1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đi tìm chủ quyền Hòang sa-Trường sa trong thư tịch cổ

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vaputin, 03/05/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133


    Thư tịch Hoàng gia Chăm khẳng định chủ quyền Hoàng Sa



    Kho tư liệu Hoàng gia Chăm vẫn còn những văn kiện liên quan đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam, đặc biệt là vùng biển Trường Sa và Hoàng Sa.


    Theo Phó Giám đốc Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Bảo tồn Văn hóa Chăm – TS Thông Thanh Khánh, thư tịch Hoàng gia Chăm chứa đựng nhiều chủ đề di sản văn hóa Chăm độc đáo như lịch sử, văn học, ngôn ngữ, chữ viết, tín ngưỡng, tôn giáo… Trong đó kho tư liệu Hoàng gia Chăm vẫn còn những văn kiện liên quan đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Đặc biệt là vùng biển Trường Sa và Hoàng Sa.
    [​IMG]

    Một phần tư liệu khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam tại 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

    Có thể nhận thấy di sản tư liệu Hoàng gia Chăm là tư liệu cực kỳ quý hiếm. Nó là tài liệu chính thống để hiểu thêm về lịch sử của vương quốc Champa mà hiện nay các nhà khoa học, sử học còn đang tranh cãi. Các thư tịch này cũng cho chúng ta biết nhiều hơn về mối bang giao cũng như chính sách ngoại giao của triều Nguyễn với những tiểu quốc phía Nam. Đặc biệt, có những văn kiện liên quan đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam, trong đó có vùng biển Trường Sa và Hoàng Sa.

    TS Thông Thanh Khánh cho hay: trong các công văn gửi đi và đến giữa Triều đình với các địa phương chúng tôi đã phát hiện ra có rất nhiều văn thư liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như một văn bản của làng Chăm Plei Koh nay là đảo Phú Quý thuộc Bình Thuận vào năm 1836. Văn bản ghi: “…Làng Koh trình tấu với quan phủ về việc cử 3 chiếc thuyền đến Trường Sa (Kulao Cuah Atah) và Hoàng Sa (Kulao Cuah Bhong) hỗ trợ việc cắm các mốc giới theo chỉ dụ. Việc này làng Koh đã tập hợp dân đinh và ngư phủ nhưng bây giờ biển động không thể ra khơi nên làng xin quan phủ cho dời đến tháng Mười sẽ khởi hành”.


    viên Trung Tâm Unessco Nghiên cứu và Bảo tồn văn hóa Chăm đang xử lý tư liệu Hoàng gia Chăm.

    Hàm chứa nhiều giá trị lớn, hiện giờ các di sản tư liệu quý hiếm này đang được bảo tồn và khai thác. Nói về vấn đề này TS. Thông Thanh Khánh chia sẻ: Là người Chăm, tôi rất buồn khi phải nói rằng, đến nay di sản tư liệu Hoàng gia Chăm vẫn chưa thực sự được quan tâm bảo tồn, nghiên cứu và khai thác đúng với giá trị của nó. Trên 10 triệu trang ghi chép quý giá của kho tàng thư tịch Hoàng gia này hiện đang được chúng tôi nghiên cứu, phân loại, lưu giữ, bảo quản trong điều kiện khá khó khăn. Đa số tư liệu vì lâu năm nên đã đến giai đoạn phân hủy, trong khi đó các chủ nhân của chúng đã già không có người tiếp nối bảo quản. Thế hệ trẻ thì ít người quan tâm và đọc được các văn bản này. Tôi mong muốn Nhà nước sớm quan tâm đầu tư kinh phí để phân loại, bảo quản và tổ chức biên dịch, xuất bản để giới thiệu kho tư liệu quý báu này cho các nhà nghiên cứu và đặc biệt bổ sung làm phong phú tư liệu cho ngành lưu trữ và thư viện nước ta.
    (BKTO)
    lionking_arc thích bài này.
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Thư tịch cổ khẳng định Việt Nam cai quản Hoàng Sa
    Nguồn tin:vnexpress.net

    Hàng loạt tài liệu, thư tịch, sắc phong, châu bản... từ thế kỷ 18 đến thời vua Bảo Đại, được công bố trong cuốn Kỷ yếu Hoàng Sa, đều chứng minh sự cai quản liên tục về mặt nhà nước của Việt Nam ở quần đảo này.
    [​IMG]
    Chỉ thị của Thái phó Tổng lý quản binh dân chư vụ thượng tướng công nhà Tây Sơn ngày 14/2 năm Thái Đức thứ 9 (1786) với nội dung sai Cai đội Hoàng Sa cưỡi 4 chiếc thuyền câu vượt biển thẳng đến Hoàng Sa cùng các sứ cù lao ngoài biển, tìm nhặt đồ vàng, bạc, đồng và các thứ đại bác, tiểu bác, đồi mồi, vỏ hải ba chở về kinh, tập trung nộp theo lệ.
    [​IMG]
    Văn bản phát hiện ở làng Mỹ Lợi, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế với nội dung xử lý vụ kiện giữa phường Mỹ Toàn (nay là làng Mỹ Lợi, xã Vinh Mỹ) và phường An Bằng (xã Vinh An) về việc tranh chấp một chiếc vỏ thuyền của đội Hoàng Sa dạt vào bờ biển giáp ranh giữa hai phường này. Văn bản cho thấy, năm 1760, dưới thời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786) đã có cai đội Hoàng Sa chuyên trách quản lý và khai thác sản vật ở quần đảo Hoàng Sa. Bản gốc bằng chữ Hán được viết trên dấy dó.
    [​IMG]
    Tờ lệnh của họ Đặng ở đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) gồm bốn trang, dài 36cm, rộng 24cm và còn nguyên vẹn, ghi rõ ngày 15/4 năm Minh Mạng thứ 15 (1834), quan tỉnh Quảng Ngãi phái đội thuyền ba chiếc ra canh giữ đảo Hoàng Sa. Theo giới nghiên cứu, tuy chỉ vỏn vẹn vài trang nhưng tờ lệnh này chứa đựng nhiều thông tin quý, nêu rõ danh tính, quê quán của từng binh thuyền vâng lệnh triều đình đi lính Hoàng Sa, không chỉ riêng huyện đảo Lý Sơn mà còn ở các vùng quê ven biển khác tại Quảng Ngãi.
    [​IMG]
    Mộc bản triều Nguyễn trong sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 165 năm Minh Mạng thứ 17 (1836) ghi lại Bộ công tâu lên triều đình nội dung: "Cương giới mặt biển ta có xứ Hoàng Sa rất hiểm yếu".
    [​IMG]
    Một trong hai bản tấu của Thủ ngự Đà Nẵng ngày 27/6 năm Minh Mạng thứ 11 (1830) gửi đến triều đình với nội dung vừa cứu hộ thành công thuyền buôn của Pháp đụng phải đá ngầm tại phía tây Hoàng Sa (xứ Cát Vàng).
    [​IMG]
    Tấu của Bộ Công ngày 13/7 năm Minh Mạng thứ 18 (1837) có nội dung: Lần đi Hoàng Sa này trở về, trừ bọn Kinh phái Thủy sư Suất đội Phạm Văn Biện, tỉnh phải hướng dẫn Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh, đà công Lưu Đức Trực...
    [​IMG]
    Tấu của Bộ Công ngày 21/6 năm Minh Mạng thứ 19 (1838) về việc thám sát và vẽ bản đồ ở Hoàng Sa. Bản tấu viết rằng những người được phái đi Hoàng Sa do Bộ ty Đỗ Mậu Thưởng và Thị vệ Lê Trọng Ba dẫn đầu và hướng dẫn viên Vũ Văn Hùng. Ông Hùng cho biết Hoàng Sa có tất cả 4 nơi cần khảo sát thì lần này đi được 3 nơi.
    [​IMG]
    Chỉ dụ số 10, ngày 29/2/1938 của vua Bảo Đại sáp nhập quần đảo Hoàng Sa từ tỉnh Quảng Ngãi vào tỉnh Thừa Thiên về phương diện hành chính.
    [​IMG]
    Tờ châu bản có chữ phê chuẩn bằng mực đỏ của vua Bảo Đại ngày 27/12, năm Bảo Đại thứ 13, tức ngày 03/2/1939 khẳng định sự tiếp tục quản lý hành chính cũng như việc đưa binh lính ra Hoàng Sa.
    Nguyễn Đông
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]

    Bản đồ Cty Đông Ấn 1801 chỉ rõ Hoàng sa thuộc về VN
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]
    ----------------------------- Tự động gộp bài viết ---------------------------
    [​IMG]
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Nhân Dân, Số 8978, 6 Tháng Một 1979 — Quần đảo Trường Sa chưa bao giờ thuộc Trung Quốc








    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Khảo cứu tài liệu Lý Sơn


    Vietsciences-Nguyễn Đăng Vũ và Nguyễn Xuân Diện* 17/01/2010




    Những bài cùng tác giả
    1. Quá trình phát hiện và công bố văn bản:

    [​IMG]
    Ngày 31 tháng 3 năm 2009, dòng họ Đặng ở huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi thông tin tới TS Nguyễn Đăng Vũ – Phó Giám đóc Sở VH-TT & DL tỉnh Quảng Ngãi về việc gia tộc đang lưu giữ những văn bản chữ Nho mà chưa rõ nội dung, rất có thể là những tài liệu có liên quan đến việc đi Hoàng Sa của tổ tiên. Ngày 1 tháng 4, TS. Nguyễn Đăng Vũ đã ra đảo Lý Sơn và tiếp cận với văn bản. Ngay sau đó TS. Nguyễn Đăng Vũ đã cung cấp thông tin cho báo chí. Liên tiếp những ngày sau đó các báo chí đã đưa tin và được dư luận quan tâm đặc biệt.
    Nhận thấy đây là một văn bản quý giá, góp phần chứng minh và đấu tranh đòi lại quần đảo Hoàng Sa đang bị phía Trung Quốc chiếm đóng trái phép, được TS Nguyễn Đăng Vũ thuyết phục, gia tộc họ Đặng đã bàn bạc thống nhất hiến tặng văn bản này cho nhà nước.
    Sáng ngày 9 tháng 4 năm 2009, tại thôn Đồng Hộ, xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, tộc họ Đặng đã tổ chức một ngày giỗ đặc biệt. Con cháu trong họ từ khắp nơi trở về tề tựu đông đủ tại nhà thờ tổ để chứng kiến việc dâng hiến báu vật của dòng họ mình cho Nhà nước. TS. Nguyễn Đăng Vũ đại diện cho Sở VH-TT và Du lịch Quảng Ngãi tiếp nhận văn bản. Ngày 10 tháng 4, báo Thanh Niên công bố toàn văn bản dịch văn bản Lý Sơn của TS. Nguyễn Xuân Diện (người có mặt tại đảo Lý Sơn, trong lễ bàn giao hiến tặng tờ lệnh) và Thạc sĩ Nguyễn Đức Toàn.
    Ngày 10 tháng 4, tại UBND tỉnh Quảng Ngãi, trước sự chứng kiến của đại diện gia tộc họ Đặng, lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi đã trao cho đại diện Ban Biên giới của Bộ Ngoại giao Việt Nam văn bản gốc của tờ lệnh. Hiện tại (tháng 12/2009) văn bản gốc tờ lệnh được lưu trữ tại Bộ Ngoại giao Việt Nam.
    2. Bản phiên âm và dịch nghĩa tài liệu Lý Sơn:

    Phiên âm:

    Ngãi tỉnh Bố - Án quan vi bằng cấp sự. Chiếu đắc nguyệt tiền tiếp Binh bộ tư tự, phụng sắc Bộ hành tư, tiên hành dự bát chinh thuyền tam tao, tu bổ kiên cố, sĩ tại kinh. Phái viên cập thủy quân biền binh tiền vãng hiệp đồng sử thám Hoàng Sa xứ đẳng. Nhân khâm thử kỳ cố bát tại tỉnh chi khinh khoái thuyền tam tao tịnh tùy thuyền vật kiện các hành tu bổ. Tái xuất khứ niên sở phái chi Võ Văn Hùng cập tăng giản diên hải dân phu am thục hải trình giả, sung thuyền công thủy thủ. Tiền hậu vụ yếu mỗi tao bát danh, cai nhị thập tứ danh, vụ ư tam nguyệt hạ tuần thừa thuận sử phóng đẳng. Nhân tư biện lý các dĩ thanh thỏa, phái viên hiện dĩ thừa lê thuyền sử đáo. Tư cứ Võ Văn Hùng lân trạch thiện thủy dân Đặng Văm Siểm đẳng khả kham đà công sự đẳng. Nhân hiệp hành bằng cấp nghi thừa thuyền nhất tao suất nội thuyền thủy thủ đẳng danh tòng phái viên biền binh tịnh Võ Văn Hùng đồng vãng Hoàng Sa xứ phụng hành công vụ.
    Giá hải trình quan yếu, tu nghi thực lực thừa hành, vụ đắc thập phần ổn thỏa, nhược sơ hốt tất can trọng tội. Sở hữu can danh, khai liệt vu hậu, tu chí bằng cấp giả.
    Hữu bằng cấp.
    Bình Sơn huyện, An Hải phường, đà công Đặng Văn Siểm, Hoa Diêm thôn Dương Văn Định cứ thử.
    Thủy thủ:
    Danh Đề, Phạm Vị Thanh - An Vĩnh phường
    Danh Sơ, Trần Văn Kham - An Vĩnh phường
    Danh Lê, Trần Văn Lê - Bàn An ấp. Do Kim thương đội, nhị danh.
    Vũ Văn Nội
    Danh Trâm, Ao Văn , Trâm – Lệ Thủy Đông nhị danh
    Danh Xuyên, Nguyễn Văn Mạnh - An Hải phường
    Danh Doanh, Nguyễn Văn Doanh, Mộ Hoa huyện, An Thạch, Thạch Than thôn
    Trương Văn Tài
    Minh Mệnh ngũ thập niên, Tứ nguyệt, Thập ngũ nhật.
    Dịch nghĩa:
    Quan Án sát và Bố chánh tỉnh (Quảng) Ngãi làm việc cấp bằng này. Chiếu theo tháng trước tiếp được công văn của bộ Binh, vâng sắc (triều đình) cho bộ ấy trước là phải thi hành việc tuyển chọn, trưng tập 3 thuyền, sửa sang bền chắc, đợi sẵn ở kinh. Các phái viên và lính thủy đi trước để cùng thám sát các vùng của xứ Hoàng Sa. Nhân kính theo đó mà xem xét và tuyển chọn trong tỉnh 3 thuyền tốt, cùng với đó là các vật dụng được tu bổ vững chắc, lại chọn ra tên Võ Văn Hùng – đã được cử đi từ năm trước và chọn thêm những dân phu ven biển thạo đường biển để sung làm thủy thủ trên thuyền. Cốt yếu là phải chọn mỗi thuyền 8 tên, tổng cộng là 24 tên, cứ đến hạ tuần tháng Ba thì thuận theo thời tiết mà đi.
    Nay, nhân các việc đã xong xuôi, các phái viên đã đi lê thuyền đến; chọn thủy thủ giỏi mà Võ Văn Hùng đã tuyển chọn là bọn Đặng Văn Siểm có thể đảm nhận công việc lái thuyền. Nhân đấy mà cấp cho bằng này để đi một thuyền dẫn các thủy thủ trên thuyền theo quân của phái viên và Võ Văn Hùng cùng đến Hoàng Sa thi hành việc công.
    Đường biển ấy là nơi quan yếu, phải dốc sức mà thừa hành để cho công việc được mười phần trọn vẹn. Nếu bất cẩn, sẽ phạm trọng tội.
    Các người có trách nhiệm kê ở dưới đây. Vậy nên có bằng cấp này.
    Trở lên là bằng cấp.
    Đà công Đặng Văn Siểm người phường An Hải huyện Bình Sơn và Dương Văn Định, người thôn Hoa Diêm theo đây mà thi hành.
    Kê:
    Thủy thủ:
    Tên Đề - Phạm Vị Thanh, An Vĩnh phường;
    Tên Sơ - Trần Văn Kham, An Vĩnh phường;
    Tên Lê - Trần Văn Lê, Bàn An ấp; thuộc đội súng ống, 2 tên.
    Vũ Văn Nội,
    Tên Trâm - Ao Văn Trâm, Lệ Thủy Đông hai tên
    Tên Xuyên - Nguyễn Văn Mạnh, An Hải phường
    Tên Doanh - Nguyễn Văn Doanh, Mộ Hoa huyện, An Thạch, Thạch Than thôn
    Trương Văn Tài
    Minh Mệnh năm thứ 15 (1834), tháng Tư, ngày 15.
    (Bản dịch của Nguyễn Xuân Diện và Nguyễn Đức Toàn)
    3. Khảo cứu văn bản:

    3.1. Kích thước tờ lệnh: 24 x 36 cm. Trên văn bản Lý Sơn có rất nhiều dấu ấn. Ngoài dấu ấn to của Quan Bố Chánh sứ Quảng Ngãi, còn có các dấu ấn nhỏ, dùng để đóng vào nơi ghi tên người và những chữ cần đặc biệt lưu ý đối với người tiếp nhận văn bản. Ở đây là dấu ấn mang các chữ: Quảng Ngãi Án sát, theo lối chữ triện.
    Dấu ấn này gọi là kiềm ấn, hình vuông, mỗi cạnh 2.5 x 2.5 cm, làm bằng ngà voi.
    Hai dấu ấn: Quảng Ngãi Bố chánh sứ ty chi ấn (đóng từ con ấn đồng, vuông, mỗi chiều 7,5 cm) và Quảng Ngãi Án sát cùng đi với nhau, cùng có mặt trên văn bản này. Vì sao vậy?
    Đó là vì ở các tỉnh, khi mà Tổng đốc, Tuần phủ đi vắng, hoặc tỉnh vẫn khuyết chân Tuần phủ, nếu có việc cơ mật quan Bố Chánh phải họp với Quan Án sát sứ.
    Chúng ta biết rằng, tỉnh Quảng Ngãi được chính thức thành lập (là đơn vị cấp tỉnh) vào năm 1832 (năm Minh Mạng thứ 13). Theo Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn, và cả những ghi chép trong Hải Nam tạp trứ của Thái Đình Lan - một nho sinh Đài Loan bị gió bão đánh trôi giạt vào bờ biển tỉnh Quảng Ngãi vào thời điểm này - lúc bấy giờ tỉnh Quảng Ngãi chưa có quan Tuần phủ riêng, tiến sĩ Phan Thanh Giản là người kiêm chức Tuần phủ Nam - Ngãi (cả Quảng Nam lẫn Quảng Ngãi, nhưng chỉ đóng dinh thự ở Quảng Nam). Hai vị quan trực tiếp xử lý toàn bộ công việc chính trị, hành chính, chính sự, quân sự...tại Quảng Ngãi là Bố chánh (mà lúc đó Ty Bố chánh gọi là Ty Phiên) và Án sát (Ty Án sát gọi là Ty Niết). Hai ty Phiên và Niết đều đặt tại tỉnh thành Quảng Ngãi.
    Bố chánh Quảng Ngãi 1834 là Lê Nguyên Trung, rồi sau đó là Trương Văn Uyển, 1835 là Tôn Thất Bạch; Án sát Quảng Ngãi 1834 là Nguyễn Đức Hội và 1835 là Đặng Kim Giám. Khi cần ban một quyết định cơ mật, thì cả quan Bố chánh và Án sát cần phải hiệp y. Vì thế, trên văn bản cổ này có đóng dấu của cả quan Án sát và quan Bố chánh. Và cũng chính từ 2 con dấu đỏ đóng trên văn bản này chúng ta cũng có thể suy luận thêm, việc cử các ông Võ Văn Hùng, Đặng Văn Siểm, và nhiều người khác (có ghi trong văn bản) đi Hoàng Sa còn là một việc hết sức quan trọng và cơ mật.
    Ngoài ra, trên văn bản Lý Sơn còn có đóng 1 con dấu nữa, mang hai chữ Quảng Ngãi.
    3.2. Về các nhân danh và địa danh trong văn bản.

    Những gì còn lưu lại tại gia tộc họ Võ làng An Vĩnh huyện Lý Sơn, cho phép ta khẳng định: Ông Võ Văn Hùng là người thuộc gia tộc họ Võ (Văn) tại làng An Vĩnh, một dòng họ có nhiều người đi Hoàng Sa trong nhiều thế kỷ. Cai cơ thủ ngự quản đội Hoàng Sa Phú Nhuận hầu Võ Văn Phú là một ví dụ điển hình. Bên cạnh ông Võ Văn Hùng, trong văn bản cổ có ghi những người phải thi hành nhiệm vụ (khác): đó là Đặng Văn Siểm (làm đà công, tức lái thuyền), Dương Văn Định, và các thủy thủy cùng đi, gồm: Phạm Vị Thanh, Ao Văn Trâm, Trần Văn Kham, Nguyễn Văn Mạnh, Trần Văn Lê, Nguyễn Văn Dinh, Võ Văn Công, Trương Văn Tài.
    Trong đó có 4 người ở đảo Lý Sơn, mà lúc đó là chỉ là xã Lý Sơn, với hai phường là An Vĩnh và An Hải, thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn. Hai người không ghi quê quán là Võ Văn Công và Trương Văn Tài, nhưng có lẽ họ cũng là người của Lý Sơn. Ông Võ Văn Công có thể là người dòng họ Võ (Văn) ở An Vĩnh. Ông Trương Văn Tài có thể thuộc dòng họ Trương ở An Hải – một trong lục tộc tiền hiền của làng này. Sở dĩ ta có thể suy đoán ra điều đó, vì những dân binh này đều do chính ông Võ Văn Hùng tuyển chọn. Nếu đúng như vậy, thì trong số 11 người có tên trong văn bản cổ của dòng họ Đặng, 7 người là người của huyện đảo Lý Sơn.
    Ngoài ra, văn bản cổ này còn ghi những người thuộc các huyện khác trong tỉnh Quảng Ngãi. Ông Ao Văn Trâm được ghi là ở Lệ Thủy Đông Nhị, mà Lệ Thủy Đông Nhị vốn là một xã cũng thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn (có thể tương đương với xã Bình Trị hiện nay, tức là nơi có Nhà máy lọc dầu Dung Quất). Theo Đồng Khánh địa dư chí, địa danh Lệ Thủy Đông Nhị (xã) còn tồn tại đến thời vua Đồng Khánh (1885 – 1888).
    Ông Trần Văn Lê được ghi là ở Bàn An ấp, thuộc thôn Thạch Than, tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa (bao gồm huyện Mộ Đức và Đức Phổ hiện nay). Bàn An là tên một thôn thuộc xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ ngày nay. Ông Nguyễn Văn Dinh (Doanh) được ghi là ở thôn Thạch Than, xã An Thạch. Đối chiếu với các sử liệu cũ, thôn Thạch Than, xã An Thạch cũng thuộc tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa (nay tên gọi Thạch Than chỉ dùng để chỉ một thôn thuộc xã Đức Phong, huyện Mộ Đức). Như vậy hai ông Trần Văn Lê và Nguyễn Văn Dinh cùng ở thôn Thạch Than, xã An Thạch, tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa.
    Về hai ông Dương Văn Định và Đặng Văn Siểm, họ là những người được quan Bố chánh và Án sát trực tiếp chỉ định “cứ thử”, tức phải vâng mệnh thi hành. Như đã nói ở trên, ông Đặng Văn Siểm được xác định rõ là người phường An Vĩnh (Lý Sơn). Riêng ông Dương Văn Định, hiện vẫn chưa xác định được ở làng quê nào hiện nay. Văn bản cổ chỉ ghi là ông Dương Văn Định ở thôn Hoa Diêm (không ghi rõ xã, tổng, huyện).
    Nhưng thôn Hoa Diêm thời ấy nay thuộc địa phương nào? Hiện nay, các thôn trong tỉnh Quảng Ngãi có chữ Diêm (muối, tức làng làm ruộng muối), gồm: Tân Diêm (thuộc xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ), thôn Tuyết Diêm (thuộc xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn), thôn Diêm Điền (thuộc xã Bình Châu, huyện Bình Sơn)…Vì húy kỵ tên mẹ vua Thiệu Trị nên vào năm 1841 (năm Thiệu Trị thứ nhất), tất cả những tên người lẫn địa danh có chữ Hoa đều phải thay đổi, như Thanh Hoa, đổi thành Thanh Hóa, Đông Hoa thành Đông Ba, Mộ Hoa thành Mộ Đức…
    Hoa Diêm chắc chắn cũng phải đổi, nhưng trong 3 địa danh có chữ Diêm như nói ở trên thì thôn nào vốn là thôn Hoa Diêm? Theo chúng tôi, có lẽ thôn Hoa Diêm của ông Dương Văn Định chính là thôn Tuyết Diêm, thuộc xã Bình Thuận huyện Bình Sơn hiện nay, tức là nơi có bến cảng Dung Quất bây giờ. Vì rằng, thời ấy Lý Sơn thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn.
    Các dân binh được tuyển chọn, ngoài hai ông Trần Văn Lê và Nguyễn Văn Dinh là người thuộc tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa, những người còn lại đều thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn. Các thôn Diêm Điền, Tân Diêm đều thuộc các tổng khác (riêng Tân Diêm, nay thuộc Đức Phổ, thì với khoảng cách địa lý khá xa ấy càng không hợp lý).
    3.3. Sự trùng khớp với chính sử và châu bản triều Nguyễn:

    Lần theo chính sử, ta thấy có một số sự kiện lịch sử liên quan đến nội dung của văn bản cổ này.
    Sách Đại Nam thực lục, chính biên, đệ nhị kỷ, quyển 122 của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép về những sự kiện lịch sử vào tháng 3 năm Minh Mạng thứ 15 (1834), có ghi: “Đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng thủy quân hơn 20 người đi thuyền đến đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ” (Nxb Giáo dục, H. 2004, tập 4, tr.120).
    Sách này cũng cho biết, chính năm 1834 vua Minh Mạng đã sai binh lính đi dựng miếu và lập bia ở Hoàng Sa, nhưng vì sóng to gió lớn không làm được, nên vào tháng 6 năm Minh Mạng thứ 16 (1835), sai Cai đội Thủy quân Phạm Văn Nguyên đem thợ Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định chuyên chở vật liệu đến dựng miếu, dựng bia đá đảo Hoàng Sa (tr. 673).
    Sách này còn cho biết thêm, vào tháng giêng năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu rằng: “Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu, đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được một nơi… Hàng năm nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay (1834) trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng chọn phái biền binh thủy quân và vệ giám thành đáp 1 chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, bắt 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa.
    Không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại, xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ bến, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói cho rõ, đem về dâng trình” (tr.867).
    Chuẩn theo lời tấu của Bộ Công, vua Minh Mạng sai Suất đội Thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền cùng 10 bài gỗ, mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt khắc chữ: “Minh Mạng thập thất niên, Bính Thân, Thủy quân Chánh đội trưởng Suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa tương độ chí thử lưu đẳng tự” (Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân (1836), Thủy quân Chánh đội trưởng Suất đội Phạm Hữu Nhật vâng mệnh đi Hoàng Sa xem xét, đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ). Đây là sự kiện mà hầu hết các bộ chính sử của triều Nguyễn, như Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu… đều có ghi chép.
    Ngoài những trang ghi chép về sự kiện đi Hoàng Sa vào các năm 1834, 1835, 1836, sách Đại Nam thực lục, đệ nhị kỷ, quyển 204, còn ghi chép thêm rằng, phái viên Hoàng Sa là Suất đội Thủy sư Phạm Văn Biện cùng thủy quân, binh phu đi Hoàng Sa bị gió bão đánh tan nát nên đến tháng 7 năm Minh Mạng thứ 20 (1839) mới “lục tục” về đến kinh thành. Hỏi vì sao, đoàn thuyền đi Hoàng Sa lần này cho biết, họ đã nhờ thủy thần cứu giúp. Vua Minh Mạng sai Bộ Lễ chọn địa điểm ở cửa biển Thuận An đặt đàn cúng tế tam sinh nhằm cảm tạ thủy thần, rồi thưởng tiền cho Phạm Văn Biện, các biền binh và dân phu đi theo (Tập 5, tr. 532).
    Chỉ căn cứ theo các đoạn ghi chép nêu trên cũng đã thấy nội dung văn bản cổ của dòng họ Đặng là hoàn toàn trùng khớp với chính sử.
    Nội dung trùng khớp thứ nhất, đó là về thời gian: Hằng năm cứ vào hạ tuần tháng giêng là các phái viên, biền binh xuất quân ở kinh thành, để đến thượng tuần tháng 2 là đến Quảng Ngãi và đến hạ tuần tháng 3 là đi Hoàng Sa.
    Thứ hai, là về số lượng binh thuyền, Đại Nam thực lục ghi: Ngoài số binh thuyền ở kinh thành phái vào, ở Quảng Ngãi (lẫn Bình Định) còn chuẩn bị thêm 3- 4 chiếc thuyền nhẹ của dân địa phương (mà ở đây văn bản cổ họ Đặng cho biết tỉnh Quảng Ngãi năm 1834 đã chuẩn bị 4 thuyền, trong đó có 1 thuyền dành riêng cho ông Võ Văn Hùng đi với 8 thủy thủ ở tỉnh Quảng Ngãi như chúng tôi đã nêu tên ở trước). Do vậy, có thể suy ra, chuyến công vụ Hoàng Sa theo văn bản cổ của dòng họ Đặng có tất cả 7 thuyền, chứ không phải chỉ có 3 thuyền như trước đây một vài người đã suy đoán.
    Nội dung văn bản cổ của dòng họ Đặng còn trùng khớp với nhiều nguồn tài liệu, thư tịch bằng chữ Hán của các sử gia, quan lại ở những triều vua khác nhau, đặc biệt là những tài liệu, thư tịch có ghi chép khá kỹ lưỡng về hoạt động của đội Hoàng Sa – Trường Sa cũng như việc thực thi chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo này.
    Trước hết đó là những ghi chép của Nội các triều Nguyễn trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, những ghi chép của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí Hoàng Việt địa dư chí, những ghi chép của Nguyễn Thông trong Việt sử cương giám khảo lược… Sở dĩ ta xem văn bản cổ của dòng họ Đặng có sự trùng khớp về nội dung so với các tài liệu này, bởi nhiều trang ghi chép trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, hay các sách của Phan Huy Chú, Nguyễn Thông không khác mấy với các bộ chính sử triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu, Đại Nam nhất thống chí.
    Riêng về hoạt động của đội Hoàng Sa, ngay từ thời đầu chúa Nguyễn, thì cũng thẳng thắn nhìn nhận rằng, hầu hết những trang ghi chép của các sử gia Việt Nam viết về hoạt động của đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải (bao gồm cả Trường Sa) ít nhiều cũng đã kế thừa, thậm chí có những chỗ gần như nguyên văn một số sự kiện mà Lê Quý Đôn mô tả trong bộ sách Phủ biên tạp lục biên soạn vào năm 1776, tức lúc Lê Quý Đôn theo lệnh của vua Lê - chúa Trịnh vào làm Hiệp trấn Thuận Hóa.
    Cùng với những trang ghi chép của các sử gia phong kiến Việt Nam, các quan ở Nội các triều Nguyễn trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, đó là các tờ phúc tấu, tấu trình lên cho vua của các đình thần như Bộ Công, Bộ Hộ, các quan đầu tỉnh…, và được vua phê chuẩn bằng mực son (châu bản), đặc biệt là châu bản dưới thời vua Minh Mạng.
    Châu bản tập Minh Mạng số 54 cho biết, ngày 18 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà vua đã ra chỉ dụ thưởng phạt cho những người Hoàng Sa vào năm này (trong đó có ghi phạt Phạm Văn Nguyên và những viên giám thành 80 trượng vì tội trì hoãn thời gian đi Hoàng Sa, thưởng Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh vì có công hướng dẫn hải trình).
    Phúc tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Bính Thân (1836) cho Phạm Hữu Nhật đi cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền. Tờ tấu của Bộ Hộ ngày 11 tháng 7 cũng năm Bính Thân (1836) cho xin thanh toán lương thực cho dân phu đi Hoàng Sa. Tờ dụ ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 18 (1837) trong Châu bản Minh Mạng tập 57 cho biết việc sai các giám thành, biền binh hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định đi đo vẽ bản đồ, cắm mốc chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa.
    Trong năm Minh Mạng thứ 19 (1838) có 3 tờ tấu trình.
    Thứ nhất, đó là Tờ tấu của Bộ công ngày 2 tháng 4 (nhuận) cho biết việc hoãn thi hành công vụ đi đo giáp vòng quần đảo Hoàng Sa trong tháng 3 vì mưa gió kéo dài.
    Thứ hai, cũng là tờ tấu trình của Bộ Công ngày 21 tháng 6 năm (1838) cho biết: hướng dẫn viên đi Hoàng Sa là Võ Văn Hùng (người được ghi trong văn bản cổ của dòng họ Đặng là lo việc tuyển chọn binh phu và đã tuyển chọn đà công Đặng Văn Siểm) đã cung cấp thông tin là quần đảo Hoàng Sa có tất cả 4 nơi cần khảo sát; lần đi năm này (1838) chỉ đi được 3 nơi, còn một nơi không đi được vì gió đang mạnh nên xin để cho năm sau đi tiếp.
    Hướng dẫn viên Võ Văn Hùng cũng cho biết thêm, quần đảo Hoàng Sa có tất cả 25 hòn, nhưng trong năm chỉ đi đến được 12 hòn, khảo sát và vẽ được 3 bản đồ riêng, 1 bản đồ chung, còn lại 13 hòn chưa đến được. Đây là tờ tấu trình hết sức đặc biệt, không chỉ liên quan đến ông Võ Văn Hùng có ghi trong văn bản cổ của dòng họ Đặng mà còn ghi chép khá cụ thể về việc số lượng các hòn đảo trong 4 nơi thuộc quần đảo Hoàng Sa, số lượng các hòn đảo đã được đo vẽ trong năm này.
    Tờ tấu trình thứ ba năm 1839 là tờ tấu trình của tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 19 tháng 7, tức sau đó chưa đầy 1 tháng, quan tỉnh Quảng Ngãi tấu trình về việc cho miễn thuế cho 2 chiếc “bổn chinh thuyền” đã đưa binh lính đo giáp vòng quần đảo Hoàng Sa từ tháng 3 đến hạ tuần tháng 6.
    3.4. Trong các thủy thủ đi theo đoàn có hai người thuộc đội súng ống, cho phép chúng ta hiểu rằng những người đi Hoàng Sa mang theo vũ khí tự vệ. Những chữ “Do Kim thương đội nhị danh”(thuộc đội súng ống, 2 tên) nằm ở dòng cước chú (ghi chú bên dưới), nét mờ, chữ nhỏ nên khi tiếp cận trực tiếp văn bản, chúng tôi đã xem rõ những chữ này (bản dịch in trên báo Thanh Niên không có phiên âm và dịch nghĩa của mấy chữ “do Kim thương đội, nhị danh”).
    4. Kết luận:

    Văn bản tờ lệnh vừa được dòng họ Đặng phát hiện và hiến tặng cho nhà nước là một văn bản gốc, chân thực, có niên đại tuyệt đối tin cậy. Đây là một tài liệu quý giá góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
    .
    * TS. Nguyễn Đăng Vũ, Giám đốc Sở VH-TT & DL Quảng Ngãi.
    TS. Nguyễn Xuân Diện, PGĐ Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm
    © http://vietsciences.free.fr http://vietsciences.org Nguyễn Đăng Vũ & Nguyễn Xuân Diện
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Bản đồ lịch sử củng cố yêu sách của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa – Phần I



    [Tài liệu]

    I. Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (thế kỷ XVII)

    Đây là bản đồ vùng Quảng Ngãi, trong tập bản đồ Việt Nam Đỗ Bá soạn vẽ vào giữa thế kỷ XVII. Trong lời chú giải bên trên bản đồ có nói rõ việc khai thác “Bãi Cát Vàng” của Chúa Nguyễn như sau:
    “… Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng dựng giữa biển, từ cửa biển Đại Chiêm(1) đến cửa Sa Vinh(2). Mỗi lần có gió Tây Nam thì thương thuyền các nước đi ở phía trong trôi dạt ở đấy; có gió Đông Bắc thì thương thuyền chạy ở ngoài cũng trôi dạt ở đấy, đều cùng chết đói hết cả, hang hóa thì đều để nơi đó. Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến lấy hàng hóa, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn. Từ cửa Đại Chiêm vượt biển đến đấy thì phải một ngày rưỡi. Từ cửa Sa Kỳ đến đấy thì phải một ngày rưỡi…”
    [​IMG]Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (thế kỷ XVII)​

    II. Phủ Biên Tạp Lục 1776 (Lê Quý Đôn)

    “Phủ Biên tạp Lục” là cuốn sách do Lê Quý Đôn (1726-1784), một nhà bác học Việt Nam, biên soạn năm 1776. Lê Quý Đôn mô tả tỉ mỉ tình hình địa lý, tài nguyên ở Hoàng Sa và Trường Sa và công việc khai thác của Chúa Nguyễn đối với hai quần đảo này.
    [​IMG]Phủ Biên Tạp Lục 1776 (Lê Quý Đôn)​
    Trong cuốn sách đó Lê Quý Đôn viết như sau:
    “… Phủ Quảng Ngãi, ở ngoài cửa biển xã An Vinh, huyện Bình Sơn có núi gọi là cù lao Ré, rộng hơn 30 dặm, trước có phường Tứ Chính, dân cư trồng đậu ra biển bốn canh thì đến; phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa(1), trước kia có nhiều hải vật và những hóa vật của tàu, lập đội Hoàng Sa(1) để lấy, đi ba ngày đêm thì mới đến, là chỗ gần Bắc Hải.
    [​IMG]Phủ Biên Tạp Lục 1776 (Lê Quý Đôn)​
    [​IMG]Phủ Biên Tạp Lục 1776 (Lê Quý Đôn)​
    … Phủ Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh, ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy. Trên đảo có vô số yến sào; các thứ chim có hàng nghìn, hàng vạn, thấy người thì đậu vòng quanh không tránh. Trên bãi vật lạ rất nhiều. Ốc vân thì có ốc tai voi to như chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục, không như ngọc trai, cái vỏ có thể đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung vôi xây nhà; có ốc xà cừ, để khảm đồ dung; lại có ốc hương. Các thứ ốc đều có thể muối và nấu ăn được. Đồi mồi thì rất lớn. Có con hải ba, tục gọi là Trắng bông, giống đồi mồi nhưng nhỏ hơn, vỏ mỏng có thể khảm đồ dùng, trứng bằng đầu ngón tay cái, muối ăn được. Có hải sâm tục gọi là con đột đột, bơi lội ở bến bãi, lấy về dùng vôi sát qua, bỏ ruột phơi khô, lúc ăn thì ngâm nước cua đồng, cạo sạch đi, nấu với tôm và thịt lợn càng tốt.
    Các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đôi Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng năm chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển ba ngày ba đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng tám thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về. Lượm được nhiều ít không nhất định, cũng có khi về người không. Tôi đã xem số của cai đội cũ là Thuyên Đức Hầu biên rằng: năm Nhâm Ngọ lượm được 30 hốt bạc; năm Giáp Thân lượm được 5100 cân thiếc; năm Ất Dậu được 126 hốt bạc, từ năm Kỷ Sửu đến năm Quý Tỵ năm năm ấy mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba. Cũng có năm được thiếc khối, bát sứ và hai khẩu súng đồng mà thôi.
    Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Thứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu và các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy được.

    III. Đại Nam Nhất Thống toàn đồ (1838)

    Đây là bản đồ nước Việt Nam thời Nguyễn vẽ khoảng năm 1838. Trên bản đồ có ghi hai tên “Hoàng Sa” và “Vạn Lý Trường Sa” thuộc lãnh thổ Việt Nam.
    [​IMG]Đại Nam Nhất Thống toàn đồ (1838)​

    IV. “Đại Nam Thực Lục Chính Biên” (1848)

    “Đại Nam Thực Lục Chính Biên” là bộ sử ký do Quốc sử quán triều đình nhà Nguyễn soạn viết về các đời vua nhà Nguyễn. Phần viết về các đời vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị được soạn xong năm 1848, ghi sự kiện Gia Long chiếm các đảo Hoàng Sa năm 1816, sự kiện Minh Mệnh cho xây miếu, dựng bia trồng cây, đo đạc, vẽ bản đồ các đảo này.
    [​IMG]“Đại Nam Thực Lục Chính Biên” (1848)​
    Các đoạn viết về các sự kiện nói trên viết như sau:
    Quyển 52:
    “Năm Bính Tý, niên hiệu Gia Long thứ 15 (1816)…
    Vua phái Thủy quân và đội Hoàng Sa cưỡi thuyền ra Hoàng Sa để thăm dò đường thủy”.
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    “Đại Nam Thực Lục Chính Biên” (1848)​
    (Quyển 165)
    “Năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836), mùa xuân tháng giêng ngày mồng 1…
    Bộ Công tâu: Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia đã phái vẽ bản đồ mà hình thể nó xa rộng, mới chỉ được một nơi, cũng chưa rõ ràng. Hàng năm nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, xin phái thủy quân và vệ Giám thành đáp một chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, bắt hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định thuê bốn thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa, không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào; khi thuyền đi đến cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều rộng, chiều cao, chu vi và nước biển xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thể hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào đường đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ biển, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về dâng trình”.
    “Vua y lời tâu, phái suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi, chuẩn cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi đó dựng dấu ghi (mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ ‘Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ.
    V. Đại Nam Nhất Thống Chí từ năm 1865 đến 1910

    “Đại Nam Nhất Thống Chí” là sách địa lý chính thức của triều đình nhà Nguyễn do Quốc sử quán biên soạn từ năm 1865 đến 1910. Phần nói về tỉnh Quảng Ngãi, lại xác định Hoàng Sa thuộc địa phận tỉnh Quảng Ngãi và công việc khai thác Hoàng Sa vẫn tiếp tục, việc quản lý được tăng cường dưới các đời vua Gia Long và Minh Mệnh.
    “Phía Đông tỉnh Quảng Ngãi, có đảo cát (tức đảo Hoàng Sa liền cát với biển làm hào; phía tây nam miền sơn man, có lũy dài vững vàng, phía nam liền với tỉnh Bình Định, có đèo Bến Đá chắn ngang, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, có ghềnh Sa Thổ làm giới hạn…”
    [​IMG]
    [​IMG]
    Đại Nam Nhất Thống Chí từ năm 1865 đến 1910​
    … Đầu đời vua Gia Long phỏng theo lệ cũ đặt đội Hoàng Sa, sau lại bỏ; đầu đời Minh Mệnh thường sai người đi thuyền công đến đấy thăm dò đường biển, thấy một nơi có cồn cát trắng chu vi 1070 trượng, cây cối xanh tốt, giữa cồn cát có giếng, phía Tây Nam cồn có nhiều miếu cổ, không rõ dựng từ thời nào, có bia khắc 4 chữ “Vạn Lý Ba Bình” (muôn dặm sóng yên). Cồn cát này xưa gọi là Phật Tự Sơn, phía Đông và phía Tây đảo đều có đá san hô nổi lên một cồn chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 2 thước ngang với cồn cát, gọi là Bàn Than Thạch. Năm Minh Mệnh thứ 16 sai thuyền công chở gạch đá đến đấy xây đền, dựng bia đá ở phần tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và sau. Binh phu đắp đền miếu đào được đồng lá và gang sắt có đến hơn 2000 cân”.

    VI. Tờ lệnh Ngày 15 tháng 4 năm Minh Mệnh thứ 15 (1834)

    Tờ lệnh Ngày 15 tháng 4 năm Minh Mệnh thứ 15 (1834) của quan Bố chánh, Án sát tỉnh Quảng Ngãigồm có bốn trang, mỗi trang dài 36cm, rộng 24cm. Tờ lệnh có nội dung: “Theo tờ tư (một loại hình văn bản hành chính) của Bộ Binh nhận được tháng trước có đoạn trình bày: Vâng theo sắc lệnh, Bộ đã tư cho tỉnh chuẩn bị điều động trước 3 chiếc thuyền lớn, cho tu sửa chắc chắn đợi tại kinh, Phái viên (người của triều đình được cử đi thực hiện công vụ) và Biền binh (chức quan võ cấp thấp trong quân đội thời phong kiến) thủy quân đến trước để hiệp đồng nhanh chóng đi khảo sát các xứ của Hoàng Sa. Hãy tuân mệnh. Kính vâng theo, tinh thần (tên gọi chung cho các quan làm việc ở tỉnh) làm lễ cầu khấn, điều động, thuê 3 chiếc thuyền nhanh, nhẹ ở tỉnh cùng các vật kiện theo thuyền, mỗi loại đều cho tu bổ. Lại phái Vũ Văn Hùng, người được cử đi năm trước và chọn thêm dân phu miền biển am hiểu đường biển sung làm thủy thủ phục vụ trên thuyền trước sau, mỗi thuyền 8 người cộng 24 người, đến mùa từ hạ tuần tháng 3 thuận gió, thì nhanh chóng cho thuyền ra khơi. Nay các việc lo liệu xong xuôi, Phái viên đã đi thuyền đến. Nay căn cứ vào các lý lẽ tuyển lựa của Vũ Văn Hùng phù hợp, thực hiện cấp bằng cho những thủy dân thạo đường biển là bọn Đặng Văn Xiểm đảm đương công việc lái thuyền, hãy đi trên một chiếc thuyền, dẫn theo các thủy thủ trong đoàn theo Phái viên, Biền binh và Vũ Văn Hùng đến Hoàng Sa thực hiện công vụ. Chuyến đi này có tầm quan trọng đặc biệt, các người phải dốc lòng thực hiện công việc cho thực sự thỏa đáng. Nếu sao nhãng, sơ xuất tất bị trọng tội. Tất cả số người bao nhiêu đều liệt kê dưới đây. Các người lái thuyền là bọn Đặng Văn Xiểm, người phường An Hải huyện Bình Sơn, Dương Văn Đinh người thôn Hoa Diêm được cấp bằng trên đây chiếu theo thi hành”.
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Tờ lệnh Ngày 15 tháng 4 năm Minh Mệnh thứ 15 (1834)​
    Tuy chỉ vỏn vẹn có 04 trang nhưng Tờ lệnh chứa đựng nhiều thông tin quý, góp thêm một bằng chứng rằng đã từ lâu (từ trước năm 1834) Hoàng Sa đã thuộc phạm vi cai quản của Việt Nam. Tờ lệnh nêu rõ danh tính, quê quán của từng binh thuyền vâng mệnh triều đình đi lính Hoàng Sa không chỉ riêng ở huyện đảo Lý Sơn mà còn ở các vùng quê ven biển khác tại Quảng Ngãi, “Thủy thủ: Tên Đề Phạm Vị Thanh người phường An Hải; Tên Trâm Ao Văn Trâm, người Lệ Thủy Đông (hai tên); Tên Sơ Trân Văn Kham, người phường An Vĩnh; Tên Xuyên Nguyễn Văn Mạnh, người phường An Hải; Tên Lê Trần Văn Lê, người ấp Bản An; Tên Doanh Nguyễn Văn Doanh, người thôn Thạch Ốc An Thạch huyện Mộ Cách. Từ đội Kim Thương đưa sang 2 tên: Vũ Văn Nội; Trương Văn Tài”.
    Tờ lệnh còn xác thực thêm những thông tin ghi chép trong các bộ chính sử của triều Nguyễn về ông Võ Văn Hùng, là người có công đi Hoàng Sa trong nhiều năm. Văn bản còn thể hiện về cách thức tổ chức của đội Hoàng Sa, thủy quân Hoàng Sa, phiên chế, cách tuyển chọn, thời gian xuất hành…
    Tờ lệnh còn giúp khẳng định rằng mỗi năm vua Minh Mệnh đều có điều bao nhiêu thuyền và lính ra Hoàng Sa. Đó là việc rất quan trọng, được phối hợp hoạt động chặt chẽ từ trung ương đến địa phương trong việc lập bản đồ, cắm mốc chủ quyền, trồng cây và bảo vệ quần đảo Hoàng Sa. Nó kéo dài suốt nhiều năm và rất nhiều hải đội người Việt đã nối tiếp nhau có mặt ở Hoàng Sa. Họ thường đi trên ghe bầu rộng khoảng 3m, dài 12m, chở được 8 – 12 người, mang theo lương thực đủ dùng trong sáu tháng và cả nẹp tre để bó thi thể khi hi sinh. Trước khi đi, địa phương đã làm lễ tế sống họ. Nhiều hải đội đã anh dũng ra đi không trở về mà chứng tích hiện vẫn còn lưu lại nhiều ở các địa phương ven biển đặc biệt là ở Lý Sơn.
    Tờ lệnh này đã bổ sung vào kho tư liệu lịch sử, pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và kết nối logic với hệ thống tư liệu quý cùng nhiều di tích liên quan đến hải đội Hoàng Sa, quần thể mộ lính Hoàng Sa, Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa… chứng tỏ từ nhiều thế kỷ trước tổ tiên người Việt Nam đã giong thuyền ra Biển Đông để cắm bia khẳng định chủ quyền và bảo vệ biển đảo của Tổ quốc.
    Tờ lệnh góp phần khẳng định: từ xa xưa Việt Nam đã thực hiện chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa*.
    *Văn bản lưu giữ tại Ủy ban Biên giới quốc gia.

    VII. Quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Bà Rịa (1933)

    Nghị định số 4702-CP ngày 21/12/1933 của Thống đốc Nam Kỳ Krautheimer sát nhập các đảo Trường Sa, An Bang, Itu Aba, nhóm hai đảo (Song Tử Đông, Song Tư Tây), Loại ta, Thị Tú và các đảo phụ thuộc các đảo này vào tỉnh Bà Rịa (Bulletin Administratif de Cochinchine, số 1, 1934).
    [​IMG]
    Quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Bà Rịa (1933)​

    VIII. Quần đảo Hoàng Sa thuộc Tỉnh Thừa Thiên Huế (1938)

    Dụ của vua Bảo Đại số 10 ngày 29/2 năm Bảo Đại thứ 13 (30/3/1938), tách quần đảo Hoàng Sa khỏi địa hạt tỉnh Nam Ngãi, đặt vào tỉnh Thừa Thiên. Nội dung như sau:
    “Chiếu chỉ các Cù lao Hoàng Sa (Archipel des iles Paracels) thuộc về chủ quyền nước Nam đã lâu đời và dưới các tiền triều, các Cù lao ấy thuộc về địa hạt tỉnh Nam Ngãi: đến đời Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế vẫn để y như cũ là vì nguyên trước sự giao thông với các Cù lao ấy đều do các cửa bể tỉnh Nam Ngãi.
    Chiếu chỉ nhờ sự tiến bộ trong việc hàng hải nên việc giao thông ngày nay có thay đổi, vả lại viên Đại diện Chánh phủ bảo hộ có tâu rằng nên tháp các Cù lao Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên thời được thuận tiện hơn.
    Dụ:
    Độc khoản – Trước chuẩn tháp nhập các Cù lao Hoàng Sa (Archipel des iles Paracels) vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên: về phương diện hành chánh, các cù lao ấy thuộc dưới quyền tỉnh hiến tỉnh ấy”.
    [​IMG]
    Quần đảo Hoàng Sa thuộc Tỉnh Thừa Thiên Huế (1938)​

    IX. Duy trì quản lý hành chính quần đảo Hoàng Sa ngày 03 Tháng 2 1939

    Một tài liệu chính thức được vua Bảo Đại phê duyệt ngày 27 Tháng 12 năm Bảo Đại thứ 13 (ngày 03 tháng 2 năm 1939) xác nhận việc duy trì quản lý hành chính cũng như công văn phái lính đến Hoàng Sa.
    [​IMG]
    Duy trì quản lý hành chính quần đảo Hoàng Sa ngày 03 Tháng 2 1939.​

    Nguồn: biengioilanhtho.gov.vn​

    lionking_arc thích bài này.
  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Về địa danh VẠN LÝ TRƯỜNG SA trong HẢI NGOẠI KỶ SỰ

    Hải Ngoại Kỷ Sự là tựa sách khá quen thuộc trong giới nghiên cứu lịch sử biển Đông, sách này được dịch sang Việt văn và xuất bản tại Huế năm 1963, đối với mấy đoạn văn có liên quan đến Vạn Lý Trường Sa (tức quần đảo Hoàng Sa, theo cách gọi trong một số thư tịch cổ Trung Quốc), nhiều chỗ đã được dịch không chính xác, không chú giải và có lúc không xem cụm từ này như là địa danh. Bản dịch Huế 1963 không in kèm nguyên văn chữ Hán nên cũng khó đối chiếu khi cần phân tích cặn kẽ, những khuyết điểm này dẫn đến vài trường hợp sai lầm theo bản dịch, dẫn đến việc có sự trích dẫn cả mấy điểm sai trong bản dịch này vào luận văn hoặc bài nghiên cứu.


    VỀ ĐỊA DANH “ VẠN LÝ TRƯỜNG SA ”
    TRONG TÁC PHẨM HẢI NGOẠI KỶ SỰ



    Phạm Hoàng Quân



    Hải Ngoại Kỷ Sự là tựa sách khá quen thuộc trong giới nghiên cứu lịch sử biển Đông, sách này được dịch sang Việt văn và xuất bản tại Huế năm 1963, đối với mấy đoạn văn có liên quan đến Vạn Lý Trường Sa (tức quần đảo Hoàng Sa, theo cách gọi trong một số thư tịch cổ Trung Quốc), nhiều chỗ đã được dịch không chính xác, không chú giải và có lúc không xem cụm từ này như là địa danh. Bản dịch Huế 1963 không in kèm nguyên văn chữ Hán nên cũng khó đối chiếu khi cần phân tích cặn kẽ, những khuyết điểm này dẫn đến vài trường hợp sai lầm theo bản dịch, dẫn đến việc có sự trích dẫn cả mấy điểm sai trong bản dịch này vào luận văn hoặc bài nghiên cứu.
    Bản dịch Huế ra đời cách nay đã 50 năm, các dịch giả thời ấy có thể chưa mấy quan tâm đến các yếu tố dính dáng đến địa lý trong ký sự này. Ngày nay, trong điều kiện tư liệu khá hơn, chúng tôi xem lại các bản gốc chữ Hán, so sánh chúng và đối chiếu bản dịch với các bản gốc, tạm thời điều chỉnh mấy chỗ sơ suất trong bản dịch Huế 1963, và bên cạnh cũng bổ sung các thông tin mới (sau 1963) cùng một số chú thích cho rõ nghĩa hơn.
    Nguyên tác Hải Ngoại Kỷ Sự đề cập nhiều lãnh vực, khảo sát này chỉ chú trọng và tìm hiểu riêng về những yếu tố liên quan đến lộ trình và địa danh, qua đó nhằm phân tích điểm hợp lý hoặc không hợp lý trong những điều được ghi chép bởi chính tác giả.

    I. Khái lược về văn bản


    Hải Ngoại Kỷ Sự (6 quyển), Thanh/1695 – Thích Đại Sán.​
    海 外紀事 - 清 康煕三十五年 - 釋大汕 ​
    Haiwai Jishi – Qing/ 1695 – Shi Da Shan​
    Record of events of Overseas​
    Bút ký, ghi chép của tăng nhân Quảng Đông sau chuyến đi đến xứ Đàng Trong (Miền Trung Việt Nam), về nhân vật, phong tục, vật sản, tín ngưỡng và những điều nghe thấy trên đường.
    Lời tựa của Đại Việt Quốc vương Nguyễn Phước Chu (阮福週), đề tháng 5 năm Bính tý (1696) ; lời Tựa của người ở Dũng Giang là Cừu Triệu Ngao (仇兆鼇), đề tháng Giêng năm Khang Hi kỷ mão (1699) ; lời Tựa của người ở Ngô Giang là Từ Cửu (徐 [金九]), không đề năm ; lời Tựa của người ở Tấn Lăng là Mao Đoan Sĩ (毛端士) đề tháng 8 năm Khang Hi kỷ mão (1699).
    Đại Sán, họ Từ (徐) tên Thạch Liêm (石濂), pháp hiệu Đại Sán, hiệu Hán Ông Hoà thượng (厂翁和尚), người Ngô Huyện, Giang Tô, tu ở chùa Trường Thọ, Quảng Đông. Lai lịch có nhiều thuyết, hành tung khá phức tạp. Mùa xuân năm Khang Hi ất hợi, đến Đại Việt do được Chúa Nguyễn Đàng Trong mời sang thuyết pháp.


    Hải Ngoại Kỷ Sự qua ghi nhận trong Tứ Khố Tổng Mục Đề Yếu :


    史部三十 四 地理類存目七
    海外紀事 六卷
    浙江巡撫 採進 本
    國朝釋大 汕 撰。大汕廣東長壽寺僧。康熙乙亥春。大越國王阮福週。聘往說法。越歲而歸。因記其國之風土。以及大洋往來所見聞。大越國者。其先世乃安南贅壻。分藩割據。 遂稱大越。卷前有阮福週序。題丙子蒲月。蓋康熙三十五年也。
    Tứ Khố Toàn Thư Tổng Mục Đề Yếu,
    Sử bộ 34, Địa lý loại, Tồn mục 7:
    Hải Ngoại Kỷ Sự 6 quyển
    Bản do Tuần phủ Chiết Giang tìm được dâng lên.
    Sách do Thích Đại Sán triều ta [Thanh] soạn. Đại Sán là Tăng nhân chùa Trường Thọ, mùa xuân năm Ất Hợi được Quốc vương Đại Việt Nguyễn Phúc Chu mời sang thuyết pháp. Qua một năm trở về, nhân ghi chép về phong thổ nước ấy, cùng những điều tai nghe mắt thấy khi qua lại biển lớn. Nước Đại Việt, nguyên đời trước là rể của [chúa] An Nam, phân cõi chiếm cứ, xưng hiệu Đại Việt. Trước sách có lời Tựa của Nguyễn Phúc Chu, đề tháng 5 năm Bính Tý, nhằm năm Khang Hi thứ 35.

    Các phần liên quan đến Vạn Lý Trường Sa, xem trong :
    Quyển 3, tờ 23b, 24a.
    Quyển 4, tờ 16a ; tờ 21b
    Các bản Hải Ngoại Kỷ Sự đã xuất bản và lưu hành :
    * Bản nhập Tứ Khố Toàn Thư Tổng Mục, Sử bộ 34, Địa lý loại, Tồn mục 7.
    Phạm Hoàng Quân (PHQ) chú : Sách được nhập Tứ Khố Toàn Thư Tổng Mục không phải là sách thuộc Tứ Khố Toàn Thư, mà chỉ lưu tên sách và mấy dòng đề yếu, bản sách nằm trong kho, chờ đọc duyệt hoặc tiếp tục thẩm định nội dung coi có điều gì trái với quan điểm Thanh đình hay không, chưa được chép nhân bản hoặc khắc in nhân bản. Do không phân biệt được Tứ Khố Toàn Thư Tổng Mục (sách tổng mục lục) và (sách tập hợp thành tùng thư) là 2 bộ phận khác nhau nên giới nghiên cứu Việt Nam thường hay gắn sách Tứ Khố Toàn ThưHải Ngoại Kỷ Sự thuộc Tứ Khố Toàn Thư cho có vẻ quan trọng. Gần đây, tiêu biểu như Thạc sĩ Trần Văn Quyến trong bài viết : Sử liệu Trung Quốc minh chứng chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa [vnexpress.net, 28/7/2012].
    * Bản khắc in : Bảo Kính Đường khắc bản, trong niên hiệu Thanh Khang Hi, hiện tàng Bắc Kinh Đồ Thư Quán. [北 京圖書館藏清康煕寶鏡堂刊本]
    * Bản khắc in : Bảo Kính Đường khắc bản, trong niên hiệu Thanh Khang Hi, lời Bạt của Phó Tăng Tương. [清 康煕寶鏡堂刊本傅增湘跋] (theo Trung Quốc Cổ Tịch Thiện Bản Thư Mục - Sử bộ, quyển 6, tờ 60a.)
    * Bản khắc in : không đề năm và nơi khắc in, hiện tàng (Nhật Bản) Đông Dương Văn Khố [The Toyo Bunko – Oriental Library/東洋文庫藏本].
    * Hải Ngoại Kỷ Sự, trong tùng thư Bút Ký Tiểu Thuyết Đại Quan, tập thứ 6, Thượng Hải : Thượng Hải Tiến Bộ Thư Cục, (?) [海外纪事, 屬 叢書 >,第六輯,第六函, 上 海進步書局]
    * Bản in : Hải Ngoại Kỷ Sự 6 quyển, Thích Đại Sán soạn, in trong Thập Thất Thế Kỷ Quảng Nam Chi Tân Sử Liệu, Trần Kinh Hoà biên trứ, thuộc Trung Hoa Tùng Thư, Đài Bắc : Trung Hoa Tùng Thư Uỷ Viên Hội – Đài Loan Thư Điếm, 1960. (phần Hải Ngoại Kỷ Sự được in chụp từ bản Đông Dương Văn Khố). [Hai wai ji shi 6 juan, Shi Dashan zhuan, in Shi qi shi ji Guang nan zhi xin shi liao, Chen Jinghe bian zhu, Zhonghua cong shu, Taibei : Zhonghua cong shu wei yuan hui : Taiwan shu dian zong jing xiao, 1960. / 海 外纪事 六卷 ,(清)释 大汕著 載中 “十七世紀廣南之新史料”,陳荊和编 著,>,台北 :中 華叢書委員會 : 台灣書店總經銷, 1960.(影印東洋文庫藏本) ]. PHQ chú : Sách này gồm 160 trang, chia làm 2 phần, phần khảo cứu về Hải Ngoại Kỷ Sự của Trần Kinh Hoà và phần nguyên tác Hải Ngoại Kỷ Sự (in chụp). Do ông Trần Kinh Hoà đặt cho sách nhan đề Sử liệu mới về Quảng Nam hồi thế kỷ 17, nên dễ bị lầm tưởng đây chỉ là một tập sử liệu tổng hợp.
    * Hải Ngoại Kỷ Sự, (Thanh) Đại Sán trứ, Dư Tư Lê điểm hiệu (giới thiệu và chấm câu), thuộc tùng thư Trung Ngoại Giao Thông Sử Tịch Tùng San, Bắc Kinh : Trung Hoa Thư Cục, 1987, 2000. [Haiwai Jishi – (Qing) Da Shan write, Yu Sili introduce, in Zhongwai Jiaotong Shiji Congkan, Beijing : Zhonghua Shuji, 1987, 2000./ 海外紀事,(清)大 汕 著 - 余思黎 點校,>, 北京 : 中華書局,1987,2000.]. PHQ chú : Bản in này là một sách in chung 2 tác phẩm : phần trước là An Nam Chí Lược của Lê Tắc, do Võ Thượng Thanh (武 尚清) điểm hiệu, 447 trang, phần sau là Hải Ngoại Kỷ Sự, Dư Tư Lê điểm hiệu, 140 trang.
    * Hải Ngoại Kỷ Sự, (Thanh) Đại Sán trứ, Thượng Hải : Thượng Hải Cổ Tịch Xuất bản xã, 1995. (ảnh ấn bản)
    * Hải Ngoại Kỷ Sự, (Thanh) Đại Sán trứ, Sơn Đông : Tề Lỗ Thư Xã xuất bản, 1997. (ảnh ấn bản).
    * Hải Ngoại Kỷ Sự 6 quyển, (Thanh) Đại Sán soạn, trong tùng thư Tục Tu Tứ Khố Toàn Thư, ảnh ấn bản (Khang Hi) Bảo Kính Đường khắc bản cất tại Bắc Kinh Đồ Thư Quán, Thượng Hải : Thượng Hải Cổ Tịch Xuất bản xã, 2002. [Hai wai ji shi 6 juan, Shi Dashan zhuan, in Xu xiu Si Ku Quan Shu, ju Beijing Tu Shu Guan cang Qing Kangxi Bao Jing Tang ke ben ying yin, Shanghai : Shanghai Guji chu ban she, 2002 / 海外纪事六卷(清)释 大汕 撰, >,據 北京圖書館藏清康熙寶鏡堂刻本影印,上 海 : 上海古籍出版社, 2002.]
    Bản dịch sang Việt văn [bản dịch Huế 1963]:
    * Hải Ngoại Kỷ Sự 6 quyển, (Thanh) Thích Đại Sán soạn, Nguyễn Phương và Nguyễn Duy Bột dịch, Trần Kinh Hoà viết bài Khảo cứu, Viện Đại Học Huế - Ủy Ban Phiên Dịch Sử Liệu Việt Nam, Huế, 1963. [dịch theo bản Đông Dương Văn Khố]. (Bìa trong của bản dịch ghi sai là “Toàn bộ: 7 quyển”, gần đây Nguyễn Văn Đăng sai theo, xem Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1, 2012, tr.115.)

    II. Tóm tắt lộ trình


    Đêm 15 tháng Giêng [rằm Thượng Nguyên] năm Ất Hợi (Khang Hi thứ 34 – Tây lịch : 27/2/1695) Đại Sán cùng tuỳ tùng 50 người lên thuyền tại Hoàng Phố, thuyền quá tải, đoàn người chia hai tốp, một tốp ở lại chờ chuyến sau, Đại Sán đi trong chuyến đầu.
    Ngày 16 tháng Giêng, ngang qua Đông Hoản, Hổ Môn, Việt Hải quan, Ô Trữ Sơn, Lỗ Mạn Sơn [hải phận Quảng Đông, Thanh].
    Ngày 27 tháng Giêng, đến Cù lao Chàm, vào Hội An, đổi thuyền.
    Ngày 28 tháng Giêng, tới Thuận Hoá. Trú ở chùa Thiền Lâm.
    Ngày 13 tháng 3, tốp thứ hai tới Thuận Hoá.
    Ngày mùng 1 tháng 7, Đại Sán trở lại Hội An.
    Ngày mùng 2 tháng 7, Đại Sán tới Hội An. Trú tại chùa Di Đà.
    Ngày 19 tháng 7, Đại Sán lên thuyền buôn rời Hội An, về Quảng Đông.
    Ngày 20 tháng 7, sáng, đến Cù lao Chàm, nghỉ tạm chờ gió.
    Ngày 30 tháng 7, sáng, thuyền từ Cù lao Chàm ra khơi.
    Ngày mùng 1 tháng 8, sáng, bị gió thổi ngược, thuyền trở lại Cù lao Chàm, sau vài hôm trở vào Hội An.
    Ngày 12 tháng 10, theo đường bộ ra Thuận Hoá, qua đèo Hải Vân.
    Ngày Rằm tháng 10, sáng, đến cửa biển Thuận An, có thuyền chờ sẵn, lên thuyền, tối, tới chùa Thiên Mụ. Lần này đến Thuận Hoá trú tại chùa Thiên Mụ.
    Hải Ngoại Kỷ Sự chép rõ ngày tháng chỉ đến đây.

    Lịch trình chuyến về Quảng Đông không thấy Đại Sán chép rõ như chuyến đi. Liên quan đến chuyến về chỉ thấy qua các chi tiết tản mát trong:
    1/ Lời Tựa của [Chúa] Nguyễn Phước Chu, đề “Tháng 5 (Bồ nguyệt) năm Bính Tý”, và trong lời Tựa cũng viết : “Hoà thượng trích lục một số việc, góp lại thành tập, nhan đề Hải Ngoại Kỷ Sự, lúc trở thuyền về nước đưa cho ta xem và khiến ta viết bài tựa”. (HNKS, Tựa, Bản dịch Huế, 1963, tr.10)
    2/ Trong quyển 5, sau rằm tháng 10 năm Ất Hợi, Đại Sán gặp chúa Nguyễn, nhân trong lúc nói chuyện, ngỏ ý xin tài trợ năm ngàn vàng (五 千金 / ngũ thiên kim ?) để trùng tu chánh điện chùa Trường Thọ ở Quảng Đông, chúa hứa góp, nhưng muốn biết lai lịch chùa này. Đại Sán về viết một bài văn sớ kể lại nhơn duyên trùng tu, đem dâng. “Vương duyệt xem lá sớ, gật đầu nói rằng : ‘Mùa xuân sau Lão Hoà thượng về, thay ta xây cất điện đường chùa Trường Thọ’.” (Bản dịch Huế, 1963, tr.204)
    3/ Giữa quyển 3, Đại Sán viết : “Mùng 3 tháng 6 [Ất Hợi], cáo từ Quốc Vương, định đến ngày 15 sẽ xuống Hội An, liệu lý đường về cho kịp mùa gió thu.” (Bản dịch Huế, tr.125)
    4/ Cuối quyển 6, Đại Sán viết chung chung là : “Mùa xuân năm Ất Hợi đến nước Đại Việt, định ở qua một năm, ngày về đã định vào tiết đầu thu.”(Bản dịch Huế, tr.234)
    Như căn cứ vào HNKS thì không biết cụ thể ngày về của Đại Sán, chỉ biết đại khái là sau tháng 5 năm Bính Tý.
    Trong bài khảo cứu của ông Trần Kinh Hoà in chung trong bản dịch HNKS, thấy ông Trần căn cứ vào các báo cáo của thuyền buôn nộp cho quan chức Quảng Đông, cho biết Đại Sán rời bến Hội An vào ngày 22 hoặc 24 hoặc 26 tháng 6 và về đến Quảng Đông độ giữa tháng 7 năm Bính Tý (1696).
    Tóm lại, qua lịch trình chuyến đi từ Quảng Châu đến Thuận Hoá và chuyến về hụt từ Cù lao Chàm vào ngày mùng 1 tháng 8 năm 1695, chúng ta có thể biết được thương thuyền chở Đại Sán đã đi theo con đường biển ngoài khơi ngang qua phía đông đảo Quỳnh Châu. Trong HNKS, tên Vạn Lý Trường Sa được đề cập hai lần, tên Trường Sa được đề cập hai lần, nằm trong ba đoạn văn.
    Những điều phải lưu ý là, tại đoạn văn quan trọng có nói đến khoảng cách [canh, dặm] giữa Hội An với Vạn Lý Trường Sa thì Đại Sán đã không ghi chép ở góc độ trực tiếp mà là nghe kể lại. Ở hai đoạn khác, địa danh Vạn Lý Trường Sa và Trường Sa được nói đến trong lần Đại Sán trở về không thành.

    III. Về ba đoạn văn liên quan đến địa danh Vạn Lý Trường Sa


    Các đoạn nguyên tác dùng để khảo sát trong bài viết này căn cứ vào :
    * bản in khắc Hải Ngoại Kỷ Sự 6 quyển lưu tại Bắc Kinh Đồ Thư Quán, bản chụp PDF lưu hành trên mạng.
    * bản in khắc Hải Ngoại Kỷ Sự 6 quyển lưu tại [Nhật Bản] Đông Dương Văn Khố, in chụp, trong Thập Thất Thế Kỷ Quảng Nam Chi Tân Sử Liệu, Đài Loan Thư Điếm xuất bản, 1960.
    * bản gõ chữ điện tử (phồn thể) Hải Ngoại Kỷ Sự 6 quyển, Dư Tư Lê giới thiệu và chấm câu, Trung Hoa Thư Cục xuất bản, 2000.
    Các đoạn nguyên tác dưới đây được gõ lại từ bản Đông Dương Văn Khố, đối chiếu bản Bắc Kinh Đồ Thư Quán, đối chiếu và chấm câu theo cách chấm câu của Dư Tư Lê.

    1/ Đoạn văn thứ nhất


    Nếu đúng như thông lệ ghi chép ký sự, tức ghi theo lịch trình, thì đoạn văn liên quan đến Vạn Lý Trường Sa sẽ được đề cập trong bối cảnh vào tháng giêng, lúc thương thuyền chở Đại Sán đang lênh đênh trên biển, trên tuyến đường từ Lỗ Mạn Sơn hướng đến Cù Lao Chàm, và đoạn văn này - tương ứng với lộ trình - sẽ thuộc đầu quyển 1 của kỷ sự. Nhưng thực tế ghi chép trong HNKS không phải như vậy, đoạn văn liên quan Vạn Lý Trường Sa được chép ở giữa quyển 3, trong bối cảnh : thời gian khoảng cuối tháng 5 ; địa điểm tại nhà khách chùa Thiền Lâm ở Thuận Hoá, do Đại Sán nghe một người khách kể chuyện và ghi lại, toàn văn như sau :

    “客有言:歸帆風信,須及立秋 前後半月,西南風猛,一帆風順 四五日夜便抵虎門.處暑後北風漸起,水向東流,南風微弱,不敵東歸 流急,難保為穩便矣.蓋洋海中 橫亘沙磧,起東北直抵西南,高者璧立 海上,低或水平沙面,粗硬如鐵,船一觸即 成虀粉.闊百許里,長無算,名萬里長 沙.渺無草木人煙,一失風水 漂至,縱不破壞,人無水米,亦成餒鬼 矣.去大越七更路,七更約七 百里也.先國王時,歲差澱舍 往拾壞船金銀器物云.秋風潮涸,水盡東洄,一浪所湧,即成百里,風力不勁,便有長沙 之憂.”
    (海外紀事 - 卷三,頁23後24前)

    Bản dịch Huế 1963 (tr.125) :
    “ Khách có người bảo, mùa gió xuôi trở về Quảng Đông chừng vào độ nửa tháng trước sau tiết Lập thu ; chừng ấy, gió tây nam thổi mạnh, chạy một lèo gió xuôi chừng bốn năm ngày đêm có thể đến Hổ Môn. Nếu chờ đến sau mùa nắng, gió bắc dần dần thổi lên, nước chảy về hướng đông, sức gió nam yếu, không chống nổi dòng nước chảy mạnh về đông, lúc ấy sẽ khó giữ được ổn tiện vậy. Bởi vì có những cồn cát nằm thẳng bờ biển, chạy dài từ đông bắc qua tây nam ; động cao dựng đứng như vách tường, bãi thấp cũng ngang mặt nước biển ; mặt cát khô rắn như sắt, rủi thuyền chạm vào ắt tan tành ; bãi cát rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là “ vạn lý trường sa ”, mù tít chẳng thấy cỏ cây nhà cửa ; nếu thuyền bị trái gió trái nước tất vào, dầu không tan nát, cũng không gạo không nước, trở thành ma đói mà thôi. Quãng ấy cách Đại Việt bảy ngày đường, chừng bảy trăm dặm [1]. Thời Quốc vương trước, hằng năm sai thuyền đánh cá [2] đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư tất vào. Mùa thu nước dòng cạn, chảy rút về hướng đông, bị một ngọn sóng đưa đi thuyền có thể trôi xa cả trăm dặm ; sức gió chẳng mạnh, sợ có hiểm hoạ trường sa.”

    Đính chính :

    [1] Câu trong nguyên văn : “khứ Đại Việt thất canh lộ, thất canh ước thất bách lý [去大越七 更 路,七更約七百里 也.]”. Trong câu này có hai điểm sai, một của người dịch và một của người viết.
    Lỗi của bản dịch đã được chủ nhân blog Đông A nêu ra hồi năm 2009 (ngày 14 tháng 3), rằng thất canh nếu dịch sát nghĩa thì phải là bảy canh, không thể dịch là bảy ngày, đây là phát hiện đúng và quan trọng về một lỗi sai rất cần được điều chỉnh (1).
    Lỗi của người viết (Đại Sán) là quy đổi sai cách tính canh sang dặm. Câu văn này dịch sát nghĩa sẽ là : “Khoảng ấy cách Đại Việt bảy canh, bảy canh ước chừng bảy trăm lý (dặm)”. Đọc lại toàn đoạn văn trích nêu trên, chúng ta thấy Đại Sán chỉ nghe mà viết lại, điều này cũng chứng tỏ ông ta chưa biết gì về Vạn Lý Trường Sa, nội dung HNKS còn cho thấy Đại Sán không từng đi biển, các lý do này dẫn đến việc ước đoán, quy đổi canh sang dặm có sự chênh lệch quá lớn so với quy chuẩn đương thời.
    Đương thời, canh trong hàng hải tuy được hiểu như là một lượng từ, là đơn vị tính lộ trình đường thuỷ, nhưng trên thực tế, vận tốc thuyền buồm đi biển phải chịu sự lệ thuộc vào sức gió nên loại đơn vị này không thể cho tương đương với số lý (dặm) cụ thể được, sách Đông Tây Dương Khảo (1617) do Trương Nhiếp viết – trước HNKS 80 năm – cho biết : “ Như muốn biết đường đi xa gần bao nhiêu, lấy chuẩn một ngày đêm [trong điều kiện] gió thuận là 10 canh, ước đi được mấy canh, thì biết tới xứ nào.” (2). Trong Minh Sử (1737) cũng có đoạn nói về canh : “Đường thuỷ, gặp gió thuận, từ Kê Lung, Đạm Thuỷ [bắc Đài Loan] đến cảng Phúc Châu [Phúc Kiến] 5 canh thì tới. Từ cảng Đài Loan đến đảo Bành Hồ 4 canh thì tới…Bởi đường biển không thể đo tính bằng lý (dặm), nên người đi biển chia một ngày đêm làm 10 canh, rồi theo số canh mà tính ra dặm đường.” (3). Trong Hải Quốc Văn Kiến Lục (1730), Trần Luân Quýnh nói có vẻ cụ thể hơn : “ …[thuật đi biển của] Trung Quốc dùng la bàn, vạch đồng hồ cát, coi gió lớn nhỏ thuận nghịch mà đọ số canh, mỗi canh đường thuỷ ước chừng 60 lý, gió lớn mà thuận thì tính thêm, nước triều cao gió nghịch thì giảm xuống, coi theo đó thì biết đến xứ nào.” (4).
    Qua các ghi chép về canh và dặm trên đây ta thấy được cách tính khá thống nhất của người đi biển, mỗi ngày đêm chia ra 10 canh, mỗi canh đi được trên dưới 60 lý [~ 30 km]. Các ghi chép này đều rất gần với thời điểm ra đời HNKS, Đại Sán không rành việc đi biển nên ước chừng mỗi canh = 100 lý, chênh lệch quá xa.
    [2] Nguyên văn viết : điến xá [澱舍], bản dịch dịch là thuyền đánh cá. Trong HNKS, thấy có bốn loại thuyền của xứ Đàng Trong được chép theo dạng tên riêng, gồm : điền cô đĩnh [田 姑艇], hồng thuyền [紅 船], mã tào/tàu [馬艚], điến xá [澱舍]. Trong bốn loại này, điền cô đĩnh được mô tả là loại thuyền đánh cá ; hồng thuyền là loại thuyền quan dụng, hình dáng thon dài như thuyền rồng, có 64 tay chèo ; mã tàu là thuyền đi nhanh nhất ; điến xá là loại thuyền lớn nhất (có lẽ chuyên dụng cho việc chở hàng hoá). Tôi chưa khảo sát thật kỹ và so sánh mở rộng về các ghi chép này, tuy nhiên, sơ bộ cho thấy nên dịch điến xáthuyền lớn có lẽ hợp với bối cảnh đoạn văn hơn dịch là thuyền đánh cá. Để làm sáng tỏ vấn đề này, cần phải có các cuộc điền dã ven biển từ vùng Hội An đến Thuận An để tìm hiểu xem tên ghe tàu hoặc các bộ phận ghe tàu mà dân đi biển ngày nay quen gọi có liên hệ gì về mặt ngữ âm so với tên bốn loại thuyền kể trên hay không.
    Lưu ý, bản dịch không viết hoa các địa danh “vạn lý trường sa” và “trường sa”, cũng có thể do lỗi sắp chữ.

    2/ Đoạn văn thứ hai


    Đoạn văn này được viết trong bối cảnh lần về không thành, thuyền buôn chở Đại Sán khởi hành tại Tiêm Bích La (Cù lao Chàm) vào sáng ngày 30 tháng 7 năm 1695 (chép trong Quyển 4) :

    “是 時船正疾行皆不理論而南吹漸微舟所進幾與所 退相敵頃刻大雨北風猛作勢不可支舉船盡以長沙為憂.余披依持 咒久之東南一陣颶風陡起黑夜雲霾手不見掌各倉惶聽命總管見龍行隱隱飛舞於船左右約一更龍去從前北風所飄流之路須臾盡 復風雨後海光天色照灼遠近至是而歸心始灰矣平明霽色見山痕澹澹不數十里外仍是尖碧蘿也隨風竟返至山港舟人擊鼓賽神各加額曰餘生再造也”
    (海外紀事 - 卷四, 頁16前-後)

    Bản dịch Huế (tr.161) :
    “lúc ấy thuyền đang đi mau, chẳng để ý bàn giải. Gió nam thổi dịu dần, thuyền chạy vát tới vát lui, chẳng tiến được bao nhiêu. Bỗng chốc mưa lớn, gió bắc thổi mạnh, thế không chạy tới được, cả thuyền đều lo ngại vì quãng đường Trường Sa (Bãi dài). [1] Ta khoát y vào niệm chú. Hồi lâu, phía đông nam một trận gió bão nổi lên, đêm tối mây mù, ngữa bàn tay chẳng thấy. Mọi người đều sảng hồn, mường tượng trông thấy rồng bay múa hai bên thuyền, ước chừng một canh, rồng bay đi. Khoảng đường gió bắc thổi đi nảy giờ, trong giây phút đã thấy thuyền trở lại chỗ cũ. Sau cơn mưa, màu trời sắc biển sáng suốt gần xa ; đến đây lòng về đã nguội lạnh hết vậy.
    Sáng ngày, mây tạnh trời quang, xa xa trông thấy ngấn núi, cách chừng vài mươi dặm, vẫn thấy đảo Tiêm Bích La. Theo gió xuôi vào sơn cảng, người trong thuyền đánh trống tạ thần, đều giơ tay lên trán nói rằng: ‘Thực là sống sót’.”
    Lưu ý
    [1] Trong đoạn văn này “Trường Sa” được hiểu như địa danh, xem đoạn văn 1 và 3 “vạn lý trường sa” không viết hoa.

    3/ Đoạn văn thứ ba


    Đoạn văn này có nội dung gần giống đoạn 2 (trên). Mấy ngày sau khi thoát nạn trở lại Hội An, Đại Sán viết thư gởi chúa Nguyễn, kể lại tình cảnh của lần về không thành (chép trong quyển 4) :

    “及上洋艚 秋經白露船主夥長皆言北風甚急帆不能放老僧持咒祈請南風次日西南風起擊鼓鳴鑼揚帆出海經兩晝夜北風漸作行莫能前於是 再祈午後南吹滿篷*正 發巾頂疾行時忽然北風飛浪大雨傾盆龍騰蛟起地覆天翻幾乎有萬里長沙魚腹之患矣余惟默坐持咒正在慌忙無措處陡作一陣東風將船送回碧蘿山下.”
    (海外紀事 - 卷四, 頁21前-後)

    * bản khắc in chữ Bồng bộ Trúc [篷], bản Dư Tư Lê gõ chữ Bồng bộ Thảo [蓬]

    Bản dịch Huế (tr.167):
    “Đến lúc Lão tăng lên tàu, tiết thu đã muộn. Thuyền chủ và đồng bạn [1] đều bảo rằng gió bắc thổi mạnh, chẳng khá buông buồm. Lão tăng niệm chú cầu gió nam. Qua ngày sau, gió tây nam thổi lên, trống đánh chiêng hồi, dương buồm ra biển, đi được hai ngày đêm, [2] gió bắc lại thổi lên, thuyền không đi được. Lão tăng lại cầu gió. Chiều lại gió nam thổi thẳng buồm. Thuyền đương đi rất mau, bỗng gió bắc nổi dậy, mưa như trút vò, rắn múa rồng bay, trời long đất lỡ, cơ hồ giữa bãi dài muôn dặm, [3] chẳng khỏi bụng cá chôn thây. Ta chỉ ngồi lặng thinh niệm chú. Trong lúc hoang mang bó tay chờ chết, bỗng một trận gió đông nam đưa thuyền trở lại đảo Tiêm Bích La.[4]”

    Đính chính

    [1] Lỗi dịch, nguyên văn viết Khoả trưởng [夥長], dịch đồng bạn là không chính xác, Khoả trưởng là một cách gọi người giữ la bàn, trực canh việc định hướng cho tàu.
    [2] Lỗi viết, câu đi được hai ngày đêm không ăn khớp với số ngày cũng do Đại Sán viết ở những đoạn khác, ở các đoạn khác ghi chép cho thấy thời gian ra đi và giạt trở về chỉ “một ngày đêm” [Ngày 30 tháng 7, sáng, thuyền từ Cù lao Chàm ra khơi. Ngày mùng 1 tháng 8, sáng, bị gió thổi ngược, thuyền trở lại Cù lao Chàm (xem phần II, Tóm tắt lộ trình)]. Qua chi tiết này, thấy Đại Sán viết thư gởi chúa Nguyễn không trung thực.
    [3] Câu này cho thấy người dịch không xem Vạn Lý Trường Sa là địa danh , nên đã dịch là “bãi dài muôn dặm”.
    [4] Lỗi dịch, nguyên văn viết : Bích La Sơn hạ [dưới (chân núi) Bích La Sơn], dịch là đảo Tiêm Bích La chưa chính xác lắm, tuy nhiên, do có sự đồng danh Tiêm Bích La – Bích La Sơn – Cù lao Chàm, nên đây là lỗi nhỏ, không làm sai ý nguyên tác.

    IV. Tóm tắt một số trích dẫn và nhận định liên quan



    1/ Quan điểm của Trần Kinh Hoà


    Bài khảo cứu của Giáo sư Trần Kinh Hoà in chung bản dịch Hải Ngoại Kỷ Sự (1963) đã khảo sát khá kỹ về văn bản, về tiểu sử tác giả và cuộc du hành Quảng Nam của Thích Đại Sán. Cũng như nhóm dịch giả, ông Trần Kinh Hoà giới thiệu sách này ở góc độ tư liệu lịch sử văn hoá, các yếu tố về địa lý, địa danh không được lưu ý. Tuy nhiên, đến năm 1989, ông Trần đã có dịp nhắc lại HNKS dưới góc nhìn thời sự thuộc vấn đề tranh chấp chủ quyền các quần đảo trên biển Đông. Bài viết “Tây Sa quần đảo dữ Nam Sa quần đảo – Lịch sử đích hồi cố” (Nhật ngữ) của Trần Kinh Hoà được đăng trên tạp chí nghiên cứu thuộc một đại học Nhật Bản (5). Như tiêu đề của bài viết “Quần đảo Tây Sa và Nam Sa – Nhìn lại lịch sử” (6), ông Trần điểm lược một số tư liệu trong lịch sử do người Trung Quốc, Việt Nam và phương Tây ghi chép có liên quan đến vấn đề khám phá, khai thác và xác lập chủ quyền do Trung Quốc và Việt Nam đã tiến hành. Quan điểm của ông Trần trong phạm vi toàn bài viết 20 trang này – theo phát biểu của ông – chỉ trên cơ sở liệt kê sử liệu, với lập trường không nhận định chúng theo các hướng tranh chấp. Đoạn văn thuộc quyển 3 của HNKS (đoạn văn thứ nhất trong bài viết này) được trích dẫn và xếp chung trong nhóm tư liệu thuộc ghi chép của các nhà hàng hải ngoại quốc qua lại Vạn Lý Trường Sa, đối với đoạn văn này, qua cách sắp xếp sử liệu tương liên, thấy được chủ ý của ông Trần liệt nó vào loại tư liệu trung tính. Ở phần kết luận bài viết, thấy có đoạn : “Mục đích đó [việc ra đảo định kỳ] rõ ràng là thu gom những đồ vật còn sót lại của tàu bị nạn và thu thập đồi mồi, hải sâm và vỏ sò, [điều đó] không có nghĩa là đã có người Việt Nam sinh sống dài hạn trên đảo”, kết luận này thuộc về phần phân tích và nhận định của ông Trần, khá dài, sở dĩ tôi trích tạm đoạn này vì nó liên quan đến lập luận trong nhiều bài viết của một số tác giả Việt Nam khi dựa vào câu : “Thời Quốc vương trước, hằng năm sai thuyền đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư tất vào” để củng cố bằng chứng chủ quyền.
    Trên đại thể, bài viết của Giáo sư Trần mang tinh thần yêu chuộng hoà bình, mong mỏi các quốc gia xung quanh biển Đông tìm những giải pháp ôn hoà và tôn trọng luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, trong cách trưng dẫn tư liệu và kèm theo nhận định ở phần kết luận rằng “các kế hoạch thực thi chủ quyền của phía Việt Nam đã dừng lại bởi sự qua đời của vua Minh Mạng [nguyên văn viết nhầm là Tự Đức] vào năm 1841”, nhận định này của ông Trần có thể mang đến những cách hiểu không mấy thuận lợi cho Việt Nam.

    2/ Quan điểm của Lãng Hồ (Giáo sư Nguyễn Khắc Kham)


    Là người đầu tiên sử dụng đoạn văn có liên quan đến địa danh Trường Sa trong việc chứng minh chủ quyền của Chúa Nguyễn, tác giả Lãng Hồ đã trích dẫn nhiều đoạn thuộc quyển 1, quyển 3 và quyển 4 trong Hải Ngoại Kỷ Sự. Lãng Hồ nêu quan điểm : “trong khoảng từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17, chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được hành sử dưới nhiều hình thức như đánh thuế xuất nhập tàu bè ngoại quốc, thiết lập những đội chuyên thâu lượm hải vật, kinh nghiệm bản thân của các dân chài bản xứ đối với hai quần đảo đó” (7). Việc trích dẫn và quan điểm của Lãng Hồ được rất nhiều tác giả về sau ủng hộ và phát triển.

    3/ Quan điểm của Dư Tư Lê


    Dư Tư Lê là người viết bài giới thiệu và chấm câu cho bản in HNKS do Trung Hoa Thư Cục xuất bản năm 1987 và tái bản năm 2000. Bản in này không có phần chú giải, quan điểm của Dư Tư Lê nằm ở bài giới thiệu. Trong một đoạn của bài giới thiệu sách, Dư Tư Lê phê phán quan điểm của Lãng Hồ, cho rằng việc căn cứ vào Hải Ngoại Kỷ Sự để lập luận về “chủ quyền” của Đại Việt là không thuyết phục. Tuy nhiên, họ Dư không trực tiếp đi vào phân tích lý do thế nào là không thuyết phục của các ghi chép ấy mà lại trưng dẫn bài viết “Thất Châu Dương khảo” của Hàn Chấn Hoa, đại ý nói rằng sách Mộng Lương Lục (8) từ thời Tống đã xác định chủ quyền của Trung Hoa trên vùng biển phía nam, từ Thất Châu Dương [Hoàng Sa/ Tây Sa] đến Côn Lôn Dương. Bị ảnh hưởng bởi các tác giả đi trước như Hàn Chấn Hoa, Quách Vĩnh Phương v.v, Dư Tư Lê chỉ lập lại kiểu đối chọi tư liệu để kết luận chủ quan, đáng lẽ phải đi sâu phân tích trực tiếp các nội dung được ghi chép bởi Đại Sán, đây là chỗ yếu kém trong bài nghiên cứu tổng quan về sách Hải Ngoại Kỷ Sự này.
    Ngoài ra, trong những điều liên quan trực tiếp đến các địa danh trên biển Đông ghi chép trong Hải Ngoại Kỷ Sự, độc giả có thể đọc thêm công trình “Thích Đại Sán Cập Kỳ Việt Nam Chi Hành / Thích Đại Sán và chuyến đi đến Việt Nam” của thầy trò Đái Khả Lai - Vu Hướng Đông, in trong Trung Ngoại quan hệ sử luận tùng, Tập thứ tư, 1992. (9)

    Vài lời kết


    Trong Hải Ngoại Kỷ Sự, lời lẽ của Đại Sán tuy huênh hoang ma mị nhưng dù sao nó vẫn là một tập bút ký có dựa trên thực tế. Các ghi chép về quan hệ đời tư giữa Đại Sán với Chúa Nguyễn cùng các quan chức Nam Hà lộ rõ vẻ kênh kiệu khoe khoang quá đáng của tác giả, nhưng những ghi chép mô tả phong tục, địa lý tuy có chút sai lệch nhưng cơ bản vẫn thấy được sự xác thực. Riêng các đoạn văn liên quan đến địa danh Vạn Lý Trường Sa qua ghi chép trong lộ trình của Đại Sán, qua phân tích, chúng ta thấy rằng dù tác giả có nhầm lẫn về quy ước chuyển đổi đơn vị nhưng con số bảy canh tương đương với 420 lý (~ 210 km) rõ ràng là khá phù hợp với khoảng cách từ đất liền đến quần đảo Hoàng Sa.
    Sử dụng các loại tư liệu bên ngoài nhằm bổ sung, củng cố cho các lập luận trong các bài viết, luận văn về vấn đề chứng minh chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối với vùng biển Đông và các quần đảo là việc làm rất cần thiết nhưng đòi hỏi phải có sự thận trọng và chính xác, mặt khác cũng chỉ nên sử dụng trong chừng mực nào đó. Khi sử dụng các loại tư liệu này, như trường hợp sách Hải Ngoại Kỷ Sự chẳng hạn, chúng ta cần phải cân nhắc và kiểm tra, hiệu khám thật kỹ các đoạn văn có liên quan. Một khi sử dụng bản dịch, việc xem xét lại và điều chỉnh những sơ suất là rất cần, các dịch giả trước đây không phải là yếu kém nhưng khi dịch một bộ sách một pho sách phải chịu sự chi phối bởi thời gian hoặc nhiều lĩnh vực mà nguyên tác đề cập, có thể người dịch không chuyên chú vào các yếu tố chuyên sâu về địa lý nên dẫn đến sai sót.
    Theo dõi quá trình nghiên cứu học thuật của học giới Trung Quốc cũng là một phương diện phải quan tâm, trên bình diện chung, các nghiên cứu của họ đối với thư tịch Hán văn cổ dĩ nhiên là sâu sát và nhiều thành tựu so với chúng ta. Nhưng riêng về các loại tư liệu liên quan đến biển Đông thì lại khác, khi đụng tới chủ đề này, tinh thần dân tộc cực đoan đã khiến cho sự trung thực trong nghiên cứu khoa học của họ bị xem nhẹ, nhận ra được sự gượng gạo trong lập luận hoặc kết luận võ đoán của học giới Trung Quốc, chúng ta mới có thể vững vàng, linh hoạt hơn khi tiếp thu và phân tích các loại sử liệu này trong phương diện chứng minh chủ quyền lịch sử của Việt Nam trên biển Đông.

    Cái Bè, ngày 2 tháng 8 năm 2012​
    Phạm Hoàng Quân




    Chú thích


    (1) Không hiểu sao có một số bài viết hiểu lầm, cho rằng tôi (Phạm Hoàng Quân) đã phát hiện lỗi dịch này và đăng trên blog Đông A. Nhân đây xin nói cho rõ, phát hiện này là do chủ nhân blog Đông A.
    Cũng cần nói thêm một việc để rút kinh nghiệm, sai sót trong bản dịch đoạn văn này đã được nêu ra cách nay mấy năm, mà gần đây, Thạc sĩ Trần Văn Quyến lại vẫn sử dụng đoạn văn dịch sai này [lại không ghi nguồn dịch] trong bài viết Sử liệu Trung Quốc minh chứng chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa [vnexpress.net, 28/7/2012].
    (2) Đông Tây Dương Khảo, Quyển 9- Chu sư khảo, nguyên văn : “如欲度 道里遠近多少, 凖一晝夜 風利所至為十更, 約行幾更可到某處.”
    (3) Minh Sử, Quyển 323- Ngoại quốc truyện, 4, Kê Lung, nguyên văn: “水道順風 自雞籠淡水至福州港口五更可達自臺灣港至彭湖嶼四 更可達蓋海道不可以里計舟人分一晝夜為十更故以更計道里云.”
    (4) Hải Quốc Văn Kiến Lục, Nam Dương Ký, nguyên văn: “中國用羅 經,刻漏沙, 以 風大小順逆較更數, 每更約水程六十里, 風大而順 則培累之, 潮頂 風逆則減退之, 亦知某處.”
    (5) Trần Kinh Hoà, “Tây Sa quần đảo dữ Nam Sa quần đảo- Lịch sử đích hồi cố”[西沙群島与南沙群島-歷史的回 顧 , 陳荊和] , tạp chí “Nghiên cứu Châu Á Đại học Soka”, 3/1989, Số 10, tr. 49-69, Tokyo: Đại học Soka.
    (6) Phần viết này tham khảo bản Hoà văn và bản dịch Việt văn của nhóm dịch giả : Nghiêm Minh Quang, Nguyễn Đức Hùng, Nguyễn Lương Hải Khôi, Phạm Thị Thu Giang, Võ Đức Thắng [bản dịch này chưa hoàn chỉnh, đang trong quá trình chỉnh sửa và hiệu đính, lưu hành nội bộ trong Quỹ Nghiên Cứu Biển Đông.]
    (7) Lãng Hồ, Hoàng Sa và Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam, Tập san Sử Địa, Số 29 – Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa, Sài Gòn, 1/1975, tr.54-112.
    (8) Mộng Lương Lục, 20 quyển, Tống/+1275 – Ngô Tự Mục (?-?)
    [夢梁錄 - 宋 - 吳自牧/Meng Liang Lu – Song/ +1275 - Wu Zimu
    The Past seems a Dream (description of the capital, Hangzhou)]. Bút ký học thuật, ghi chép về địa lý, phong thổ, luật tục, văn hoá nghệ thuật vùng Hàng Châu. 20 quyển phân làm 169 điều mục, thu thập nhiều tư liệu ngoài sử. Tiểu sử tác giả không rõ. Mộng Lương Lục là một trong 8 sách được dẫn dụng trong Văn kiện xác định chủ quyền do Bộ Ngoại Giao nước Công hòa Nhân dân Trung Hoa công bố ngày 30.1.1980.
    (9) 戴可來 - 于向東, 釋大汕及 其越南之行,載 於: 中外關系 史論叢 -第 四輯 , 1992.

    NGUỒN : Bản do tác giả gửi ngày 5.9.2012
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    ----------------------------- Tự động gộp bài viết ---------------------------
    Sài Gòn Giải Phóng, Số 1190, 19 Tháng Ba 1979 — Nhà cầm quyền Trung Quốc gây khiêu khích và xâm lấn lãnh thổ Việt Nam ở vùng biên giới [Bài báo]


    Quay lại


    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

Chia sẻ trang này