý ở chỗ, dạy nấu 100 món Huế (từ các món cung đình như nem công chả phụng đến các món bình dân rau dưa mắm) lại được soạn bằng thơ tứ tuyệt. Cả đề từ, lời tựa, phần tổng luận cũng bằng thơ tứ tuyệt. Một món chỉ bốn câu thơ, thế mà có thể đọc và thực hành nấu ăn được. Lời tựa sách do mẹ chồng đề, cũng bằng thơ, nêu được một triết lý văn hoá ẩm thực:
    Một miếng ăn ngon tiếng để đời!
    Bắt chước bà gia thuở dọn xơi
    Làm thành thực phổ dạy cho người
    Dâu, con, cháu, chắt coi mà học
    Một miếng ăn ngon tiếng để đời
    Vào sách, có bài Tổng luận rất đắc dụng cho nghề nấu ăn: Có khi cá thịt, có khi rau/Nấu nướng, chiên, xào phải đủ màu (tức gia vị)/Trong sạch là gương, tùy mặn lạt/Dẻo dai cơm chín chủ làm đầu. Cuốn sách còn có bài thơ viết về nguyên tắc sử dụng gia vị: Canh bầu mùi thích lá hanh hao/Cho biết rau hành bỏ bí đao/Hầm mít lại ưa sân với lốt/Bí ngô thời phải tỏi gia vào. Chúng tôi xin giới thiệu ba bài thơ về ba món. Còn bạn đọc muốn có nhiều bài, người viết bài này sẽ xin cung cấp.
    Tôm chua
    Tôm tươi phèn rửa bớt đầu đuôi
    Muối, rượu say sưa để một hồi
    Ớt, tỏi, măng, riềng, xôi đủ vị
    Trộn đều, gài chặt ấy là rồi!
    Nướng đuôi cừu
    Đuôi cừu khéo ướp thịt thơm giòn
    Vắt nước gừng vừa, nghệ, sả non
    Nước mắm hành tiêu đường trộn bóp,
    Vài giờ sẽ nướng thấm thêm ngon
    Canh rau cải
    Thịt béo mau nhàm, đổi cải canh
    Rau non nấu khéo cũng ngon lành
    Tôm gân, ruốc khuyết hoà chung một
    Lóng (lọc) nước nêm vào nếm ngọt thanh
    Thật là một cuốn sách tài tử và chuyên nghiệp, có thể lưu truyền muôn đời. Mới hay ẩm thực cũng là ?ođề tài? nhiều xúc cảm đối với nhà thơ lắm lắm!
    NGÔ MINH

Chia sẻ trang này