1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Dịch thuật, một vấn nạn ngôn ngữ

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi CafeNovember, 12/03/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. CafeNovember

    CafeNovember Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/12/2002
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Dịch thuật, một vấn nạn ngôn ngữ

    Quả là vấn đề này đang là 1 điểm nóng trong các cuộc tranh luận về nhân văn trong nước ta. Tiếng viết luôn là phong phú và đa dạng. Đây có lẽ là những Truyện ngắn dài kì, Mà mình đã sưu tập được. Mình sẽ dần dần post lên đây cho mọi người cùng đọc

    -----------------------------------




    Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ
  2. CafeNovember

    CafeNovember Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/12/2002
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Xưa nay đã có nhiều cuộc bàn cãi về dịch thuật. Người ta có thể bàn đủ thứ song có lẽ ít ai nhận ra được hậu quả tai hại của dịch thuật, đặc biệt là giới dịch thuật khoa học nhân văn.
    Hầu hết những người dịch chỉ lưu tâm đến cái khó của dịch thuật là làm sao chuyển tải chính xác ý tưởng một văn bản được viết bằng một ngôn ngữ gốc sang một ngôn ngữ dịch. Dịch văn đã khó, dịch thơ càng khó nữa. Đại để, người ta chỉ chú tâm vào đó và xem đó là một vấn đề.
    Xét cho cùng, đó không phải là vấn đề chính. Cái vấn đề chính nằm ở chỗ dịch thuật có thể phá hư ngôn ngữ mà ít ai để ý. Nói đúng hơn, đó là một vấn nạn, và tiếng Việt là một nạn nhân điển hình.
    Không cần kiến thức ngôn ngữ học, không cần hiểu biết các lý thuyết ngữ pháp phức tạp, ai cũng biết, mỗi ngôn ngữ đều có cấu trúc ngữ pháp riêng, nếu anh/chị ấy biết ít nhất hai ngôn ngữ. Ngữ pháp của một ngôn ngữ không phải là cái gì ngẫu nhiên từ trên trời rơi xuống mà có quy tắc và logic; một kết quả của nguyên tắc hành ngôn đặc thù. Chẳng hạn, tiếng Anh là một loại ngôn ngữ tuyến tính, tiếng Đức không tuyến tính, tiếng Việt là một ngôn ngữ tịnh tiến1). Chỉ nhờ thẩm năng ngôn ngữ, con người mới nhận ra một câu nói có thuộc về một ngôn ngữ mà mình thông thạo hay không. Xem thử một ví dụ, Lê Văn Lý (1948) dùng 5 chữ tạo ra nhiều câu:
    (1) Sao nó bảo không đến ?
    Sao bảo nó không đến ?
    Sao không đến bảo nó ?
    Sao nó không bảo đến ?
    Sao ? Đến bảo nó không ?
    Sao ? Bảo nó đến không ?
    Nó đến, sao không bảo ?
    Nó đến, không bảo sao ?
    Nó đến bảo không sao.
    Nó bảo sao không đến ?
    Nó đến, bảo sao không ?
    Nó bảo đến không sao.
    Nó bảo không đến sao ?
    Nó không bảo, sao đến ?
    Nó không bảo đến sao ?
    Nó không đến bảo sao ?
    Bảo nó sao không đến ?
    Bảo nó: Đến không sao.
    Bảo sao nó không đến ?
    Bảo nó đến, sao không ?
    Bảo nó không đến sao ?
    Bảo không, sao nó đến ?
    Bảo ! Sao, nó đến không ?
    Không bảo, sao nó đến ?
    Không đến bảo nó sao ?
    Không sao, bảo nó đến.
    Không bảo nó đến sao ?
    Không đến, bảo nó sao ?
    Không đến, nó bảo sao?
    Đến bảo nó không sao.
    Đến không ? Bảo nó sao ?
    Đến không ? Nó bảo sao ?
    Đến, sao không bảo nó ?
    Đến bảo nó sao không ?
    Đến, sao nó không bảo.
    Đến, nó bảo không sao.
    Đến, nó không bảo sao ?
    Đến, sao bảo nó không ?
    Với trò chơi hoán vị 5 từ bên trên, theo lý thuyết, ta sẽ được 120 chuỗi từ khác nhau (theo công thức 5 ! (5 giai thừa)). Song thực ra chỉ có 38 chuỗi từ nói được.
    Tạm cho là vậy. Thế nhưng thế nào là nói được ? Tại sao người Việt thấy câu ?oNó đến, sao bảo không ?? nói được, còn câu ?oNó đến không sao bảo? thì không nói được ? Người Việt còn có cảm giác ấy nhưng người ngoại quốc không rành tiếng Việt thì sao ?
    Cảm thấy một câu, một thành tố, một chuỗi từ, một cụm từ nói được bởi vì trong vô thức của từng người Việt đã tồn tại sẵn một kho tàng cấu trúc tiếng Việt. Chỉ có những cấu trúc nhất định người Việt mới chấp nhận. Tỉ dụ người Việt nói:
    -----------------------------------
    Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ
  3. CafeNovember

    CafeNovember Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/12/2002
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    (2) Một cô gái đẹp.
    Cũng cùng nội dung ấy, người Anh sẽ nói: ?oa pretty girl?, hoặc người Đức: ?oein schưnes Mädchen?. Hai cấu trúc câu (tiếng Việt so với tiếng Anh, tiếng Đức) khác nhau 2).
    Đặt câu hỏi, vì sao người Việt không đặt tính từ ?ođẹp? trước danh từ ?ocô gái? mà nói ?omột đẹp cô gái? cho giống người Anh, người Đức ? Người Tàu nói một ?omỹ nhân?. ?oMỹ? là ?ođẹp?, ?onhân? là ?ongười?, tại sao người Việt nói ngược thành ?ongười đẹp?. Nói theo ngôn ngữ học là tại sao danh từ trong tiếng Hoa được thêm nghĩa bên trái (left attributed), còn tiếng Việt thì bên phải (right attributed), nghĩa là theo nguyên tắc ?ochính trước, phụ sau? (như thường gọi) ?
    Cái gì cũng có nguyên nhân. Tiếng Việt là một ngôn ngữ thường dùng nguyên tắc đề diễn (Theme/Rheme). Người Việt thường lập câu tịnh tiến để diễn đạt nguyên tắc này. Nguyên tắc đề diễn nói lên trình tự nhận diện và nhận thức về một đối tượng muốn diễn tả. Trình tự này giống như một hàm số: trước nhất phải có phần tử gốc, rồi sau đó mới ứng dụng được một hàm số chọn lọc lên đó để được một phần tử ảnh. Ở ví dụ trên, đối tượng ?omột cô gái? chính là phần tử gốc. ?oĐẹp? là hàm số. Kết quả là ?omột cô gái đẹp?, một phần tử ảnh. Điều này logic, bởi trước nhất phải có ?omột cô gái? rồi mới xem có ?ođẹp? không. Nói một cách tổng quát, trước nhất phải nhận diện được đối tượng, rồi mới nhận thức về đối tượng, nghĩa là đánh giá về đối tượng đó. Bởi cái trật tự logic này mang tính tuyến tính, người Việt mới nói xuôi. Trong khi đó, người Anh, người Đức, người Tàu đều nói ngược. Tất nhiên họ có lý do của họ.
    Sự khác biệt của ngôn ngữ có liên quan đến đặc tính ngữ pháp. Những đặc tính có thể giải thích được bằng nhiều cách khác nhau. Ví dụ như dựa vào các tiền đề cấu trúc sâu (deep structure), cấu trúc bề mặt (surface structure), chức năng, ... (do khuôn khổ bài viết có giới hạn, không thể vào chi tiết; xin xem thêm Language and Responsibitity (Chomsky 1979)).
    Đối với mọi ngôn ngữ, nguyên tắc hành ngôn quyết định ngữ pháp. Tiếng Việt không khác. Khi ngữ pháp bị méo mó, nó sẽ làm hệ thống nguyên tắc hành ngôn bị ảnh hưởng lây. Theo thời gian, hạ tầng cơ sở tiếng Việt sẽ từ từ xuống cấp. Cuối cùng đến lúc nào đó, sẽ không còn ai đủ can đảm hoặc đủ khả năng giải thích nổi cái cấu trúc của nó, bởi bài bản của nó đã bị loạn chiêu hóa, phi logic hóa.
    Xưa nay ngữ pháp tiếng Việt đã bị biến đổi một cách vô tình, chủ yếu là qua hoạt động dịch thuật mà đa phần đều xuất phát từ dịch thuật khoa học nhân văn. Thiếu kiến thức ngôn ngữ học, người dịch có thể làm hư tiếng Việt lúc nào không biết. Dẫu biết vậy nhưng làm sao có thể trách một người đã sao y cấu trúc ngữ pháp tiếng Anh, tiếng Pháp vào tiếng Việt, trong khi người ấy không phân biệt được cấu trúc ngữ pháp của hai ngôn ngữ khác nhau thế nào ? Cái khác biệt của từng ngữ pháp nói lên đặc điểm của từng ngôn ngữ, làm sao con người có thể nhận biết ngôn ngữ của mình có đặc điểm gì, tinh hoa gì mà không phải ngôn ngữ nào cũng có ? Làm sao có thể trách người dịch khi họ không được trang bị một thức kiến tối thiểu về ngôn ngữ học: Thành tố (constituent) là gì ? Cấu trúc ngữ đoạn (phrase structure) là gì ? Tiếng Việt có những quy tắc ngữ pháp nào ? Vân vân và vân vân. Có nhà trường nào dạy cho họ những thứ ấy ? Đó là chưa kể trường hợp có nhiều người dịch sống lâu năm ở hải ngoại đã bị bản ngữ ảnh hưởng nặng đến nỗi, khi dịch, họ đã vô tình phản chiếu hầu như 1-1 cái cấu trúc bề mặt (surface structure) của ngoại ngữ vào tiếng Việt. Hãy xem một vài ví dụ mà người dịch tưởng rằng người Việt nào nghe cũng lọt lỗ tai.
    Câu bị động (passive sentence):
    (3) My father was fined by the police.
    Đây là cách lập câu bị động thông thường trong tiếng Anh. Nhiều người hay dịch sát từng chữ câu trên sang tiếng Việt:
    (4) Bố tôi bị phạt bởi công an.
    Câu này lai cấu trúc tiếng Anh. Ta nên nhớ, trong tiếng Việt, cấu trúc câu xác định giống cấu trúc câu nghi vấn, cho nên không ai hỏi:
    (5) Bố anh bị phạt bởi ai ?
    mà là hỏi:
    (6) Bố anh bị ai phạt ?
    Hoặc thay vì dùng ?obởi? ở thái bị động (passive voice) theo kiểu tiếng Anh, người Việt hỏi:
    (7) Bố anh bị gì ?
    Với câu hỏi đó, người nghe có thể trả lời đại khái như:
    (8) Bố tôi bị phạt.
    (9) Bố tôi bị bệnh.
    (10) Bố tôi bị thất nghiệp, lường gạt, v.v.
    Cấu trúc trên là một loại cấu trúc tịnh (một thuộc tính của tính tịnh tiến trong tiếng Việt). Tịnh được hiểu là cấu trúc câu hỏi giống cấu trúc câu trả lời. Cụ thể, chỉ cần thế vào vị trí từ nghi vấn ?ogì? bằng một từ xác định nào đó như ?ophạt?, ?obệnh?, ..., ta sẽ có câu trả lời mà không cần phải chuyển vị bằng cách đặt động từ lên đầu câu như ở các ngôn ngữ nghịch đảo (inversion language) Anh, Pháp, Đức, ...
    Muốn trả lời cụ thể hơn, ai là tác nhân gây ra hành động, người ta hỏi:
    (11) Bố anh bị ai làm gì ?
    Từ đây mới có câu trả lời tịnh tiến, ví dụ:
    (12) Bố tôi bị công an phạt.
    (13) Bố tôi bị hãng sa thải.
    (14) Bố tôi bị người ta lường gạt.
    Chứ không ai nói:
    (15) Bố tôi bị phạt bởi công an
    (16) Bố tôi bị sa thải bởi hãng.
    (17) Bố tôi bị lường gạt bởi người ta.
    Tương tự vậy, người Việt không nói:
    (18) Bà đó bị phạt bởi trời.
    (19) Ông đó bị cắn bởi chó.
    (20) Đứa con út được cưng chìu bởi bố mẹ.
    (21) Cuộc thi hoa hậu được tổ chức bởi hãng nước hoa Chanel.
    (22) Tội ác sẽ bị lên án bởi xã hội.
    mà là nói:
    (23) Bà đó bị trời phạt.
    (24) Ông đó bị chó cắn.
    (25) Đứa con út được bố mẹ cưng chìu.
    (26) Cuộc thi hoa hậu do hãng nước hoa Chanel tổ chức.
    (27) Tội ác sẽ bị xã hội lên án.
    Giả như ?otrời?, ?ochó?, ?obố mẹ?, ?ohãng nước hoa Chanel?, ?oxã hội? không đóng vai trò theta (q role) 3) như một tác nhân đi chăng nữa, vẫn có trường hợp muốn diễn tả thái bị động mà người Việt không thể bắt chước y hệt cách lập câu của người Anh:
    (28) A mountain was seen in the distance.
    (29) * 4)Một ngọn núi được trông thấy ở đằng xa.
    Câu dịch sát chữ như vậy không được tự nhiên vì chúng ta đã vô tình sao chép nguyên cấu trúc tiếng Anh vào tiếng Việt. Cách hành ngôn đó là của người Anh. Cách hành ngôn của người Việt khác:
    (30) Người ta thấy có một ngọn núi ở đằng xa.
    (31) Người ta thấy một ngọn núi ở đằng xa.
    (32) Có một ngọn núi ở đằng xa.
    Cách hành ngôn trên mang tính tịnh tiến:
    Hỏi: Người ta thấy gì ?
    Trả lời: Người ta thấy một ngọn núi.
    Nghĩa là cấu trúc câu hỏi vẫn là cấu trúc câu trả lời. Chỉ khác là ?ogì? được thay thế bằng ?omột ngọn núi? vào đúng ngay vị trí của nó. Cấu trúc không đổi được coi như tịnh. Còn câu cứ kéo dài mãi thì được gọi là tiến (tuyến tính, tiến về phía phải), nhưng phải hợp lý, ví dụ:
    Hỏi tiếp: ... ngọn núi nào/ở đâu.
    Cuối cùng là câu trả lời: Người ta thấy một ngọn núi ở đằng xa.
    Cả những cấu trúc đề diễn (Theme/Rheme structure) chứa mệnh đề chính (main clause) và mệnh đề phụ (subordinate clause) trong tiếng Anh tưởng chừng rất dễ dịch sang tiếng Việt, thế nhưng không hẳn thế:
    (33) It was I who knocked at your door.
    Nguyên câu trên là mệnh đề chính. Đoạn ?owho knocked at your door? là mệnh đề phụ. Đây là hình thức câu chẻ (cleft sentence) rất thông dụng trong tiếng Anh. Tuy nhiên nếu sao chép cấu trúc này vào tiếng Việt, chúng ta sẽ được một câu nghe khá lạ tai:
    (34) Đó là tôi người đã gõ cửa phòng anh.
    Người Việt không nói thế. Cao lắm họ nói:
    (35) Chính tôi đã gõ cửa phòng anh.
    Hình thức câu chẻ trên hầu như không thấy trong tiếng Việt.
    Hoặc một hình thức khác là dùng ?oto?:
    (36) You forget to answer his letter.
    (37) * Anh quên để trả lời lá thư của hắn.
    Người Việt không nói vậy mà thông thường là:
    (38) Anh quên trả lời thư hắn.
    (39) Anh quên trả lời lá thư của hắn.
    Hoặc:
    (40) I?Tll come to see you tomorrow.
    (41) * Tôi sẽ tới để thăm anh ngày mai.
    Trong trường hợp này, vẫn có cách nói thuần túy Việt Nam:
    (42) Mai tôi sẽ tới thăm anh.
    (43) Ngày mai tôi sẽ tới thăm anh.
    Nói chung, thay vì dùng ?oto? giữa hai động từ như người Anh, người Việt thường ghép 2 động từ lại một: ?oquên trả lời?, ?otới thăm?, ... Dĩ nhiên trong tiếng Việt cũng có cách dùng?ođể? mà thường bị hiểu nhầm là hoàn toàn đồng nghĩa với ?oto? của tiếng Anh hoặc ?ozu? của tiếng Đức. Trong tiếng Việt, ?ođể? nằm giữa hai động từ cốt để diễn tả một hành động nhằm mục đích gì, hoặc để diễn tả ý nghĩa nhằm mục đích gì:
    (44) Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn.
    (45) Sở dĩ tôi phải giải thích dông dài là để anh đừng hỏi nữa.
    -----------------------------------
    Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ
  4. CafeNovember

    CafeNovember Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/12/2002
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Chúng ta nhận thấy, qua các ví dụ trên, tiếng Anh là một loại ngôn ngữ tuyến tính giống như tiếng Việt, đặc biệt là cấu trúc câu xác định. Tuy vậy, hai ngôn ngữ vẫn không giống nhau hoàn toàn.
    Ngữ pháp có thể bị người dịch thiếu hiểu biết vô tình làm hư mất. Nhưng lạ thay, đối với giới dịch thuật Việt Nam, có lẽ điều này không đúng hẳn. Nhìn vào thực tế, ai cũng thấy có một hiện tượng khá lạ lùng là khi dịch tiếng Việt sang ngoại ngữ, người dịch cố gắng viết đúng ngữ pháp của ngoại ngữ ấy, ngược lại, khi dịch một ngoại ngữ sang tiếng Việt, người dịch lại sao chép cấu trúc ngữ pháp của ngoại ngữ ấy vào tiếng mẹ đẻ của mình. Đây là một nhược điểm tiêu biểu của người Việt. Trong khi đó, thử lấy tiếng Đức làm ví dụ, thử đọc bất kỳ một cuốn sách nào được dịch sang tiếng Đức, người đọc phải công nhận, người dịch luôn cố gắng viết đúng ngữ pháp tiếng Đức. Điều này chẳng có gì khó hiểu, bởi giới dịch thuật có bài bản là giới không những chỉ thành thạo ngôn ngữ một cách vô thức như người thường (hiểu theo Chomsky là người nói/nghe lý tưởng) mà còn có tri thức ngôn ngữ, nghĩa là ít nhiều gì họ cũng có học về ngôn ngữ học, trong đó, cú pháp (syntax) và ngữ nghĩa (semantic) là hai bộ môn bắt buộc. Lý do cần kiến thức cú pháp là để tránh vấn đề ngữ pháp, lý do cần kiến thức ngữ nghĩa là để tránh vấn đề diễn giải nội dung. Làm chủ kiến thức ngôn ngữ vẫn chưa đủ, họ còn có ý thức bảo vệ tính trong sáng của ngôn ngữ. Có thể nói, kiến thức ngôn ngữ và ý thức ngôn ngữ là hai điều kiện căn bản bắt buộc mỗi người dịch thuật chuyên nghiệp phải có.
    Thế thì chúng ta, mỗi người đã từng dịch thuật, hãy tự hỏi mình đã đạt được những điều kiện ấy chưa ? Nên nhớ, viết hay chưa đủ mà còn phải viết đúng ngôn ngữ. Điều này hết sức quan trọng, vì khi người đọc tiếp thu cái sai, nó sẽ tiếp tục lây lan như bịnh dịch, làm tiếng Việt càng bịnh thêm.
    Nói thế, chắc sẽ có ý kiến cho rằng, các ngoại ngữ mạnh như tiếng Anh chẳng hạn, nhờ cấu trúc đa dạng, họ có thể diễn đạt nội dung một cách phong phú, dễ dàng; điều này ta nên học hỏi. Theo tôi, cái nhìn này có vẻ thuần cảm xúc. Người có ý kiến ấy có lẽ chưa nhìn thấy mặt giới hạn của tiếng Anh. Hãy thử nhìn vào các lý thuyết nguyên thủy dựa trên ngữ pháp tiếng Anh như Ngữ pháp biến hình tạo sinh (Generative Transformation Grammar), Lý thuyết căn bản (Standard Theory), Lý thuyết căn bản mở rộng (Extended Standard Theory), Lý thuyết chi phối và ràng buộc (Government and Binding Theory (GB)), Nguyên tắc và thông số (Principles and Parameters (P&P)), Tối thiểu luận (Minimalism (MP)) của Chomsky5). Quy tắc ngữ pháp được lập nên từ các lý thuyết đó đã phải được bổ sung, mở rộng để thỏa các cấu trúc ngôn ngữ khác mà tiếng Anh không có, ví dụ phần lớn quy tắc cấu trúc ngữ đoạn của tiếng Anh chỉ là một tập hợp con của tiếng Việt (tất nhiên tiếng Anh cũng có các cấu trúc mà tiếng Việt không có). Cụ thể, nhờ lý thuyết X-gạch (X-bar theory)6), người ta có thể gói ghém hầu hết các cấu trúc tiếng Anh vào 3 quy tắc:
    (i) Quy tắc biệt định ngữ (specifier phrase rule): X?T ® (YP) X?T
    (ii) Quy tắc phụ ngữ (adjunct phrase rule): X?T ® X?T (ZP) | (ZP) X?T
    (iii) Quy tắc bổ ngữ (complement phrase rule): X?T ® X (WP)
    Thế nhưng các quy tắc trên không thể giải thích mọi ngôn ngữ, vì vậy mà phải được mở rộng thành:
    (iv) Quy tắc biệt định ngữ: X?T ® X?T (YP) | (YP) X?T
    (v) Quy tắc phụ ngữ: X?T ® X?T (ZP) | (ZP) X?T
    (vi) Quy tắc bổ ngữ: X?T ® X (WP) | (WP) X
    Kết quả, chúng có thể giải thích được các ngôn ngữ Ấn-Âu (Thổ, Ba Lan, Ý, ...), kể cả tiếng Tàu cũng không thành vấn đề, song đụng tới tiếng Việt là thất bại ngay. Tại sao ? Bởi làm sao có thể giải thích hoàn hảo được tính cảm đề của tiếng Việt, hoặc tính tỉnh lược, hoặc những loại hư từ đa năng không nằm trong các lớp từ như ?overb class?, ?onoun class?, ?oadjective class?, ?oprepositional class?, ... mà xưa kia các nhà ngôn ngữ Tây phương cứ nghĩ ngôn ngữ tự nhiên (natural language) chỉ có chừng ấy mà thôi7) ?
    Nói ngắn gọn, nếu nghiên cứu kỹ về cú pháp học, chúng ta sẽ hiểu tại sao các quy tắc ngữ đoạn tiếng Anh không đủ giải thích tiếng Việt. Đừng nên nghĩ văn hay hoặc dở là do cấu trúc. Muốn diễn tả thế nào đi nữa, chúng ta chỉ có bao nhiêu đó loại ngữ đoạn chính (động từ, danh từ, tính/trạng từ, giới từ, ...)8). Không ai phủ nhận cấu trúc ngôn ngữ là hạ tầng cơ sở của câu văn, song chưa hẳn đó đã là hạt nhân quyết định hoàn toàn văn phong của người viết. Viết hay/dở còn tùy vào cách dùng chữ, cách tỉnh lược, cách bố cục, ... và đặc biệt là ý tưởng. Người viết tiếng Anh/Pháp/Đức ... cũng chỉ dùng bao nhiêu đấy loại ngữ đoạn để diễn đạt ý tưởng. Tiếng Việt cũng có các loại ngữ đoạn ấy.
    Đã nhìn thấy vấn đề, nay hãy đặt câu hỏi: Làm thế nào để giải quyết được vấn đề đó ? Có một điều rất rõ và nên nhìn nhận là mặt giáo dục ngôn ngữ của Việt Nam xưa nay rất yếu. Yếu đến nỗi người Việt dùng tiếng Việt còn không biết cấu trúc của nó thế nào. Nhiều người tự mãn, tiếng Việt hay lắm, phong phú lắm, sâu sắc lắm, v.v., tiếng Anh, tiếng Pháp không bằng, ... Không hiểu nhiều, không nhìn ra thế giới bên ngoài mà tự đắc. Ngược lại, vì nhìn ra bên ngoài nhưng lại không thực sự hiểu hết cái hay đặc trưng của tiếng Việt bên trong, thấy mình không bằng ai, mất tự tin rồi cứ thế mà sao y bản chính cấu trúc ngôn ngữ của người ta. Cả hai thái độ đều không giúp chúng ta giải quyết được vấn đề.
    Nếu không có điều kiện học hỏi như ở các xứ tân tiến, chúng ta vẫn có cách giải quyết vấn đề như thường mặc dù tương đối. Mỗi người Việt (biết tiếng Việt) đều nói đúng ngữ pháp cả. Xin lưu ý là nói chứ không phải viết. Cái kho tàng quy tắc ngữ pháp còn nguyên vẹn đấy, nó nằm trong vô thức của từng người. Đó là điểm lợi nếu biết vận dụng thẩm năng ngôn ngữ của mình. Cụ thể, người dịch thuật văn chương có thể thử nghiệm một trong hai giải thuật dịch ngoại ngữ sang tiếng Việt sau đây:
    Giải thuật 1:
    Bước 1: Dịch 1-1 đúng vị trí từng chữ/từ trong câu bản gốc.
    Bước 2: Đổi vị trí từ hoặc lược từ trong từng thành tố một sao đúng kiểu tiếng Việt, theo văn nói.
    Bước 3: Đổi vị trí thành tố sao cho đúng cách hành ngôn tiếng Việt (văn nói)
    Bước 4: Chọn lọc từ ngữ, lược từ, mở rộng thành tố cho vừa ý.
    Bước 5: Lập lại bước 1 cho câu kế tiếp.
    Giải thuật 2:
    Bước 1: Hiểu kỹ ý từng câu trong văn bản gốc. Để ý văn mạch, ngữ cảnh phía trước.
    Bước 2: Dịch tất cả các từ trong câu văn bản gốc sang tiếng Việt.
    Bước 3: Lẩm nhẩm trong miệng, với ý chính đó, ta sẽ nói bằng tiếng Việt thế nào cho xuôi rồi ghi lại. Xin lưu ý là văn nói chứ không phải văn viết.
    Bước 4: Thêm các chi tiết còn lại cũng bằng văn nói.
    Bước 5: Chuyển sang văn viết: Văn nói thường rất luộm thuộm. Cần trau chuốt. Dùng các phương pháp như phép tỉnh lược, phép thế, phép mở rộng, ... ngoại trừ phép hoán vị.
    Bước 6: Đối chiếu nội dung văn viết bản dịch với bản gốc xem có sát nghĩa không.
    Bước 7: Xem cách hành ngôn có mất tự nhiên quá hay không (lấy văn nói làm mẫu đối chiếu).
    Bước 8: Lập lại bước 1 cho câu kế tiếp.
    Có giải thuật nhưng chưa hẳn là không có điều kiện. Ví dụ, giải thuật 1 chỉ ứng dụng được đối với người dịch ít nhiều đã hiểu các nguyên tắc hành ngôn theo tiếng Việt (tính cảm đề, tính tịnh tiến, tính tỉnh lược, tính đề diễn, ...) cũng như đã hiểu thành tố, ngữ đoạn là gì.
    Nói gì thì nói, cách tốt nhất vẫn là nên trang bị cho mình những kiến thức căn bản về cú pháp học và ngữ nghĩa học. Không nhiều và không khó lắm.
    Dũng Vũ
    -----------------------------------
    Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ
  5. CafeNovember

    CafeNovember Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/12/2002
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Dịch là chết ở trong hồn một tí
    Trong bài "Nhân Văn" ("Humane Literacy", trong "Ngôn ngữ và Câm lặng"), George Steiner viết:
    "Đọc tới nơi tới chốn, là chấp nhận hiểm nguy. Điều gọi là căn cước, sự tự chủ của chúng ta có thể bị thương tổn. Trong những biểu hiện khởi đầu của chứng động kinh, có một giấc mơ thật đặc trưng; Dostoevsky nói về nó. Con người như bị nhấc bổng ra khỏi thân thể của mình; người đó nhìn ngoái lại và cảm thấy một nỗi sợ bất thần, khùng điên; một hiện hữu khác đang đi vô chính cái thân thể của mình đó, và chẳng còn đường nào để mà trở lại. Nỗi sợ khủng khiếp làm cho cái đầu cố bật dậy, tỉnh giấc. Cũng vậy, khi chúng ta cầm trong tay một tác phẩm lớn lao, văn chương hay triết học, tưởng tượng hay đề thuyết. Nó có thể hoàn toàn chiếm hữu chúng ta, khiến chúng ta [phải] bỏ đi lang thang, sợ hãi ngay chính mình, không còn nhận ra mình. Người nào đọc "Metamorphosis"("Hóa Thân") của Kafka, và nhìn vào gương không rùng mình, người đó có thể đọc bản in, theo nghĩa kỹ thuật của từ "đọc", nhưng thực sự là mù chữ, theo đúng nghĩa của việc đọc."
    Đọc đã vậy, nhưng chưa nguy hiểm bằng dịch. Không chỉ chết ở trong hồn một tí, mà có khi còn mất tiêu luôn linh hồn. Theo nghĩa đó, ở một chỗ khác, George Steiner khẳng định, "Không thể có dịch thuật, ngoại trừ dưới điều kiện khủng hoảng tri thức luận." Một hiện hữu khác, một linh hồn khác đang dọn vô "căn nhà hữu thể" (ngôn ngữ), của mình.
    Nhìn từ quan điểm đó, chúng ta có thể hiểu được tại sao người đọc thường mong ước có một bản dịch dễ đọc (không nguy hiểm). Họ có thể chịu đựng được sự xâm nhập của những từ, trước đây, như bóc ba ga, phanh, gác đờ bu, hay bây giờ, Vifon, Fahaxa... vậy mà vẫn "không chịu" những từ, thí dụ như Talawas.
    Bởi vì, một cách nào đó, Talawas, là đụng tới khủng hoảng tri thức luận. Người đọc vẫn mong ước, sự ô nhiễm ngôn ngữ, nếu có, chỉ ở trên bình diện "thực dụng", do chuyện hàng ngày, do nhu cầu ăn ở sinh hoạt phải cần tới chúng.
    Mô phỏng một câu của Hemingway, "Con người có thể bị hủy diệt, nhưng không thể bị khuất phục" (A man can be destroyed but not defeated): ngôn ngữ có thể bị hủy diệt nhưng không thể bị ô nhiễm. Và nếu nó bị ô nhiễm, thì cũng chỉ ở bên ngoài, chưa đụng tới phần cốt tủy của nó.
    Một diễn đàn như Talawas, là đụng tới cốt tủy của ngôn ngữ Việt.
    Nguyễn Quốc Trụ
    -----------------------------------
    Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ
  6. CafeNovember

    CafeNovember Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/12/2002
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Dịch là cướp.
    Theo tôi, dịch là cướp. Nếu không cướp được thì ăn cắp, như trường hợp một ông trạng đi xứ nhét hột ngô Tầu vào bìu khi qua ải Nam Quan, đem về Việt Nam làm giống.
    Vào cái thời chủ nghĩa thực dân đang cực thịnh, chuyện học tiếng Tây tiếng U chỉ là để "tồn tại", theo nghĩa của câu "bây giờ ông đổi lông ra sắt, cách kiếm ăn đời có nhọn không?" Nhìn rộng ra, cả một nền văn chương dịch thuật, hoặc "bảnh" hơn, viết văn bằng tiếng Tây tiếng U, trước đây, đều qui vào chuyện "cách kiếm ăn đời có nhọn không". Thời Tây thuộc còn khá, vì còn có những bậc tiền bối dám mầy mò tới cõi văn Tây. Thời Mỹ thuộc thì thật quá tệ. Nhưng đây là do quan thầy chứ không phải do đầy tớ: Người Mẽo chỉ muốn có những thằng đầy tớ biết nghe răm rắp lời của chủ: tao là thằng chi tiền! Tây thì còn muốn "làm bạn" với một tên cô lô nhần nào sáng sủa một chút.
    Ngay cả những bậc tiền bối viết văn bằng tiếng Tây đúng mẹo văn phạm hơn cả Phú Lãng Sa, dưới mắt một độc giả mẫu quốc, những tác phẩm như "Cổ tích về những miền đất trong sáng" [tạm dịch cái tựa "Les légendes de terres sereines" (?), của nhà văn Phạm Duy Khiêm] cũng chỉ được coi như là một thứ hương xa cỏ lạ.
    Hiện hữu có trước yếu tính. Tồn tại trước đã, kỳ dư là văn chương (tout le reste est littérature), như người Tây nói. Thành thử công đầu lại vẫn ở những bậc tiền bối như Trương Vĩnh Ký, hay những thầy thông, vào cái thời chữ Nho mới là chữ của nước. Vả chăng, quyền uy của chủ nghĩa thực dân lúc đó ghê gớm quá, dễ gì mà làm một thằng ăn cướp!
    Phải đợi đến những nhà văn di dân thời kỳ hậu thuộc địa, người ta mới hiểu được, chuyện viết văn bằng tiếng nước ngoài, không phải là mất gốc, mà là ngược lại: nói rõ hơn, muốn không mất gốc, là phải viết văn bằng tiếng nước ngoài! Theo nghĩa đó, Kazuo Ishiguro, nhà văn gốc Nhật viết văn bằng tiếng Anh, tác giả Tàn Ngày (The remains of the day), được coi là "một người Anh hơn cả người Anh", un Anglais plus british que les autres, theo Sean James Rose, tác giả một bài viết trên tờ báo Pháp, Đọc (Lire), số tháng Chín 2001.
    Salman Rushdie, một trong những đứa con của giờ Tý thì cho rằng, muốn giải phóng ra khỏi giấc mơ (muội) vong thân trong ngôn ngữ là phải viết văn bằng tiếng Anh. Trong bài viết "Quê hương tưởng tượng", ông viết: Chinh phục tiếng Anh có lẽ là hoàn tất tiến trình giải phóng của chúng ta.
    Vả chăng, vẫn theo ông, những nhà văn Anh gốc Ấn khó mà từ bỏ tiếng Anh. Con cái của họ lại càng khó hơn nữa, vì đây là ngôn ngữ thứ nhất của chúng. Phải chấp nhận, đối với tất cả và chống với tất cả. Theo từ nguyên học, "dịch", traduire, là từ tiếng La tinh "traducere", "mener au de-là", dẫn (đi) đằng đó. Bị đá văng ra khỏi nơi chôn rau cắt rốn, chúng ta đều là những con người "bị dịch" (nous sommes des hommes "traduits"). Cho dù ?~dịch là chết ở trong hồn một tí?T, ông vẫn khăng khăng với ý nghĩ, rằng có một chút chiến lợi phẩm, mỗi khi đi ăn hàng!
    Chuyện cũng chẳng mới mẻ gì. Cổ đại La tinh đã coi dịch là cướp, giống như mấy trò chém giết (đàn ông), hãm hiếp (đàn bà), cướp bóc vàng bạc của cải, đất đai.
    Nói ngắn gọn, đây chính là sự thành lập đế quốc.
    Thành thử hủy diệt ngôn ngữ một đất nước đã bị xâm lăng, là nhiệm vụ hàng đầu của kẻ thắng trận, là vậy.
    Talawas: ta là gì? Ta là thằng dịch thuật. Và dịch thuật với người Việt ở trong lẫn ở ngoài, là vấn đề sinh tử; nếu cần, hãy vờ đi chuyện sáng tác trong một thời gian; đổ công, đổ của, đổ sức vào việc dịch.
    Nghĩa là cướp. Không cướp ngày thì cướp đêm. Thành thử những "nhà dịch thuật" chính là những tên biệt kích văn hóa, vậy.
    Nguyễn Quốc Trụ
    -----------------------------------
    Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ
  7. CafeNovember

    CafeNovember Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/12/2002
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Dịch là chấp nhận phần số của mình.
    Trăm Năm Cô Đơn, tiểu thuyết của Gabriel García Márquez, bản dịch của Nguyễn Trung Đức, Phạm Đình Lợi, Nguyễn Quốc Dũng; Nguyễn Trung Đức viết lời giới thiệu, nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội (ấn bản 2000), trang 67 (chương thứ nhì, ngay sau chương mở đầu):
    "Khi tên cướp biển Phranxít Đrăc tấn công Riôcha ở thế kỷ XVI, bà tổ của Ucsula Igoaran quá kinh ngạc trước tiếng chuông nhà thờ inh ỏi đổ hồi và tiếng đại bác chát chúa nổ rền, đến mức quẫn trí ngồi vào một bếp than hồng. Những vết sẹo cháy đã làm bà cụ trở thành một người vợ ăn bám suốt đời. Cụ chỉ có thể nằm nghiêng một phía, dựa lưng trên những chiếc gối đệm, và đi đứng kỳ dị, bỏi thế chẳng bao giờ cụ đi ra ngoài trước con mắt mọi người. Cụ từ bỏ mọi sinh hoạt xã hội, vì bị ám ảnh bởi cái ý nghĩ người mình phả ra mùi khét khó chịu. Ánh bình minh bắt gặp cụ ở ngoài sân. Cụ không dám ngủ bởi nằm mộng thấy bọn người Anh cùng với những con chó dữ tợn đã trèo qua cửa sổ phòng ngủ và làm cụ chết khiếp vì những cực hình ghê rợn bằng những thanh sắt nung đỏ."
    Đoạn văn dịch trên đây thật dễ đọc, và chẳng có gì là khó hiểu, hay lủng củng, nhưng với một độc giả "đọc đến nơi đến chốn", không có trong tay, hoặc không thể đọc nguyên bản, chỉ căn cứ vào bản tiếng Việt, sẽ có ít ra là hai "thắc mắc" sau đây:
    "Quá kinh ngạc trước... đến mức quẫn trí...": kinh ngạc làm sao có thể đưa đến quẫn trí?
    "Những vết sẹo cháy... ăn bám suốt đời": "sẹo cháy" làm sao "làm cho bà cụ trở thành ăn bám suốt đời"?
    Theo ghi chú của nhà xuất bản, bản tiếng Việt được dịch từ nguyên tác Tây Ban Nha. Người viết bài này không biết tiếng Tây Ban Nha, nhưng đã thử so sánh đoạn trên với đoạn được dịch ra tiếng Anh (dịch giả Gregory Rabassa, NXB Avon Books, Nữu Ước):
    Tiếng chuông nhà thờ đổ hồi, bản tiếng Anh: tiếng chuông báo động đổ hồi (the ringing of the alarm bells). Quá kinh ngạc, bản tiếng Anh dịch là became so frightened: quá khiếp sợ.
    Bà vợ ăn bám suốt đời, bản tiếng Anh: bà vợ vô dụng suốt những ngày còn lại của bà (a useless wife for the rest of her days).
    Như vậy, bà vợ vô dụng suốt những ngày còn lại của mình có nghĩa là bà vợ không còn đáp ứng được việc chăn gối, chứ không phải, vì bị sẹo bỏng nên không làm việc được nữa, và phải ăn bám chồng con.
    Bản tiếng Anh còn cho thấy một số khác biệt (vết sẹo cháy/vết bỏng; đi đứng kỳ dị/ dáng đi của bà chắc phải kỳ cục, cho nên bà không còn đi ra ngoài đường ngoài phố nữa; cực hình ghê rợn/tra tấn nhục nhã (shameful torture)... những chi tiết đều quyện vào nhau, mỗi chi tiết cho thấy/hoặc giấu giếm một ý nghĩa nào đó của câu chuyện, và chỉ "sáng tỏ, khi "sự thực" xuất hiện: "Chỉ vì sợ nằm mơ thấy mấy tên cướp người Anh và những con chó dữ tợn... tra tấn nhục nhã bằng những thanh sắt nung đỏ."
    Bạn có thể coi cả đoạn trên chỉ là một câu văn, bởi vì nên nhớ một điều, Garcia Marquez là một nhà văn thuộc "trường phái" William Faulkner!
    -----------------------------------
    Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ
  8. CafeNovember

    CafeNovember Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/12/2002
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Dịch là chấp nhận phần số của chúng ta (2)
    [Trong phần trước, người viết dùng chữ "của mình", là muốn nhấn mạnh tới cái số phận nghiệt ngã của những kẻ chỉ mong được say xỉn, để văng tục bằng tiếng mẹ đẻ, còn lúc bình thường thì lại quen miệng xài f. f., hay "òa òa", "e, e" (yeah, yeah)...]
    Bây giờ nói đến số phận của chính "cái gọi là" tiếng mẹ đẻ, khi bị (chuyển) dịch.
    Bản dịch sẽ bớt sai sót, nếu:
    Người dịch cảm thấy thoải mái khi sử dụng tiếng... Việt.
    Trong một viết nhan đề Tiếng Việt S.O.S, trên tờ Thể Thao & Văn Hóa, (số 15, ngày 20.2.2001), mục Diễn Đàn Văn Hóa, Dương Tường, nhân "vừa đọc bài phỏng vấn Giáo sư Cao Xuân Hạo về tình trạng báo động hiện nay trong tiếng nói và viết tiếng Việt" [tôi đề nghị sửa lại là: "... trong nói và viết tiếng Việt..."], đăng trên báo TT&VH số ra ngày 2.2.2001, đã hoàn toàn đồng ý với bạn của ông. Theo tôi, có vẻ như ông không được thoải mái cho lắm, khi đưa ra ý kiến cụ thể sau đây:
    "Có một điều nghịch lí là từ sau thống nhất đất nước, hàng loạt từ địa phương ở miền Nam tràn ra miền Bắc, dần dần lấn lướt thậm chí thay thế những từ đã chuẩn hóa từ nhiều đời. Lợn lành chữa thành lợn què, đang trương biển Công Ty Gạch Hoa lại sửa thành Công Ty Gạch Bông, đang thiếp mời lại sửa thành thiệp mời, đang kem cốc lại sửa thành kem li. Trên thực đơn của các hàng ăn, các chữ rang và rán biến mất, nhất loạt thay thế bằng chữ chiên: cơm chiên thay vì cơm rang, cá chiên, đậu chiên, khoai tây chiên thay vì cá rán, đậu rán, khoai tây rán... Trong ngôn ngữ mọi nước, tiếng dùng ở thủ đô bao giờ cũng được coi là chuẩn mực, quyết không thể đem tiếng địa phương thay thế. Hiện tượng này nếu diễn ra theo chiều ngược lại, nghĩa là đem những từ miền Bắc thay thế cách gọi của miền Nam, cũng là vô lối, không thể chấp nhận được."
    Sự thắng thế của những từ miền Nam tại miền Bắc, như trên, theo tôi, là do vấn đề tiện dụng, theo cả nghĩa kinh tế của từ này: nếu trên thực đơn để là cá chiên, chẳng khách ăn nào sờ tới món này, là nó biến mất.
    Trường hợp gọi là vô lối, đã xẩy ra rồi, chứng cớ là Sài Gòn bị đổi tên, chắc là ông Dương Tường không để ý tới, bởi vì ông vẫn quen miệng gọi là Sài Gòn.
    Theo tôi, rán được dùng ở miền Bắc, tức là một nửa đất nước; chiên, cả một nửa còn lại. Khi Dương Tường coi từ rán là của cả nước, theo nghĩa được chuẩn hóa lâu đời, dù muốn dù không, người đọc có cảm tưởng, ông sẽ thoải mái khi ăn chả rán, thay vì chả chiên, tuy cùng là một món ăn.
    "Đâu phải mưa ô buy vào thành phố"...
    1954, vào Nam, thi sĩ Thanh Tâm Tuyền có lẽ là một trong những người đầu tiên có những dòng thơ văn về Hà Nội, bên cạnh những dòng nhạc của một "Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội", hay "Hướng Về Hà Nội".
    Câu thơ trên, tôi chỉ nhớ loáng thoáng, trong tập "Tôi không còn cô độc", đã một thời làm ngơ ngẩn cả đám bạn bè hồi cùng học trung học.
    Ngớ ngẩn, đúng hơn.
    Số là Phạm Năng Cẩn rất mê câu thơ đó. Anh cứ ngâm đi ngâm lại khiến Nguyễn Quốc Sủng đâm ra thắc mắc, hỏi, mưa ô buy là mưa gì? Tôi nhớ là, bạn Cẩn ngớ ra, và... cương đại: mưa ô buy là một thứ mưa bụi (buy biến thành bụi), hạt lấm tấm như nhũ kim cương trên những chiếc áo Mùa Thu, Hà Nội!
    Sủng coi bộ không hài lòng với một lời giải thích rất thơ như vậy. Một bữa, trong lúc cả đám vây quanh nhà thơ, anh hỏi. Thi sĩ trả lời: ô buy là một từ tiếng Pháp, obus. Mưa ô buy là mưa đại bác, mưa trái phá!
    Sau này tôi được biết, người miền nam gọi trái phá là trái ô buy. Họ gọi phạm nhe là người y tá, và hồi mới vào Sài Gòn, tôi đã từng khổ sở vì không hiểu nghĩa của nó, sau cùng truy ra, là do từ tiếng Pháp, infirmier.
    Nước Pháp, "hóa thân" vào miền nam, qua từ obus; rồi miền nam "hóa thân" vào từ ô buy, và được một nhà thơ miền bắc âu yếm sử dụng cho... Hà Nội, ôi chao số phận của "trái đại bác" Tây, nhờ một miền đất, rồi nhờ một nhà thơ, biến thành cơn mưa bụi ở một miền đất khác, trong cùng một quê nhà, sao mà may mắn hơn cái từ chiên hẩm hiu thế!
    Bởi vì không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ sử dụng từ "mưa ô-buy": ông vẫn bị những cơn mưa từ cái thành phố mà ông từ bỏ ám ảnh, cũng như không phải ngẫu nhiên mà ông bạn ngày xưa của tôi tán ẩu, ông cũng bị ám ảnh....
    Nhân chữ chuẩn hóa lâu đời tôi lại nhớ đến Lévi-Strauss; ông cho rằng từ ngữ vốn không phải là của chung, mà là của riêng, giống như ngày xưa, khi đi thi, mà dùng một chữ của vua dùng, là phạm húy, có khi mất luôn cái chỗ đội nón; nhưng, như một vòng tròn luẩn quẩn, khi những chữ được những nhà quyền quí dùng chán chê, vứt bỏ, lúc đó thứ dân lại mang ra xài, và ngược lại.
    Chiên được người dân cả hai miền sử dụng, biết đâu đấy, chính nó đang mang thông điệp thống nhất, và người dân miền bắc có vẻ đã đến lúc quá chán cái gọi là chuẩn hóa lâu đời rồi cũng nên...
    Nguyễn Quốc Trụ
    -----------------------------------
    Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ
  9. CafeNovember

    CafeNovember Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/12/2002
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Bùi Giáng
    Một đường lối dịch Thơ
    Dịch thơ là điều khảm kha nhất. Dịch thơ ắt phải cho ra thơ ?" nói như ông Crayssac trong bài Tựa bản dịch Kiều: ?otoute poésie traduit a le devoir de l?Têtre enver [...] La langue des Dieux m?Ta paru seule idoine à chanter l?Théroique et douloureux calvaire de la divine Thuy-Kieu.?
    Cũng vì quan niệm tới mức triệt để tế nhị đó, nên bản dịch Kiều của Crayssac là bản dịch đạt nhất trong mọi bản dịch Kiều ra ngôn ngữ Tây Phương. Lời thơ Crayssac thỉnh thoảng có vài chỗ sống suợng, nhưng Crayssac đã đòi hỏi, đã tận dụng khả năng ngôn ngữ thi ca Pháp tới mức tối đa. Và nhiều phen bất ngờ, những tư tưởng, tư lường sâu xa, ẩn trong Nếp Gấp Lục Bát Nguyễn Du, bất thình lình đuợc Crayssac mở phơi ra một cách tinh tế.
    Tiện đây, tôi xin dẫn một thí dụ để làm sáng tỏ phần nào đường lối dịch thơ. Dịch thơ Emily Dickinson:
    My life closed twice before its close
    It yet remains to see
    If Immortality unveil
    A third event to me
    So huge, so hopeless to conceive
    As these that twice befell
    Parting is all we know of heaven
    And all we need of hell.
    Một bài ngắn như thế của Emily Dickinson dịch còn khó hơn dịch cả một cuốn Lá Cỏ [Leaves of Grass] của Walt Whitman... Ấy bởi vì, nó thuộc loại thơ bất khả dịch diễn.
    Những điệp ngữ và điệp âm và đảo ngữ mà Emily Dickinson sử dụng, là riêng Mỹ Ngữ một lần được thiên tài cho phát tiết anh hoa ra ngoài:
    my life closed ?" its close
    to see ?" to me
    twice before ?" twice befell
    parting is all ?" and all
    all we know ?" all we need
    of heaven ?" of hell
    to see ?" to me ?" to conceive
    a third event ?" as these that twice
    so huge ?" so hopeless ...
    Tôi thử chép ra như thế, những thanh-âm-vận song trùng nhị bội liên tồn giao hưởng nhau trong bài thơ, xoay vít quanh nhau trong tám câu huyền diệu đó. Thế cũng đủ nhận ra tính chất phong phú đìu hiu dị thường trong lời thơ tài tử. Thế mà, vẫn còn những giao hưởng giao thoa ngấm ngầm âm ỉ trong tiết nhịp rung rinh, không làm sao ghi ra song đôi cho được. Bởi vì những giao hưởng ngầm nọ vừa như giao nhau vừa như xô đẩy nhau, ly khứ nhau... Bây giờ thử đọc lại toàn bài:
    My life closed twice before its close
    It yet remains to see
    If Immortality unveil
    A third event to me
    So huge, so hopeless to conceive
    As these that twice befell
    Parting is all we know of heaven
    And all we need of hell.
    Nếu dịch ra văn xuôi ắt sẽ thành cái gì? Chẳng lẽ vất vơ thành ra cái như sau:
    Cuộc đời tôi khép lại hai lần
    Trước buổi chung cục của nó
    Nó vẫn ở lại để xem
    Thử sự Bất Tử có mở ra
    Một sự cố thứ ba cho tôi không
    Bao xiết đồ sộ khổng lồ tuyệt vọng cho quan niệm
    Là ấy những gì đã hai lần xảy ra
    Ly biệt là tất cả những gì chúng tôi biết về Thiên Ðường
    Và tất cả những gì chúng ta cần (của) nơi Ðịa Ngục
    Thật là không thể tưởng tượng được. Chẳng những nghe ra lớ ngớ, mà còn chẳng ai biết nói cái gì. Không một chút ý nghiã nào tồn tại, đừng nói chi là tinh thể tinh hoa. Thế mà thường thường tôi vẫn thấy người ta dịch theo lối đó một cách rất hồn nhiên, và còn cho rằng mình dịch rất sát.
    Gẫm về cái vụ dịch thơ, nhiều phen phải toát mồ hôi hột. Giữ tiếng thì lạc lời. Giữ lời thì mất ý. Giữ ý thì mất nghiã. Giữ nghiã thì mất trụi thần hồn tinh thể.
    Do đó, ta có thể dám chắc rằng giữa hai bản dịch Kiều ra Pháp Ngữ của ông Nguyễn Văn Vĩnh và René Crayssac, quả thực có cách biệt ngàn trùng. René Crayssac mặc dù không lột hết được tinh hoa ngôn ngữ Kiều, nhưng vẫn đạt hơn Nguyễn Văn Vĩnh có tới hơn một trăm lần là ít. Ông có tái tạo được một bầu khí hậu thơ-mộng đặc biệt trong bản dịch của ông.
    Giờ thử dịch bài thơ Emily Dickinson ra lục bát:
    Ðời tôi khép lại hai lần
    Trước lần khép mắt khôn hàn vĩnh ly
    Tuy nhiên còn nấn ná vì
    Ðể xem Vĩnh Cửu còn gì mở ra
    Cho mình biến cố thứ ba
    Những gì song điệp xảy ra
    Gẫm càng đồ sộ gợi ra lại càng
    Ngất trời tuyệt vọng mang mang
    Thiên đường địa ngục còn chan chứa gì
    Vĩnh ly là chất của trời
    Biệt ly là thói của đời nhà ma
    (kể từ cửa quỷ tuôn ra
    thói nhà băng tuyết chất là phỉ phong)
    Bạn đọc ắt có nhận thấy rằng tôi đã chịu khó khiếp dẫn vài ngôn ngữ đặc biệt Nguyễn Du vào lối dịch thơ Emily Dickinson. Dịch theo lối đó là âm thầm bố thiết cuộc đối thoại ấm áp cho hai tài tử kia, mà đồng thời vẫn không lìa xa ngôn ngữ Emily Dickinson gì mấy chút.
    Ðó là bước thứ nhất mà lời dịch đã gắng thực hiện cho cuộc hội đàm. Từ đó chúng ta có thể tiến tới giai đoạn thứ hai. Cái bước sơ khởi ngại ngùng đã đi tới chỗ hài hòa thân thiết thì từ đó, ta có thể ?omở lời phương tiện? một cách táo bạo hơn. Lời dịch thứ hai có thể ra như thế này:
    Song trùng khép kín đôi phen
    Sơ khai đậu khấu khép bằng thiên thu
    Tường vôi tô vách tử tù
    Trăm năm trong cõi sương phù du tuôn
    Niềm riêng nấn ná hý trường
    Xem Con Tạo mở môi trường đệ tam
    Bình sinh ngất tạnh hội đàm
    Xiết bao tuyệt vọng gẫm càng buốt tim Sự tình nhị bội đánh ghen
    Trút quần giũ áo thưa rằng thế thôi
    Vĩnh ly là chất của trời
    Biệt ly là thói của đời nhà ma
    Cước chú: My life closed twice before its close... Ðời ta đã khép lại hai lần từ trước cuộc khép kín trăm năm... Nghiã là?
    Nghĩa là: trước khi xảy ra cuộc tử diệt thì ta đã hai lần chết thật sự rồi. Nhưng chết mà vẫn chịu chơi, nên còn sống lai rai để xem còn có một đệ tam tử diệt nào thơ mộng hơn chăng. Cái lối nói chịu chơi gay cấn đó đưa tới lời kết thúc dị thường: all we know of heaven ... all we need of hell. Tất cả những gì ga biết về thiên đường... Tất cả những gì ta cần nơi địa ngục... là?
    Từ đó dịch lần thứ ba ra thế này:
    Cần nơi địa ngục những gì
    Biết nơi thiên thượng những gì biển dâu
    Chất hằng ly biệt thiên thâu
    Biệt ly là thói dâng trào sử xanh
    Niềm riêng tại thể đã đành
    Nồi riêng hiện thể còn thành khẩn xin
    Chờ xem Vĩnh Cửu lặng im
    Song trùng tam bội còn tin chi về
    Kỳ oan phong vận đề huề
    Trước đèn lần giở lời quê dông dài
    Mai sau khép mắt ngủ dài
    Còn nghe mộng cũ di hài liễu dương
    Ðánh tranh chụm nóc thảo đường
    Một gian nước biếc mây vàng chia đôi
    Bất thình lình cái câu thơ lục bát Nguyễn Du nọ lại kỳ dị hiện ra tại đây. Mọi sự bỗng dời bình diện. Cái câu thơ ?omột gian nước biếc mây vàng chia đôi? vốn là một câu thơ thuộc loại hàm hỗn man mác nhất trong Truyện Kiều. Nước biếc một gian? Sao gọi là một gian? Mây vàng chia đôi? Chia đôi cái gì? Chia đôi hai cõi nào? Hai miền hai ngả nào? Nhưng tại sao trong thể thái chia đôi nọ, lại có hàm ngụ quy hợp? Do một thứ tinh hoa âm thầm nào phát tiết từ trong tiết điệu lục bát cùng với những vang bóng lãng đãng tỏa ra từ một nóc thảo đường? Một mái hiên? Một thanh hiên tồn lập bao dong ra như thế và sẽ chứng giám một ?ovô lượng phương tiện lực? nào, sẽ ?ovớt người trầm luân? và thành tựu cái nghiã của ?onam hải điếu đồ??
    Ðiếu đồ? Ông câu câu cá? Câu cá giữa một vùng tịch mịch chân không? Câu cá trong tính thể giác duyên như lai bồ tát? ?" Ta làm Nam Hải Điếu Đồ? Ngồi câu con Cá Hư Vô linh hồn? Sự đó liên can gì tới câu: Như lai giả vô sở tòng lai diệc vô sở khứ? Và cái lời đó trong Kinh Kim Cang lại thiêm thiếp đi trong sa mù mà tiếp giáp với câu thơ ?oParting is all we know of heaven/And all we need of hell? như thế nào?
    Thế thì cái sự vụ dịch thơ đã nằm trong một cõi suy tư nào như thế? Nó đã biến ra một thứ dịch di, dy viễn, diên vỹ, vy diễn, như thế nào, để... ? Ðể bất thình lình xô ùa chúng ta trở lại với cái lời Khổng Tử: ?oNgô đạo nhứt dĩ quán chi?.
    [...]
    Cái bí quyết của thiên tài sáng tạo, cũng như thi tài dịch thuật, là: tạo nên một vùng sương bóng cho ngôn ngữ. Sương bóng đó có thể bắt gặp bóng sương Hy Lạp, hay Ðường Thi, hay Tây Trúc ?" không hề gì. Không hề gì. Miễn là nó mở ra một chân trời cho chiêm niệm chịu chơi.
    Ðánh tranh chụm nóc thảo đường, một gian nước biếc mây vàng chia đôi. Cài then cửa đóng đến nơi, sư đà hái thuốc phương trời nào xa .. Parting is all we know of heaven ?" and all we need of hell.
    Ai đã độ ra được cái tầm đầy vơi trong tư lự tồn lưu nọ, ắt chẳng còn thiết chi tới chuyện bàn luận viết sách làm thơ gì nữa cả.
    (trích tập san Quê Mẹ, Giai Phẩm Xuân Canh Thìn số 153 & 154, tháng 1 & 2, 2000)


    -----------------------------------
    Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ
  10. CafeNovember

    CafeNovember Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/12/2002
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Thơ dịch - Dịch thơ
    Võ Phiến
    ?" Bạn nghĩ thế nào về thơ dịch?
    ?" Tôi nghĩ: Thơ dịch không phải là thơ, dịch thơ không phải là dịch.
    ?" Thế à?
    ?" Thế.
    ?" Nghĩ thế không nghĩ còn hơn. Nhảm quá.
    ?" Thế à?
    ?" Thế. Thơ dịch đang đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn học quốc tế. Bạn xem: Ngày nay trên các tạp chí văn học nước nào mà thỉnh thoảng không giới thiệu sáng tác nước ngoài qua thơ văn phiên dịch?
    ?" Từ từ. Hãy nói chuyện giá trị trước, chuyện vai trò sau. Về giá trị: Thơ dịch không phải là thơ.
    ?" Thế nó là cái gì?
    ?" Là ý thơ. Ý thơ đâu phải là tất cả bài thơ? Cũng không phải là phần quan trọng của bài thơ. Không quan trọng chút xíu nào.
    ?" Từ từ. Xem nào: Bạn bảo thơ dịch là ý thơ?
    ?" Vâng. Thì chỉ là cái ý, cái nghĩa của bài thơ gốc thôi. Bạn còn đòi dịch được cái gì nữa?
    ?" Thế ngoài cái ý ra, bài thơ còn có những gì?
    ?" Ngoài cái ý ra, còn lại bài thơ. Nói cách khác, khi bạn vất cái nghĩa bài thơ đi rồi thì cái còn lại là phần cốt tủy của bài thơ.
    ?" Gớm. Sao mà phét lác thế. Còn lại những gì? Nói cho cụ thể xem.
    ?" Điệu thơ này, thể thơ này, giọng thơ này, lời thơ này, không khí bài thơ này... Bao nhiêu là cái, cái nào cũng quan trọng hơn ý thơ.
    ?" Bạn có thể nói mà không huênh hoang được không? Nói cho rõ ràng, cho cụ thể xem nó quan trọng như thế nào?
    ?" Thì nói. Bạn nhớ bài ?~Tống biệt hành?T của Thâm Tâm chứ? Hãy thí dụ bây giờ ta ?odịch? bài ấy ra... lục bát. Vẫn là một bài thơ bằng tiếng Việt, nhưng theo thể lục bát. Thế thôi. Như vậy ta tránh cho nó sự chuyển biến từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Ta hạn chế bớt sự thay đổi, mất mát. Chỉ có đổi từ thể thơ này sang thể thơ kia mà thôi. Cái đổi ấy cũng không lớn lao gì: Từ một thể thơ Tàu đã Việt hóa sang một thể thơ Việt thuần túy. Gần như từ Việt sang Việt. Đâu thấm thía gì nếu đem so sánh với trường hợp dịch một bài sonnet ra một bài thất ngôn bát cú, hay dịch những câu thơ alexandrin ra những câu song thất lục bát. Phải không?
    Đó, tôi chọn trường hợp thuận lợi nhất cho bạn, tôi tỏ thiện chí tối đa đối với bạn. Tôi đố bạn dịch thế nào cho thành một bài ?~Tống biệt?T lục bát có khả năng truyền đúng những xúc cảm chứa đựng trong bài hành của Thâm Tâm.
    Tôi không có ý chê bạn là người kém lỗi lạc. Tôi bênh vực bạn: Tôi cam đoan không một ai trên đời này có thể dùng thể lục bát để truyền lại đúng cái xúc cảm của một bài hành cả. Mỗi thể thơ có cái phong thái của nó. Cũng như mỗi ngôn ngữ, mỗi giọng thơ có cái phong thái riêng của nó... Dịch thế quái nào được?
    Mỗi bài thơ làm ra nhằm gây một tác động xúc cảm nhất định đối với độc giả. Khi bài gốc gây xúc động này bài dịch gây xúc động khác thì thay thế nhau thế nào được? bài này đòi quyền đại diện cho bài kia thế nào được?
    ?" Nào xem:
    ?oĐưa người, ta không đưa qua sông,
    Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
    Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
    Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
    Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
    Một giã gia đình, một dửng dưng...?
    Lục bát quả không có được cái rắn rỏi ấy.
    ?" Còn nữa, bạn ơi!
    ?oLy khách! Ly khách! con đường nhỏ,
    Chí lớn chưa về bàn tay không?
    Lục bát có chuyển được giọng ấy không?
    ?oTa biết ngươi buồn chiều hôm trước:
    Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
    ...........................................
    Ta biết ngươi buồn sáng hôm nay:
    Trời chưa mùa thu, tươi lắm thay,
    ......................................................
    Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
    Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
    Chị thà coi như là hạt bụi,
    Em thà coi như hơi rượu say.?
    Đó, bạn dịch xem! ?oNgười đi! ừ nhỉ, người đi thực!? Bạn dịch đi. Tôi rộng lượng, tôi khoan hồng: Tôi không đòi bạn dịch ra tiếng Mỹ, tiếng Nga, tiếng Mông Cổ, tiếng Lèo... gì ráo. Chỉ nhờ bạn dịch hộ ra thơ lục bát thôi: Hay là bạn muốn dịch ra bài vè tứ tự? Cũng được luôn. Nhưng tôi cấm bạn biểu diễn một màn lố bịch xung quanh bài thơ danh tiếng một thời.
    ?" Quả thực có một cái gì dính liền với thể thơ cổ phong Tàu, không truyền sang thơ ta được.
    ?" Thế bạn không nghĩ có một cốt cách riêng dính liền với thể thơ haiku của Nhật sao? không có một cái gì dính liền với thể song thất lục bát của ta sao? với mỗi thể thơ của Nga, của Pháp, của Thổ-nhĩ-kỳ, của Ai-cập v.v... sao? Chắc chắn phải trải qua nhiều đắn đo trăn trở, phải có lý do đích đáng, rốt cuộc bài tanka năm câu nó mới quyết định rụng đi hai câu để thành bài haiku ba câu mười bảy âm chứ? Sự hi sinh hai câu với mười bốn âm, hi sinh ngót nửa bài thơ, một hi sinh lớn lao như thế tất nhằm một cái gì chứ? Tác dụng gì? Hiệu lực gì? Bạn đếch cần! Gặp năm câu bạn phụt ra năm câu, gặp ba câu bạn phết cho ba câu, hoặc lục bát, hoặc ngũ ngôn, hoặc thất ngôn, tiện đâu bạn xài đó. Bạn dịch thế có chết thơ người ta không?
    ?" Ơ hay! Bạn gây gổ đấy à? Tôi không hề dịch haikai haiku, không hề dịch tanka tankiếc gì cả. Cũng không hề dịch cổ phong ra lục bát theo đề nghị lố bịch của bạn.
    ?" À, vâng. Thế thì tốt. Dù sao xin bạn nhớ kỹ cho: Thể điệu của bài thơ là cái gì rất quan trọng, và chúng ta không hi vọng tìm được những thể điệu thực sự tương ứng trong các ngôn ngữ khác nhau.
    Bây giờ, chúng ta hãy bước sang một cái gì dịu dàng, thoải mái hơn.
    ?" Cái gì dịu dàng? Bạn trở nên dịu dàng à? Có tin được không?
    ?" Không cần. Hãy thưởng thức mấy lời tình tứ du dương:
    ?oNhà em có một giàn trầu,
    Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
    Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
    Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào??
    Bạn thấy sao?
    ?" Từ ngày ra khỏi nước tới nay, giữa chúng ta với cái mộc mạc quê mùa của Nguyễn Bính như có sự cách biệt cả một kiếp người. Ở đây không phải chỉ có cái mộc mạc. Chàng trai này mộc mạc mà lại ỡm ờ. Thế mới tình.
    ?" Bạn nghe thêm một chút giọng nữ nhé:
    ?oEm nghe họ nói mong manh
    Hình như họ biết chúng mình... với nhau
    Ai làm cả gió, đắt cau,
    Mấy hôm sương muối cho trầu đổ non??
    Bạn thích không? Bạn dịch ra bài thơ tiếng Mỹ nhé.
    ?" Tôi ngờ bạn bị quỉ ám. Bạn có những sáng kiến hành hạ người đời cách vô cớ. Những thôn Đoài và thôn Đông, những cau nhớ trầu, những sương muối và trầu, những gió và cau v.v..., nó liên hệ với tình yêu ở xứ này một cách lố bịch, những cái đó có thể làm khối người Mỹ chết sặc vì cười. Hoặc dãy palm ngoài phố, hoặc hàng cau liên phòng, thì nó tình tứ, nó lãng mạn chỗ nào? Bạn nhiễm nặng tính hiểm ác vào người, e bất trị.
    ?" Thông cảm thì Đông với Đoài cau với trầu là tình tứ, mà không thông cảm thì tai nghe lòng cứ dửng dưng, không chút rung động. Muốn có những xúc động giống nhau không phải chỉ cần nghe hai câu thơ có nghĩa giống nhau; mà phải cùng chung sống một phong tục, cùng thấm sâu một không khí sinh hoạt chung.
    Nhưng tôi sẵn sàng bỏ qua cho bạn những cái lẻ tẻ ấy. Lần này tôi chỉ đòi bạn có một điều: là cái giọng. Chúng ta vừa thấy: cái giọng của anh chàng thôn Đoài nghe mộc mạc mà lại ỡm ờ. Còn cô gái ?ochúng mình với nhau? thì cả thẹn, thì chất phác, mà lại đong đưa. Và cả hai, họ ỡm ờ họ đong đưa theo lối riêng, theo cái lối cách xa chúng ta hàng thế kỷ, cách chúng ta một môi trường sinh sống lạ hoắc. Sau khi đã miễn trừ, đã bỏ qua một số lỉnh kỉnh, liệu tôi có thể nhờ bạn dịch hộ mấy câu ấy ra thơ Mỹ được không?
    ?" Ơ hay!
    ?" Không, không! Tôi không có ác ý. Tôi không hề muốn chứng minh rằng cái Anh văn của người bạn công dân Mỹ mười lăm năm là chưa vững.
    ?" Thế thiện ý của bạn là muốn chứng minh cái gì?
    ?" Tôi ao ước được bạn nghiệm thấy rằng tìm cho được một cái giọng thích hợp là thiên nan vạn nan. Giờ đây trên nước Mỹ mênh mông, ở đâu có kẻ nói năng bằng cái giọng như thế? Dù là ở chỗ đồng quê hẻo lánh nhất, liệu có còn ai chất phác mộc mạc kiểu ấy chăng?
    Cách đây gần nửa thế kỷ, ông Hoài Thanh viết thế này: ?oCái đẹp kín đáo của thơ Nguyễn Bính (...) khó lọt vào con mắt các nhà thông thái thời nay. Tình cờ có đọc thơ Nguyễn Bính họ sẽ bảo: ?~Thơ như thế này thì có gì??T Họ có ngờ đâu đã bỏ rơi một điều mà người ta không thể hiểu được bằng lý trí, một điều quí giá vô ngần: hồn xưa của đất nước.?
    -----------------------------------
    Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ

Chia sẻ trang này