1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Điện Biên Phủ và những điều chưa biết - Phần 1

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi vaxiliep, 30/03/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaxiliep

    vaxiliep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2006
    Bài viết:
    1.180
    Đã được thích:
    2
    Làm bản đồ ĐBP
    Bộ chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ rất cần loại bản đồ tỷ lệ lớn 1/25.000 vùng Tây Bắc và Điện Biên Phủ để nghiên cứu chuẩn bị chiến trường. Mặc dù loại bản đồ này đã được Xưởng sản xuất bản đồ (Bộ Tổng Tham mưu) làm, nhưng do thiếu tư liệu nên chưa phủ kín cả nước, riêng thung lũng Điện Biên Phủ chỉ có bản đồ tỷ lệ 1/100.000, không biểu thị được đủ các chi tiết địa hình dùng cho các đơn vị chiến đấu.
    Bộ Tổng Tham mưu giao nhiệm vụ cho xưởng làm bản đồ Điện Biên Phủ tỷ lệ 1/25.000. Toàn xưởng đang khẩn trương sưu tầm tư liệu thì vào cuối tháng 1 năm 1954 (sáng ngày 28 Tết Giáp Ngọ 1954), đồng chí Trần Ba, cán bộ đồ bản Cục tác chiến mang về một tấm bản đồ tỷ lệ 1/25.000 do quân báo ta lấy được từ tên Tham mưu trưởng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và yêu cầu trong 3 ngày đêm phải làm xong để mang về cho Bộ chỉ huy chiến dịch. Trong giai đoạn này, đối với quân đội ta nói chung, đặc biệt là các đơn vị tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, đây là loại bản đồ quý hiếm nên toàn xưởng rất vui mừng, từ Xưởng trưởng Nguyễn Bá Đạm đến chiến sĩ bắt tay vào làm việc ngay.
    Bản đồ Điện Biên Phủ do quân đội Pháp làm theo phép chiếu hình Bon (Bonne), chất lượng tương đối tốt nhờ áp dụng phương pháp chụp ảnh bằng máy bay rồi vẽ ra bản đồ, nên nội dung luôn được bổ sung mới, thông tin về địa hình chi tiết đến từng con suối cạn, đường mòn, mồ mả, nhà cửa, giếng nước. Riêng dáng đất không vẽ đường bình độ mà thay bằng các đường sống núi, tên địa danh bằng chữ Việt Nam, có phần giải thích bằng chữ Pháp, được in tại Sở địa dư Đông Dương, đóng ở Đà Lạt, trên giấy dày, trắng tinh.
    Theo định mức, xưởng phải vẽ 30 công mới xong bản đồ này, nay chỉ được phép trong 2 ngày đêm. Trưởng ban họa, Nguyễn Văn Tích cắt tờ bản đồ thành 4 mảnh nhỏ giao cho các đồng chí Trần Văn Thụy, Phạm Triền, Nguyễn Ke, Lê Văn Mưu, Ngô Văn Sách, Ngô Chí Tạo, Lê Thị Khánh, Vũ Thị Tân, Ngô Dư, Lê Văn Huấn, Đỗ Danh Liễu, Vũ Đình Nhân, Trần Thanh, Nguyễn Thế Hiệp, chia thành mỗi nhóm 3 người thực hiện, 1 người vẽ, 2 người nghỉ và chuẩn bị, mỗi ca 4 giờ, thay nhau vẽ suốt ngày đêm cho kịp thời gian.
    Căn cứ vào bản đồ của Pháp (còn gọi là nguyên đồ), các đồng chí vẽ các yếu tố vào tờ can bằng giấy bóng do hãng ?oThanh Ba? sản xuất (thay cho phim ảnh, kính ảnh trong sản xuất thủ công). Tờ can đòi hỏi người vẽ chính xác, tỉ mỉ, lực nét, cỡ chữ đúng khuôn khổ, kích thước và có hiểu biết kiến thức quân sự nhất định, vì chỉ cần sai lệch một nét vẽ, một tên địa danh? là ảnh hưởng rất lớn đến quyết tâm chiến đấu và xương máu của bộ đội ngoài mặt trận. Các đồng chí đặt tờ can lên trên nguyên đồ, dùng bút chì kẻ khung trong bản đồ, đường kinh tuyến, vĩ tuyến, rồi vẽ các yếu tố của bản đồ từ các địa vật độc lập, đường, sông, núi? Sau khi vẽ xong bằng bút chì, các đồng chí dùng bút mực đen vẽ phủ lên các nét bút chì đã vẽ, với nét chữ đẹp, nhẵm mặt như các ký hiệu và chữ đã in trên bản đồ. Vẽ xong, tờ can được dán lại, trưởng ban Nguyễn Văn Tích kiểm tra đối chiếu với nguyên đồ không sai sót và chuyển sang ban kẽm.
    Thời gian này xưởng đã dùng kỹ thuật in bản đồ hàng loạt, nhiều màu trên bản kẽm bằng máy in gỗ quay tay và truyền hình vẽ từ tờ can xuống bản kẽm bằng phương pháp nhật chiếu, tức là phơi bản dương đơn giản bằng ánh sáng mặt trời. Ban kẽm do đồng chí Nguyễn Duy Thiết làm trưởng ban đã phân công nhiệm vụ cho các tổ chuyên môn. Một bản kẽm trước khi đến tổ nhật chiếu được đồng chí Trần Văn Dương làm cho sạch các chất béo, chất nhờn, mặt kẽm là một mặt phẳng trên đó hiện ra những hạt kẽm nhỏ mịn, làm cơ sở vững chắc, chân nét để in được nhiều lần. Muốn đạt được như vậy người mài kẽm cần có kỹ thuật và sử dụng thành thạo máy mài kẽm thủ công do đồng chí Hà Hữu Tài cải tiến. Người mài đặt tấm kẽm vào máng, chốt cố định 4 góc cho tấm kẽm không xê dịch, sau đó rải bi kín mặt máng và cho thêm 1/2 số bi đã rải lên trên, 2 bát cát khô, dùng tay đẩy cho máy chạy rồi vẩy đều khoảng 1/2 bát nước cho bi và cát quyện với nhau để mài phá, tẩy xóa hết các yếu tố bản đồ trên mặt bản kẽm đã in trước đây, thời gian mất khoảng 1 giờ; sau đó mất khoảng 1 giờ 30 phút chuyển sang mài màu, đến khi bản kẽm có màu bóng láng là được. Khi mài xong, đồng chí lấy bản kẽm ra khỏi máng, rửa sạch bằng nước lã, tránh để bị xước và ôxy hóa ảnh hưởng đến chất lượng in.
    Bản kẽm mài xong chuyển cho bộ phận nhật chiếu do đồng chí Nguyễn Văn Vũ, Nguyễn Văn Sính và Dương Văn Sửu phụ trách. Tại đây bản kẽm được đưa vào quay trong máy li tâm cho bớt nước, có độ ẩm để rải màng thuốc cảm quang (bắt ánh sáng) cho đều. Thuốc cảm quang là hợp chất của keo cá, thứ keo sinh vật, loại tinh chế, có độ dính nhất định, tuyệt đối không có chất béo với Bicrômát cũng là loại tinh chế, không có tạp chất (gọi là phèn đỏ). Thời gian này keo cá đã hết, xưởng thay bằng keo da trâu. Da trâu được ngâm nước từ 1 đến 2 giờ, cho vào nồi nấu cách thủy, để nguội, dùng vải xô lọc kỹ, rồi cho Bicrômát vào hòa tan với nhau thành thuốc cảm quang. Hai đồng chí dùng thuốc cảm quang tráng đều lên bản kẽm, đem sấy khô. Sau đó các đồng chí đặt bản kẽm vào trong khung ép có mặt kính, úp mặt vẽ tờ can sát mặt thuốc cảm quang, rồi mang ra phơi ánh sáng mặt trời từ 3 đến 5 phút (nếu trời âm u từ 5 đến 10 phút) cho ánh sáng mặt trời đi qua làm hóa cứng những chỗ không có nét vẽ, ở chỗ có nét vẽ bằng mực đen, thuốc cảm quang không bị ánh sáng mặt trời tác động vẫn còn nguyên và sẽ bị tan đi trong nước, lộ ra nét trắng của tờ can. Do bản đồ in các màu: chữ và nét màu đen, đường sá màu đỏ, dáng đất và các vật kiến trúc kiên cố (đình, chùa, nhà thờ, lô cốt) màu nâu, sông suối màu xanh, nước, rừng già màu xanh lá cây đậm, rừng non màu xanh lá cây nhạt, nên mỗi màu là một bản kẽm, nghĩa là tách màu trên bản kẽm. Để tách màu trên mỗi bản kẽm các đồng chí dùng nước gôm A-rập pha loãng, những yếu tố lấy để in thì để lại, những yếu tố không lấy thì bôi phủ đi, xong chà mực chế bản?
    Sau khi nhật chiếu, tách màu xong, bản kẽm không thể dùng ngay để in mà các đồng chí Nguyễn Đức Lâm, Trịnh Văn Thái, Nguyễn Thế Vỹ, Lê Ngọc Xích phải sửa chữa, cạo bỏ những nét thừa, vẽ nét thiếu, tô đậm những nét yếu bằng mực vẽ trên kẽm (mực béo, có chất nhờn nhưng hòa tan trong nước) hoặc tẩy xóa những yếu tố không cần thiết trên mặt bản kẽm. Bản kẽm còn phải sửa trong quá trình in, vì bản đồ in nhiều màu lại phân màu trực tiếp trên bản kẽm và do ảnh hưởng thời tiết mùa đông hanh khô làm cho bàn in đặt giấy khó giữ được phẳng lâu, cùng nhiệt độ ở bản kẽm truyền lên giấy bị co duỗi, làm cho việc in khớp màu rất khó, nhất là màu sông suối, ao hồ.
    Bản kẽm sửa xong được chuyển sang ban in, trưởng ban Nguyễn Văn Ngự đã giao việc in bản đồ và xén cho các đồng chí có tay nghề cao, kỹ thuật vững Nguyễn Đắc Vỹ, Đỗ Văn Bồi, Hà Hữu Nghĩa, Đỗ Văn Cư, Nguyễn Văn Sức, Vũ Văn Trình, Trần Văn Thọ, Đỗ Văn Bằng, Lê Đình Bút, Lê Đình Thắng, Lê Đình Cận. Trưởng ban in Nguyễn Văn Ngự vốn là công nhân của Sở địa dư Đông Dương, có kỹ thuật chuyên môn đã nâng lên kỹ năng, kỹ xảo và bản tính đặc biệt cẩn trọng trong việc đánh mực pha màu, sao cho mực thật nhuyễn, màu thật đúng, chỉ dẫn cho anh em từng động tác sử dụng máy in. Chi ủy viên Nguyễn Đức Lâm luôn có mặt ở những nơi khó khăn nhất, vừa làm vừa động viên anh chị em. Ban in thường xuyên xem xét bảo dưỡng, cải tiến máy in, giảm bớt động tác thừa, làm cho bản đồ in trên máy gỗ quay tay nhưng đạt trình độ khá, có bản in không thua kém gì mấy so với các bản in bằng máy cơ khí, hiệu suất đạt trung bình từ 150 đến 200 ấn suất/ngày.
    Nguyên lý làm việc của máy in gỗ quay tay là mực in truyền từ bản kẽm trực tiếp lên giấy nhờ một bàn ép được kéo qua một thanh gạt có 2 chiếc lò xo ép thanh gạt xuống? Bản đồ được tiến hành in thử khớp màu rồi in thật.
    Do thiếu giấy in ngoại, bản đồ phải in trên giấy bản loại tốt và để khắc phục độ bền của loại giấy này xưởng đã in tăng cơ số lên gấp đôi, từ 200 bản lên 400 bản. Với quyết tâm phấn đấu quyết liệt, suốt 3 ngày đêm không nghỉ, xưởng đã làm được 400 bản đồ Điện Biên Phủ tỷ lệ 1/25.000 vào đúng 17 giờ chiều 30 Tết. Xưởng tổ chức một đoàn chuyển bản đồ, vừa đi vừa hát vui như trẩy hội từ bản Giạo đến cây số 31, quốc lộ 3 kịp giao cho Cục Tác chiến và 20 giờ ô tô chuyển bánh đi chiến dịch.
    Mặc dù đã làm nhiều loại bản đồ, sơ đồ phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị Trung ương Đảng chỉ đạo kháng chiến, từ Xưởng trưởng Nguyễn Bá Đạm, Bí thư chi bộ Nguyễn Thế Tùy cho đến các ban chuyên môn, các đồng chí nuôi quân làm việc quên cả trời rét nước đóng băng, ban đêm phải lấy chăn phủ lên bàn chân, quấn lên người cho ấm. Trong điều kiện không có đèn hoa kỳ, đèn bão, mỗi người phải dùng từ 2 đến 3 chiếc đèn chiếu sáng thắp dầu hỏa được làm bằng vỏ hộp thuốc đánh răng GIB (như vỏ hộp xi đánh giày hiện nay), vỏ ống tiêm. Bàn làm việc ghép tới 10 cây nứa, thành một cái bàn dài, mặt bàn trên lót tấm kẽm (đã loại khỏi dây chuyền sản xuất bản đồ), có 4 chân gỗ cắm xuống đất, ghế ngồi là một cây gỗ tròn, đặt trên 2 cái cọc có chạc để đỡ, cũng cắm xuống đất cho đủ tầm ngồi làm việc. Do khả năng của xưởng có hạn nên làm bản đồ vùng nào là bộ đội sẽ mở chiến dịch ở đó, đồng thời qua nhiều khâu chuyên môn, nhiều người thực hiện, nên việc tuyệt đối giữ bí mật ý đồ chiến lược trong quá trình làm bản đồ được chi ủy viên phụ trách bảo mật Đỗ Khả cùng toàn xưởng triệt để thực hiện 3 không (không nghe, không thấy, không biết).
    Sát cánh cùng toàn xưởng, bộ phận nuôi quân do đồng chí Nguyễn Văn Khoái làm bếp trưởng cùng Nguyễn Thị Phương đảm bảo cho bộ đội ăn 3 bữa cơm nóng, mỗi đêm bồi dưỡng 2 bát xôi sắn. Đề phòng máy bay Pháp bắn phá, các chợ trong khu vực họp vào ban đêm, 5 ngày một phiên, chiến sĩ tiếp phẩm Nông Văn Thiểm với đôi quang gánh, chiếc đèn bão, đi xa hơn chục cây số xuyên qua đường mòn trong rừng có nhiều thú dữ kịp đến các chợ Quán Vuông, chợ Chu, phố Ngữ? mua thực phẩm tươi về bồi dưỡng sức khỏe kịp thời cho bộ đội và chuẩn bị Tết Nguyên đán.
    Bản đồ phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ tỷ lệ 1/25.000 được Xưởng sản xuất bản đồ (nay là Xí nghiệp bản đồ 1, Công ty trắc địa bản đồ, Cục bản đồ, Bộ Tổng tham mưu) làm tại bản Giạo, xã Bộc Nhiêu, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Xí nghiệp bản đồ 1 hôm nay mặc dù được trang bị những máy in hiện đại, tự động hóa, điều khiển theo chương trình, làm ra những sản phẩm chất lượng cao phục vụ quốc phòng và kinh tế, nhưng không bao giờ quên những ngày tháng gian khổ mà hào hùng của cha anh lớp trước, vươn lên trong sản xuất kinh doanh giỏi, xứng đáng với danh hiệu là ?ocái nôi? của ngành bản đồ quân sự Việt Nam.
  2. vaxiliep

    vaxiliep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2006
    Bài viết:
    1.180
    Đã được thích:
    2
    Nhưng dù gì đi nữa cũng phải thừa nhận chiến công lớn nhất của ĐBP là công tác hậu cận. Với sức người là chính, phương tiện thô sơ, đường đi hiểm trở, bom đạn nguy hiểm .v.v.v vậy mà vẫn đảm bảo đủ lương thực và vũ khí cho bộ đội chiến đấu thì đến father thằng Tây cũng phải thua.
  3. vaxiliep

    vaxiliep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2006
    Bài viết:
    1.180
    Đã được thích:
    2
    Chứng tích của trung đoàn dân công xe thồ vận chuyển lương thực
    Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra từ ngày 13-3-1954 đến ngày 7-5-1954. Nhưng thực chất chuẩn bị cho chiến dịch, quân và dân ta đã tiến hành từ cuối năm 1953. Việc chuẩn bị này bao gồm làm đường giao thông, bưu điện, hệ thống các kho tàng quân trang quân dụng, các trận địa pháo, sở chỉ huy chiến dịch, sở chỉ huy các sư đoàn, trừ gian, tiễu phỉ v.v... Nhưng quan trọng hơn cả là phải chuẩn bị lương thực cho hàng vạn người ăn trong cả chiến dịch. Quân Pháp đã chủ quan cho rằng quân ta không thể vận tải hàng vạn tấn lương thực ra mặt trận trong điều kiện rừng núi hiểm trở, dốc cao, suối sâu được. Nhưng chúng đã lầm. Nếu quân Pháp chuyên chở lương thực, khí tài, quân trang quân dụng lên Điện Biên Phủ bằng máy bay, thì nhân dân ta lại thay phương tiện hiện đại đó bằng chiếc xe đạp thồ vẫn đảm bảo cho quân ta đánh thắng.
    Tình cờ trong đống tài liệu hết hạn lưu trữ, tôi đã tìm thấy một hồ sơ về chứng tích một đoàn dân công xe thồ từ Quảng Xương, Thanh Hóa lên Điện Biên Phủ. Hồ sơ bao gồm nhiều chứng từ viết tay của đội trưởng hoặc đội viên nhận tiêu chuẩn gạo muối trên đường thồ gạo, muối ra mặt trận. Cũng may mắn là đa số các chứng từ đều viết bằng bút mực trên giấy dó nên trải qua mưa nắng suốt 50 năm qua nhưng chữ còn rõ, có thể đọc được. Thật cảm động vì có người đau ốm giữa đường vẫn gắng gượng hoàn thành bằng được nhiệm vụ được giao.
    Tập hồ sơ gồm 32 tờ có nội dung tóm tắt như sau:
    Chứng từ là một tờ giấy nhận gạo do ông Nguyễn Văn Bá, người xã Quảng Chính, Quảng Xương nhận 4,8kg gạo của ông Khắc nhân viên kho thóc ở Mộc Châu để ăn tại đó vào ngày 18-12-1953. Đây là ngày sớm nhất của chứng từ số 1.
    Chứng từ 2: ?oTôi Nguyễn Văn Ổn ở Trung đoàn xe thồ Quảng Xương, đại diện nhận cho anh em một số gạo ăn: 24kg tại cửa hàng mậu dịch Mộc Châu vào ngày 20 tháng 12 năm 1953?.
    Chứng từ số 3: Ông Lê Văn Nghiễm, C trưởng dân công xe thồ Quảng Xương nhận số gạo 470kg cho anh em trong đại đội ăn trên đường từ Mộc Châu về suối Rút vào ngày 21-12-1953.
    Chứng từ số 4: Ông Lê Văn Hoàn là trưởng đoàn dân công xe thồ huyện Hoàng Hóa nhận 6.673,6kg muối do ông Bùi Văn Lâm, cán sự Sơn La giao để chuyển từ suối Rút lên công trường làm đường Sơn La vào ngày 21-12-1953.
    Chứng từ số 5: Biên nhận của đoàn dân công xe thồ Quảng Xương do ông Lê Văn Nghiễm làm C trưởng nhận 66.000đ (sáu mươi sáu nghìn đồng ngân hàng) tạm ứng cho đại đội dân công di chuyển từ xóm Má lên Sơn La vào ngày 25-12-1953.
    Chứng từ số 6: Ông Lê Văn Nghiễm nhận 10,56kg muối cho đại đội ăn trên đường hành quân vào ngày 25-12-1953.
    Chứng từ số 7: Ông Bùi Văn Lâm nhận vận chuyển số muối 3.790kg từ chi sở muối Hòa Bình đóng tại Cò Nòi-Sơn La chuyển ra mặt trận vào ngày 25-12-1953.
    Chứng từ số 8: Ông Lê Trọng Thắm, người phụ trách trung đoàn dân công xe thồ Quảng Xương nhận 660kg gạo cho trung đoàn ăn trên đường di chuyển từ xóm Má lên Sơn La vào ngày 25-12-1953.
    Chứng từ số 9: Ông Lê Văn Nghiễm, đại đội trưởng dân công xe thồ Quảng Xương nhận 475kg muối; 50kg gạo ăn; 5.000đ từ ông Trần Đức Thiện, nhân viên cửa hàng Mộc Châu để chuyển lên mặt trận và ăn đường vào ngày 29-12-1953.
    Chứng từ số 12: Ông Nguyễn Văn Bá ở Quảng Chính, Quảng Xương thuộc C ông Lê Văn Nghiễm nhận 4kg ăn đường vào ngày 1-1-1954 tại Mộc Châu.
    Chứng từ số 13: C trưởng Lê Văn Nghiễm nhận 230,4kg cho đại đội ăn đường từ ngày 5-1-1954 đến ngày 9-1-1954. Trung đoàn đang hành quân về phía trước.
    Chứng từ số 14: Ông Lê Văn Ổn, Lê Văn Hượng xã Quảng Hòa thuộc đơn vị ông Lê Văn Nghiễm và ông Nguyễn Đăng Giáp xã Hoàng Giang, Hoàng Hóa nhận 24kg để ăn đường trở về từ Mộc Châu vì các ông bị bệnh không thể đi được về phía trước (6-1-1954).
    Chứng từ số 15: Ông Lê Văn Nghiễm, C trưởng nhận 145.000đ cho đại đội vào ngày 4-1-1954.
    Chứng từ số 16: Ông Lê Văn Nghiễm nhận 23,3kg muối ăn đường cho đại đội vào ngày 4-1-1954.
    Chứng từ số 17: Ông Nguyễn Văn Ba (đơn vị ông Nghiễm) nhận số gạo là 6,4kg vào ngày 6-1-1954.
    Chứng từ số 18: Ông Phạm Văn Tư,å trung đội phó thuộc đại đội ông Nghiễm nhận 5,4kg gạo ăn cho đơn vị vào ngày 6-1-1954.
    Chứng từ số 19: Ông Lê Trọng Thắm bàn giao 3.481,6kg muối cho cửa hàng Mường La do ông Khổng Văn Thịnh đứng ra nhận vào 12-1-1954.
    Chứng từ số 20 : Ông Lê Trọng Thắm phụ trách đoàn xe thồ Quảng Xương nhận của công trường Quyết Thắng một số tiền là 110.100đ về khoản tiền thức ăn cho đoàn dân công Quảng Xương làm nhiệm vụ đợt II vào ngày 27-1- 1954.
    Chứng từ số 21: Ông Lê Văn Nghiễm nhận vận chuyển 555kg muối và 50kg gạo ăn đường.
    Chứng từ số 22: ?oCửa hàng mậu dịch Tạ Khoa chứng nhận đoàn dân công xe đạp thồ do ông Lê Trọng Thắm phụ trách đến cửa hàng hồi 19 giờ ngày 18-1-1954 phải chờ đợi lại 2 ngày vì thu xếp hàng không kịp?.
    Chứng từ số 23: Lệnh chuyển kho từ Tạ Khoa tới Mai Ly bao gồm 17 mặt hàng trong đó có nhiều vải, quần áo và 2.421kg muối, do ông Lê Trọng Thắm ký nhận chuyển đi vào ngày 21-1-1954.
    Chứng từ số 24: Ngày 10-1-1954 ông Lê Trọng Thắm phụ trách đoàn dân công xe đạp thồ Quảng Xương nhận của công trường Quyết Thắng số tiền 1.550.000đ để thực hiện vận chuyển hàng ra chiến trường.
    Chứng từ số 25: Ngày 27-1-1954 các chặng vận chuyển từ Tạ Khoa về Cò Nòi, với công vận chuyển là 1507,37kg gạo đã vay ăn 1297,2kg còn lại 210,13kg. Từ Tạ Khoa đi Mai Ly.
    Chứng từ số 30: Tổng kết số hàng của đoàn dân công Quảng Xương vận chuyển được là 246.478kg đi xa 1.701km. Tổng số tiền trả công cho dân công là 170.976.713đ. Tính ra mỗi tạ gạo, muối chuyển đi chi phí hết 740g gạo.
    Qua các chứng từ nêu trên, có thể hình dung con đường của đoàn dân công Quảng Xương đi như sau: từ Quảng Xương đi Hòa Bình, lên đường số 41 (đường số 6 ngày nay), đến Mộc Ly, lên Yên Ly, tới Cò Nòi, lên Mộc Châu, suối Rút, qua thị xã Sơn La tới Mường La. Có đại đội phải đi đường rẽ một chút như từ Cò Nòi sang Tạ Khoa (đường sang Yên Bái). Hoặc từ Nà Sản sang Mai Ly (đường sang Lào). Con đường 1.701km là con đường gian lao vất vả của trung đoàn dân công xe thồ Quảng Xương Thanh Hóa. Họ thực sự là những công dân của nước Việt Nam anh hùng. Tên tuổi của họ xứng đáng được lịch sử ghi nhớ trong những chiến công chói lọi của dân tộc ta chiến đấu để bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc.
    Người viết bài này cũng hy vọng các cơ quan, đoàn thể có trách nhiệm tới thăm hỏi những người có tên trong bài viết này và nếu họ còn sống thì nên triệu tập đoàn lại họp mặt để ôn lại lịch sử của trung đoàn dân công xe thồ cách đây đã 50 năm góp phần vào chiến thắng vẻ vang của chiến dịch Điện Biên Phủ anh hùng. Hy vọng rằng truyền thống của trung đoàn được lưu giữ mãi.
  4. vaxiliep

    vaxiliep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2006
    Bài viết:
    1.180
    Đã được thích:
    2
    Thợ cối đi chiến dịch
    Khi chiến dịch Điện Biên Phủ sắp mở màn thì ở quê tôi cũng rộn lên một không khí thật sôi nổi. Cách đó hơn hai tháng, quê tôi đã có một đợt tuyển dân công đi phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Đợt ấy cả xã mới tuyển được hơn hai chục nam nữ thanh niên lên đường. Số khác phải ở nhà nhưng ai cũng mong chờ sẽ có dịp khác, thế nào cũng được đi.
    Họ mong chờ có lý. Cán bộ cấp trên huy động dân công đã về xã. Lần này huy động đông hơn nhiều so với trước. Cả xã có tới gần một trăm thanh niên nam nữ được ghi tên vào danh sách, chỉ chờ ngày lên đường.
    Lớp trẻ được đi dân công đợt này ai cũng vui mừng. Các cô gái mười sáu, mười bảy tuổi cũng có trong danh sách. Năm, bẩy ông trung niên cũng rất háo hức. Vào một buổi tối các ông họp nhau lại, cùng nhau hút thuốc lào, uống nước chè và bàn chuyện. Không có chuyện gì ngoài chuyện đi dân công. Ông Hai Đài là người nhiều tuổi nhất trong họ nói với các bạn rằng:
    - So với bọn trai trẻ sức khỏe chúng ta không kém. Tinh thần lại càng không kém. Nếu anh nào muốn xung phong đi dân công đợt này, thì sáng sớm mai cùng đi với tôi lên gặp cán bộ tuyển dân công.
    Tất cả sáu ông trung niên đều đồng ý với nhau. Ông Diên còn nói thêm:
    - Các ông lên gặp cán bộ phải ghi danh sách đầy đủ anh em mình. Chúng ta đều là du kích, có kinh nghiệm đánh địch. Được đi làm dân công cho chiến dịch chúng ta sẽ áp dụng những kinh nghiệm đánh địch, phổ biến cho mọi người thì càng tốt chứ sao.
    Sáng sớm hôm sau, ông Hai Đài và ông Thiện đã đại diện cho các ông ở lứa tuổi trên bốn mươi lên gặp cán bộ tuyển dân công. Ông Hai Đài vừa gặp cán bộ đã bộc bạch, lời nói của ông thẳng như ruột ngựa:
    - Đồng chí cán bộ tuyển dân công à! Hai anh em chúng tôi đại diện cho số trung niên trên bốn mươi tuổi, lên đề nghị với đồng chí phải ghi danh sách anh em chúng tôi đi dân công Điện Biên đợt này.
    Anh cán bộ ngập ngừng:
    - Cấp trên phổ biến yêu cầu đợt tuyển dân công này, lấy thanh niên nam nữ trẻ khỏe.
    - Cấp trên như vậy là không thực tế chút nào. Tuy ngoài bốn chục tuổi, nhưng số anh em chúng tôi, ai cũng khỏe mạnh cả. Ai cũng là thợ cày, bừa, chủ trong gia đình. Chúng tôi còn khỏe hơn cả thanh niên nam nữ trong xã. Đề nghị đồng chí ghi danh sách anh em chúng tôi.
    - Các bác có bao nhiêu người ạ?
    - Khoảng hai chục. Nếu có yêu cầu, chúng tôi còn hơn. Có thể tới bốn, năm chục cơ đấy.
    - Thế thì nhiều quá. Bây giờ thế này vậy. Vì tinh thần xung phong, vì sự nhiệt tình, tôi sẽ phải làm sai ý cấp trên, ghi danh sách khoảng bốn, năm bác vậy.
    - Cho thêm một người nữa đi. Tất cả là sáu. Sáu thằng chúng tôi, tối hôm qua đã họp nhau rồi. Còn lại thì xin đi đợt sau vậy.
    - Các bác đọc tên từng người, cả tuổi nữa ạ.
    - Anh ghi nhé: Nguyễn Văn Hai (tức Hai Đài), 45 tuổi; Nguyễn Văn Thiện, 40 tuổi; Lưu Văn Hưng, 41 tuổi; Phùng Văn Diên, 42 tuổi, Nguyễn Đình Ấm, 44 và Phùng Văn Nguyên, 44.
    Hai ông ghi được danh sách cả sáu anh em thì rất lấy làm phấn khởi. Về nhà ông Hai, cả sáu ông đều có mặt. Ông nào cũng có vẻ mặt tươi hơn hớn.
    Ngày lên đường đã đến. Số dân công của cả xã đợt này là tám mươi người. Đáng lý đều tuổi còn trẻ. Nhưng có sáu người phải lùi lại, nhường cho các ông trung niên có danh sách ?ochen ngang?. Tất cả tám chục người gấp gáp chuẩn bị quang sọt để đựng gạo. Ai cũng đan đôi sọt của mình bằng nan cật tre. Họ lấy mo nang tre lót xung quanh và đáy, mặt trên đã chuẩn bị các tấm lá cọ vừa đủ che nắng, mưa, giữ cho gạo không ngấm nước. Tiếp đến là tập trung đến kho lấy gạo. Quả thật ngay bước đầu chuẩn bị các bác nhiều tuổi đã phát huy kinh nghiệm gói gạo thật gọn và thật kín. Các bác đã giúp mấy chàng trai và cô gái trẻ gói gạo. Mọi người gánh gạo về nhà mình để chiều mai sẽ tập trung lên đường.
    Hành lý của người đi dân công rất đơn giản. Mỗi người chỉ có hai bộ quần áo để dành và một bộ quần áo mặc. Mỗi đôi sọt để gạo phía dưới, còn trên là mỗi bên một bộ quần áo. Đoàn dân công đã tập trung đủ tám chục người. Họ chia ra mỗi tổ từ sáu đến tám người, có già, có trẻ, có nam có nữ. Chia nhỏ như thế để tiện giúp đỡ nhau và tiện ăn uống trên dọc đường đi. Họ phân công nhau mỗi người đều mang thêm một thứ để nấu ăn. Người mang nồi nấu cơm, người mang nồi nấu canh... đủ dùng trong sinh hoạt.
    Lúc chuẩn bị lên đường thì có cán bộ đi đến từng tổ kiểm tra cụ thể từng người. Mọi người đều mang đúng quy định, riêng ông Hai Đài thì có lý do của ông. Ngoài đôi quang sọt ông còn đeo vào người một cái túi dết, trong đó đựng dụng cụ đồ nghề đóng cối của ông. Ông là thợ đóng cối nổi tiếng trong vùng, ai cũng biết thế và còn được nghe ông giảng giải:
    - Tôi mang đồ nghề để khi nào đến bản của bà con dân tộc thiểu số thì tranh thủ đóng giúp họ một chiếc cối xay thóc. Bà con trên Tây Bắc từ lâu đời chỉ dùng con nước làm cối giã thóc, cứ hai ngày đêm mới được một cối, lâu lắm. Cối xay thóc của tôi đóng chỉ trong một buổi sớm đã xay được mười cối gạo. Đem giã cối tay cũng được mà đem ra cối nước cũng chỉ trong nửa ngày là được một cối, có phải nhanh gấp nhiều lần không.
    Nghe ông Hai Đài giảng giải ai cũng thấy là đúng. Đoàn dân công đã xếp hàng lên đường. Họ đi vào lúc mặt trời vừa lặn để tránh máy bay địch.
    Khoảng hơn một tuần, họ đã tới đất Sơn La. Họ phối hợp với dân công các địa phương khác đi nườm nượp hàng ngàn người vui như đi hội. Đoàn dân công xã tôi đêm đó dừng chân nghỉ lại trong một bản người dân tộc Thái. Bản này nằm bên một con suối. Suốt ngày đêm, những cọn nước quay kẽo kẹt để giã thóc. Nghe thật vui tai, đúng là khúc nhạc của miền rừng Tây Bắc.
    Ngủ một đêm đến gần sáng, ông Hai Đài đã dậy sớm hơn mọi người, ra suối để đánh răng, rửa mặt. Ông nhìn thấy những cọn nước quay uể oải giã thóc của bà con bản người Thái, ông nhoẻn miệng cười và về nhà ngay.
    - Mấy thằng nhiều tuổi chúng mình ơi. Cậu nào thấy còn khỏe thì đi với tớ.
    - Đi đâu?
    - Cứ đi rồi sẽ biết.
    Theo sau ông Hai Đài là ông Ấm và ông Thiện. Ba ông leo lên nhà sàn của một gia đình người Thái. Gặp chủ nhà, ông Hai nói luôn:
    - Chúng tôi là dân công ở Phú Thọ lên đây. Chúng tôi đi tải gạo cho bộ đội đánh địch ở Điện Biên, ở dưới xuôi chúng tôi làm ra gạo phải có cối xay thóc. Sau khi xay thành gạo xay thì đem giã. Làm như thế nhanh lắm, mà hơn nữa tránh được gió mưa. Nhà ta có muốn đóng cối xay thóc, tôi đóng giúp cho một cái mà dùng trong gia đình.
    - Lấy cái gì mà đóng cối?
    - Lấy đất tổ mối, lấy gỗ dẻ, tre để làm.
    - Những thứ ấy thì sẵn lắm, thiếu gì. Ông làm thử cho nhà tôi, rồi nhiều người họ thấy tốt sẽ làm theo mà.
    Ngay hôm ấy ông Hai Đài, ông Thiện, ông Ấm bắt tay làm ngay. Ông Hai Đài làm các phần việc chính. Ông Ấm và ông Thiện làm các việc do ông Đài phân công. Ba ông làm cật lực, đến ngang chiều đã xong chiếc cối xay thóc. Ông chủ nhà đem đổ thóc vào xay ngay. Ông mừng quá phải kêu lên:
    - Tốt quá, tốt quá, nhanh gấp mười lần cối nước.
    Ông chủ mổ ngay một con gà trống to, chiêu đãi ba người. Bà con trong bản người Thái thấy lạ đã kéo đến xem lũ lượt và ai cũng tấm tắc khen. Họ muốn đón các ông đến đóng cối xay thóc cho nhà mình ngay. Ông chủ nhà phải lên tiếng can ngăn:
    - Để cho các ông ấy nghỉ để lấy sức đi đường xa.
    - Các ông nhớ lần sau đến đóng nhiều cối xay thóc cho dân bản chúng tôi.
    Đoàn dân công xã tôi đã rời bản người Thái lên đường đi về phía Điện Biên Phủ. Sau khi giao xong gạo cho đơn vị bộ đội, đoàn trở lại để đi tiếp các chuyến khác.
    Dân công tải gạo lên Điện Biên chịu vô vàn khó khăn gian khổ. Lần nào được trú ở các bản người dân tộc thiểu số thì đỡ vất vả hơn. Được dừng chân ở các bản nhỏ chỉ có ít, hầu hết là phải ngủ ngoài rừng. Gió rừng Tây Bắc rét như cắt thịt da, mọi người phải gắng sức mà chịu đựng. Đã chịu rét lại phải chịu muỗi và vắt rừng. Thời đó làm gì có màn mà ngủ, nhưng mọi người phải phát huy sáng kiến chống lại muỗi rừng. Họ lấy lá chuối làm chiếu. Muốn chống được muỗi, họ phải lấy giẻ rách đốt cho khói để đuổi muỗi đi. Họ còn lấy các loại lá có mùi hắc, hay có mùi thơm rải ra cùng với lá chuối. Muỗi và vắt bỏ đi khi ngửi thấy mùi này. Ngủ đã khổ nhưng ăn là khó nhất. Gánh gạo nặng nhưng không ai được ăn. Họ ăn suất gạo dành riêng cho mình. Gạo không được ngon, có khi đã mốc vẫn phải ăn. Trừ trường hợp đặc biệt có người ốm hoặc bị thương thì xin cấp trên lấy ra vài bát nấu cháo.
    Rừng Tây Bắc hồi đó rất rậm rạp và có nhiều thú dữ. Có một đơn vị dân công ngủ đêm ở ven đường đã bị con hổ dữ bắt mất một người. Người chết mất cả xác, anh em có tổ chức đi tìm xác để mang về nhưng không thấy được.
    Đoàn dân công xã tôi cũng như các đoàn khác không quản ngại hy sinh, khó khăn gian khổ. Tất cả vì chiến dịch Điện Biên Phủ mà mỗi người đều tự xác định và động viên nhau vượt qua tất cả bao nỗi khó khăn.
    Lần thứ hai dân công xã tôi vẫn tải gạo lên Điện Biên. Lần này đoàn cũng được ở trong các bản người dân tộc thiểu số. Ông Hai Đài và mấy người khác đã phát huy nghề nghiệp của mình. Các ông lại đóng cối xay thóc giúp bà con. Bà con đề nghị với cấp trên cho ông Hai Đài và mấy ông ở lại giúp bà con đóng cối. Họ đã cử người thay thế các ông.
    Theo nguyện vọng của bà con các bản, ông Hai Đài và hai người bạn được ở lại đóng cối xay thóc giúp đồng bào. Trong gần một tháng các ông đã đóng được gần hai chục cối xay thóc giúp bà con. Họ vui mừng khôn xiết. Nhà nào được các ông giúp đều mổ gà, thậm chí có gia đình mổ cả lợn thết đãi các ông. Ông Hai Đài còn dạy các trai bản biết đóng cối xay thóc cho nhà mình. Khi chiến dịch yêu cầu có nhanh gạo, các bản người dân tộc thiểu số đã ngày đêm thi nhau xay thóc giã gạo để kịp tiếp tế cho bộ đội đánh giặc.
    Ông thợ đóng cối Hai Đài đã đóng góp một thành tích đặc biệt vào chiến dịch, tạo nên chiến thắng lịch sử của dân tộc ta.
  5. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Cách đây 52 năm, Điện biên đã đi vào lịch sử của dân tộc ta cùng sánh vai với Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa !
    Kỷ luật là sức mạnh của quân đội
    "...Có 1 vụ án do vi phạm kỷ luật chiến trường đến nay ít người nhắc tới. Đó là vụ xử tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 18 VK . Toà án binh thiết lập ngay ở mặt trận. Thiếu tướng Lê Thiết Hùng, tổng thanh tra quân đội, ngồi ngay ghế chánh án. VK bị buộc tội dao động, bỏ vị trí chỉ huy, tự động cho bộ đội rút lui trong trận tiến công cứ điiẻm A1, đưa đến hậu quả là bộ đội thương vong nhiều, không hoàn thành nhiệm vụ.
    Cuộc chiến đấu trên đồi A1 vô cùng quyết liệt, tình hình nhiều lúc không rõ ràng. Trong đội hình trung đoàn 102, tiểu đoàn 18 tấn công địch trong điều kiện không hề biết địa hình và sự bố trí của địch, mất liên lạc với cấp trên, tiểu đoàn trưởng cũng không nắm được quân. Không có lệnh nhưng trước tình thế tuyệt vọng, một số chiến sỹ đã tự động rút. Trước toà, VK không được phép biện hộ cũng không có ai biện hộ cho. Vì vậy lời buộc tội của công tố uỷ viên không khỏi làm cho anh thắc mắc.
    Phụ trách cơ quan chính trị, tôi thường nắm tình hình cán bộ của trung đoàn, nhất là các cán bộ tiểu đoàn, đại đội. Trong số các tiểu đoàn trưởng, VK là 1 cán bộ có kinh nghiệm qua nhiều chiến trận, đã từng là đại đội trưởng đại đội chủ công. Giao nhiệm vụ chỉ huy tiểu đoàn "Bình Ca" cho VK, cấp trên đã cân nhắc, chọn lọc. Nhưng làm sao lường hết được những diễn biến tư tưởng lúc gian nguy, đối mặt với cái chết? Chiến đấu ngoài mặt trận không phải chỉ là đấu tranh với địch mà còn phải đấu tranh với chính mình. Đấu tranh với mình cũng có thắng có bại, có thắng lúc này, có bại lúc khác. Bại rồi lại thắng, rèn luyện sao cho bại ít thắng nhiều. Hiếm người chỉ có thắng mà không có bại. VK bị kết án 20 năm tù giam. Nhưng thực tế anh chỉ bị lao động cưỡng bức có 3 tháng 17 ngày, kể từ khi bị bắt nhốt trong 1 hầm cá nhân ngay tại mặt trận. Khhông ai giải thích tại sao anh được thả tự do, ra tù anh được tham gia đoàn cán bộ cải cách ruộng đất, ít lâu sau anh trở lại cuộc sống của người dân thường.
    Mãi gần đây, nhân viết sách này, tôi đến thăm anh. Vốn tính cương nghị, có phần ngang bướng bẩm sinh, người thợ giày từng là cán bộ chỉ huy ấy có lẽ coi thường mọi thứ, kể cả sinh mệnh chính trị của mình. cũng vì thế mà anh chịu ôm hận hàng bốn chục năm, không trình bày, cầu xin với ai hết. Vẫn nét mặt phớt đời như hồi ấy, tuy già đi nhiều, VK kể lại cuộc chiến đấu của tiểu đoàn 18 ở ĐBPvà bi kịch mà anh đã phải trải qua. Mặc dù đau xót và thắc mắc, anh vẫn không một lời oán trách, chỉ tự rút ra bài học cho riêng mình. Với tay nghề cũ, anh trở về làm thợ, có lần làm chủ nhiệm hợp tác xã giầy da ở thủ đô. Và hàng năm, anh vẫn đến dự họp truyền thống các bạn chiến đấu Quân Tiên Phong, ít khi vắng mặt ..."
    Trích từ "Đại đoàn 308 với chiến dịch ĐBP, Phạm Chí Nhân, NXBQĐND 2004
  6. vaxiliep

    vaxiliep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2006
    Bài viết:
    1.180
    Đã được thích:
    2
    Gạo hữu nghị từ đất nước Triệu Voi
    Tôi đang là cán bộ ở đơn vị chiến đấu thì được trên điều về Tổng cục Hậu cần làm nhiệm vụ. Khi tới nơi, Tổng cục họp phổ biến tình hình và giao nhiệm vụ đi vận động đồng bào vùng Tây Bắc ủng hộ gạo, thực phẩm phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, trước khi ta nổ súng. Mọi người đều hiểu sâu sắc nhiệm vụ, thấy giá trị của mỗi cân gạo vận chuyển từ hậu phương lên Tây Bắc mất bao công sức, vượt đạn bom khó khăn như thế nào, nên ai cũng hăng hái hoàn thành thật tốt.
    Trong khi chúng tôi đang khẩn trương thực hiện nhiệm vụ thì một số anh em lại được lệnh đi làm nhiệm vụ mới. Tôi và một số đồng chí nữa được phái sang vùng Nậm U (Lào) huy động gấp gạo, thực phẩm cung cấp kịp thời cho số đơn vị của ta sang phối hợp với bộ đội Pa-thét Lào đánh địch giải phóng vùng Nậm U bị quân Pháp chiếm đóng.
    Thời gian rất gấp!
    Anh Hiệt, cán bộ trung đoàn lúc đó phụ trách chúng tôi, nói: Chuyến này thì quân Pháp nằm gọn trong lòng chảo Mường Thanh, khi ta đốt lửa chúng không bò đi đâu được. Chúng tôi hiểu câu nói đó vừa hình tượng lại rất sâu sắc nên tất cả cùng ồ lên cười vui. Chúng tôi thu xếp thật nhanh rồi lên đường ngay, mặc dù ai cũng biết lần này khó khăn gian khổ hơn nhiều, bởi trước mắt phải vượt qua bao lớp đồn địch đóng, chưa kể sang nước bạn tiếng nói, phong tục tập quán cũng khác với đồng bào Thái Tây Bắc. Tiếng Lào chúng tôi biết rất hạn chế và kinh nghiệm còn ít. Nhưng nhiệm vụ lại vô cùng quan trọng và khẩn trương, chúng tôi hiểu chỉ có làm và làm thật tốt vì không có gạo thì quân ta đánh địch sao được.
    Mấy ngày đêm đi xuyên rừng lội suối, khi đến đỉnh đèo Tây Trang giáp nước Lào, mặc dù quá mệt, song dường như trong lòng mỗi người đều thấy rất vui vì đi theo cách ?ochiếu hướng? mà rất đúng. Tại đây, đoàn chúng tôi họp bàn kế hoạch và phân công nhiệm vụ cho từng người. Nơi tôi đến đầu tiên là tìm gặp nai bản (trưởng bản) trao đổi công việc... Ông rất vui và sẵn sàng đưa tôi đến với bà con Lào. Sau khi nghe tôi nói về việc ủng hộ gạo, thực phẩm để bộ đội Việt Nam cùng bộ đội Pa-thét Lào ăn để đánh Tây, bà con đều nói: ?oGiặc Tây nó ác lắm, nay coong thắp (bộ đội) Việt cùng Pa-thét Lào đánh giặc bà con sẵn lòng cho gạo mà?. Thế là, nhà nhà tiếng chày giã gạo rền vang như tiếng trống ngày hội. Chỉ giã bằng tay, cối lại nhỏ, giã từ hạt thóc đến khi ra hạt gạo trắng chứ không xay giã như ở ta vì thế mỗi mẻ chỉ được vài ba cân gạo. Bà con giã suốt ngày đến đêm thâu, song gạo làm ra vẫn ít so với yêu cầu. Bà con dân bản biết chúng tôi lo lắng nên góp ý cần đi lên các bản vùng cao người Lào Thơng để có đông người làm mới được nhiều gạo. Nghe theo bà con, chúng tôi đi lên bản Voong Ngư. Bà con trong bản cũng rất hăng hái hưởng ứng, song ở đây cối còn nhỏ hơn vùng thấp. Trong lúc đang ?oloay hoay? thì cấp trên điều động anh chị em dân công người Vĩnh Phúc tới chi viện. Thật là nắng hạn gặp mưa rào. Sau một hồi bàn bạc, thế là người nào việc nấy, đóng cối xay thóc, làm cối giã gạo bằng chân kiểu vùng xuôi Việt Nam.
    Khi dân công ta đóng xong cối xay, cối giã cho ra hạt gạo trắng ngần bà con Lào nghe tin kéo nhau đến xem rất đông vui. Anh chị em dân công Việt Nam thấy bà con Lào ăn mặc quá rách chỉ có cái khố, cái váy ngắn nên tự nguyện người biếu quần, người biếu áo... Vật biếu chẳng đáng là bao song người cùng cảnh ngộ, tuy khác nhau tiếng nói nhưng chung một tấm lòng, chung một kẻ thù xâm lược đều vui vẻ.
    Từ khi có thêm lực lượng và phương tiện, kết quả vận động lương thực tạm ổn, nhưng lo lắng lớn lúc này là vận chuyển. Nếu chuyển bằng đôi vai gùi thồ thì chẳng được là bao, lại chậm. Nghe đồng bào Lào nói chỉ nhà chùa là có thuyền to dùng cho ngày hội. Tôi nghe rồi cấp tốc lên đường dùng chiếc mảng con của dân làm phương tiện đi dọc theo sông. Vì không quen luồng lạch sông nước, đến địa phận Hát Khíp, mảng lao vào khu đá giữa sông. Mảng vỡ hất tôi nằm trên mỏm đá. Khi tỉnh dậy, người còn đau ê ẩm. Trên sông không có thuyền bè nào qua lại, hai bên bờ vắng tanh.
    Thật may mắn, trong lúc không biết xoay xở ra sao, tôi gặp đồng chí Tân An, người đã cùng tôi ở chi đội Thái Nguyên cùng đi đánh toán Việt Nam Quốc dân đảng ********* giải phóng Lào Cai. Anh là quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu trên chiến trường Lào. Hai chúng tôi ôm chặt nhau không muốn rời. Tôi sực tỉnh, nói với anh về nhiệm vụ của tôi và vụ vỡ mảng ban chiều...
    Được anh cùng bà con dân bản giúp sức, chúng tôi có phương tiện đưa được gạo về nước phục vụ chiến dịch, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trên giao.
  7. vaxiliep

    vaxiliep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2006
    Bài viết:
    1.180
    Đã được thích:
    2
    Chiến công đầu của phân đội quân báo trung đoàn Bắc Bắc
    Tháng 12-1953, đại đoàn Quân Tiên Phong được lệnh lên bao vây đánh địch ở Điện Biên Phủ. Bộ chỉ huy tiền phương hẹn cho đại đoàn: bảy ngày sau khi nhận được nhiệm vụ, phải có mặt ở Pom Lót để cắt đứt con đường liên lạc của địch ở Điện Biên Phủ với các đơn vị của chúng ở Thượng Lào, đẩy quân địch ở đây vào thế cô lập. Trung đoàn được giao nhiệm vụ cấp tốc băng rừng tiến vào nam Điện Biên Phủ, đóng chốt ở Pom Lót là trung đoàn Bắc Bắc. Đường hành quân vô cùng gian khổ, thời gian lại rất gấp. ?oĐạp bằng mọi trở ngại, quyết nhanh chóng tiến vào Điện Biên Phủ!?. Khẩu hiệu đó được tung ra kịp thời làm cho tất cả cán bộ, chiến sĩ trung đoàn quên cả đói, mệt, băng rừng tiến tới. Ngày thứ sáu sau khi nhận được lệnh của Bộ chỉ huy Mặt trận, trung đoàn Bắc Bắc, đơn vị đầu tiên của đại đoàn Quân Tiên Phong, đã tới điểm hẹn.
    Đóng quân ở Pom Lót, nhiệm vụ của trung đoàn Bắc Bắc là xây dựng trận địa, chặn đánh quân địch, chuẩn bị lương thực để tác chiến lâu dài. Trong khi các đơn vị của trung đoàn làm nhiệm vụ chặn địch lập được chiến công đầu, đánh tan hai lần tiến công của một tiểu đoàn địch từ Điện Biên Phủ nống ra, diệt hai trung đội, thì chiến công của phân đội quân báo, không chỉ trung đoàn mà cả Bộ Chỉ huy tiền phương cũng rất hài lòng.
    Sau ba ngày đi điều tra các vị trí địch đóng suốt một dải từ bản Căng Na tới Nà Noọng, Pe Luông ở phía tây cánh đồng Mường Thanh, toàn phân đội quân báo của trung đoàn tới một khe suối rậm thì hai chiến sĩ Dương Quảng Châu và Nguyên lên cơn sốt rét. Phân đội trưởng đành để hai anh nằm nghỉ ở khe suối, trông coi ba lô của anh em cùng với những tài liệu đã thu lượm được.
    Qua một đêm, sau khi phân đội đã đi khỏi, Châu và Nguyên mới đỡ sốt. Hai anh ngồi dậy, gắng lau lại súng đạn. Chợt có tiếng sột soạt ở phía ngoài cửa khe. Châu quên cả ốm mệt, đứng phắt dậy, chăm chú theo dõi và gọi khẽ:
    - Nguyên! Chuẩn bị chiến đấu!
    Rồi anh nấp ngay vào gốc cây to. Vừa lúc đó, Nguyên nhìn thấy một loạt mũ ?ocao bồi? hiện ra lố nhố ở phía ngoài. Nguyên chạy lại chỗ Châu, lo lắng hỏi:
    - Châu! Thế nào? Bắn chứ?
    Châu lắc đầu, suy nghĩ: ?oLia một băng đạn rồi rút vào rừng cũng được. Nhưng còn ba lô và tài liệu? Giao chiến ư? Nhưng nhỡ cả hai đều hy sinh, để số tài liệu rơi vào tay địch thì sao? Lộ hết bí mật! Mang đi hay hủy tài liệu đều không kịp?. Mấy giây sau, anh quyết định dùng mưu kế hành động.
    Hai mươi mốt tên lính ngụy dần dần kéo vào đầy cả lòng khe. Khi tên đội đang nghiêng ngó chỉ trỏ thì như một mũi tên, Châu lao ra, cắp khẩu tiểu liên bên sườn hô vang:
    - Đứng lại! Giơ tay lên!
    Không để cho bọn địch kịp phản ứng, anh dõng dạc hô tiếp:
    - Toàn đại đội bao vây chặt! Tên nào nhúc nhích, bắn chết ngay! Nếu chúng đầu hàng, sẽ khoan hồng!
    Tất cả bọn lính đều bàng hoàng, đứa nào đứa nấy, mặt trắng nhợt. Không còn kịp nghĩ ngợi, chúng chỉ còn biết đứng chôn chân ngay tại chỗ, có tên run bắn cả hai chân. Không để im lặng kéo dài, Châu hướng vào một lùm cây, gọi to:
    - Trung đội1! Cho người ra tước vũ khí! Còn bọn kia, tất cả bỏ súng xuống đất!
    Nghe Châu ra lệnh, Nguyên hiểu ngay ?ophép? của bạn mình. Anh chạy ra nghiêm chỉnh:
    - Báo cáo! Xin tuân lệnh!
    Chẳng mấy chốc, Nguyên đã thu hết súng đạn của bọn lính ngụy, bó lại, vác vào để ở một khe đá phía sau. Khi qua mặt Châu, anh hỏi nhỏ:
    - Thế nào, làm gì nữa bây giờ? Trói chứ?
    Châu khẽ bảo:
    - Mình chỉ có hai thằng, trói thì lộ. Thôi cứ để đấy cho tớ!
    Châu trèo lên một ngọn cây, rút khăn tay ra đánh tín hiệu đi bốn phía, làm như tiếp tục ra mật lệnh cho đơn vị mình. Xong, anh tụt xuống nói với bọn lính ngụy:
    - Bây giờ cho phép các anh ngồi. Ai đi đâu quá mười bước phải xin phép, nếu không sẽ bị bắn chết tại chỗ!
    Ra lệnh xong, Châu đàng hoàng, khoan thai cùng với Nguyên bước lại đám tù binh, ngồi xuống giải thích chính sách khoan hồng của Chính phủ ta đối với tù hàng binh. Bọn chúng ngoan ngoãn ngồi nghe, vâng dạ hết sức cung kính và sợ sệt.
    Đêm xuống dần. Châu bảo bọn tù binh nhặt củi đốt làm bốn đống lửa ở bốn góc, rồi cho bọn chúng ôm nhau nằm ngủ ở giữa, nói là để cho ấm, nhưng kỳ thực là để cho hai anh dễ kiểm soát.
    Nguyên vẫn còn âm ỉ sốt. Châu bảo bạn đi nằm trước còn anh thì cầm ngang khẩu súng đi đi lại lại bên đống lửa, vừa đi vừa bồn chồn lo lắng: phân đội đi mãi, sao không thấy về? Hay là bị lạc đường?
    Nhưng Châu không ngờ rằng, phân đội quân báo của trung đoàn đã về tới đây từ chập tối, lúc đám lính địch đi nhặt củi, nhóm lửa, còn Châu thì cầm súng canh gác chúng. Nhìn thấy quang cảnh ấy, mọi người hết sức kinh ngạc, phán đoán: có lẽ Châu và Nguyên đã bị địch bắt và chúng đang dùng hai người làm ?ocon mồi? nhử cho cả phân đội trở về để bắt sống hoặc tiêu diệt. Bởi vậy, phân đội lặng lẽ quan sát, chưa vội bắt liên lạc với Châu và Nguyên.
    Theo đề nghị của đồng chí phân đội trưởng, tổ Đảng hội ý tại chỗ để bàn biện pháp xử trí. Qua tất cả những điều đã hiểu về Dương Quảng Châu, mọi đảng viên đều không tìm ra một dấu vết gì đáng nghi ngờ người chiến sĩ quân báo này. Trong phân đội, có người đã năm, sáu năm liền sống, chiến đấu với Châu nên hiểu anh lắm. Ngay từ bé, Châu đã phải bỏ học, bỏ làng, theo mẹ lên miền ngược kiếm ăn. Mùi vị cay đắng của cuộc sống nghèo túng đã tạo nên trong Châu những đức tính đặc biệt. Ấy là sự gan góc, bướng bỉnh, táo bạo, khôn ngoan, ứng biến của những nông dân nghèo khổ luôn luôn bị bóc lột, chèn ép nhưng không chịu lép một bề, khi có điều kiện cũng sẵn sàng ?oăn miếng, trả miếng? với bọn cường hào, lý dịch. Vào bộ đội, Châu được biên chế ngay vào ngành quân báo. Sự giáo dục của Đảng về lý tưởng của người quân nhân cách mạng, cuộc chiến đấu gian khổ, nguy hiểm nhưng cũng hết sức dũng cảm và lý thú của các chiến sĩ quân báo đã giúp Châu dần dần khắc phục được chỗ yếu, không ngừng phát huy chỗ mạnh vốn có. Ngay trong đợt thực tập điều tra vị trí Thái Đào và bốt Mỹ trong chiến dịch Trung du cuối năm 1951, đầu năm 1952, Châu đã tỏ ra là một chiến sĩ biết tôn trọng lời hứa quyết tâm của mình. Anh đã cùng đồng đội dũng cảm, bí mật vào giữa bốt Mỹ điều tra, sau đó lại dẫn tiểu đoàn bộ đội địa phương vào hạ đồn trong chớp nhoáng. Sau trận này, anh được thưởng huân chương Chiến công hạng hai. Điểm lại quá trình chiến đấu của Châu, đem so với tình hình hiện tại, vấn đề trở nên khó kết luận. Nhưng đột nhiên, Thụy, một chiến sĩ gan dạ của phân đội, nêu một ý kiến làm ngạc nhiên tất cả:
    - Châu nó gan dạ lắm! Có thể nó bắt sống được tất cả bọn kia chứ chẳng phải bọn kia bắt sống được nó.
    Ngẫm kỹ, mọi người thấy ý kiến của Thụy có lý. Phân đội trưởng liền cử Thụy và hai chiến sĩ Côn, Mà xuống thử bắt liên lạc với Châu, còn toàn phân đội sẵn sàng chiến đấu, đề phòng bất trắc.
    Lúc ấy, dưới suối, Châu vẫn đi lại, bồn chồn mong ngóng. Chợt có một tiếng sỏi rơi nhẹ phía sau. Anh quay lại thì thấy Thụy đang chỉ thẳng khẩu súng vào mình, quát khẽ:
    - Thằng Châu! Mày hàng giặc à?
    ?oNguy rồi!? - Châu thoáng nghĩ. Anh biết, nếu anh chỉ lúng túng một giây để Thụy không tin thì lập tức ăn đạn ngay. Anh ném vội khẩu súng xuống đất, kêu lên:
    - Đồng chí Thụy! Tôi là đảng viên, không đời nào đầu hàng giặc! Chính tôi đã bắt sống lũ tù binh kia!
    Thụy đứng sững, ngẩn người. Ý nghĩ của anh về đồng chí của mình là đúng, mà lúc đó, anh nghe lại thấy bất ngờ quá. Anh nhảy đến bên bạn:
    - Châu ơi! Cậu giỏi quá!
    Bọn tù binh choàng tỉnh dậy, ngơ ngác. Khi chúng kịp hiểu ra thì cả phân đội quân báo đã ập tới, đặt chúng trong vòng vây dưới lòng khe.
    Qua đêm ấy, Châu cùng với các chiến sĩ Côn, Thảo được giao nhiệm vụ đưa 21 tên tù binh về sở chỉ huy tiền phương của đại đoàn. Trên đường về, họ lại gặp một toán 11 tên lính ngụy khác từ ngoài cánh đồng đang tiến vào rừng sục sạo. Rất bình tĩnh, Châu bảo anh em giấu kín đám tù binh phía sau, bất ngờ xông ra dùng báng súng đánh ngã hai tên đi đầu, trong đó có tên cai xếp. Thế là cả 11 tên giặc kinh hãi, giơ tay xin hàng. Số tù binh đang từ 21, bỗng chốc đã lên 32.
    Về tới gần dãy núi ở khe Hồng Lếch, nhóm của Châu gặp một bộ phận của đại đoàn đang bố trí bảo vệ đại đoàn trưởng vào nghiên cứu trận địa. Châu được gặp ngay Bộ tư lệnh đại đoàn, bàn giao tù binh cho các đơn vị khai thác.
  8. vaxiliep

    vaxiliep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2006
    Bài viết:
    1.180
    Đã được thích:
    2
    Trận địa mặt đường
    Việc tổ chức tiếp tế cho mặt trận Điện Biên được Chính phủ quy định: từ các ngả đường hậu phương lên đến ngã ba Cò Nòi do Hội đồng cung cấp Mặt trận đảm nhiệm, Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch Hội đồng. Sở chỉ huy tiền phương đặt tại Cò Nòi để liên hệ giao thông nhận với tuyến hậu cần quân đội, từ Cò Nòi đến Mường Thanh do quân đội đảm nhận.
    Tổng cục Hậu cần tiền phương ở Điện Biên Phủ đã chia đoạn đường 172km, từ Cò Nòi đến Mường Thanh thành 3 tuyến Hậu cần: tuyến Cò Nòi đi Tuần Giáo dài 80km, tuyến Tuần Giáo đến km62 dài 62km, tuyến cuối cùng gọi là Hỏa tuyến đưa vật chất đến các kho hậu phương của các đại đoàn.
    Anh Đinh Đức Thiện khi ấy làm Cục trưởng Cục Vận tải được giao nhiệm vụ tuyến trưởng tuyến Cò Nòi - Tuần Giáo, tôi làm tuyến phó phụ trách vận tải. Trên tuyến hậu cần, ngoài nhiệm vụ vận tải chúng tôi còn phải chỉ huy các lực lượng hậu cần trong khu vực như các trạm quân nhu, quân y và các đơn vị chiến đấu như bộ binh, pháo cao xạ, thông tin... bảo vệ tuyến đường.
    Tôi nhớ ngày tôi được anh Thiện giao nhiệm vụ đưa anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh, Bí thư đảng ủy Mặt trận Điện Biên Phủ-BT), vào đến Tuần Giáo bàn giao cho tuyến trong do anh Vũ Văn Đôn phụ trách. Dọc đường đi, trên chiếc xe Jeep chiến lợi phẩm, anh Văn nói: ?oMình đi trên con đường mới mở, từ Lũng Lô, Tạ Khoa sang, càng đi càng thấy đường sá hiểm trở, ngã ba Cò Nòi đã thành cái ?otúi bom?, đèo Pha Đin cũng bị phá hoại nặng nề, nghĩ tới vấn đề tiếp tế cho mặt trận, đường quá dài, người ở tiền tuyến cần gạo nhưng người vận chuyển cũng cần gạo. Vấn đề tiếp tế của các cậu sẽ trở nên gay gắt, khi chiến dịch kéo dài, các cậu phải cố gắng đấy!?. Tôi vâng lời và cũng đã lường tính đến nhiệm vụ gay go của tuyến mình, khi phải ?ogồng lên? lo rót vào tuyến trong sao cho đủ 100 tấn/ngày, thì mặt trận mới khỏi đói.
    Nhưng sau hội nghị 14-1-1954 ở hang Thẩm Púa (km15 đường Tuần Giáo đi Điện Biên Phủ), được nghe phổ biến thời điểm nổ súng được quyết định là 17h ngày 25-1-1954, thời gian chiến dịch ước độ 45 ngày, thì từ Chủ nhiệm Hậu cần mặt trận đến chỉ huy các tuyến hậu cần đều thấy nhẹ nhõm, vì khả năng vận tải lúc này đang sung sức, có thể đáp ứng được trước khi mùa mưa tới.
    Tôi về đến sở chỉ huy của tuyến ở Sơn La, bàn bạc công việc với anh Thiện để triển khai, chưa được mấy ngày thì nhận được điện: Theo nghị quyết của Đảng ủy mặt trận ngày 26-1-1954 thì phương châm tác chiến thay đổi là ?ođánh chắc tiến chắc? do đó ngày nổ súng sẽ phải lui lại chưa rõ đến bao giờ.
    Quyết định thay đổi phương châm để có thêm nhiều thời gian cho chiến trường bảo đảm đánh chắc thắng là một quyết định dũng cảm và chính xác, nhưng để thực hiện phương châm ?ođánh chắc tiến chắc?, công tác hậu cần và vận tải bảo đảm cho một chiến dịch lớn vốn đã khó khăn thì nay lại càng khó khăn gấp bội.
    Đồng chí chỉ huy trưởng mặt trận điện về Bộ Chính trị. Một lớp học có 300 cán bộ cao cấp đang học về cải cách ruộng đất đã được giải tán trước thời hạn để lên đường bổ sung cán bộ cho các tuyến hậu cần, vận tải, làm cán bộ chỉ huy các đơn vị dân công. Bộ máy hậu cần chiến dịch lên tới hơn 3.000 người, nay vẫn phải tiếp tục tăng thêm lực lượng.
    Các đồng chí ủy viên Trung ương Đảng được Bộ Chính trị cử về các địa phương lo việc tiếp tế, vận chuyển: đồng chí Văn Tiến Dũng vào Thanh Hóa; đồng chí Nguyễn Chí Thanh lên Việt Bắc; đồng chí Nguyễn Văn Trân trực tiếp chỉ đạo công tác vận chuyển tại Cò Nòi; đồng chí Lê Văn Lương ở tại Văn phòng Trung ương để đôn đốc công việc.
    Quyết định mới của Bộ Chính trị là phải huy động thêm lên Điện Biên Phủ 1 vạn tấn gạo, 400 tấn thịt, 600-700 tấn rau và thêm 10 ngàn dân công mới, kể cả ở Cao Lạng và các tỉnh vùng tạm chiếm.
    Để tăng cường khả năng vận tải cho tiền tuyến, ngoài hai tuyến đường bộ, hậu phương còn tổ chức hai tuyến đường thủy từ sông Thao lấy gạo Phú Thọ, Vĩnh Phúc và sông Mã từ Thanh Hóa lên Suối Rút với 11.800 thuyền gỗ, thuyền nan các loại. Ở tiền phương cũng tổ chức tuyến đường vượt thác dữ trên dòng sông Nậm Na, đưa 1.700 tấn gạo viện trợ của Trung Quốc từ biên giới về Lai Châu. Sông Nậm Na lắm thác, nhiều ghềnh nguy hiểm, đội công binh phá thác của anh hùng Phan Tư đã dũng cảm khơi được một vài luồng bớt dữ. Một đại đội dân công huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ được giao nhiệm vụ lái mảng, đưa gạo về Lai Châu, trên chặng đường 120km này. Mảng xuôi có gạo xuống 1 ngày, lại đi bộ men sông lên 3 ngày để nhận mảng chuyến sau, áo quần ướt sũng, vừa đi vừa chạy cho nóng người để khô hong quần áo vì thời gian chiến dịch là vàng bạc, không thể chậm trễ. Các chị dân công trẻ đẹp mảnh mai đã chiến đấu cật lực trên dòng sông hung dữ này, lập nên những kỳ tích anh hùng, với hơn 700.000 cây nứa, các chị ghép thành 11.600 chiếc mảng, lần đầu tiên tập chở 4 người/1 mảng, chở 100kg gạo vẫn bị ướt, vài ngày sau, dần dần rút lại 3 người/1 mảng, rồi 2 người, sau là 1 người/1 mảng, chở 300kg gạo không bị ướt. Cuối cùng, 1.700 tấn gạo đã về tới Lai Châu trước thời hạn. Toàn đại đội nữ dân công tài giỏi và dũng cảm này đã được Nhà nước tặng huân chương Chiến công, nhưng đối với chị em quê hương đất tổ Hùng Vương thì không gì vinh dự bằng việc hoàn thành nhiệm vụ đối với xóm làng đã cử mình đi chiến dịch.
    Các chiến sĩ lái xe trên các tuyến đường ô tô cũng phải ngày đêm vật lộn với đường sá ngày càng lầy lội và hệ số kỹ thuật xe cứ tụt dần, nhất là ở tuyến Cò Nòi-Pha Đin. Lúc này toàn miền Bắc nước ta, ở vùng tự do chỉ có 534 xe ô tô vận tải, thì riêng 3 tuyến hậu cần được phân phối 352 xe, phía sau có 182 xe, nếu kể cả xe kéo pháo, sau khi đã đưa pháo vào trận địa, quay ra phục vụ vận tải thì có thêm 150 xe nữa, tổng cộng là gần 700 xe ô tô tham gia vận tải cho chiến dịch, trên đường dài hàng ngàn km, từ các ngả hậu phương lên hỏa tuyến, trong điều kiện bom đạn, mưa lũ.
  9. vaxiliep

    vaxiliep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2006
    Bài viết:
    1.180
    Đã được thích:
    2
    Bản người Thái đón bộ đội
    Trưởng bản người Thái là Lò Khăm, nhìn những chiếc tàu bay Pháp bay ầm ì trên bầu trời suốt cả đêm lẫn ngày lên Điện Biên Phủ. Anh phỏng đoán là thằng Pháp định giở trò gì đây! Bản nhỏ của anh mới rồi bị máy bay Pháp thả bom na-pan. Cả bản có 58 ngôi nhà sàn làm từ lâu, vậy mà những ngọn lửa bom na-pan của giặc Pháp đã thiêu thành tro bụi. Bà con ở bản của anh phải sống kham khổ trong những ngày mưa nắng. Họ sống chui lủi trong các bụi cây, trong hang đá. Gay go nhất là cả bản không còn một hạt gạo để cho người già và các em nhỏ ăn. Các gia đình đều phải đi đào củ mài, hái rau rừng và măng giang, măng nứa sống qua ngày, đoạn tháng. Cuộc sống cứ kéo dài như thế mất hơn sáu tháng trời. Người nào người nấy, da dẻ, mặt mày xanh mướt, đúng là người ốm đói. Vượt qua đói khổ, bà con người Thái đã động viên nhau lên đồi phá rẫy trồng ngô khoai sắn, trồng lúa để đợi mùa sau. Qua sáu tháng chịu đựng đói khổ, một mùa thu hoạch đã được bù đắp cho bà con cả bản. Bà con ai cũng nói: ?oGiặc Pháp thì tàn ác dã man, nhưng dân bản lại có Trời thương, Đảng mến, đã cứu dân bản Thái của mình?. Sau mùa thu hoạch thắng lợi, bà con trong bản giúp nhau dựng lại nhà ở. Cả 58 ngôi nhà sàn khang trang đã được dựng lại bên bờ con suối trong mát. Tuy nhiên, bọn người xấu làm tay sai cho Pháp đã lén lút đến bản. Chúng nói: ?oLàm nhà để làm gì. Nay mai Pháp ở Điện Biên kéo về lại đốt sạch, cướp sạch. Cứ đi theo Đảng, theo ***** thì Pháp nó không để yên đâu?. Dân bản hầu hết không nghe những lời nói của bọn xấu, nhưng cũng có một vài người nửa tin, nửa ngờ lại suy nghĩ mà lo lắng. Một hôm trưởng bản Lò Khăm đang chăn đàn lợn béo của gia đình, thì một ông già chống gậy đến nhà. Ông quan sát ngôi nhà, rồi đàn lợn, đàn gà mà thấy thèm muốn. Ông tự bộc bạch nói với trưởng bản Lò Khăm: ?oMấy tháng trước, ta cũng định làm như trưởng bản, nhưng nghe có người đến nói là Pháp sắp về cướp phá nên ta không làm được như ý mình?.
    - Rõ khổ quá, nó nói sai, nói láo thì ông nghe. Còn Đảng và Bác Hồ, cán bộ nói đúng thì ông lại không nghe. Từ nay thì đừng nghe bọn nó nữa. Có gì không biết ông cứ đến đây, cháu sẽ nói chuyện, giảng giải điều hay lẽ phải cho mà nghe.
    Ông già tự lấy làm xấu hổ, đứng lặng không nói gì. Ông tỏ ra hối hận vì những suy nghĩ của mình. Mặc dù trưởng bản mời lên nhà uống nước, nhưng ông cắm đầu lùi lũi đi về nhà mình.
    Bản Thái sống rất yên bình và rồi bỗng trở nên sôi động hơn. Trưởng bản Lò Khăm đi lên huyện họp. về đến nhà anh đánh một hồi kẻng báo cho dân bản đến tập trung ở nhà anh. Nghe tiếng kẻng bà con ai cũng đến ngay nhà của trưởng bản. Cuộc họp hôm nay, trưởng bản có vẻ rất vui, anh nói ngay với mọi người:
    - Bộ đội Bác Hồ đang từ dưới đồng bằng lên đây đánh bọn Pháp ở Điện Biên. Cán bộ trên huyện, trên tỉnh đã phổ biến cho chúng tôi biết, tất cả bà con mình phải chuẩn bị đón tiếp bộ đội. Mình phải tận tình giúp đỡ bộ đội bằng mọi khả năng có được. Tôi nói ngắn thế này thôi. Mỗi gia đình cố gắng nuôi một hai con lợn, mười con gà, để dành được từ mười cum lúa nếp? để khi bộ đội đi qua thì tiếp tế cho anh em. Ai thấy khó khăn thì lên nhà tôi, tôi sẽ chỉ cho cách làm ăn. Bà con không ai có ý kiến gì. Họ nhanh chân về nhà ngay. Chỉ sau một phiên chợ, tất cả bà con trong bản đã có gần đủ số lượng như yêu cầu. Riêng gia đình của trưởng bản đã vượt mức đề ra. Trong chuồng lợn đã có bốn con lợn to nuôi từ lâu, anh lại mới mua thêm ba con lợn nhỏ. Nuôi 7 con lợn khá vất vả, nhưng ở vùng này sẵn có chuối rừng. Lấy chuối rừng về băm nhỏ, cho một chút bỗng rượu vào ngâm. Đàn lợn nhà anh ăn thức ăn này càng nhanh lớn, con nào cũng béo tròn.
    Chiều nay lên xã họp về, anh được thông báo là năm, sáu ngày nữa, sẽ có bộ đội hành quân qua. Anh về ngay bản, đến từng gia đình. Sau khi báo tin, anh đều dặn dò: ?oPhải tuyệt đối giữ bí mật đấy. Ai làm, người ấy biết, tự gia đình mình biết với nhau thôi?. Có người cụ thể hơn đã hỏi trưởng bản:
    - Mình chuẩn bị thứ gì để đón bộ đội?
    - Những thứ mà tôi đã nói trước đây. Không ai ép ai, tự nguyện ủng hộ. Phải thông từ cái đầu của mình, phải tự nguyện từ trái tim của mình.
    - Đồng ý với trưởng bản đấy. Mà ai đã không thông, không tự nguyện đâu nào? Hỏi vậy cho rõ, chứ ai cũng thông.
    - Bà con nghe tôi chia thế này nhé: Cứ sáu đến bảy gia đình sẽ cùng nhau mổ một con lợn. Tôi sẽ chỉ định cụ thể. Mỗi gia đình cũng chỉ giã khoảng một, hai cum lúa là cùng. Làm bấy nhiêu đã, ta phải đón nhiều bộ đội mà.
    Bà con trong bản tự ghép nhau thành các nhóm gia đình. Trong các nhóm đó họ còn phân công nhau, ai mổ lợn trước, ai mổ lợn sau.
    Bên bờ suối kéo dài hàng cây số, tất cả các cọn nước quay đến suốt đêm ngày. Cứ một đêm, một ngày lại có hai đến ba cối gạo nếp được giã. Gạo trắng và thơm, lúa nếp của người Thái rất ngon và dẻo. Nhà nào nhà nấy đã chuẩn bị xong đâu đấy.
    Như được báo trước. Đêm hôm đó bộ đội về bản làm cho cả bản vui nhộn hẳn lên.
    Buổi tối trước khi đi ngủ, nhà nào nhà nấy đều nấu những nghênh nước to. Anh em bộ đội trước khi đi ngủ đều được rửa ráy rồi ngâm chân nước nóng. Đây là phong tục lâu đời của người Thái. Đối với các chiến sĩ bộ đội còn có tác dụng làm cho đôi chân sau một chặng đường hành quân được hoàn lại, không bị đau, mỏi.
    Mới gà gáy canh ba, cả bản đã nhộn nhịp, đỏ đèn, đỏ lửa. Các nhóm gia đình đều bắt tay mổ lợn. Người Thái rất giỏi làm lợn. Những con lợn được bắt đem mổ không thấy tiếng kêu. Dân bản cứ chuẩn bị còn bộ đội thì cứ ngủ ngon.
    Bản người Thái còn cách xa đồn Pháp đóng quân, nên buổi sáng người chỉ huy đã thổi còi báo thức bộ đội dậy. Bộ đội răm rắp làm đúng các quy định sinh hoạt của mình.
    Sau những ngày tạm trú, bộ đội lại hối hả lên đường tiến về phía Điện Biên. Bộ đội đi thì dân thương. Bản ở lại thì bộ đội nhớ. Tình quân dân như cá với nước, son sắt một lòng, chắc chắn sẽ chiến thắng to lớn.
  10. vaxiliep

    vaxiliep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2006
    Bài viết:
    1.180
    Đã được thích:
    2
    Đường kéo pháo qua núi An Tao
    Thu-Đông năm 1953, đại đoàn 312 chúng tôi đang trú quân ở tỉnh Phú Thọ (đất tổ Hùng Vương) được lệnh cấp trên tiến quân lên chiến trường Tây Bắc chiến đấu với giặc Pháp ở mặt trận Điện Biên. Ròng rã hành quân hơn một tháng trời, chúng tôi mới đến được mặt trận Điện Biên. Cấp trên cho nghỉ 3 ngày ở nơi tập kết, ổn định ăn, ở, tắm giặt. Sức khỏe cán bộ, chiến sĩ trở lại bình thường, ai cũng vui bắt tay ngay vào công việc chuẩn bị chiến đấu, đi lĩnh súng, đạn, gạo, thực phẩm.
    Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn giao nhiệm vụ ngay trên thực địa cho các trung đoàn đánh trận đầu tiên. Trung đoàn 141-209 tập trung chuẩn bị đánh cụm cứ điểm Him Lam là cụm phòng thủ tuyến ngoài của tập đoàn cứ điểm địch ở Điện Biên. Còn các cán bộ cấp phó chúng tôi từ đại đội phó trở lên đến đại đoàn phó ở nhà chỉ huy bộ đội làm đường kéo pháo. Tôi lúc ấy là tiểu đoàn phó tiểu đoàn 115, trung đoàn 165, được gọi lên trung đoàn cùng các anh tiểu đoàn phó 564-542. Trung đoàn giao nhiệm vụ cho chúng tôi cùng các cán bộ công binh cấp trên đi khảo sát làm con đường kéo pháo. Đi liên tục 3 ngày mới khảo sát xong. Đại đoàn phó Đàm Quang Trung phân công trung đoàn 165 đảm nhiệm làm đường kéo pháo từ đỉnh núi An Tao, vào đến trận địa pháo phía Bắc sân bay Điện Biên, để bắn vào các trận địa địch ở trung tâm chỉ huy của tướng Đờ Cát. Trước mắt, trận địa pháo này bắn chi viện cho trung đoàn tấn công vào cụm cứ điểm đồi Độc Lập. Trung đoàn 141-209 làm đường kéo pháo từ phía Đông Nam đèo An Tao, vào đến các trận địa pháo, bắn chi viện cho hai trung đoàn tấn công vào cụm cứ điểm Him Lam.
    Đoạn đường trung đoàn 165 đảm nhiệm chỉ hơn 8km, nhưng phải qua nhiều đồi núi, khó nhất đoạn vượt qua núi An Tao. Trung đoàn lại giao cho tiểu đoàn 115 đảm nhiệm làm có 2km đèo cao, dốc đứng, vực lại sâu. Chúng tôi chỉ huy đưa bộ đội ra làm, được nhiều cấp cán bộ công binh, pháo binh đến hướng dẫn kỹ thuật làm đường, nhiều cán bộ cơ quan đến động viên, chiến sĩ phấn khởi làm hết sức mình.
    Hồi đó, cán bộ, chiến sĩ đơn vị tôi rất quý mến anh kỹ sư Urăng, người dân tộc Êđê, phụ trách con đường kéo pháo phía Bắc này. Ngày nào cũng thấy anh trên mặt đường, thường xuyên cùng với chiến sĩ làm các đoạn đường khó nhất trên đỉnh núi An Tao. Thời gian chỉ sau chưa đầy một tháng, chúng tôi hoàn thành con đường kéo pháo, ai cũng vui mừng,
    cấp trên lại giao cho đơn vị tôi nhiệm vụ trực tiếp kéo pháo. Tôi phân công mỗi đại đội phụ trách một khẩu đội pháo cùng các đồng chí pháo binh kéo pháo. Chỉ huy là cán bộ pháo binh, thống nhất đẩy, kéo, các đại đội phải theo lệnh các đồng chí ấy. Các đồng chí pháo binh tổ chức phân công cho từng pháo thủ, từng khẩu, bộ phận rất cụ thể, như: Đội kéo, đội đẩy, tổ tời, tổ chèn pháo. Chỉ có đẩy pháo tiến lên, không được để pháo lùi, tụt xuống vực là trách nhiệm chung ai cũng phải lo. Các đồng chí đại đội chỉ xen kẽ vào các tổ của pháo binh theo yêu cầu. Khi kéo đẩy pháo, phải theo lệnh chỉ huy thống nhất, nhịp nhàng. Có lệnh phất cờ tiến lên, dừng lại, kết hợp miệng hô một-hai-ba, là cùng nhau kéo đẩy pháo lên. Công việc đẩy, kéo pháo vượt qua đồi cũng rất khó khăn vất vả lắm rồi, ngại nhất là đoạn đường kéo, đẩy pháo vượt qua đỉnh núi An Tao. Đoạn này rất đứng, vực lại sâu, chúng tôi phải điều thêm đại đội bộ binh nữa đến hỗ trợ thêm cho từng khẩu đội pháo mới đẩy kéo pháo qua được. Khó khăn vất vả vô cùng. Những lúc bộ đội kéo pháo như thế, nhiều cán bộ cấp trên, cả cơ quan đến động viên cổ vũ. Tôi thấy đồng chí Phạm Ngọc Mậu-Chính ủy đại đoàn công pháo cũng có mặt, cả cán bộ chỉ huy đại đoàn 312 như đồng chí Đàm Quang Trung cũng đến, còn đem theo cả văn công đại đoàn, do nhạc sĩ Hoàng Vân chỉ huy. Họ hát hò, cổ vũ động viên bộ đội ta kéo pháo rất khí thế. Từng khẩu, từng khẩu vượt qua đỉnh núi An Tao. Ai cũng vui mừng phấn khởi, từ người chiến sĩ đến các cán bộ chỉ huy cao nhất, niềm tự hào quyết tâm được nhân lên, bộ đội tin nhất định ta đánh thắng giặc Pháp ở mặt trận Điện Biên.
    Nhạc sĩ Hoàng Vân xúc động dõi theo từng khẩu pháo vượt qua đèo An Tao theo tiếng hô trầm hùng của các chiến sĩ và giai điệu bài ?oHò kéo pháo? đã rung lên trong anh chính từ nơi đây:
    ?o... Dốc núi cao cao, nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi.
    Hai-ba này! Vực sâu thăm thẳm, vực nào sâu bằng chí căm thù...?
    Phải nói bài ca ?oHò kéo pháo? đã nói lên được ý chí quyết tâm của các chiến sĩ pháo binh và bộ đội ta kéo pháo đến được tất cả các trận địa để bắn vào đồn giặc. Các trinh sát trắc địa ta đang đo đạc các phần tử bắn vào các mục tiêu, thì lệnh cấp trên dừng lại và kéo pháo ra. Cán bộ, chiến sĩ ngỡ ngàng thắc mắc không thể nào hiểu được: Sao lại có lệnh như thế: Cán bộ trung đoàn chỉ giải thích ngắn gọn ?oĐịch đang đổ thêm quân, phải tăng cường phòng thủ, ta đánh chưa chắc thắng; Kéo pháo ra chuẩn bị thêm kỹ hơn mới đánh thắng được?! Đến lúc này, các chiến sĩ pháo thủ mới kéo pháo ra, nhưng vẫn chưa thông. Trên đường kéo pháo ra, gặp rất nhiều đoàn dân công vác đạn, gánh gạo vào giờ phải vác đạn, gánh gạo ra cũng thắc mắc. Họ còn nói bâng quơ: ?oBộ đội các anh kéo pháo vào, kéo pháo ra, thập thà, thập thò, đánh không đánh, chỉ làm khổ chúng tôi?. Bộ đội chỉ mải miết kéo pháo chẳng trả lời, cứ mặc các cô ấy muốn nói gì thì nói...
    Con đường kéo pháo ra lúc này, bộ đội dân công đi chung rất đông, các lá cây giàn ngụy trang trên đường đã khô kéo. Địch phát hiện được con đường, tuy chưa biết là đường bộ đội ta kéo pháo, nhưng chúng vẫn bắn phá rất mạnh. Pháo từ trong Mường Thanh bắn ra, máy bay đến thả bom liên tục mấy ngày, có đoạn đường cây bị cháy xám khô, nhiều cây trốc dễ gẫy cành ngổn ngang, bộ đội ta vẫn kéo pháo. Có đoạn bom đạn đào lên đất đỏ, hòa lẫn máu các chiến sĩ hy sinh, nhưng anh em vẫn quyết tâm kéo pháo ra đến vị trí an toàn.
    Giặc Pháp chỉ bắn dồn dập ít ngày. Chúng cho là bộ đội ta đã rút khỏi các trận địa, chúng chỉ tăng cường trinh sát, thỉnh thoảng bắn pháo giội bom vu vơ. Chúng tôi về đến vị trí tập kết, chuẩn bị một thời gian về mọi mặt tinh thần, ý chí, rồi lại kéo pháo vào. Cũng gian khổ, khó khăn, quyết liệt lắm mới đưa được pháo của ta đến các trận địa bắn bí mật an toàn. Cũng đến lúc này mới hiểu vì sao có chuyện kéo pháo vào, kéo pháo ra như thế và càng thêm tin tưởng.
    Chuyện làm đường kéo pháo ở mặt trận Điện Biên cách đây 50 năm. Hồi ấy tôi còn là cán bộ cấp thấp, không nắm được tình hình chung. Chỉ nghe một vài cán bộ cấp trên và đồng chí Urăng kỹ sư nói: ?oCon đường kéo pháo dài nhất là con đường phía Bắc, cái núi cao dốc nhất, pháo vượt qua khó nhất, là núi An Tao!?. Năm 2004, Nhà nước ta, Quân đội ta kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, mong cấp trên, Viện lịch sử, Viện bảo tàng lịch sử Quân sự Việt Nam xác định thêm. Nếu đúng lịch sử như nó có, tôi xin kiến nghị Nhà nước và Quân đội cho khôi phục con đường kéo pháo và cho dựng một cái bia hoặc cụm tượng đài tưởng niệm bộ đội ta kéo pháo trên đỉnh núi An Tao.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này