1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Dịch thuật, một vấn nạn ngôn ngữ

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi CafeNovember, 12/03/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. CafeNovember

    CafeNovember Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/12/2002
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Bạn mà không tìm ra được một giọng Mỹ thích hợp, thực sự tương ứng với giọng Nguyễn Bính, nhất định độc giả Hoa Kỳ sẽ kêu: ?oThơ như thế này thì có gì?? Bạn đắc tội với thơ Nguyễn Bính, bạn đắc tội với hồn xưa đất nước. Tội của bạn không biết để đâu cho hết. Nhưng cái giọng đặc biệt ấy đã khó tìm thấy ở thị thành Việt Nam thời tiền chiến, còn làm sao tìm được ở Mỹ ngày nay nữa, hở Trời! Bạn có là người Mỹ da trắng ở xứ này hai ba trăm năm, bạn cũng đến ngẩn tò te thôi: Dịch thế nào được?
    ?" Gớm. Nói năng cứ ba hoa chích chòe.
    ?" Ấy, đó là giọng của tôi. Cũng khó dịch đấy.
    Giọng thơ, lời thơ, nó là một phần phong cách của người thơ. Mỗi người một giọng, một phong cách. Mỗi thời một giọng, một phong cách. Mỗi xã hội, mỗi nền văn hóa, một phong cách v.v... Lấy cái phong cách của người này, thời này, dân tộc này, ?odịch? cái phong cách của người khác, của thời khác, của dân tộc khác?...
    ?" Tôi hiểu. Cũng như mỗi thể thơ có một phong cách, không thay thế nhau được, không ?odịch? nhau được.
    ?" Bạn là người có thiên tư. Nghe đâu hiểu đó. Tốt. Tuy vậy tôi muốn trở lại chỗ giọng thơ một chút, cho nó... cụ thể. Tôi muốn bạn nghĩ giùm tôi đến cái liếc mắt mỗi khi bạn tiếp xúc với một giọng thơ.
    ?" Bạn là thứ gì mà muốn điều kỳ cục vậy?
    ?" Hai món không khác nhau. Cất lên mấy câu ân tình cũng như liếc nhau, cùng một ý nghĩa: là tán tỉnh cả. Hoặc tán tỉnh bằng lời, hoặc tán tỉnh bằng mắt. Mỗi người một cách tán tỉnh, mỗi người một cách liếc. Có cách tán tỉnh mộc mạc, chất phát, có câu tán tỉnh láu lỉnh, trai lơ. Có cái liếc rụt rè e ấp, có cái liếc lẳng lơ, có cái liếc sắc như dao, có cái liếc kín đáo ngại ngùng v.v... Thử tưởng tượng: Một đám trai tài gái sắc, anh hùng hào kiệt, sắc nước hương trời, cùng ngồi bên nhau, ?otình trong như đã?. Chợt hô ?oLiếc!? một cái, thôi thì mạnh ai nấy liếc, người nào liếc cách nấy.
    ?oCon dao vàng rọc lá trầu vàng,
    Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa.?
    Ðố ai lấy cái liếc của người này ?odịch? cái liếc của người kia được. Mặc dù ý nghĩa không có gì khác nhau...
    ?" Biết rồi, khổ lắm...
    ?" Bạn quả là người có thiên tư. Do đó bạn được mời tham dự một thí nghiệm khác: Dịch thơ Lá hoa cồn của ông Bùi Bàng Giúi ra bất cứ thứ ngôn ngữ Á, Âu, Phi, Mỹ nào. Bạn dự nhé.
    ?" Đồ quỉ. Đang nói chuyện thơ văn chuyện nghiêm chỉnh, bạn nghịch như quỉ.
    ?" Nghịch là một phong cách. Lá hoa cồn là một khía cạnh trong phong cách của ông Bùi Bàng Giúi. Bạn mà bỏ qua nét ấy là bạn không truyền thần được nét nghịch ngợm của Bùi Giáng nhé.
    ?" Những trò lái liếc chẳng qua là một đặc điểm bất thường của Việt ngữ. Chọn cái éo le như thế để bắt bí nhau: Không... quân tử gì cả.
    ?" Tôi biết thế nào bạn cũng chê. Tuy nhiên ở đây tôi chỉ muốn bạn chú ý đến cái đặc tính của mỗi ngôn ngữ. Có chỗ éo le, có chỗ không éo le.
    ?oCửa son đỏ hoét, tùm bum nóc? (Hồ Xuân Hương). Cái đỏ như thế, mới đọc lên nghe nó đã sỗ sàng; cái nóc như thế, tự dưng nghe không được... trọng vọng. Màu đỏ thì cứ tha hồ đỏ, việc gì mà sỗ sàng? Người ngoài viện cho được cớ để bắt tội nó: khó đa. Nhưng lỗ tai Việt Nam nghe qua cái ?ooét?, biết ngay! không chối cãi được.
    Này nữa:
    ?oQuê nhà xa lắc xa lơ đó
    Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay?
    (Nguyễn Bính)
    Dịch ra tiếng Pháp, tiếng Hoa, tiếng Maroc v.v..., bạn có dịch chữ ?ođó? không? Bạn dịch ra sao, xin cho nghe... Bạn lại mắng tôi kém... quân tử! Bạn chỉ dịch cho xong ý nghĩa câu thơ, rồi bạn bỏ qua cái tiếng thừa thãi hả? Bạn khôn ơi là khôn!
    ?" Kìa, bạn đay nghiến tôi đấy à? Thì tiếng nước nào chẳng có tiếng hư tiếng thực, nghĩa nổi nghĩa ngầm v.v...
    ?" Đấy. Chúng ta nhất trí với nhau gần hoàn toàn. Cái rắc rối là những hư, thực, nổi, ngầm ấy nó không trùng hợp nhau. Tiếng nói của bạn hư chỗ này, tiếng nói của người hư chỗ khác. Dịch không nổi.
    Thơ là nghệ thuật vận dụng ngôn ngữ. Thi sĩ khai thác đến tận cùng cái tinh vi của ngôn ngữ, tất nhiên chỉ là ngôn ngữ dân tộc ông ta thôi. Cho nên trong thơ hay của người nước nào mà lại không có ít nhiều chất Bùi Giáng? (Ý tôi muốn nói: ít nhiều liên hệ với các đặc điểm ngôn ngữ bản xứ.) Giữa lời thơ với ngôn ngữ được sử dụng có đầy âm mưu thầm kín. Đôi bên chúng nó toan tính, đồng lõa với nhau, nháy nhó nhau, chúng phối hợp nhau gây nên những nét đẹp đẽ, ngộ nghĩnh, những xúc động lâm ly v.v... mà kẻ ?ongoại thủy? không ai tham dự được. Đứng bên ngoài, kẻ dịch thơ nghệch người ra.
    ?" Bạn cực đoan vừa thôi. Cứ nghe bạn nói riết một hồi, tưởng chừng thơ không cần ý. Không có ý thơ, tứ thơ, làm sao có thơ? Cái nảy ra trước tiên trong đầu thi nhân, cái gây ra cảm hứng của thi nhân, cái đó là một tứ thơ chứ đâu phải là chữ nọ lời kia, giọng này giọng khác? Cái gì nó chủ trì toàn bài thơ, làm nòng cốt cho bài thơ, cái đó là một ý tưởng, đâu phải là những ?ođặc diểm ngôn ngữ? lặt vặt như lá hoa cồn, như sư cụ đáo nơi neo?
    ?" Bạn nói trúng phóc. Thơ cần có ý: đúng. Ý thơ là nòng cốt: đúng nữa. Cái ý đối với bài thơ cũng như bộ xương đối với con người. Người cần có bộ xương, bộ xương là nòng cốt con người. Khởi đầu, thi nhân nảy ra một cái ý. Khởi đầu, Thượng Đế lấy một cái xương, để gầy ra con nguời.
    Gầy xong cái nòng cốt, nhìn lại bộ xương, Thượng Đế rụng rời khiếp hãi vì sự xấu xí của tác phẩm mình. Người lấy làm xấu hổ, Người vội vã lấy đất sét đắp lên, bao bọc kín cả xương.
    Thơ cũng như người: đẹp vì thịt, không đẹp vì xương. Khi chỉ còn là hai bộ xương xếp nằm cạnh nhau, Tây Thi và Chung Vô Diệm trông như nhau. Thơ cũng như người: sống nhờ thịt, không sống nhờ xương. Khi thịt rữa nát rồi, chỉ còn lại bộ xương, chỉ còn lại cái nòng cốt, thì không còn sự sống nữa.
    Thơ cũng như người: mọi biểu hiện phong cách đều ở thịt, không ở xương. Làn thu thủy nét xuân sơn, bộ dạng ranh mãnh, vẻ phúc hậu, nỗi buồn phiền, ưu tư, hân hoan, tha thiết v.v... đều là thịt cả. Xương, không có bộ xương buồn. Không có bộ xương nhí nhảnh. Bộ xương không có cá tính, bản sắc, không có phong cách. Cái nòng cốt không có phong cách.
    Nếu bạn chọn cái đẹp, chọn sự sống, chọn tìm hiểu một phong cách..., bạn chọn thịt. Chọn lời thơ, giọng thơ, chọn câu, chọn chữ v.v... Trong những cái đó có hơi thở của con người.
    Hoặc giả bạn nhất định chọn cái ?onòng cốt? chăng?
    ?" Còn bạn, cứ đà này không khéo dần dần bạn tiến đến những bài thơ không có ý!
    ?" Rất có thể. Có thể lắm. Xưa nay vẫn có những bài thơ vô đề, không từng có bài thơ nào vô ngôn. Thơ là lời, là chữ, là nhịp điệu, vần vè. Thơ là thể xác. Mất thể xác đi là mất tất cả. ?oThác rồi thể xác, còn là ...khỉ meo!? Không có cái tinh anh nào còn lại cả.
    ?" Bạn hung hăng như con bọ nguậy.
    ?" Tôi hung hăng như người đi đúng chính đạo, nắm đúng chính nghĩa.
    Hãy nghe một người tiền chiến sành thơ nói về một bài thơ tiền chiến, tức Hoài Thanh nói về ?~Tống biệt hành?T: ?oĐiệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc.?
    Đó là một người biết cách nói. Ông ta chỉ nói đến điệu thơ, lời thơ, câu thơ. Ông ta không hề nói đến ý thơ.
    Trở lại chuyện dịch. Ý ?otống biệt?, bạn dịch được. Toàn bài có bao nhiêu ý lớn ý nhỏ, chịu khó mằn mò bạn có thể dịch được tuốt hết. Nhưng như vậy là bạn chưa hề động chạm gì đến cái hay, cái đặc biệt của bài thơ. Bởi vì bạn làm thế quái nào dịch được cái ?ogấp?, cái ?ogắt?, cái ?orắn rỏi?, cái ?ogân guốc?? Tức những cái không nằm trong ý thơ mà trong xác thơ. Như vậy bạn dịch làm chi? Bản dịch của bạn có thể dùng vào việc gì khi nó không có công dụng truyền đạt cái hay, cái đặc điểm của bản gốc? Bạn dịch làm chi, bạn nói tôi nghe? Dịch như thế... Tôi nghĩ đến cái ngày mà Truyện Kiều được dịch sang đủ 160 thứ tiếng của các nước trong Liên Hiệp Quốc, cái ngày xương cốt Kiều tung tóe đó đây, bấy giờ thiên hạ sẽ khóc Tố Như râm ran khắp nơi. Lo gì thiếu kẻ xót thương?
    ?" Điệu này e phải cấm dịch thơ.
    ?" Xin can. Vì vai trò quan trọng của nó trong sinh hoạt văn học quốc tế mà bạn đã nêu lên từ đầu. Vì ?ocó còn hơn không?.
    ?" Tự dưng bạn mở lượng hải hà!
    ?" Không mở không yên. Nhu cầu cảm thông của nhân loại quá khẩn trương, quá lớn lao. Ngày nay bốn bể một nhà. Người tứ xứ muốn hiểu nhau, bằng bất cứ giá nào. Một nước Đông Âu vừa xóa bỏ chế độ cộng sản: Ai nấy muốn biết đời sống bên xứ đó ra sao, vật giá bên đó ra sao, văn thơ bên đó ra sao. Một thi sĩ Nam Mỹ hay Bắc Phi chẳng hạn vừa được giải Nobel văn chương: Lập tức, ai nấy muốn biết ông ta viết cái gì v.v... Người ta sẵn sàng trả cho cái biết ấy một giá cao: Điệu thơ? giọng thơ? lời thơ? ?" Hi sinh luôn.
    ?" Biết như vậy rồi có... ngưỡng mộ được không?
    ?" Được tất, bạn ơi. Thời nào tục nấy. Thời nay khối người kiếm vợ qua văn phòng xe duyên: kẻ Âu người Á, trông qua tấm ảnh mà yêu nhau, mà nên vợ nên chồng. Ảnh với thơ dịch, đại khái như nhau. Người thì chỗ cao chỗ thấp, ảnh thì bẹt; người khi e ấp khi suồng sã đều hay, khi mát rượi khi nóng bừng đều hay, ảnh cứng đờ bất động; người thì thơm tho, ảnh vô vị; người sờ vào có điện giật, ảnh vô tri v.v... Thơ dịch, khác gì đâu? Nhưng xem xong một bài thơ Nga xô dịch ra lục bát, vẫn có thể cả tiếng tuyên bố là đặc biệt yêu thích tác giả: Sợ gì? Miễn ông ta nổi tiếng lớn.
    ?" Hừm! Thời nay tục nay như thế rồi đi tới đâu?
    ?" Tới thơ trí tuệ.
    ?" Bạn nghĩ vậy thật đấy à?
    ?" Không nghĩ vậy không xong. Một mặt bạn, chính bạn, bảo rằng thơ dịch bây giờ xuất hiện trên khắp tạp chí văn nghệ các nước; một mặt tôi nhớ ông Nguyễn Hưng Quốc có lần cũng nhận thấy bây giờ nhiều thơ trí tuệ. Người nào cũng đúng cả. Tôi chỉ thêm vào một ý kiến: E giữa hai sự việc có mối liên hệ. Bạn nghĩ coi: Khi bạn sống giữa một thời đại mà các đại danh gia quốc tế, các con đại bàng trên đỉnh Thi Sơn (Parnasse), các thi hào thi bá tiền tiến nhất của thế kỷ đều trao gửi đến ta toàn thơ xương cả thì ai còn lòng nào ngó ngàng tới chất thịt của thơ nữa. Trăm trường hợp như một: thơ các vĩ nhân dịch ra đều chỉ còn trơ cái ý thơ thôi. Thơ như thế đang thành công lớn; họa có điên mới làm khác.
    Dạo xem riết những con vật trưng bày trong bảo tàng viện, dám có ngày thấy động vật toàn xương trông dễ coi, dám có lúc nghĩ rằng động vật thời tiền sử thường không có thịt. Phải cố gắng vận dụng tưởng tượng mới hình dung được cách khác.
    ?" Tôi không nghĩ có thể giải thích xu hướng thơ trí tuệ bằng luận điệu của bạn.
    ?" Bạn có lý. Chúng ta đang nói chuyện thơ dịch, chúng ta không có chủ đích đi giải thích thơ trí tuệ. Thơ trí tuệ có thể phát sinh do năm chục nguyên nhân chính đáng. Tìm tòi cho đầy đủ những nguyên nhân ấy là công việc của người giải thích thơ trí tuệ. Tôi chỉ xin phép bạn giành lấy một chỗ nhỏ xíu cho thơ dịch thôi. Bạn nghiệm xem: nó có phần đóng góp đấy, không sao?
    -----------------------------------
    Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ
  2. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Có lẽ Home hết bài để viết rùi. Anh em ơi, thảo luận để. Xin được bắt đầu bằng mấy ví dụ điẻn hình trong Họa... diễn ...dịch
    (từ bản chính của Hán diễn Quốc ngữ)
    1
    Nhứt bát thiên gia phạn
    Cô thân vạn lý du
    Kỳ vi sanh tử sự
    Giáo hoá độ xuân thu

    (bản dịch sang Quốc ngữ)
    2
    Bình bát cơm ngàn nhà
    Một thân muôn dặm qua
    Chỉ vì niềm sống chết
    Giáo hoá độ ta bà

    Huyền Không dịch
    (bản dịch sang Quốc ngữ)
    3
    Độc... xuôi...hành!
    Một bát ăn ngàn nhà
    Một người qua vạn dặm
    Chỉ vì sự mất còn
    Dạy dỗ mãi xuân thu

    LT
    (bản họa sang Quốc ngữ)
    4
    Độc... ngược...hành!
    Ngàn nhà ăn một bát
    Vạn dặm vẫn một thân
    Sinh thác vẫn không màng
    Thu về đến xuân sang

    LT
    Thí dụ (II):
    (từ bản Quốc ngữ, có thể cũng đã được chuyển dịch rồi!?)
    1
    Cố viên tâm
    Xuân đến vì ai ai biết xuân
    Bao nhiêu xuân đến bấy nhiêu lần
    Hỏi thăm trong mộng người quê cũ
    Có thấy hoa đào rụng đỏ sân

    Lưu Kỳ Linh
    (bản dịch ngược qua Hán ngữ)
    2
    ..o'f
    誰Y~^^^誰
    幾度~?幾此oY
    .S夢中人..?O

    Trần Trọng Kim
    *~*
    Nước tàn sông núi còn đây
    Thanh xuân cây cỏ mọc đầy khắp nơi
    Cảm thời hoa cũng lệ rơi
    Chim kia cũng sợ hận người lìa tan
    Lửa phong ba tháng lan tràn
    Thư nhà đưa đến muôn vàng chắt chiu
    Xoa đầu tóc bạc ngắn nhiều
    So le lởm chởm khó điều cài trâm
    Trần Trọng San
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  3. tomsawyer

    tomsawyer Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    12/05/2002
    Bài viết:
    681
    Đã được thích:
    0
    Có bác nào nhớ câu chuyện vui về việc một người nước ngoài dịch câu ca dao "Gió đưa cành trúc la đà. Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xuơng" ra tiếng nước ngoài, sau đó dịch ngược trở lại tiếng Việt thì thành ra rất buồn cười. Em chỉ nhớ đại loại hình như "Bà trời thỉnh một hồi chuông. Canh gà húp vội, hóc xương quá chừng".
    tom
  4. tomsawyer

    tomsawyer Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    12/05/2002
    Bài viết:
    681
    Đã được thích:
    0
    Đây rồi, tự em đã tìm thấy:
    Ở Huế thuở nọ có một viên quan thực dân tự cho mình là thông thạo tiếng việt. Một ông giáo ta lấy cớ đang viết một luận văn bằng tiếng Pháp về tục ngữ, ca dao Việt Nam, đến nhờ ngài dịch hộ hai câu thơ sau đây ra thơ Pháp:
    "Gió đưa cành trúc la đà
    Tiếng chuông thiên Mụ, canh gà Thọ Xương"
    Không ngờ, vị quan tây này nói tiếng Việt thì tàm tạm, nhưng còn lâu mới có thể hiểu hết cái diệu vợi và tinh tế trong tiếng Việt. Bởi thế, khi dịch, ví chỗ nào, ngài lại lấy từ điển ra tra rồi dịch nguyên xi. Ví như: "cành trúc" dịch là "roi tre", "la đà" là "con la và con lạc đà", "thiên Mụ" là "vợ trời", " canh gà" là "canh thịt gà" và "Thọ xương" dịch là "khúc xương nấu kỹ". Cuối cùng ngài hì hục, ghép chữ vần thành một bài thơ đem tặng ông giáo.
    Ðọc xong, ông giáo nảy ra một ý ngồ ngộ, đem "bài thơ" tiếng Pháp này nhờ một tay thông ngôn dịch ra thành một bài thơ tiếng Việt. Rất chung thành với nguyên bản Pháp văn, lại cũng giàu tâm hồn nghệ sĩ, anh thông ngôn đã dịch thành một bài lục bát sau đây :
    "Roi tre vun vút vung ra
    Lũ lạc đà với lũ la chạy cuồng.
    Vợ trời gióng một hồi chuông
    Gọi về ăn bát canh xương gà tầu"
    Được đấy chứ!
    tom
  5. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Ha, ha vui quá.Hay ghê
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  6. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Sưu tầm trên mạng
    Thanh-Tâm: Dịch Thơ Là Một Nghệ Thuật Sáng Tạo
    Hàn Giang
    Khi đọc một bài thơ, người ta thường cố gắng tìm hiểu cái vẻ đẹp thâm thúy, cái cảm xúc riêng tư của tác giả khi muốn gửi gắm tâm hồn mình trên từng con chữ.
    J.P. Sartre đã nói rằng: " Một trong những động cơ thôi thúc nhà thơ phải sáng tạo là cái nhu cầu tự cảm thấy mình giữ vai trò cốt yếu đối với thế giới?" . Như vậy một bài thơ được viết ra không phải chỉ để trong ngăn kéo rồi lu mờ theo bụi thời gian đóng lớp, mà chắc hẳn tác giả cần đến độc giả muôn phương đọc tác phẩm của mình... Ai mà chẳng có khát khao hoài vọng mong muốn tác phẩm được chắp cánh bay bổng ngang dọc trong khung trời mênh mông bát ngát... để được sự đồng cảm của các tâm hồn đồng điệu khắp nơi, không cùng màu da, sắc tộc...
    Những bài thơ Đường nổi tiếng như Hoàng Hạc Lâu, Phong Kiều Dạ Bạc, Tĩnh Dạ Tứ, Tỳ Bà Hành v.v. nếu không có những bậc tiền bối túc nho trưởng thượng dịch ra tiếng Việt, hoặc các học giả ngoại quốc dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp thì chắc hẳn sự thẩm thấu âm vang của cái hay, cái đẹp của hồn thơ, con chữ chỉ giới hạn trong một chủng tộc của ngôn ngữ đó mà thôi... Như vậy dịch giả là những nghệ sĩ cần được thẩm định có giá trị cao quí và công lao to lớn trong việc phổ biến những tác phẩm nghệ thuật ra ngoài khuôn khổ giới hạn của một tầng lớp thưởng ngoạn, vượt ra biên giới rào cản của ngôn ngữ...
    Hai năm gần đây tôi đã được thưởng ngoạn rất nhiều bài thơ mà Chị Thanh-Tâm đã dịch ra tiếng Pháp... và Chị đã thành công tạo được những bản dịch thần sắc, mà chắn hẳn các tác giả những bài thơ nguyên tác rất hài lòng với những công việc thận trọng và chi ly mà Chị đã làm công việc chuyển ngữ. Trước khi đi sâu vào việc tìm hiểu những bản dịch Pháp của Chị Thanh-Tâm, tưởng cũng nên tìm hiểu qua cái khó khăn của công việc dịch thuật.
    Chúng tôi xin trích dẫn vài dòng trong bài tham-luận " DỊCH LÀ ĐỐI THOẠI" của Nhà thơ và dịch giả Khương-Hữu-Dụng " Cám dỗ thứ nhất rủ rê ta quá nệ vào " nghĩa" . Thơ không phải có " nghĩa" mà còn có " chữ" , mà " chữ" trong câu thơ đều có giấy chứng minh riêng do nhà thơ cấp. Chính diện mạo riêng cũng như bố cục riêng của " chư" tạo thành sức sống trường kỳ của câu thơ. Chỉ tập trung vào " nghĩa" mà quên " chữ" sẽ cho ta một bản dịch tưởng là đúng cực kỳ, nhưng mà sai ghê gớm vì người dịch đã vô tình mắc trọng tội giết chết bài thơ để cung cấp cho ta một cái " xác" , giống thì giống thật, nhưng không có " hồn" ... " (KHD).
    Mặt khác, một học giả Trung-Hoa cho rằng việc dịch thơ cần phải dựa trên ba yếu tố căn bản và thiết yếu là " Tín, Đạt, Nhã" .
    " Tín" là đòi hỏi phải trung-thành với nguyên-bản của bài thơ, cần nghiền ngẫm chu-đáo kỹ lưởng, tìm hiểu lai lịch gốc tích, ý nghĩa của từng từ ngữ, cũng như điển tích của từ ngữ thơ, để cảm nhận nét hay vẻ đẹp của bài thơ gốc.
    " Đạt" là đòi hỏi chính xác và thành đạt như bài thơ gốc, đúng như tư duy và cảm nghĩ, ý tưởng của tác giả bài thơ.
    " Nhã" nghĩa là trang-nhã, đẹp và hay, đọc bài thơ dịch cần có âm điệu, đọc lên gây sự rung cảm sâu xa cho người đọc.
    Nhưng nếu theo đúng khuôn mẫu, phép tắc của ba yếu tố " Tín, Đạt, Nhã" thì e rằng việc dịch thơ sẽ khó khăn vô cùng... Cho nên dịch thơ đôi khi cũng cần sự phóng khoáng, cởi mở và không phải khư khư câu nệ gò bó theo đúng khuôn phép, tuy nhiên tránh việc làm lệch lạc " ý" của bài thơ gốc, nghĩa là phải lựa chọn chữ để đem được cái " ý tưởng" , " tâm hồn" và " thần sắc" vào bài thơ dịch, để độc giả khi đọc bài thơ đó tự-nhiên có cảm tưởng biết ngay cái nguồn gốc của bài thơ dịch là từ đâu... chứ không thể thêm thắt bừa bãi để biến thành " dịch" là " phản" thì thật là bất công và vô tâm đối với tác-giả bài thơ gốc. Thơ không phải là ngôn ngữ của " khoa học" (một cộng với một là hai) mà thơ là nguồn tinh-khôi của cảm nhận và ý tưởng hòa đồng, và từ sự vật cụ thể để dẫn dắt đến cái trừu tượng bao la khó diễn tả, không thể sờ, mó, ngửi... mà chỉ cảm nhận bằng tâm hồn và cảm xúc. Thơ là một ngôn ngữ của trực quan, có sức truyền cảm mãnh liệt. Sở dĩ chúng tôi xin nêu ra vài quan-điểm về sự dịch thơ để tìm một giải đáp có thể chấp nhận trong việc tìm hiểu và giải thích ý nghĩa những từ ngữ khó hiểu trong bài thơ nguyên tác.
    Nền văn học Pháp và Trung Hoa đã có một ảnh hưởng quan trọng đến nhiều thế hệ tác giả Việt Nam , những người cầm bút sáng tác. Công việc đọc, tìm hiểu và dịch thuật đã cho chúng ta cảm nhận được cái mỹ quan của văn chương nước ngoài, làm phong phú cho chữ nghĩa ý tứ, phong cách của người cầm bút dưới những nhận thức phóng khoáng cởi mở hơn.
    Công việc dịch thuật đâu phải giản đơn, đôi khi còn khó hơn là cầm bút sáng tác theo ngôn ngữ của mình. Đâu phải chỉ có một số vốn ngoại ngữ là có thể có một bài dịch thật trơn tru nhuần nhuyễn... Giỏi và thông suốt ngoại ngữ chưa phải là điều kiện cần thiết đầy đủ để làm công việc dịch thuật. Người dịch cần phải thông hiểu ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, những cũng chưa đủ, dịch giả cần phải thông suốt văn hóa, tập quán, lịch sử, xã hội phong tục của xứ sở của tác giả bài thơ nguyên tác. Chúng ta có thể lấy ví dụ: để diễn tả về màu đen, người Việt mình có thể dùng chữ con mèo " mun" , chó " mực" , mái tóc " huyền" , chuỗi hạt " huyền" v.v. làm ngôn ngữ phong phú, tinh tế và đầy thi vị... Đôi khi pha thêm một chút chữ Hán vào như hắc ín (nhựa đường màu đen). Một tấm bảng màu " đen" đâu thể gọi là tấm bảng " mun" , một con chó " mực" đâu có thể gọi là con chó " mun" v.v... Đó là chưa kể khi diễn đạt màu " đen" còn có những chữ phụ đi theo như: đen đủi, đen đúa, đen kịt, đen hắc, đen lánh, đen láy, đen tuyền, đen tối, đen nghịt, đen ngòm, đen nhánh, đen huyền, đen sì, đen thủi, đen thui, đen nhức, đen trũi... cơ mang nào mà kể! Ngôn ngữ Việt Nam thật là tinh tế, đa dạng và phong phú vô cùng. Tìm hiểu sự chính xác của chữ nghĩa trong một ngôn ngữ ngọai quốc để áp dụng cho bản dịch không thể là một công việc đơn giản, mà có thể làm cẩu thả được.
  7. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Tôi xin trích một đọan của tác giả Nam Sơn nói về " Chuyện Vui Dịch Sách" : " Thứ nhất là phải có ngoại ngữ. Một nhà văn Mỹ phải nói là giỏi tiếng Việt, có thể tán gẫu với người Việt, nói năng ví von có vành có vẻ, dẫn tục ngữ thành ngữ nhuần nhuyễn. Mới năm 2000, ông tung ra bản dịch thơ Hồ Xuân Hương. Một cuốn sách dịch, lại là thơ, đến nay đã bán được hai vạn bản.
    Tôi giở cuốn Spring Essence - The Poetry of Hồ Xuân Hương, NXB Copper Canyon ấn hành, gặp những câu kiểu này:
    " Kind sir, if you love me, pierce me with your stick."
    đó là dịch câu: " Quân tử có thương thì đóng cọc."
    Cuối sách có giải thích: quả mít có thể chín sớm nhờ đóng cọc, theo kinh nghiệm người Việt. Một sự giải thích chu đáo và cần thiết.
    Nhưng diễn giải nôm na thì câu tiếng Anh được hiểu là " Quân tử có thương thì đóng cái cọc của chàng vào" . Cái đại từ sở hữu của chàng thật sự đã làm câu thơ đang " thanh" bỗng trở nên " thô" thiển, rõ ràng một cách không cần thiết và mất tính đa nghĩa. Nhiều trí thức Mỹ tỏ ý thú vị hơn khi nghe tôi trình bày về nguyên bản, nhưng họ cho rằng câu thơ dịch trên vẫn gây được hiệu quả. Biết làm sao, họ chưa biết thơ Hồ Xuân Hương trong nguyên bản. Mà tiếng Anh, tiếng Pháp đòi hỏi tính lô-gích trong mọi tình huống đã buộc người dịch phải bám chặt lấy cái đại từ sở hữu của chàng nọ.
    Những câu " Rúc rích thây cha con chuột nhắt - Vo ve mặc mẹ cái ong bầu" sao lại dịch thế này:
    " The little father mouse squeaking about, doesn'' t care, nor the mother honeybee buzzing along, fat with pollen" Thây cha con chuột nhắt với mặc mẹ cái ong bầu mà lại dịch là " con chuột cha" và " con ong mẹ" thì đúng là người dịch, dù được tiếng là giỏi tiếng Việt, vẫn chưa thật sự thấm nhuần ngôn ngữ ấy." ( Nam Sơn).
    Cái khó khăn của ngôn ngữ Việt Nam là có những chữ đồng âm mà dị nghĩa, nếu người dịch không thông suốt thấu đáo ngôn ngữ của bài thơ nguyên tác, thì e rằng có nhiều sai lầm đáng tiếc xảy ra. Tôi chỉ xin đơn cử một vài ví dụ mà tác giả Nguyễn Quảng Tuân đã nêu ra về " Những sai lầm trong quyển tự điển J. F. M. Génibrel về việc dịch các câu Kiều sang tiếng Pháp " ?" Quyển tự điển Việt Pháp của J. F. M. Génibrel từ trước đến nay vẫn được coi là một quyển tự điển có giá trị, đáng tin cậy để tham khảo. Trong cuốn tự điển đó, có nhiều câu Kiều, dịch giả đã hiểu sai và dịch sai như:
    - " Cỏ non xanh tận chân trời" , Génibrel đã hiểu lầm chữ " non" nên đã dịch là: " De vertes montagnes s?Tétendent jusqu?Tà l?Thorizon" . Đúng ra " cỏ non" phải dịch là " le tapis vert d?Therbe tendre" (tấm thảm cỏ xanh non), chứ không phải là " những ngọn núi xanh)
    - " Đề huề lưng gió túi trăng" , Génibrel đã hiểu sai chữ " lưng" và dịch là " porter dans les bras et sur le dos le sac du vent et de la lune" . Thực ra chữ " lưng" phải dịch là " à moitié, à moitié rempli" (một nửa, đầy có một nửa)
    - " Đầu cành quyên nhặt, cuối trời nhạn thưa " , Génibrel đã dịch là " Le coucou chante, perché sur une branche, l?Toie sauvage lui répond du haut des airs où elle plane" . " Thưa" không phải là " répond" (trả lời), mà nghĩa đúng là " thưa thớt" , phải dịch là " clairsemé"
    - " Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai " , mà Génibrel đã hiểu lầm chữ " mai" là rạng đông, sớm mai, và đã dịch la: " La tristesse est comme un bouton de fleurs qui s?Tépanouit comme l?Taurore du jour" . Đúng ra chữ mai phải hiểu là cây mai (abricotier) (Nguyễn Quảng Tuân ?" Tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện Kiều). Chỉ đan cử một vài câu tiêu biểu, thật ra cuốn sách còn rất nhiều chỗ dịch sai nữa.
    Như vậy rõ ràng công việc dịch thuật đâu phải đơn giản như húp một chén " chicken soup Thọ Xương..." (Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương...)
    Chúng ta rất tri ân những dịch giả ngoại quốc về những công trình lớn lao giúp việc phổ biến và truyền bá những tác phẩm văn hóa Việt Nam có giá trị đến các độc giả ngoại quốc, nhưng những tác phẩm văn học nổi tiếng nầy ( đáng lý dịch giả cần phải công phu và thận trọng hơn trong việc nghiên cứu tìm hiểu ý từ chính xác của nguyên bản) nhưng đã vấp phải một số lỗi lầm đáng tiếc như một tác giả Mỹ đã dịch thơ Hồ Xuân Hương hoặc tác giả Pháp đã dịch Truyện Kiều. Trở lại với những bài thơ dịch Pháp của Chị Thanh-Tâm, thì chắc chắn là chúng ta sẽ không gặp những chuyện tức cười nho nhỏ trong việc dịch thuật, nhất là Chị Thanh-Tâm với vốn liếng sâu rộng về Pháp Ngữ và cũng là một nghệ sĩ sáng tác thơ Việt, với một tâm hồn mẫn cảm, thì chắc hẳn tác giả đã cho chúng ta thưởng thức những bản dịch tài tình xuất sắc... Chị Thanh-Tâm chỉ muốn coi việc dịch thơ như một bộ môn giải trí, thư giãn tinh thần, sau những giờ làm việc mệt mỏi, hơn là cố ý làm văn nghệ, hoặc có một mục đích nào khác hơn. Chị đã từng tâm sự " mua vui thôi mà! Nếu đọc giả thấy coi được thì tôi cũng vui, đó cũng là sự khuyến khích để tôi tiếp tục..." và Chị cũng đã khiêm nhượng: " cần nhất là xin các tác giả chính của những bài thơ nguyên tác và các độc giả sự độ lượng nếu thấy có điều gì không đúng hay không vừa ý" . Thật ra sự bộc bạch chân tình của Chị cũng chỉ là lời khiêm nhượng mà thôi, vì Chị Thanh-Tâm với sự làm việc dịch thuật một cách thận trọng, nghiêm túc và tận tâm, và cần mẫn đã mang lại niềm vui bao la cho tác giả những bài thơ nguyên tác và sự hài lòng của các độc giả đọc thơ dịch của Chị.
  8. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Nếu có đọc qua chút đỉnh tài liệu về thơ Pháp thì chúng ta thấy thơ Pháp có vẻ ít rắc rối hơn thơ Việt rất nhiều. Về hình thức thì cứ đo chiều dài của câu thơ Pháp là biết: như 1 âm (syllabe) là... thể monosyllabe, rồi 2 là disyllabe, 3 là trisyllabe, 4 là tétrasyllabe, 5 âm và 6 âm thì không có tên đặc biệt (vers de cinq syllabes hay vers de six syllabes), sau đó 7 là heptasyllabe, 8 là octosyllabe, 9 là ennéasyllabe, 10 là décasyllabe, 11 là endécasyllabe và cuối cùng 12 gọi là alexandrin. Trước thế kỷ 16 thì thông dụng là décasyllabe, sau đó thì alexandrin được xử dụng nhiều trong một thời gian dài, các tác phẩm cổ điển thường dùng thể thơ loại nầy. Thể thơ này có lẽ gò bó, không được thanh thoát cho từ ngữ được tự do " rồng bay phượng múa" nên Chị Thanh-Tâm chưa bao giờ thử. Giống như điệu thơ Đường Luật Việt Nam với niêm luật gò bó, khuôn khổ nên nhiều thi sĩ hiện đại cũng không muốn xử dụng.
    Trong các thể thơ kể trên, tác giả có thể pha trộn với nhau một cách rất tự do, và bây giờ thì còn tự do hơn nữa, không có ràng buộc gì hết, kể cả vần (rime). Nói về Rime (vần) trong thơ Pháp chỉ nằm ở cuối câu, đại khái theo các thể sau: " abab" , " aabb" , " abba" . Khi một đoạn trên 4 câu có thể thuộc dạng " aaabcccb" . Nhiều đoạn 4 câu (quatrain) nối tiếp thì có thể là " aabb ccbb ddbb" hay " aabb bbcc ccdd ddee" v.v. tha hồ.
    Đó là nói sơ qua một cách khái quát về thể điệu, cấu trúc, vận pháp, tiết tấu của một bài thơ Pháp, và thơ Pháp không có cái rắc rối của một bài thơ Đường là cái bố cục và kiến trúc đối ngẫu (đủ loại đối: biền ngẫu, đối cú, đối thanh, đối ý, đối từ, đối ngữ v.v.)
    Chị Thanh-Tâm cũng đã tâm sự những nguyên tắc, tiêu chuẩn mà Chị đề ra để làm chuẩn trong việc dịch thơ là Chị luôn cố gắng tìm hiểu tối đa ý nghĩa xem tác giả muốn nói gì, muốn diễn đạt ý nghĩ và tình cảm gì trong bài thơ gốc vì thơ đọc lên đôi khi nhiều từ có vẻ mơ hồ rất khó hiểu. Có tác giả cho rằng phải " cảm" thơ chứ không cần " hiểu" , nhiều khi thơ thì dễ " cảm" đó, nhưng khó mà giải thích... Cảm thơ thì dễ vì tình cảm thì biến thiên vô tận. Thơ không cần để hiểu mà chỉ cần để cảm, cái đó có thể đúng với một bài thơ nguyên tác vì người đọc có thể thả hồn phiêu du vào cõi mộng để có những cảm giác tương ứng và có thể thưởng ngoạn những cái rung động thâm sâu của những cái đẹp trữ tình trong thơ. Nhưng khi làm công việc dịch thuật mà chỉ biết " cảm" , mà không cần " hiểu" thì e rằng có thể đi ra ngoài ý tưởng nguyên thủy của bài thơ gốc, và người dịch đã làm công việc " phản bội" rồi... Theo ý kiến của Chị Thanh-Tâm nếu chỉ " cảm" thì làm sao dịch cho nổi, do đó Chị phải ráng tìm hiểu, dù chỉ theo một khía cạnh nhỏ, mới có thể dịch được.
    Từ đó, Chị ráng dịch thật trung thực cái ý nghĩa đã tìm ra. Trong việc lựa chọn từ ngữ thích hợp Chị ráng tìm chữ cho " vừa đúng" , " không nhà quê" hay là quá " bóng bẩy" một cách dị hợm. Và điều quan trọng theo Chị là phải có vần điệu mới có thể gọi là thơ vì dịch thơ mà ra văn xuôi phải công nhận là đọc nghe không có lý thú chút nào. Mặc dầu dịch phải trung thành với nguyên bản, nhưng dịch thơ thì bản dịch phải là thơ, chịu sự chi phối của vần điệu để bản dịch được chấp nhận như thơ. Cách dịch này đòi hỏi người dịch phải có khả năng thông hiểu, trách nhiệm chu toàn để sự tái tạo được hoàn mỹ. Chị đã cố gắng dung hợp tất cả những điều kể trên để thơ có " hồn" càng tốt, nghĩa là chị muốn chất thơ thấm nhuần vào từng con chữ, tạo những rung cảm đậm đà và quyến rũ gây những ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Và cuối cùng điều quan trọng nhất để hoàn chỉnh một tác phẩm dịch là phải tránh tất cả những lỗi văn phạm (grammar), chính tả (spelling) và cách hành văn (syntax) đặc biệt theo Pháp văn chứ không phải là tiếng Tây " bồi" .
    Việc dịch thơ đã đến với Chị Thanh-Tâm như một sự rất ngẫu nhiên, như một cái duyên tình cờ với bài đầu tiên " Si Tu Savais" , dịch từ bài " Anh Đâu Biết" của nữ sĩ Đàm Giang ?" Sóng Việt. Bài " Anh Đâu Biết" có những cái rung động tuyệt vời, những tiết điệu âm thanh tha thiết, thu hút và quyến rũ, và Chị đã có sự đồng cảm với những ý từ nhẹ nhàng, trữ tình của bài thơ nầy và Chị đã không cưỡng lại trong việc cầm bút dịch bài thơ " tình đầu" này...
    Si tu savais... J'' ai tant rêvé
    Qu'' un jour, tu m'' emmènerais visiter
    Au bord du fleuve, ta maison d'' enfance
    Avec son toit rouge couvant tes nobles espérances...
    .....
    J'' ai tellement désiré
    Qu'' un jour, tu m'' emmènerais visiter
    Cette maison au toit vermeil,
    Et ce fleuve qui a gardé tes espoirs en éveil...
    Si tu savais... - Thanh-Tâm (Traduction)
    Anh đâu biết... em có những giấc mơ
    Mơ một ngày anh dắt em trở về
    Thăm ngôi nhà mái đỏ ven sông
    Giòng sông đó anh sống trọn tuổi thơ
    Ngôi nhà đó anh dệt mộng anh hùng...
    .....
    Em mong lắm, một ngày nào đó
    Anh dắt em trở về
    Thăm ngôi nhà mái đỏ ven sông...
    Thăm giòng sông ướp hoài bão một đời...
    Anh đâu biết... - Trịnh Nguyễn Đàm Giang
  9. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Cái " đầu tiên" bao giờ cũng trân quí vô cùng, đó là những khởi nguyên đột xuất cho nguồn xúc cảm của Chị... tiếp tục tuôn trào, để Chị thênh thang đi vào khu vườn thơ văn của mộng mơ và suy tư, khi có dịp thưởng thức những áng thơ hay khác. Từ đó, Chị có dịp dịch nhiều bài thơ khác, và thêm điều quan trọng nữa cũng nhờ đức lang quân khuyến khích và đồng tình nên Chị cảm thấy vui vui mà tiếp tục làm công việc dịch thuật dài dài... Cái thể điệu (style) dịch của Chị không những thanh thoát mà lại trữ tình, ngữ pháp mà chị xử dụng làm bài thơ đẹp bất ngờ, lai láng ý tình, cho chúng ta tưởng chừng đọc bài thơ dịch Pháp của Chị mà cứ ngỡ như một bài thơ nguyên tác... Chị đã lột được được cái hồn, được cái thần sắc của bài thơ gốc và không quên làm đẹp cho bài thơ bằng một ngôn ngữ mới dưới một hình thức mới, mà nếu ta là độc giả người Pháp chỉ biết tiếng Pháp thôi, thì đọc bài thơ dịch của Chị ta tưởng chừng như đó là chính là bài thơ do Chị sáng tác, gây những âm vang rung cảm trong lòng người đọc khôn nguôi...
    Cũng như khi chúng ta đọc bài thơ Tình Tuyệt Vọng của Khái Hưng (Lòng ta chôn một khối tình, Tình trong giây phút mà thành thiên thu ...), ai có thể nghĩ rằng bài thơ nầy đã được dịch từ bài Sonnet của Felix Avers . Những bản dịch của Chị Thanh-Tâm đã diển tả đúng ý của tác giả bài thơ gốc và đã đáp ứng được yêu cầu mong đợi của tác giả bài thơ gốc cũng như chia sẻ những tư tưởng, tình cảm đến những độc giả khác biệt nhau về phương diện ngôn ngữ khi đọc những bản dịch của Chị. Ngoài những kỹ thuật thơ Pháp mà Chị đã học hỏi và nắm vững, chắc chắn Chị Thanh-Tâm phải có một tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm, những tình cảm chân thành của người yêu thơ say đắm, biết những nét hay vẻ đẹp tinh tế của thơ và biết làm thơ... Xin hãy đọc thử những vần thơ do chính Chị cảm hứng sáng tác, viết lên những lời hoan ca tôn vinh hạnh phúc và tình yêu, bằng những cảm xúc lãng mạn, bằng con tim chân chính mẫn cảm và một tâm hồn rất đỗi thơ và thơ:
    Ba mươi năm trôi qua rồi, mau thật!
    Chợt nhớ lại, thấy lòng bồi-hồii
    Ôi, biết bao kỷ-niệm chồng chất
    Yêu thương hờn giận lúc đầy lúc vơi
    Tâm-hồn thể-chất tuổi xuân xanh
    Em đã trao trọn vẹn cho anh
    Được Trời cho hai con ngoan yêu dấu
    Chúng an lành thành đạt... mình vui thay!
    .....
    Em ước-mong ta bên nhau muôn đời
    Nguyện cùng nhau không thay lòng đổi dạ
    Đến mai kia, lúc về trời
    Hẹn anh tiếp nối cuộc đời kiếp sau...
    Thanh-Tâm - trích bài thơ kỷ niệm 30 năm
    Người làm bài thơ gốc và người dịch thơ có những điểm tương đồng và khác biệt. Họ giống nhau là ở chỗ là chuyển đạt tâm hồn và tình cảm vào chữ nghĩa, bằng những từ điệu và thanh âm gợi cảm dưới những hình thức ngôn ngữ khác nhau...
    Cái điểm khác biệt là sự cảm hứng tự nhiên của người làm bài thơ nguyên tác, và người dịch tái tạo lại cái cảm hứng đó dưới một ngôn ngữ khác. Tuy nhiên công việc dịch thơ cũng không phải đơn giản tự nhiên, đâu phải nghĩ rằng với số vốn ngôn ngữ sẵn có, chỉ cần lắp ghép các con chữ miễn sao đúng với ý nghĩa của chữ trong bài thơ gốc, làm như vậy chỉ có tính cách gượng ép và không đem được cái hồn của bài thơ vào con chữ của ngôn ngữ mới... Với Chị Thanh-Tâm, tôi tưởng chừng việc dịch thơ của Chị là một công trình sáng tạo nhiều hơn là tái tạo. Chị có thể ví như một người họa sĩ đã chấm phá được những cái hay đẹp, mỹ cảm, duyên dáng của những hồn thơ con chữ trong bài thơ gốc, để truyền đạt những cảm nhận tinh nhuệ, những chất liệu sinh động đó vào bức tranh mà Chị tô màu sáng tác. Bức tranh muôn màu tuyệt tác đó ?" không cần làn ranh biên cương của ngôn ngữ chủng tộc ?" mà chính là bức tranh THƠ khi nhìn vào ai cũng cảm thông và đồng cảm được với các tác giả của bài thơ gốc và bài thơ dịch... Khó mà phân biệt được bài nào là gốc, là dịch, phải không các bạn? Như vậy thì dịch giả đâu phải là người " bắt chước" mà họ đã có tinh thần sáng tạo nghệ thuật và sự tinh tế phong phú. Các bạn thử nghĩ xem một bài thơ được viết bằng một thứ ngôn ngữ xa lạ, mà mình không thông thạo, không đọc được và không hiểu được như tiếng mẹ đẻ, thì hỏi thử bài thơ đó có giá trị đối với mình hay không? hay chỉ là một vật vô tri vô giác. Người dịch đã thành công khi đưa những người không đồng ngôn ngữ gần gũi cảm thông nhau hơn, đã biến bài thơ của một ngôn ngữ mà ta không hiểu được thành một món quà tinh thần vô giá, mà ta cảm thông và gần gũi như một bạn tri âm tri kỹ. Chị Thanh-Tâm là dịch giả thành công, mặc dầu Chị vẫn tự nhận là khiêm nhượng, nhưng phong cách dịch của Chị đã thể hiện một bút pháp mẫn tuệ, tài hoa, khéo léo, lựa chọn từ ngữ một cách thông minh, dựa trên cái nền cảm xúc sâu xa và chân thành khi đọc bài thơ nguyên bản.
    Có những bài thơ rất khó dịch vì những từ ngữ liên quan đến triết lý nhân sinh của cuộc đời, quan niệm nho gia thuần túy Á Đông hoặc dựa trên những tư tưởng của tôn giáo và tâm linh... Tình thần Bát Nhã là suối nguồn thanh khiết cảm hứng của những dòng thơ man mác hương vị Thiền. Chị đã làm công việc tìm hiểu, tham khảo rất nghiêm túc về ý nghĩa của những từ ngữ khó hiểu, điển hình là hai bài thơ Thiền (Đóa Hoa Nghiêm ?" Hải Đà, Như Đóa Phù Vân ?" Trường Đinh). Những từ ngữ như viên mãn, vô thủy, vô chung, vô minh, ánh Đạo Vàng... Chị dịch như vậy thì chắc chắn các người Pháp đã hiểu được cái vẻ đẹp sâu sắc, cái mầu nhiệm của thế giới Hoa Nghiêm, cái thể tánh Chân Như và tinh thần Pháp Hoa:
    Tu me questionnes quelle vérité restera;
    Voulant un monde immortel, quelle voie nous y conduira;
    Vers quel horizon sera le rivage de l'' éternel bonheur;
    La vie et la mort ont-elles un moyen libérateur;
    Quels principes viendront à bout envies et tentations;
    Quelle lumière brillera le chemin des illusions.
    Souriant, je demeure songeur,
    Une sérénité sans limite déborde mon coeur,
    Sous la Lumière Dorée de Bouddha, dans ce jardin bienheureux,
    La Fleur " Hoa Nghiem" éblouit d'' un éclat majestueux.
    La Fleur Du Néant " Hoa Nghiem" - Thanh-Tâm (Traduction)
    Em hỏi tôi chân lý nào viên mãn
    Con đường nào về vô thủy vô chung
    Chân trời nào là bến bờ vĩnh phúc
    Con đường nào qua sinh tử muôn trùng
    Nguyên lý nào tiêu tan ái dục
    Ánh sáng nào tỏa lộ vô minh
    Tôi mỉm cười im lặng
    Cảm thấy lòng thanh thản vô cùng
    Ánh Đạo Vàng lung linh vườn Đạo Hạnh
    Ngát thơm hồn nở rộ: ĐÓA HOA NGHIÊM...
    Đóa Hoa Nghiêm - Hải Đà
  10. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Khi Chị chuyển ngữ một bài thơ man mác hương vị Thiền có tính triết lý sâu sắc cao xa, diễn tả cuộc đời phù du mộng ảo, con đường trần ai khổ lụy, như bài Như Đóa Phù Vân của thi-sĩ Trường Đinh, những câu Chị dịch như " Chaque début, chaque nouvelle renaissance / De notre image... arrivent pour partir..." đúng là lột hết ý từ tiêu biểu trong bài thơ nguyên tác một cách độc đáo và rõ rệt:
    Le futur s'' étend vers l'' infini, très lointain
    Le passé s'' envole hors de portée, pour de bon;
    Acclamons la vie qui éclôt si soudain
    À voir le sourire d'' adieu et de séparation.
    La mer par ses vagues apporte les sédiments
    Sur lesquels des brindilles invitent le soleil à venir;
    Chaque début, chaque nouvelle renaissance
    De notre image... arrivent pour partir...
    A L'' image Ephémère Des Nuages - Thanh-Tâm (Traduction)
    chuỗi long lanh ngày mai xa vợi
    dĩ vãng bay ngoài tầm tay với
    ta chiêm ngưỡng ánh đời nở vội
    nhìn nụ cười chào tiễn chia phôi
    biển phù sa nhiệm mầu sóng vỗ
    ngọn cỏ xanh tìm mời nắng ấm
    mỗi sơ khai từng sinh diệt mới
    ta hữu hình? đến để ra đi?
    Như Đóa Phù Vân - Trường Đinh
    Bài thơ khác của Mai Tâm nói về cảnh đời dâu bể, thế thái nhân tình, cái khổ đau hệ lụy trong cuộc sống đời thường, như bóng câu bên khung sổ, như gió thoảng mây trôi... nỗi the thắt bàng hoàng của cái vòng vô thường sinh diệt, cái triết lý nhân sinh của bài thơ cũng đã được Chị Thanh-Tâm dụng công diễn tả rất tài tình. Hai câu cuối: " La vie change, parfois gaie, parfois triste, On finira par " y arriver" , lentement ou... très vite!" đã bộc lộ trọn vẹn tất cả những suy tư mà tác giả muốn nói.
    Des fleurs, des cierges, beaucoup d'' émotions!
    Des douleurs et des larmes, autant d'' afflictions!
    Le paradis, le salut éternel, sont-ils imaginaires?
    La souffrance est vraie et existe! C'' est l'' enfer!
    .....
    La vie change, parfois gaie, parfois triste,
    On finira par " y arriver" , lentement ou... très vite!
    Le Onze Septembre - Thanh-Tâm (Traduction)
    Bó hoa, ngọn nến, những bùi ngùi
    Uất ức, lệ rơi, tiếng sụt sùi
    Thiên đàng hưởng phước! chân hay giả
    Địa ngục a tỳ thiệt chẳng chơi
    .....
    Thế sự vui buồn xoay bao xiết
    Chậm mau rồi cũng sẽ đến nơi!
    Ngày Mười Một Tháng Chín - Mai Tâm
    Chị Thanh-Tâm đã thể hiện qua từng câu thơ, từng chữ dịch được cái linh hồn quê hương Việt Nam, cái mộc mạc nguyên thủy, những hình ảnh chân quê bình dị Việt Nam, những tình cảm tinh tế sinh động Việt Nam... cứ quanh quẩn qua những câu thơ Pháp mà Chị đã chuyển mạch tài tình... Chị đã đem được hình ảnh của trăng sáng quê hương, một mái nhà tranh rưng rưng nỗi nhớ, một con sông nhỏ sóng nước bập bềnh với con thuyền lặng lờ xuôi mái, dạt dào kỷ niệm êm đềm... đến những vòm trời Tây xa lạ muôn trùng, tưởng chừng như những hình ảnh thân quen đó chập chờn ẩn hiện trên bến nước sông Seine, như bài " Si Tu Savais - Anh Đâu Biết" đã kể trên.
    Bằng những câu thơ dịch tràn đầy tư duy và cảm xúc, sâu sắc giàu hình tượng, với ngôn ngữ mới tinh tế và rõ ràng, Chị Thanh-Tâm đã dàn trải những giọt nắng quê hương ấm áp tình người, những lũy tre làng đầy đặn nghĩa tình, những tiếng sáo diều mênh mang nỗi nhớ, nỗi niềm gái quê tha thiết, ăm ắp hương thơm quê nhà mà độc giả tha phương có thể thấy những giá trị truyền thống quê hương, có thể bắt gặp những hình ảnh phương Đông nhẹ nhàng trìu mến đó trong bất cứ nơi chốn xa xăm nào đó
    Je t'' envoie
    quelques brins d'' herbe en bordure des champs,
    le parfum des aréquiers florissants,
    l'' air charmeur des flutiaux de cerf-volant?
    Je t'' envoie
    la fumée du soir émanant des chaumières,
    l'' odeur enivrante du fourrage des rizières,
    l'' image de notre abri au bord de la rivière?
    Je t'' enverrai, en y ajoutant,
    les jacinthes d'' eau aux fleurs violettes, flottantes,
    .....
    Cadeaux Champêtres -Thanh-Tâm (Traduction)
    gửi anh nắm cỏ ven đê
    chút hương cau trắng, đê mê sáo diều
    gửi anh chút khói lam chiều
    hương rơm ngai ngái chiếc lều bên sông
    lục bình hoa tím giữa giòng
    .....
    Quà Quê - Nguyễn Thanh-Trúc
    Thử phác họa vài nét thô thiển đơn sơ về thi ca Pháp, người viết muốn nói thêm cái phong cách trong thơ dịch của Chị Thanh-Tâm. Cũng như bất cứ nền thi ca của một quốc gia nào trên thế giới, thơ Pháp đã trải qua rất nhiều giai đoạn thăng trầm, từ những lúc phôi thai, đến khi hình thành, phát triển và biến thiên theo nhiều chiều hướng và trường phái khác nhau. Các nhà thơ Pháp đã thành lập nhiều thi đàn, thi phái khác nhau như Brigade, La Pléiade, Parnasse... rồi đến thời gọi là Hoa Lệ của thi ca (Belle Époque), các trường phái như lãng mạn khát khao cái tuyệt đối, mang tính nội tâm (Chateaubriand, Musset, Lamartine, Hugo..., trường phái mang khuynh hướng bảo vệ luân lý (Sully Prudhomme...), bộc lộ cái triết lý nhân sinh thống khổ, tuyệt vọng (Baudelaire... ), rồi đến trào lưu tượng trưng chủ nghĩa mang những cái sâu sắc tiềm ẩn cao cả hơn là những lớp son lòe loẹt của hình thức bên ngoài (Paul Verlaine...), qua trào lưu thơ siêu thực tự do về hình thức, đoạn tuyệt với quá khứ (Guillaume Apolinaire, Jacque Prévert), trong khi Paul Valery với ngôn ngữ trừu tượng đã truyền bá sự tự do tư tưởng v.v. Với những phát triển và trau chuốt về hình thức, kỹ thuật thơ, các nhà thơ Pháp luôn tìm kiếm những cái kỳ diệu mới lạ trong nguồn cảm hứng làm thi ca mang tính chất trữ tình, lãng mạn hơn, nhưng thanh nhã, trong sáng và gẫn gũi với quần chúng hơn.
    Đọc những bài thơ dịch của Chị Thanh-Tâm, mặc dầu nói là thơ dịch, nhưng nếu chúng ta quên đi những ý tưởng trong bài thơ nguyên tác, và nếu độc giả chỉ biết một ngôn ngữ mẹ đẻ là tiếng Pháp, thì chắc hẳn sẽ thấy những sáng tạo thơ dịch của Chị Thanh-Tâm man mác những cái sầu êm ái, nhẹ nhàng và băn khoăn như bài thơ " Les Nuages Passants" , có chút gì lãng mạn trữ tình của Musset, Lamartine. .
    .....
    Ses rires cristallins venant de son visage innocent,
    Dans les rues, ensemble nous nous promenons
    Avec quelques lueurs de tendresse et de passions;
    Dans l'' air parfumé, planent ces flocons de fleurs légères,
    Sa chevelure ondule comme un nuage dans le vent
    Qui, avec le doux soleil, caresse ses épaules entières.
    Pense-t-elle encore à ces souvenirs d'' antan?
    Ou bien sont-ils déjà loin comme ces nuages passants...
    Les Nuages Passants - Thanh-Tâm (Traduction)
    .....
    Tiếng em cười tan vỡ thủy tinh
    Cái tuổi hồn nhiên mấy ngõ đường
    Những thoáng vu vơ, những thoáng tình
    Những trời bông phấn thoáng đầy hương
    Mây chiều buông xõa tóc nghiêng dài
    Nắng hồng dịu ngọt thấm bờ vai
    Kỷ niệm có còn trong trí nhớ?
    Hay đã bay rồi, thoáng mây bay...
    Thoáng Mây Bay - Vương Ngọc Long

Chia sẻ trang này