1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Điện Biên Phủ và những điều chưa biết - Phần 1

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi vaxiliep, 30/03/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaxiliep

    vaxiliep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2006
    Bài viết:
    1.180
    Đã được thích:
    2
    Mở đường kéo pháo trong một ngày đêm
    Mở đường kéo pháo. Đây không phải chỉ là việc sửa chữa, mở rộng đường như việc mở con đường Tuần Giáo-Điện Biên Phủ nữa, mà là công việc mới, hoàn toàn khác hẳn.
    Bộ chỉ huy Mặt trận đã có một quyết định táo bạo: dùng xe hơi kéo pháo từ Tuần Giáo vào tới cây số 9, ở quãng bản Nà Nham, rồi ngừng lại cắt pháo ra khỏi xe. Sau đó dùng sức người kéo cả mấy chục khẩu pháo, mỗi khẩu nặng hai tấn rưỡi, vượt qua ngọn Pha Sông, một đỉnh núi cao tới 1.150 mét đường đi phải vượt qua cả một hệ thống núi dài tới 15 ki-lô-mét, từ phía đường số 41 bên này sang hẳn con đường mòn Lai Châu-Điện Biên Phủ ở phía tây. Sau đó, lại kéo pháo trên núi cao thêm một chặng nữa, đến tận bản Nghịu rồi mới lập trận địa, nhằm đưa pháo kề vào ngay sọ quân địch mà bắn. Muốn vậy, ít ra cũng phải làm bằng được một con đường đủ rộng cho những khẩu pháo đặt bánh và lăn đi, vắt qua những ngọn núi cheo leo, hiểm trở chưa từng có vết chân người. Mà thời hạn chỉ có một ngày, một đêm, không hơn.
    Vậy ai sẽ đảm đương công trình này? Một lần nữa, Bộ chỉ huy Mặt trận lại chọn đại đoàn 308 (Đại đoàn Quân Tiên Phong), thêm một tiểu đoàn công binh và năm đại đội sơn pháo giúp sức.
    Ngay chiều hôm ấy, đồng chí Vương Thừa Vũ, đại đoàn trưởng, cùng một số cán bộ tham mưu, bộ binh, pháo binh, công binh, xắn quần, cầm gậy leo lên đỉnh Pha Sông rậm rạp. Tuy trong tay không có một dụng cụ đo ngắm nào, nhưng các đồng chí vẫn kiên trì lần từng vách núi, đo từng khe suối? dần dần vạch ra được một tuyến đường vượt núi.
    Từ đêm 14-1-1954, mọi cán bộ, chiến sĩ tham gia làm đường đều đổ ra bờ suối hăm hở sửa soạn dụng cụ. Những chiếc lưỡi cuốc, lưỡi xẻng đã bắt đầu quằn sau đợt ?oMở đường thắng lợi? Tuần Giáo-Điện Biên Phủ, nay được mài sáng lại, sắc như dao.
    Đúng 7 giờ sáng ngày 15-1, hơn năm ngàn người đã nhanh chóng rải đều ra trên các sườn núi. Gần như cùng một lúc, tất cả vung cuốc xẻng, nhất tề tiến công vào núi hoang, rừng rậm. Ai nấy đều hiểu rằng, đây không phải là một công việc lao động giản đơn bình thường mà là một công việc có ý nghĩa lớn lao, chuẩn bị cho chiến dịch nhanh chóng thắng lợi, một công trình không kém phần nguy hiểm vì phải bí mật tiến hành ngay trước mũi quân thù. Chỉ một sơ suất nhỏ, để cho đài quan sát của địch ở Mường Thanh, hoặc máy bay trinh sát của địch nhìn thấy là lập tức pháo của chúng giội lửa xuống, hoặc máy bay tới oanh tạc ngay. Rõ ràng, cần phải coi đây như một ?otrận chiến đấu lớn đầu tiên?, ?omột trận chiến đấu chưa nổ súng?! Đó là tư tưởng chỉ đạo của đảng ủy đại đoàn, là nội dung công tác động viên, cổ vũ của các cơ quan chính trị, các chính trị viên và giờ đây đã thực sự trở thành quyết tâm của hàng ngàn chiến sĩ.
    Một giờ đi qua, rồi hai giờ. Những chiếc cuốc chim nhọn hoắt vẫn vung lên mạnh mẽ, theo nhịp tay đều đặn. Đá sỏi liên tục tóe lửa trên khắp các sườn núi. Những chiếc xẻng vẫn xắn sâu vào đất, tạo thành từng mảng vuông lớn, rồi các chiến sĩ cứ thế dùng đòn bẩy hất cả tảng lăn xuống vực sâu. Những cây vầu thi nhau đổ rạp theo từng nhát chém vát ngọt sớt. Đôi lúc, lại có một cây gỗ lớn, cành lá xum xuê bị chặt đứt mọi rễ con, rễ cái và lật nhào. Tiếng mìn phá đá thỉnh thoảng lại nổ ran, dội vào vách núi, lẫn với từng loạt đại bác địch từ Mường Thanh bắn hú họa ra các cửa rừng?
    Đường vươn tới đâu, được ngụy trang kín ngay tại đó. Có đoạn, chiến sĩ phải công phu đánh từng gốc cây ở xa đường đem về trồng cấy ở suốt dọc hai bên đường, rồi dùng tre, bương dựng lên những giàn như giàn mướp lớn, cài kín mít. Có đoạn, anh em phải vít cành cây có lá ở hai bên buộc lại, tạo thành con đường ống kín mít bằng cây xanh.
    Cuối cùng, chưa hết một ngày, con đường kéo pháo đúng tiêu chuẩn đã được đại đoàn 308 và các đơn vị phối thuộc hoàn thành trước hạn định bốn tiếng đồng hồ.
    Đứng bên con đường nồng nàn mùi đất mới, đồng chí tiểu đoàn trưởng công binh xúc động nói với đồng chí tham mưu trưởng đại đoàn:
    - Anh ạ. Lúc đầu chúng tôi dự tính làm con đường này phải có bốn vạn dân công. Nhưng thật không ngờ, bộ đội ta làm nhanh đến thế.
    Đồng chí tham mưu trưởng vui vẻ bắt tay người bạn công binh của mình:
    - Trong công trình to lớn này, các đồng chí công binh và sơn pháo đã cùng chúng tôi chung lưng đấu cật với một tinh thần đoàn kết anh em rất đáng quý.
    Ngay trong đêm ấy, công việc kéo pháo vĩ đại mà sau này cả quân lẫn dân, cả trong nước lẫn ngoài nước đều thán phục kể lại như kể một câu chuyện thần kỳ, bắt đầu tiến hành. Các chiến sĩ đại đoàn 308 vừa góp phần làm xong con đường, giờ lại cùng các đại đoàn bạn cầm lấy sợi dây, đứng trên các trục tời kéo pháo. Suốt trong 9 đêm liền, đêm nào rừng núi Điện Biên Phủ cũng âm vang những tiếng hò, tiếng mõ gõ nhịp liên tục và gióng giả của các chiến sĩ ta kéo pháo
  2. vaxiliep

    vaxiliep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2006
    Bài viết:
    1.180
    Đã được thích:
    2
    Nhiệm vụ trên giao
    Sau khi học xong chương trình chỉ huy cấp đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn pháo cao xạ tại Trường sĩ quan cao xạ Thẩm Dương (Trung Quốc), đoàn cán bộ chúng tôi về Tân Dương. Tôi nhận nhiệm vụ Trung đoàn phó, các cán bộ cùng học xuống các đơn vị vừa để tăng cường chỉ huy, lãnh đạo, vừa trực tiếp làm giáo viên. Với trình độ kỹ, chiến thuật, tác phong chính quy tốt, các đồng chí mới học về đã thúc đẩy đơn vị tiến lên mạnh mẽ.
    Đầu tháng 11-1953, tôi được lệnh về Bộ gấp. Cùng đi với tôi còn có đồng chí Nguyễn Mạnh Đàn và đồng chí Nguyễn Như Sơn. Sau khi được nghe Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái phổ biến một số điểm chính của Nghị quyết Bộ Chính trị và kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954, chúng tôi được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đồng chí Tổng tư lệnh chăm chú lắng nghe chúng tôi báo cáo tình hình học tập của trung đoàn 367, những khó khăn ban đầu và những kết quả đạt được sau những năm tháng huấn luyện quân sự, chỉnh quân, nhất là kết quả hai đợt diễn tập chiến thuật bắn đạn thật. Đại tướng biểu dương những cố gắng của cán bộ, chiến sĩ 367. Với giọng ấm áp. Đại tướng giao nhiệm vụ:
    - Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Đông Xuân để tạo một thay đổi lớn trong cục diện chiến tranh ở Đông Dương, phá kế hoạch của Na-va? Trong chiến dịch tới, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh đã quyết định đưa lực lượng pháo cao xạ 37 ly vào chiến đấu. Đoàn 367 của các đồng chí phải gấp rút chuẩn bị đưa một bộ phận lực lượng về tham gia chiến dịch. Có làm được không?
    Hết sức mừng rỡ, tôi đáp:
    - Đoàn 367 chúng tôi xin cố gắng làm tròn nhiệm vụ mà Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh giao.
    Trước khi tiễn chúng tôi ra về, Đại tướng căn dặn:
    - Đúng thời gian quy định, hai tiểu đoàn tham gia đợt đầu chiến dịch phải có mặt ở khu vực tập kết Tuyên Quang. Cần phải giữ bất ngờ về hỏa lực cho chiến dịch. Hành quân phải bảo đảm an toàn. Tới đâu cũng phải đoàn kết tốt với địa phương.
    Chúng tôi sang Tổng cục Chính trị, Tổng cục Cung cấp báo cáo tình hình đơn vị và xin ý kiến chỉ đạo. Sau khi chỉ thị cho đơn vị về công tác chính trị tư tưởng trong hành quân, đồng chí Trần Lương, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, nhắc nhở chúng tôi:
    - Sửa chữa cầu đường bảo đảm cho xe pháo hành quân, công binh và công nhân giao thông sẽ lo, nhưng bộ đội ta cần lấy sức mình là chính. Các đồng chí phải nghĩ cách ?othu nhỏ? xe, pháo lại cho vừa với đường kháng chiến.
    Nghe chúng tôi báo cáo hai khó khăn trong công tác bảo đảm là hành quân đường dài, cán pháo hay bị gãy và cung cấp xăng dầu trên đường, đồng chí Trần Đăng Ninh, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp, nói:
    - Các đồng chí yên tâm về lo tổ chức cho đơn vị hành quân, Tổng cục giao cho Quân giới sản xuất cán pháo và sẽ thông báo cho đơn vị địa điểm các trạm tiếp xăng dọc đường.
    Nhận nhiệm vụ xong ra về, chúng tôi thực sự yên tâm về sự chăm lo chu đáo, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị thực hiện nhiệm vụ của cấp trên. Tôi phân công đồng chí tham mưu phó Hoàng Hoa Nam và đồng chí Nguyễn Mạnh Đàn ngược lên Tuyên Quang chuẩn bị địa điểm trú quân. Ngay đêm đó, tôi cùng đồng chí Nguyễn Như Sơn đạp xe gấp rút trở về trung đoàn. Trên đường đi, chúng tôi kết hợp nghiên cứu đường hành quân, tìm các địa điểm trú quân dọc đường. Đường xa, vượt lắm dốc nhiều đèo, đi thâu đêm mà tưởng chừng không biết mệt. Nhiệm vụ mới được giao như tiếp thêm sức mạnh mới.
    Ngày 24-11, trên pháo trường Tân Dương, lễ xuất quân được tiến hành. Hai tiểu đoàn 383 và 394 đã tề chỉnh tội ngũ trước dãy xe pháo xếp hàng thẳng tắp. Đứng trước hàng quân, chính ủy Đoàn Phụng nhắc nhở các đơn vị được về nước tham gia chiến đấu nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh cấp trên, bảo đảm hành quân đến địa điểm tập kết an toàn, bí mật và đúng thời gian. Đồng chí kêu gọi cán bộ, chiến sĩ hãy phát huy truyền thống yêu nước, chí căm thù giặc, biến căm thù thành dũng khí chiến đấu, đạp bằng mọi khó khăn gian khổ.
    Trung đoàn trưởng Lê Văn Tri chúc các đơn vị ra quân đánh thắng trận đầu quyết tâm thi đua bắn rơi nhiều máy bay địch, hoàn thành tốt nhiệm vụ.
    Là người trực tiếp chỉ huy lực lượng về nước chiến đấu, tôi đón nhận lá cờ ?oLập công đầu? của Trung đoàn trưởng giao. Giây phút xúc động, trách nhiệm nặng nề, phía trước đang chờ đón những cán bộ, chiến sĩ binh chủng pháo cao xạ trẻ tuổi trong cuộc đọ sức đầu tiên với không quân địch.
    5 giờ sáng ngày 1-12-1953, chiếc xe kéo pháo cuối cùng đã vào tới khu rừng phía tây bắc thị xã Tuyên Quang. Vừa đúng một tuần lễ, hai tiểu đoàn 383 và 394 đã hành quân đến vị trí tập kết thứ nhất an toàn, bí mật, đúng thời gian quy định.
    Chấp hành điện của Bộ, rạng sáng ngày 21-12, tôi cùng đi với đồng chí Phạm Ngọc Mậu, Chính ủy đại đoàn 351 về nhà khách Bộ Tổng Tư lệnh. Khoảng 7 giờ, chúng tôi được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Phó Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái (thời gian này, đồng chí Văn Tiến Dũng đã được điều về làm Tổng Tham mưu trưởng, đồng chí Hoàng Văn Thái làm Phó Tổng tham mưu trưởng). Đại tướng-Tổng tư lệnh thân mật tiếp chúng tôi và trực tiếp giao nhiệm vụ:
    - Bộ Chính trị đã thông qua quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Lần đầu ra trận, bộ đội lựu pháo và pháo cao xạ của các đồng chí sẽ gặp nhiều khó khăn. Phải dự kiến cho hết để tìm cách vượt qua. Yêu cầu lớn nhất là phải bảo đảm tuyệt đối an toàn và bí mật. Nếu đưa được xe pháo đến đích an toàn, bí mật thì coi như đạt 60% thắng lợi. Chỉ huy cuộc hành quân cơ giới quan trọng này là đồng chí Phạm Ngọc Mậu, chỉ huy phó là hai đồng chí Đào Văn Trương và Nguyễn Quang Bích. Từ hôm nay, lực lượng của trung đoàn 367 phối thuộc đại đoàn 351. Trong hành quân, pháo cao xạ đi cùng lựu pháo có nhiệm vụ bảo vệ lựu pháo.
    Đồng chí Hoàng Văn Thái gặp riêng anh Phạm Ngọc Mậu và tôi, chỉ đạo thêm một số việc cụ thể. Chỉ tay lên bản đồ, Phó Tổng tham mưu trưởng nói:
    - Đơn vị các đồng chí sẽ hành quân từ Tuyên Quang theo đường 41, đến tập kết ở Tuần Giáo. Đây là con đường rất khó đi, nhiều đoạn hiểm trở. Theo đề nghị của Bộ Quốc phòng, Chính phủ đã giao cho Bộ Giao thông công chính phối hợp với các địa phương và công binh gấp rút mở rộng mặt đường, sửa chữa những cầu hỏng, khôi phục các bến phà để bảo đảm cho pháo lớn hành quân. Bộ Tổng tham mưu đã cử một đoàn cán bộ do đồng chí Nguyễn Mạnh Đàn, cán bộ Trung đoàn 367 phụ trách, đi trước trinh sát đường sá, nghiên cứu cụ thể những đoạn cần sửa chữa rồi điện về báo cáo Bộ, đồng thời vẽ sơ đồ chi tiết tình hình mỗi chặng đường gửi lại cho đơn vị cơ giới đi sau. Bộ còn quy định các đơn vị cơ giới chỉ được phép hành quân đêm. Ban ngày giấu quân thật kín. Súng 12,7 ly được bắn trong các trường hợp cần thiết để bảo vệ đội hình hành quân, trú quân. Pháo cao xạ 37 ly phải sẵn sàng chiến đấu, nhưng chỉ được nổ súng khi có triệu chứng rõ ràng máy bay địch đánh phá đơn vị.
    Đồng chí Hoàng Văn Thái nhắc đi nhắc lại vấn đề giữ bí mật, lệnh tuỵệt đối không được liên lạc, với nhau bằng vô tuyến điện. Trong hành quân, phải triệt để sử dụng ký hiệu, tín hiệu. Khí trú quân, dùng điện thoại.
    Kết thúc buổi giao nhiệm vụ, đồng chí Phó Tổng tham mưu trưởng hạ lệnh: Tối 24-12, các đơn vị lựu pháo và pháo cao xạ hành quân.
    Đường đi chiến dịch đông vui như trẩy hội. Hai bên đường, các đơn vị bộ binh rầm rập tiến bước. Từng đoàn dân công, miền xuôi có, miền ngược có, đeo sọt, gồng gánh, đẩy xe đạp thồ, vừa rảo bước vừa cất cao giọng hò, tiếng hát. Trên xe, các chiến sĩ pháo thủ hát vang ?oChúng ta bước lên đường khi thời cơ đã đến??.
    Mười bảy ngày hành quân vất vả, vượt qua phà Tạ Khoa, đỉnh Lũng Lô, đèo Cò Nòi, dãy núi Pha Đin, sáng sớm ngày 8-1-1954, toàn bộ đội hình hành quân cơ giới của đại đoàn 351 đã đến Tuần Giáo, khu vực tập kết chiến dịch, bí mật, an toàn. Đơn vị lựu pháo 105 và đoàn pháo cao xạ 37, hai đơn vị anh em thân thiết đều cùng được tặng thưởng huân chương Chiến công và được Bộ chỉ huy Mặt trận khen ?oHành quân cơ giới giỏi?.
    Ngày 14-1, chúng tôi dự hội nghị cán bộ quân chính cấp trung đoàn, đại đoàn toàn Mặt trận tại hang Thẩm Púa-Sở chỉ huy lâm thời của Bộ chỉ huy chiến dịch. Nhìn đoàn đại biểu đơn vị pháo bằng cặp mắt trìu mến, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói:
    - Bộ khen ngợi các đồng chí đã nêu cao truyền thống tốt đẹp của quân đội cách mạng, hoàn thành tốt cuộc hành quân cơ giới đầu tiên từ hậu phương ra tiền tuyến.
    Đại tướng-Tổng Tư lệnh trực tiếp phổ biến mục đích, ý nghĩa của chiến dịch Trần Đình, phân tích chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, những thuận lợi, khó khăn của ta và nhận định khả năng quân và dân ta có đủ điều kiện đưa chiến dịch đến toàn thắng. Bên bàn cát lớn đắp toàn cảnh Điện Biên Phủ, sau khi giao nhiệm vụ cho các đại đoàn bộ binh, Đại tướng, Chỉ huy trưởng Mặt trận nói:
    - Đại bộ phận lựu pháo và pháo cao xạ sẽ bố trí ở hướng bắc. Phải mở ngay một con đường vắt qua núi để dùng sức người đưa pháo từ đường 41 sang đường Điện Biên Phủ-Lai Châu. Trong một ngày đêm, con đường đó phải hoàn thành.
    Thoáng thấy nét băn khoăn của đoàn cán bộ pháo, Đại tướng ôn tồn bảo:
    - Chúng ta chủ trương kéo pháo bằng sức người không phải chúng ta không làm được đường cho xe chạy, mà chính là để giữ bí mật, để giành yếu tố bất ngờ, nhất là bất ngờ về hỏa lực lựu pháo và pháo cao xạ tham chiến. Đại đoàn Việt Bắc và trung đoàn công binh sẽ cấp tốc mở đường. Đại đoàn Bến Tre có nhiệm vụ giúp kéo pháo cho trung đoàn 45 và trung đoàn 367.
    Trước khi kết thúc hội nghị, đại diện các đơn vị lần lượt phát biểu quyết tâm. Thay mặt trung đoàn 367, tôi đứng lên nói trong niềm xúc động:
    - Bộ đội pháo cao xạ xin hứa với Bộ chỉ huy chiến dịch: Quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, làm tròn nhiệm vụ bắn rơi máy bay địch.
    Đại tướng mỉm cười, hỏi lại:
    - Phải hứa cụ thể bắn rơi bao nhiêu chiếc?
    Lúng túng giây lát, tôi đáp:
    - Báo cáo Đại tướng, chúng tôi quyết tâm bắn rơi nhiều chiếc ạ.
    Vẫn nụ cười hiền hậu, Đại tướng gợi ý:
    - Có bảo đảm mỗi đại đội pháo cao xạ hạ một máy bay địch không?
    Được lời như cởi tấm lòng, tôi mừng rỡ đáp:
    - Báo cáo, nhất định được! Mỗi đại đội sẽ bắn rơi một chiếc, hoặc trên một chiếc ạ!
    Đại tướng tươi cười, siết chặt tay tôi như truyền cả niềm tin vào thắng lợi của chiến dịch.
  3. vaxiliep

    vaxiliep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2006
    Bài viết:
    1.180
    Đã được thích:
    2
    Trận đọ sức đầu tiên
    Đến bây giờ, sắp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi còn nhớ hầu hết các chi tiết đầu tiên quan trọng trong trận đánh của trung đoàn 148 ngày đó. Bấy giờ tôi là phó ban chính trị trung đoàn (cấp tiểu đoàn chính trị bậc trưởng) cùng đồng chí Chính ủy trung đoàn Hoàng Chà và một đồng chí phó ban chính trị trung đoàn cùng cấp tiểu đoàn ở trong ban lãnh đạo chỉnh quân của trung đoàn, do trên chỉ định. Chúng tôi đã hoàn thành việc chỉnh quân trước đó vài ngày và đang chuẩn bị đi đánh đồn Mường Pồn, trên đường từ Điện Biên Phủ đi Lai Châu, để phối hợp với Đại đoàn 316 đánh Lai Châu. Thực ra, kẻ địch đã làm động tác trinh sát bằng không quân từ hai ngày 18 và 19-11-1953. Chúng cho máy bay bà già bay dọc theo thung lũng Điện Biên Phủ, lúc hình chữ ?oO? kéo dài theo hình thung lũng Điện Biên Phủ, lúc hình số ?o8? xoắn vỏ đỗ, khoảng hai lần một ngày, mỗi lần khoảng một tiếng. Nhưng chúng tôi, kể cả ban chỉ huy trung đoàn, không ai nghĩ gì về việc chúng sẽ nhảy dù, vì thực ra, chúng tôi còn non nớt về nhận thức, chứ đừng nói gì đến kinh nghiệm, nên cho qua và cứ chuẩn bị để rời Điện Biên Phủ đi đánh đồn Mường Pồn.
    Sáng 20-11-1953, khoảng hơn 7 giờ sáng, có cuộc họp Đảng ủy trung đoàn mở rộng tại bản Mường Thanh để bàn lãnh đạo trung đoàn xuất quân đi đánh đồn Mường Pồn. Đang họp bàn, khoảng 8 giờ thì có lệnh báo động máy bay.
    Chúng tôi bị động, lại bị địch nhảy trên đầu, chúng liên tiếp tăng quân xuống, do vậy, không còn con đường nào khác là xông vào mà đánh địch, ở giữa cánh đồng chính, bên cạnh Mường Thanh (chỗ sau này là hầm Đờ Cát và quân y Pháp ở) không nghĩ gì đến chiến thuật. Ban chỉ huy trung đoàn cũng chỉ nắm được từng bộ phận nhỏ trung đoàn bộ, một bộ phận tiểu đoàn bộ và đại đội 225 đang ở Mường Thanh cùng với chúng tôi. Ngay ban chỉ huy đại đội 225 cũng không nắm hết quân của mình, vì quân địch nhảy xuống ngay trên đầu cho nên chúng vô hình trung đã chia cắt đội hình trung đoàn.
    Trung đoàn trưởng Việt Hưng nắm được khoảng một trung đội, chính ủy trung đoàn Hoàng Chà cũng nắm được khoảng một trung đội, tôi chỉ nắm được hơn hai mươi người. Chúng tôi vừa đánh trả địch vừa tập hợp dần lực lượng. Nhưng địch vẫn đổ quân, toàn Âu-Phi, nên ý đồ chúng tôi không thực hiện được, một phần vì thương vong, một phần vì địch đông quá.
    Lúc đó, trung đoàn 148 là một trong những trung đoàn tinh nhuệ, thành lập từ sau Cách mạng Tháng Tám (trung đoàn Sơn La), là trung đoàn chủ lực của khu Tây Bắc, rất thông thạo địa bàn, lại vừa chỉnh quân về chính trị xong, nên các đơn vị khác thuộc tiểu đoàn 910, các đơn vị trợ chiến và pháo binh trong trung đoàn 148 đều tự động xông ra đánh địch. Từ bản Cò My; đại đội 221, từ phía bản Hong-Lếch, đại đội 220 và đại đội trợ chiến của tiểu đoàn, đại đội pháo 121, bộ phận trợ chiến của trung đoàn đóng gần Mường Thanh, Bản Kéo đều tự động xông ra cánh đồng quần thảo với địch.
    Giữa cánh đồng Mường Thanh ta và địch quần nhau cho đến quá trưa. Nếu tôi nhớ không nhầm, thì sang chiều trận đánh tàn dần, tiếng súng dần dần im. Quân địch chiếm được Mường Thanh với quân số (về sau tôi mới biết) lúc đó hơn nghìn tên, với sự yểm trợ của một số vũ khí mạnh. Gọi là trung đoàn 148, nhưng thực ra lúc đó chúng tôi chỉ còn một phần trung đoàn bộ, tiểu đoàn bộ binh 910 (gồm tiểu đoàn bộ, 3 đại đội bộ binh: 221, 225, 220 và một đại đội trợ chiến), một đại đội pháo, ký hiệu C121, một bộ phận trợ chiến của trung đoàn (khoảng 500 người). Trung đoàn lại đang chuẩn bị đi đánh địch, còn một tiểu đoàn đang làm nhiệm vụ ở nơi khác, một tiểu đoàn đang triển khai trên đường đi Mường Pồn). Do tương quan lực lượng, địch hơn một nghìn, ta khoảng năm trăm. Địch lại chủ động và liên tiếp tăng quân số từ sáng đến quá trưa, ta bị động. Địch có ý đồ và quân đông, còn ta không nắm được đầy đủ quân, không chỉ huy thống nhất các lực lượng được. Địch có hỏa lực chi viện mạnh hơn ta, trong khi về chiều các đơn vị của ta đã hết đạn.
    Tuy vậy, ta hơn địch ở tinh thần dũng cảm. Tuy trung đoàn không tập trung chỉ huy thống nhất được, nhưng cán bộ các cấp chủ động chỉ huy anh em xông vào địch mà đánh, ở cả bốn hướng trong lòng chảo Mường Thanh. Ta ít quân hơn, nhưng từ thế bị động chuyển dần sang chủ động đánh địch, thương vong ít hơn và đánh địch được lâu, chủ động rút quân. Tuy bị phân tán thành nhiều đơn vị khi rút, nhưng vì ta chủ động rút quân lại quen địa hình, nên đến tối trung đoàn nắm được hầu hết các đơn vị: một bộ phận về Hồng Cúm, một bộ phận về vùng núi phía sau Hong-Lếch, một bộ phận nhỏ về Mường Phăng, còn một bộ phận về tập trung ở quanh vùng Him Lam. Đơn vị đánh địch anh dũng nhất và cũng thương vong nhiều là đại đội 225. Đây là đơn vị đánh địch đầu tiên và cũng là đơn vị bị quân địch nhảy dù, chia cắt đội hình.
    Các tài liệu Pháp thời đó đều công nhận chúng bị thương vong lớn, rất sợ tinh thần quật cường và dũng cảm của các cán bộ và chiến sĩ ta trong trận đánh đó. Vài ngày sau, tôi được Ban Chỉ huy Trung đoàn thông báo: Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi điện khen ngợi tinh thần diệt giặc của Trung đoàn 148.
  4. vaxiliep

    vaxiliep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2006
    Bài viết:
    1.180
    Đã được thích:
    2
    Tiêu diệt phòng tuyến sông Nậm Hu: Đòn bất ngờ chiến dịch
    Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đơn vị tôi là một trong nhiều mũi tấn công cấp trung đoàn trong đội hình đại đoàn Việt Bắc (mật danh chiến dịch của đại đoàn Quân Tiên Phong-308). Nhiệm vụ của đại đoàn là tiến công vào trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ từ hướng tây, thuộc vùng núi Hồng Lếch. Đang triển khai đội hình tiến công theo phương châm ?oĐánh nhanh, thắng nhanh?, thì ngày 26-1-1954, đại đoàn được lệnh dừng lại, rút quân ra khỏi trận địa bao vây tấn công và hành quân sang hướng Thượng Lào, hiệp đồng với quân tình nguyện Việt Nam và quân đội Pa-thét Lào, tiến công tiêu diệt phòng tuyến sông Nậm Hu của quân đội thực dân Pháp. Đang trong tư thế ?ocông kiên chiến?, hàng vạn quân ta nai nịt gọn gàng, im lặng, triển khai đội hình trên trận địa kéo dài ngót 5km, với chiều sâu gần 2km. Trận địa chiến hào từ trong xuất phát tấn công chuyển sang thành đội hình ?othê?, ?othứ? vận động tấn công sẵn sàng đột phá trong hành tiến hệ thống cứ điểm của một phòng tuyến dài hàng trăm ki-lô-mét trên dải núi rừng trùng điệp Thượng Lào, cách trung tâm cứ điểm Điện Biên Phủ gần 200km. Đây là một đòn hành quân nghi binh chiến lược, đồng thời đập tan cuộc hành quân của Binh đoàn Veau-drey gồm 6 tiểu đoàn cơ động càn quét, mở rộng tuyến phòng thủ sông Nậm Hu, lập đường hành lang nối liền Luông Pra-băng với Điện Biên Phủ.
    Đại đoàn hành quân theo hai cánh (E102 một cánh và E36, E88 một cánh), vừa đi vừa chuyển cơ số trang bị từ đội đột kích công sự kiên cố sang các đội xung kích gọn nhẹ; chuyển trạng thái từ gan góc, lầm lỳ sang hoạt bát, lanh lẹ, sẵn sàng ?otao ngộ chiến? và ?ocông kiên chiến? trong hành tiến. Quân địch đã phát hiện đại đoàn 308 Quân Tiên Phong chủ lực, sư đoàn thép của ta, tấn công sang Lào, do đó đã chủ trương rút lui chiến dịch và chiến lược, bỏ phòng tuyến Nậm Hu, dự định co cụm về Luông Pra-băng.
    Đại đoàn được lệnh chuyển sang truy kích chiến dịch. Diễn biến chiến dịch diễn ra trải dài hàng trăm ki-lô-mét, với những trận ?otao ngộ chiến?, tập kích, công kiên mà chủ yếu là truy kích đánh địch rút chạy. Ta đã quét sạch hàng chục đồn bót, hàng trăm tên địch bị tiêu diệt. Trong lúc rút lui, quân địch thường tổ chức các trận đánh ngăn chặn, gây cho ta không ít tổn thất. Vào đúng ngày sinh nhật Đảng lần thứ 24 (3-2-1954), cũng là đêm 30 tết Giáp Ngọ, chúng tôi gặp quân tình nguyện Việt Nam, bộ đội Pa-thét Lào và nhân dân các bộ tộc Lào. Một đồng chí chỉ huy quân đội Pa-thét Lào nói với chúng tôi rằng, đêm nay là đêm giao thừa, mời bộ đội Việt Nam tạm dừng chân để đón xuân Giáp Ngọ trên miền đất với hương sắc tuyệt vời của hoa Chăm-pa. Chúng tôi rất cảm động và sau khi nhận đủ tiếp tế, thêm vài lẻ gạo rang, dúm muối, mấy ống bương nước suối, chúng tôi cám ơn các bạn Lào và tiếp tục lên đường, vừa đón giao thừa vừa truy kích giặc. Trận chiến trên đường hành tiến trong những ngày tiếp đó là những trận giáp lá cà, ?otao ngộ chiến? đẫm máu. Địch vừa lui vừa đánh thục mạng để mở đường tháo chạy. Ta quyết quy góp lại để tiêu diệt.
    Trong đêm giao thừa, khi vượt qua Nậm Bạc, quân ta bị địch phục kích. Mũi trinh sát tiên phong của trung đoàn 88, do đại đội trưởng Nguyễn Cảnh chỉ huy, đã đột phá đội hình xông lên chặn địch, để phía sau tiến lên bao vây, bắt sống được 70 tên, trong đó có tên thiếu tá Ca-ba-ri, binh đoàn phó binh đoàn cơ động. Và, người đại đội trưởng cùng toàn mũi trinh sát dũng cảm ấy đã hy sinh anh dũng trên đất nước Lào anh em đúng vào sáng mồng một tết Giáp Ngọ.
    Đội hình các Trung đoàn Thủ Đô, Tu Vũ, Bắc Bắc đan xen nhau, các tiểu đoàn 18, 54, 80, 23, 29, 79 và 322 đuổi giặc đánh chiếm Mường Khoa, Nậm Bạc, Mường Ngòi. Một cánh tạt sang Mường Sài, một cánh tiến thẳng về Pak-Xương, Luông Pra-băng và bắt liên lạc được với Liên quân tình nguyện Việt Nam-Ít-xa-rắc. Chuẩn bị tấn công vào Luông Pra-băng thì được lệnh ngừng tiến quân và đợi lệnh.
    Trong tiến quân tiêu diệt địch, hàng trăm anh em trong đơn vị P.M.T (Prisonier Militaire Tonkinois-đơn vị tù binh của giặc Pháp) đã xin gia nhập quân đội chiến đấu diệt địch. Hầu hết họ là thanh niên, một số đã là dân quân du kích, cán bộ cơ sở bị địch bắt khi càn quét ở các vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ và phải làm phu vận tải, bia đỡ đạn trong các tiểu đoàn cơ động của chúng. Họ không chỉ xin là người cầm súng cùng đánh giặc mà thực sự còn là nguồn tin tình báo quân sự rất cụ thể, chính xác về trạng thái của quân địch từ phiên hiệu đơn vị, tên sĩ quan chỉ huy, đến quân số cơ động hay đồn trú và đặc biệt là hiện chúng đang ở đâu. Anh em không những đã xung phong chỉ dẫn đường mà còn cùng chúng tôi giết giặc lập công.
    Ngày 13-2-1954, Đại tá Vương Thừa Vũ, Đại đoàn trưởng Việt Bắc nhận được lệnh của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp là Đại đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ quân địch trên phòng tuyến sông Nậm Hu, giải phóng một vùng rộng lớn ở Bắc Lào, nối liền với căn cứ địa Phong Xa Lỳ và phải hành quân trở lại ngay Điện Biên Phủ.
    Kết thúc đòn đánh Thượng Lào, đòn đánh mà khiến quân địch hoảng loạn đến cực độ và gọi đó là ?ocuộc hành quân quái đản? (nhà báo Pháp-Robert Guillain) viết trong ?oẢo mộng tan tành? (La fin des illucsions).
    Đây là đòn đánh bất ngờ chiến dịch có tính chất chiến lược, không những tạo thế cô lập căn cứ Điện Biên Phủ về thế trận, cắt đường chi viện từ Thượng Lào sang mà còn cắt đường rút chạy của quân địch khi rời Điện Biên Phủ. Mặt khác, đòn đánh Thượng Lào đã làm lạc hướng phán đoán của Bộ tham mưu địch cho rằng, ta không hoặc chưa có thể tiến đánh Điện Biên Phủ, nên ngày 12-3-1954, địch mở lại cuộc hành quân At-lang tiếp tục lấn chiếm các vùng giải phóng Liên khu V, thì ngày 13-3-1954, ta mở màn chiến dịch quyết chiến chiến lược tiến công Điện Biên Phủ.
  5. vaxiliep

    vaxiliep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2006
    Bài viết:
    1.180
    Đã được thích:
    2
    Ngày đầu đổ quân xuống ĐBP
    J. Roa là một người Pháp. Viết cuốn ?oTrận Điện Biên Phủ?, ông đã chép lại những chuyện xảy ra từng ngày kể từ khi Hăng-ri Na-va sang làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương (19-5-1953), đến ngày Bộ tham mưu của Đờ Cát-xtơ-ri ở Điện Biên Phủ đầu hàng (7-5-1954), cùng các tư liệu và cảm nghĩ trước thất bại của Pháp. Trong lời giới thiệu cuốn sách đã dịch ra tiếng Việt do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2002, nhà báo Trần Bạch Đằng viết: ?o ? J. Roa dùng một bút pháp phản ánh sinh động dù ông trung thành với sự kiện mà ông thu thập được? Một cuốn sách hấp dẫn?. Chúng tôi giới thiệu với bạn đọc đoạn J. Roa viết về ngày đầu tiên quân Pháp đổ bộ xuống Điện Biên Phủ.
    Ngày 20 tháng 11 năm 1953
    Vào 4 giờ 30 phút sáng, sau một chiếc máy bay bốn động cơ Pri-vát-xê thuộc lực lượng không quân của hải quân thường được dùng để thám hiểm vùng trời ngoài khơi và nay có nhiệm vụ thăm dò khí tượng, chiếc Đa-cô-ta số 356 cất cánh từ một sân bay Hà Nội mang theo các máy bộ đàm cho phép bảo đảm mọi thông tin chỉ huy. Trên chiếc máy bay ấy có những sĩ quan cấp tướng có quyền phát động hay hủy bỏ cuộc hành quân kinh khủng nhất của cuộc chiến tranh Đông Dương.
    Sau một vòng bay phía trên ánh đèn thành phố, bởi lúc ấy trời còn tối, viên phi công bẻ lái quá đi 20 độ về phía Tây, tắt đèn và bay với tốc độ bình thường. Khoảng 5 giờ 45 phút, trời rạng sáng, những khuôn mặt dán chặt vào khung kính máy bay phát hiện, giữa dãy núi hiểm trở có đỉnh cao vươn tận những tia nắng hừng đông, một thung lũng dài, phía trên thung lũng, sương mù trắng xóa tụ thành một khối to. Tướng Bô-đê, phụ tá của Na-va và tướng Đê-sô đến bên cạnh tướng Gin đang dùng con mắt duy nhất của mình sục sạo các đỉnh núi lù mù phủ đầy cây rừng nhiệt đới và chòm lá phất phơ của những đám tre. Đê-sô vóc người to lớn phải cúi gập người cho ngang tầm mẩu thuốc lá đang trên môi Bô-đê. Gin hỏi:
    - Liệu sương có tan không?
    Sương dày màu xám, xốp như bột trên triền núi và chảy dài xuống các vực sâu, hiện ra với những tia nắng mặt trời đầu tiên. Các vị tướng nhìn nhau và lắc đầu.
    Chiếc Đa-cô-ta tiếp tục hướng cũ, bay về phía biên giới Trung Hoa rồi vài phút sau, ngoặt sang 65 độ về phía trái, đúng hướng tây nam để tiến về phía đồng bằng đang trải dài theo từng gợn sóng lớn, thoai thoải về hướng sông Mê Công. 6 giờ 30 phút, bức điện mà điện báo viên chuyển về thành phố Hà Nội được giải mã và mang đến nhà riêng của Cô-nhi, bên bờ Hồ Gươm: ?oỞ Điện Biên Phủ, sương đang tan dần?.
    Người ta đã quay lại tìm ông để chỉ huy cuộc hành quân Ca-xtơ. Làm lại một Nà Sản, nơi biết bao quân tinh nhuệ bị cầm chân, nơi mọi thứ tiếp tế phải từ trên trời rơi xuống và lần này, lại cách căn cứ hậu phương một khoảng cách gấp đôi. Ở cấp bậc của Gin, người ta chỉ biết phục vụ và thi hành ý đồ của bộ chỉ huy tối cao. Ông sẽ ném quân của mình xuống, giúp họ bám trụ lại và rồi sẽ nhường chỗ cho một người khác, vì sức khỏe của ông bắt đầu có vấn đề. Nguyện vọng ấy của ông, người ta đã hứa là sẽ tôn trọng.
    Khi chiếc Đa-cô-ta từ hướng Nam bay lên, sương đã gần tan hẳn, chỉ còn làn sương mỏng vắt dài qua các dãy núi. Chỗ này chỗ nọ, người ta đã nhận ra các thửa ruộng xen kẽ màu vàng và xám của Điện Biên Phủ. Vài làn khói tỏa lên từ bản làng, mặt trời đã lên cao. Một ngọn gió mạnh từ Trung Hoa thổi sang đã quét sạch những đám mây dày xám xịt bao phủ vùng cao từ hai ngày qua. Viên phi công bay dạt ra và hạ thấp vận tốc.
    Lúc 7 giờ 20 phút, tướng Cô-nhi nhận được và phổ biến một bức điện ngắn gây xao động mạnh. Chỉ từ tối hôm qua các trưởng đơn vị mới biết nơi quân của họ sẽ đến và mục tiêu phải thực hiện. Và khi đứng dưới cánh máy bay, những người thừa hành, được tập hợp đi công tác từ tờ mờ sáng, mới được biết họ đi đến đâu, kế hoạch tiến hành sẽ như thế nào và sau đó họ được lệnh lên máy bay.
    Vào 8 giờ 15 phút phi đội(1) bắt đầu cất cánh. Trời rét. Khoảng 60 chiếc Đa-cô-ta được gom về từ ba ngày nay bay lên từng chiếc một và hợp thành từng toán ba chiếc mũi sơn xanh, vàng hay đỏ. Chúng bay thành một đoàn dài hơn 10km, có máy bay ném bom B26 Anh-va-đê bay kèm. Trong mỗi chiếc máy bay vận tải, 24 lính dù vận trang phục và đội mũ chiến đấu đang hút thuốc, ca hát, nhai kẹo chewing-gum trong khi chờ đợi. Ý tưởng là mình sẽ rời máy bay và treo mình lủng lẳng ở đầu sợi dây khiến cho không ai có thể dửng dưng, trừ những người không phải nhảy dù.
    Trong lòng chảo Điện Biên Phủ, cả bầu trời rực cháy. Bầu trời như bị xé ra từng mảng bởi những tia nắng gay gắt. Trong các bản quanh vùng, chỉ còn người già và phụ nữ có con mọn ở nhà, còn lại tất cả nông dân đều hối hả gặt, thu hoạch vụ lúa duy nhất trong năm. Rạ được cắt cao để còn chừa thức ăn cho trâu, phụ nữ bó những nạm lúa gặt từ hôm qua, nay đã khô; đàn ông chất các bó lúa thành từng đống hình nón, trông giống như những đống dương xỉ của nông dân xứ Ba-xcơ. Đằng kia, mấy tốp khác đập lúa trên chiếu. Các cô gái dùng chân hất mớ thóc vàng thơm rồi sảy cho sạch bằng những động tác như múa quạt, tay vươn lên cao quá đỉnh đầu rồi đột ngột uốn mình đưa xuống, theo nhịp của một vũ điệu linh thiêng.
    Khoảng từ 10 giờ 35 phút đến 10 giờ 45 phút, những chiếc Đa-cô-ta đầu tiên vượt qua các đỉnh núi và thả 3.000 lính dù xuống hai khu vực được chỉ định, một ở Tây Bắc thị trấn Điện Biên Phủ, được đặt tên Na-ta-sa. Ở đây, cùng với một đại đội công binh, có tiểu đoàn 6 lính dù, do tướng Bi-gác, lãnh đạo; khu vực thứ hai ở về phía Nam, tên Xi-mon, với tiểu đoàn II/R.C.P số 1 của Brê-si-nhắc.
    Trên điểm Xi-mon, tiểu đoàn Brê-si-nhắc rải quân trên một vùng hoang vắng, cách Na-ta-sa 5km, giữa sông Nậm Rốm và những triền dốc đầu tiên phía Đông, trong vùng Hồng Cúm. Do thông tin chuyển không chính xác, ta đã nhảy dù hơi quá xa về phía nam và không đúng như vị trí mong muốn, nhưng không thấy sự đề kháng nào.
    Ngược lại, ở điểm Na-ta-sa, cách phi đạo chính 500m về phía tây, quân Việt rất đông và choảng rất găng. Các đại đội của tiểu đoàn 6 lính dù thuộc địa (6e B.P.C) bị bắn ngay từ khi chân chưa chạm đất và sau đó bị chết gí ở điểm đổ quân. Bi-gác kêu cứu và chỉ bắt được liên lạc điện đài vào 12 giờ trưa. Một lính dù bị bắn cháy như đuốc; 10 người chết, trong đó có 2 người chết khi còn lơ lửng trên không, 10 người bị thương nặng, 21 bị thương nhẹ, 11 bị thương trong lúc đang nhảy dù. Liên lạc với Bộ chỉ huy trên máy bay gặp khó khăn và Bigeard phải trực tiếp hướng dẫn các máy bay B26 có nhiệm vụ yểm trợ ông.
    Từng đoàn những con sứa trắng (chỉ những chiếc dù-ND) và lính mặc quân phục kaki được thả xuống ruộng lúa và tập hợp lại ngay dưới ruộng. Người ta gọi nhau, gom nhau lại, lên đạn, tiến về các cụm khói màu đánh dấu điểm tập kết, dừng lại một chút, rồi lại tiến lên, các toán quân đụng đầu nhau. Vài người thừa cơ gặp chỗ ẩn nấp hay một bờ đê để hớp một ngụm nước trong bi đông. Từng loạt đạn réo. Chạy trong đám lúa chưa gặt thật chẳng dễ dàng.
    Cô-nhi đã rời Bộ chỉ huy ở Hà Nội, nhảy lên một chiếc Đa-cô-ta và mang Béc-tây theo. Trên máy bay, ông quan sát rất lâu những ngọn núi phủ một lớp cây rừng rậm rạp và những trảng cỏ ở ven lòng chảo dài màu xám. Còn Béc-tây, ông mơ một Nà Sản hùng mạnh hơn, miếng mồi ném cho quân Việt để dụ chúng đến cho đông mà tiêu diệt chúng. Ở độ cao ấy, người ta không thấy những xác chết đã phơi ra dưới đất, mặt ngửa lên trời, và huyền thoại cứ được thổi phồng lên như bong bóng xà phòng.
    Các vị tướng và các bộ óc của cuộc hành quân Ca-xto đang ở Lai Châu ăn bữa trưa, cách đó 80km về phía Bắc, trong đám núi rừng xanh rì chạy dài về phía Trung Hoa, từ đó, trong lòng thác và vượt qua đèo, một con đường mòn xây gạch khó đi dẫn về phía Điện Biên Phủ.
    Ở Hà Nội, những chiếc Đa-cô-ta quay về căn cứ lại được đổ đầy xăng, không ai được quyền rời máy bay, bữa ăn dã chiến được mang đến tận nơi cho phi hành đoàn. Vào 14 giờ, tiểu đoàn dù số 1 (1er B.P.C) được thả xuống Na-ta-sa, nơi Bi-gác mới bắt đầu thở được chút ít. Phân nửa tiểu đoàn của ông bị cô lập và ông chưa tìm được địa bàn để máy bay trực thăng có thể xuống đón thương binh. Nhiều cuộc đụng độ dữ dội đang gây rối loạn.
    Khoảng 16 giờ, quân Việt chạy về phía nam, bên hữu ngạn sông. Do liên lạc với tập đoàn quân và với Bộ chỉ huy trên không rất tồi nên không thể tìm cách chặn đứng đường rút của họ. Vào 17 giờ 30 phút, khi trời sập tối, Bi-gác mới đặt được Bộ chỉ huy của ông tại Điện Biên Phủ và kiểm soát các lối vào, với 4 đại đội của mình. Tiểu đoàn Brê-si-nhắc tiến lại gần hơn, bên tả ngạn và đóng quân ở các ngọn đồi đầu tiên phía đông. Tiểu đoàn dù số 1, hai đội pháo không giật 75, một đại đội súng cối 120 và một đội phẫu được thả dù xuống trong buổi chiều ở lại điểm Na-ta-sa. Đại úy quân y Ăng-đrê, nhảy dù lần đầu, đã chết. Tiểu đoàn 910 và đại đội 226 ********* để lại trận địa 90 xác chết và 4 người bị thương.
    Vào 16 giờ 15 phút, bức điện chính thức, được ghi bằng mật mã và xếp loại thượng khẩn, có nhiệm vụ thông báo về cuộc hành quân Ca-xtơ cho chính phủ, được đánh đi Pa-ri. Nó được gửi đi một cách hình thức cho Thứ trưởng phụ trách quan hệ với các Quốc gia liên kết, phố Lin, nơi có cơ quan giải mã, mặc dù ông Giắc-kê đang đi một chuyến công du hiếu hỉ với các vương triều ở Lào và Cam Bốt.
    Ở bìa làng Điện Biên, những đứa trẻ đội mũ bẩn thỉu, người già và phụ nữ với gương mặt tròn hiền lành và những đôi mắt đen, những người chưa kịp chạy trốn, bây giờ chen nhau trước thềm nhà tranh tre của họ, vẻ tò mò, sợ hãi, quan sát binh lính đang nói chuyện qua điện đài có ăng-ten như râu dế. Dù không hiểu tí gì thứ ngôn ngữ bọn lính dùng, những người đàn bà ấy vẫn hiểu đám đàn ông vũ trang kia chẳng mang lại điều tốt lành trong thung lũng.
    Các tiểu đoàn sục sạo khắp nơi trong những căn nhà phần nhiều trống rỗng, sực nức mùi chuồng trâu được xây dựng dưới chân cột nhà sàn. Một cầu thang rộng dẫn lên chiếc nhà sàn lợp tranh, sàn nhà bằng tre đan kẽo kẹt dưới chân. Lính dù mở tung cửa các buồng ngăn bằng vách nứa. Họ đốt giấy bạc của dân ngay tại bếp, dưới chiếc nồi treo lủng lẳng, ở đó tro than còn ấm lửa. Lũ mèo sợ hãi nấp trên đầu kèo. Dưới đất, mấy con chó vàng xù lông, kêu ăng ẳng; heo tìm cách chui vào chuồng và mấy con ngựa Thái nhỏ, bờm và đuôi đều rậm, ngọ nguậy trong cái chuồng ngựa trông giống một thứ ***g chim, mõm chúng sục sạo trong cái máng ăn trống rỗng, khoét từ một thân cây.
    Đêm yên tĩnh. Trăng tròn lên cao trên đỉnh núi. Văng vẳng tiếng chó sủa trăng.
    Ở Pa-ri, vào giữa trưa, bức điện của Sài Gòn được giải mã tại phố Lin rồi được chính văn phòng của ông Giắc-kê chuyển đến Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông này báo tin cho Tổng thống Cộng hòa Pháp, Bộ trưởng Quốc phòng, Bộ trưởng và Tham mưu trưởng. Bức điện gây ra sự ngạc nhiên lớn. Những người đọc điện đều xem lịch. Vì giờ Đông Dương sớm hơn giờ Pa-ri 6 giờ nên bức điện có vẻ đến sớm hơn cả giờ nó được gửi đi, cũng trong ngày hôm ấy; nhưng thực ra Pa-ri có vẻ trễ đến vài năm so với Đông Dương.
    Vào lúc người ta tự hỏi vì sao Na-va lại tiến hành một cuộc hành quân quy mô đến như vậy ở cách xa căn cứ hậu phương của mình đến thế thì ông Mô-ri-xơ Đơ-giăng nguyên đại sứ tại Tô-ky-ô, là người nhờ ông Pôn Rây-nô (cùng với ông Giắc-kê có nhiệm vụ giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trong các vấn đề Đông Dương), được giữ chức Tổng ủy viên Cộng hòa Pháp tại Đông Dương-như hầu hết mọi đêm, tổ chức một bữa tiệc tại dinh Nô-rô-đôm(2), nơi ông ta sống thoải mái, và mời đô đốc Ga-ba-ni-ê dự. Chỗ này chỗ nọ có một bữa tiệc, điều đó có hề chi. Ai mà mất thì giờ đi tập hợp những loại sự kiện như thế. Trong toàn Đông Dương, người ta tổ chức tiệc tùng để quên đi nỗi lo lắng cứ đêm đêm lại xuất hiện về trên mảnh đất bạc bẽo ấy. Ngày hôm đó, biết đâu người ta lại chẳng nâng cốc sâm banh tại bàn tiệc cao cấp nào đó để chúc mừng Điện Biên Phủ? Ông Đơ-giăng không hiểu rõ ý nghĩa cuộc hành quân về mặt quân sự. Còn tướng Na-va, ông ta tách những vấn đề tranh chấp mà ông không dám đương đầu ra và đùa với chúng. Là người ưa bí mật, ông tránh không nhắc đến nhiệm vụ mà đô đốc được giao và đô đốc Ga-ba-ni-ê chỉ ghi nhận sự lạc quan của bộ chỉ huy tối cao. Khi bước vào mùa chiến dịch mới, trong tất cả các cơ quan dân sự và quân sự, người ta đều tỏ ra tin tưởng ở tương lai. Việc chiếm đóng Điện Biên Phủ nổi bật như một minh chứng mới về sự hùng mạnh và quyền chủ động chiến lược của lực lượng viễn chinh. Chỉ một mình tướng Na-va biết rằng chính phủ có thể trách ông ta vì một quyết định cỡ đó mà không xin ý kiến. Nhưng ông ta đã cân nhắc mọi hậu quả chiến lược của Điện Biên Phủ, làm sao ông có thể mắc bẫy được? Với loại đầu óc như ông, chí nguy là ở chỗ không bao giờ và không ai có thể thuyết phục được họ là họ lầm. Kể cả khi đang ở đáy vực thẳm, họ vẫn khẳng định chính họ đã cứu tất cả và rốt cuộc người ta phải tự hỏi nếu không có ai tin, ít ra chính họ cũng hoàn toàn tự thán phục được là chỉ có họ nắm chân lý mà thôi.
    (1) Tác giả dùng Armada: Nguyên là tên riêng ?oArmada I?TInvicible? (Đội thuyền bất khả chiến thắng) do vua Phi-líp II cử đi đánh nước Anh năm 1588. Lực lượng ra quân hùng hậu, nhưng rốt cuộc đã chuốc lấy thảm bại. Tác giả dùng từ này chỉ lực lượng máy bay đầu tiên chở quân và thiết bị lên lập căn cứ Điện Biên Phủ, ngụ ý mỉa mai (ND).
    (2) Tên thời Pháp thuộc, nay là dinh Thống Nhất (ND).
  6. vaxiliep

    vaxiliep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2006
    Bài viết:
    1.180
    Đã được thích:
    2
    Một trăm mười hai ngày trước trận đánh lớn
    Pi-e Xéc-giăng (Pierre Sergeant) nguyên trung úy tiểu đoàn dù lê dương thứ nhất (1er BEP), trong hồi ký đã viết về những trận đánh nhỏ, có nhiều nét đáng chú ý, kéo dài suốt 112 ngày, từ 20-11-1953, tức ngay sau khi Pháp nhảy dù xuống cánh đồng Mường Thanh, tới 12-3-1954, một ngày trước khi chiến dịch mở màn.
    Tháng 11-1953. Sau những trận đánh ở miền Trung Trung bộ, tiểu đoàn dù lê dương thứ nhất (1er BEP) được về nghỉ ngơi ở sân bay Bạch Mai, Hà Nội. Những đồng tiền tích luỹ sau những ngày hành quân chiến đấu nhanh chóng được ném vào những cuộc đỏ đen, nhậu nhẹt và hộp đêm. Tuy nhiên, đằng sau tấm màn thư giãn và khoái lạc, mọi người vẫn thấy từ phía ban chỉ huy có cái gì đó đang ngấm ngầm chuẩn bị.
    Một hôm, các sĩ quan được lệnh tới họp ở phòng hành quân đổ bộ đường không. Tại đây, sau khi những cánh cửa đã đóng chặt, mọi người nghe được thông báo tuyệt mật là sắp làm nhiệm vụ chiếm đóng Điện Biên Phủ. Các sĩ quan cúi đầu trên bàn cát nhìn thấy các mục tiêu nằm giữa thung lũng lòng chảo dài khoảng 10km, rộng 7-8km, có dòng sông Nậm Rốm chảy xuyên qua từ phía nam lên phía bắc. Cấp trên giải thích, quân Việt sắp tiến đánh Lào, Điện Biên Phủ nằm trên đường thâm nhập của ********* đồng thời cũng là nơi dự trữ lúa gạo quan trọng.
    Ngày ?oN? được dự định vào 20-11-1953, đúng một năm kể từ khi tiểu đoàn dù lê dương được lệnh nhảy dù xuống Nà Sản. Nay kế hoạch Ca-xto được tiến hành. Lịch sử lại lặp lại. Cũng như năm trước, cuộc tiến quân đánh những sư đoàn ********* nhanh như sét đánh. Cũng như năm trước, các đồn nhỏ của Pháp nằm rải rác tại vùng thượng du lại đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Bây giờ lại phải tìm cách chặt đứt đường tiến quân của ********* sang Lào, di tản cấp tốc những vị trí bị đe dọa, co cụm các doanh trại và tập trung đám dân theo Pháp. Lịch sử lại bắt đầu trở lại, song các nhân vật đã khác trước. Ít nhất cũng là đã thay đổi các diễn viên và chỉ thay đổi các diễn viên Pháp mà thôi. Một vị tướng mới toanh không ai biết, không ai trên chiến trường này được gặp từ trước, đã được đặt vào chiếc ghế bành mà trước đó Đờ Lát và Xa-lăng đã ngồi. Đối với các binh lính đang mong chờ một vị tướng vĩ đại, một vị tổng chỉ huy rất vĩ đại, thì vị tướng này chỉ có một cái đức và một cái tên đáng chú ý. Đó là đại tướng Na-va. Mọi người ở Pháp không ai được may mắn mang dòng họ này. Tư lệnh chiến trường Bắc Bộ cũng thay đổi. Tướng Gôn-xa-lét Đờ Li-na-rét, viên tướng đánh thuê gọi theo kiểu La Mã, được thay bằng Cô-nhi, một quân nhân ít rõ nét hơn. Cô-nhi là một người lính thực thụ, to lớn, đẹp trai, quen biết nhưng vẫn là một chỉ huy thiếu sự tín nhiệm hoàn toàn của cấp dưới.
    Ngày 20-11-1953, đợt nhảy dù đầu tiên ập xuống Điện Biên Phủ, lúc này chưa có 1er BEP, mà chỉ có tiểu đoàn dù số 6 (6er BPC) do Bi-gia chỉ huy và tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn dù thuộc địa số 1 (2/1 RCP) do Brê-si-nhắc chỉ huy. Ngày hôm sau, 20-11, mới đến lượt 1er BEP nhảy vào lúc 8 giờ sáng cùng với Lăng-gle chỉ huy binh đoàn đổ bộ đường không số 2 (GAP2) có nhiệm vụ chiếm một quả đồi ở tây bắc lòng chảo. Sau, quả đồi này được đặt tên là An Ma-ri, tức là cứ điểm đầu tiên trong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, được gọi theo thứ tự A, B, C.
    Tướng Gin là chỉ huy trưởng toàn bộ cuộc hành quân chiếm đóng ngày nào cũng hỏi công trình khôi phục sân bay đến đâu rồi. Do đã từng chỉ huy Nà Sản nên ông biết rất rõ tầm quan trọng của sân bay dã chiến. Là lính dù kỳ cựu, ông không bao giờ thiếu năng nổ, khi được lệnh nhảy dù ngay trên đầu địch hoặc ở phía sau lưng địch, ông không ngần ngại khi nhảy xuống Điện Biên Phủ. Nhảy dù là nghề của ông. Còn ở tại đây, đóng tại đây lại là vấn đề khác.
    Công việc tiến triển tốt đẹp. Một máy bay liên lạc đã hạ cánh được xuống sân bay, rồi chiếc thứ hai. Một máy bay vận tải Đa-cô-ta không chở người cũng liều hạ cánh và đã đáp xuống sân bay an toàn. Cầu hàng không đã được thiết lập, liên tiếp chở người và dụng cụ tới. Vấn đề bây giờ là ?olàm cho Điện Biên Phủ được thông thoát? bao gồm các nhiệm vụ trinh sát, sục sạo, đẩy lùi du kích.
    Ngày 4-12-1953, lính dù xung kích của Brê-si-nhắc bị chặn đánh kịch liệt cách Điện Biên Phủ 5km. Ba hôm sau, BEP phải nổ để giải tỏa một khu vực cách đường băng 3km về phía bắc. Cao điểm này được đặt tên là ?oQuả ngư lôi? theo hình dáng quả đồi, sau đó mới lấy tên là Ga-bri-en (tức đồi Độc Lập-ND), theo thứ tự A, B, C của trình tự xây dựng cứ điểm. Đúng ngày hôm đó, ?obố Gin? đau yếu, mệt mỏi rời khỏi tập đoàn cứ điểm để lại một phần lính dù của mình cho đại tá kỵ binh Đờ Cát. Binh đoàn đổ bộ đường không số 1 (GAP1) cùng đi theo tướng Gin. Một binh đoàn đổ bộ đường không do Lăng-gle chỉ huy vẫn ở lại. Binh đoàn này có 3 tiểu đoàn: tiểu đoàn dù thuộc địa số 8, tiểu đoàn dù lính Việt số 5 (5er BPVN) và đoàn dù lê dương số 1.
    Ngày 9-12, bắt đầu cuộc rút quân gồm lính Thái và binh sĩ Âu từ Lai Châu về Điện Biên Phủ. Lính dù được lệnh tiến thẳng theo hướng bắc trên đường cái từ Điện Biên đi Lai Châu đến Mường Pồn để đón đoàn quân di tản. Đoạn đường chỉ dài 27km. Nhưng, vừa ra khỏi lòng chảo Điện Biên Phủ, quân dù đã bị ********* chặn đánh từng đoạn. Lính dù phải bỏ đường cái, đi theo đường núi song song với đường cái đầy cỏ gianh. Nóng kinh khủng, vừa đi, vừa vất vả dùng dao mở đường. Cuộc hành quân này kéo dài suốt hai ngày từ ngày 12, đến sáng 13. Binh đoàn GAP của Lăng-gle biết tin Mường Pồn đang bị đánh vì đồn binh liên tục gọi điện cầu cứu. Đã nghe tiếng nổ. Lính dù cố vượt nhanh 4km đường còn lại.
    Đột nhiên tiếng súng đang nổ dữ dội bỗng giảm dần rồi ngừng bặt. Lúc đó là giữa trưa 13-12. Một máy bay ?ocào cào? bay tới báo cứ điểm Mường Pồn đã thất thủ. Mãi hai giờ, đơn vị đi đầu của binh đoàn dù mới tới cứ điểm Mường Pồn thì nơi này chỉ còn lại một đống xác chết và tro than.
    Binh đoàn phải quay về. Đêm hôm đó tương đối yên tĩnh. Trưa hôm sau, chạm trán ********* đang tìm cách chặn đường rút. Trời xấu làm cho máy bay thám thính và khu vực không hoạt động được. Quân dù chỉ có thể dựa vào pháo yểm trợ bắn từ xa và không có hiệu quả. Xế chiều trời hửng nắng. Máy bay kéo tới nhưng bị ngay pháo phòng không bắn trả. Hai máy bay ?ocào cào? và một máy bay khu trục bị trúng đạn. Thật bất ngờ. ********* có cao xạ ư? Đó là điều không ai nghĩ tới. Quân ********* chiếm được đỉnh đèo. Đại đội của Brăng-đông bị cắt khỏi đội hình tiểu đoàn. Khi Brăng-đông tập hợp được toàn đại đội thì có khoảng bốn chục lính bị chết và bị thương. Cho tới nửa đêm, Lăng-gle mới dẫn được binh đoàn dù về tới Điện Biên. Kiểm điểm lại quân số, rõ ràng là một thất bại: 28 chết và mất tích, 28 bị thương, 1 trọng liên, 12 tiểu liên, 1 điện đài bị mất. Thất bại lớn nhất là binh đoàn đã không ứng cứu được cho các tiểu đoàn lính Thái. Số quân rút từ Lai Châu về được Điện Biên chỉ có 185 người. Rõ ràng, Điện Biên không giữ được vai trò ?obàn đạp xuất phát tiến công?.
    Ngày 21-12-1953, Lăng-gle lại dẫn binh đoàn đi khá xa khỏi tập đoàn cứ điểm. Chuyến đi này là một cuộc hành quân gỡ thể diện nhằm chứng minh quân Pháp không bị vây hãm trong thung lũng mà bất cứ lúc nào cũng có thể ứng cứu cho quân Lào nếu muốn. Ngày 23-12, Lăng-gle gặp Vô-đrây từ phía Lào tiến đến rồi hai người lại vội vã quay về căn cứ ngay, đề phòng bị quân Việt chặn đánh. Cuộc hành quân được coi là đã thành công vì không gặp quân Việt.
    Những cuộc hành quân xa làm cho lính trong tập đoàn cứ điểm không có thời gian củng cố công sự. Ngày 12-1-1954, binh đoàn dù lại xuất quân một lần nữa. Lần này chỉ hành quân từ trung tâm đến căn cứ I-da-ben (tức Hồng Cúm-ND), cách sở chỉ huy vài km về phía nam rồi lại đi tiếp 3km tới một bản ở phía tây nam. Đúng lúc trung đội đầu tiên tiến vào một khu vực cây cối rậm rạp, địa hình phức tạp, đang ùn lại vì khó tiến thì quân Việt nổ súng. Đại đội 2 bị đạn súng cối và súng máy bắn như thác lũ. Đại đội trưởng Blăng-đông bị thương, trung úy Lơ-cốc lên thay nhưng lúc này binh lính chỉ biết tìm cách ẩn nấp sau những tảng đá hoặc dưới hố để tránh đạn. Đại đội 3 do trung úy Mác-tanh chỉ huy được lệnh xông lên ứng cứu. Mãi tới 17 giờ, binh đoàn dù mới thoát khỏi trận địa phục kích. Đường về còn 8km nữa. Khoảng nửa đêm, tiểu đoàn mới qua được I-da-ben, vì còn mang nhiều binh lính bị thương. Đến bản Cò Mỵ, đại đội 1 vấp phải một ổ phục kích. Đêm tối bưng như mực, không dễ gì chống trả. Có thêm một số bị thương. Gần đến vị trí, lại bị phục kích một lần nữa. Mãi tới rạng sáng mới về tới căn cứ. Mọi người mệt nhừ. Tổng cộng có 5 người bị chết, trong đó có 1 sĩ quan, 33 người bị thương, trong đó có 5 sĩ quan, 2 hạ sĩ quan.
    Tháng 2-1954, đơn vị BEP càng bị thiệt hại vì những trận đụng độ ngày càng dữ dội. Rõ ràng quân Việt đã hạ quyết tâm chiến đấu. Giữa trưa 31-1, ********* dám đàng hoàng nổ pháo 75mm, bắn vào 3 cao điểm và cả sân bay, phá hỏng một máy bay. Ngày 2-2, đơn vị BEP đi sục sạo, lần đầu tiên vấp phải một vị trí ********* với các công trình phòng ngự rất bài bản. Từ 6-2, binh đoàn dù được lệnh đi tìm diệt các vị trí pháo của ********* mà pháo của đại tá Pi-rốt không làm câm họng được. Ngày 14-2, trận tiến công lên cao điểm 764 ở rìa thung lũng mạn tây bắc đã phát hiện được hầm pháo và giao thông hào của địch được xây dựng vững chắc chống lại được đạn pháo của Pháp. Nhưng cuộc sục sạo từ ngày 17-2 trở đi chứng minh các cao điểm vây quanh Điện Biên Phủ đều bị ********* chiếm lĩnh.
    Ngày 5-3, BEP lại tiến đánh điểm cao 781 thọc sâu như một mũi kiếm cách sân bay 5km đã làm cho phía Pháp có tới hàng trăm người thương vong. Cuộc tiến quân rất vất vả. Quân Việt chống trả ác liệt. Lính dù không chiếm được điểm cao 781 mà còn bị thiệt hại nặng. Trận tiến đánh mỏm 555 ngày 11-3 cũng là một thất bại hoàn toàn, không phá hủy được các công sự của *********, phải quay về lúc 17 giờ với nhiều người chết và bị thương. Ngay tối hôm đó, pháo 75mm của ********* đặt ở mỏm đồi 781 bắn liên tục suốt 40 phút vào Điện Biên Phủ mà pháo của Pi-rốt không tài nào bắn trả có hiệu quả. Một máy bay vận tải C119 bị phá hủy ngay trên đường băng, làm cho lính Điện Biên Phủ mất tinh thần vì họ biết chỉ có một con đường ra là ?ođường trời?.
    Ngày 12-3, tướng Cô-nhi từ Hà Nội điện cho đại tá Đờ Cát: ?oNgày mai, 17 giờ?.
    Nếu có vài kẻ nào đó vỗ tay tỏ vẻ chờ trận đánh, thì lính dù của 1er BEP không ai hưởng ứng. Đối với bọn lính dù lê dương chúng tôi, trận đánh ở Điện Biên Phủ đã diễn ra từ 112 ngày rồi, đã đủ để đánh giá tướng Giáp và bộ đội của ông ta rồi. Ngược lại, không ai còn tin vào Bộ Tổng chỉ huy quân đội Pháp vì mọi phán đoán của các vị trong bộ chỉ huy tối cao đều chứng tỏ là đoán sai. Đối với Đờ Cát, là chỉ huy trực tiếp, cũng không có ảnh hưởng gì với binh lính ở Điện Biên Phủ cả. Thôi được, ngày mai, 17 giờ, lính lòng chảo Điện Biên Phủ sẽ chiến đấu, vì đó là nghề của họ. Chẳng cần phải đòi hỏi gì thêm ở những người lính này.
  7. vaxiliep

    vaxiliep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2006
    Bài viết:
    1.180
    Đã được thích:
    2
    Những quả trứng bọc thép
    Sau khi hoàn thành giai đoạn chỉnh quân chính trị vào một ngày tháng 12 năm 1953, theo chỉ thị của trên, phân đội chúng tôi thuộc đại đoàn 316 hành quân lên Tây Bắc, đi chiến đấu ở chiến trường Điện Biên Phủ lịch sử, là lính trợ chiến nên mang vác khá nặng, trên vai là nòng súng cối 82mm với trọng lượng 25kg, đó là chưa kể đến ?okhẩu phần? của lính: Chiếc ba lô đựng tư trang, cuốc, xẻng, dao rựa, bi đông, nước và hai quả lựu đạn? Tuy hành quân đường dài vào ban đêm bị máy bay địch oanh kích lại phải vượt qua nhiều đèo cao, suối sâu, ăn không đủ no, nhưng nhờ mới được chỉnh quân chính trị nên lòng yêu nước, chí căm thù giặc được khơi dậy, anh em chúng tôi động viên nhau khắc phục mọi khó khăn hát:
    Đèo cao thì mặc đèo cao
    Tinh thần khắc phục còn cao hơn đèo.
    Rồi bài ?oHành quân xa?, sáng tác của nhạc sĩ Đỗ Nhuận và nhiều bài khác được hát vang trên đường ra trận. Khi đoàn quân chúng tôi tiến đến cách Tuần Giáo 10km thì gặp nhan nhản những tờ truyền đơn do thực dân Pháp thả từ trên máy bay xuống. Chúng nói rằng: ?oQuân đội ********* hãy quay trở về với gia đình, đừng có liều lĩnh chống chọi với quân đội viễn chinh Pháp. Chống chọi với quân đội viễn chinh nhà nghề ở Điện Biên Phủ chỉ vô ích, không khác gì đem trứng mà chọi với đá?.
    Ấy vậy mà chúng tôi, hàng vạn quả trứng đã được ?obọc thép?, qua tôi luyện không hề nản chí vẫn hiên ngang tiến về chiến trường Điện Biên Phủ. Khi đặt chân tới mảnh đất lịch sử này, anh em chúng tôi bắt tay ngay vào công tác chuẩn bị cho trận đánh: đào giao thông hào, làm công sự, tiếp nhận đạn, chiếm lĩnh trận địa. Ít ngày sau lệnh hợp đồng tác chiến được phát ra vào đồn giặc hỗ trợ cho bộ binh xung phong. Qua 55 ngày đêm, đại đoàn chúng tôi phối hợp với lực lượng của các đơn vị bạn dũng mãnh tấn công áp đảo làm cho quân Pháp chống cự không nổi, buộc toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ cắm cờ trắng hạ vũ khí ra đầu hàng vô điều kiện.
    Hoàn thành xong nhiệm vụ chiến đấu ở đây, chúng tôi thu dọn chiến trường, dự mít tinh mừng chiến thắng ngay tại sân bay Mường Thanh và sau đó là đón nhận phần thưởng của Bác Hồ. Bác trao tặng cho mỗi cá nhân chiếc huy hiệu ?oChiến sĩ Điện Biên Phủ?. Lúc này, được lệnh của trên, chúng tôi tiếp tục hành quân bộ với quãng đường dài khoảng chừng 500km, từ Điện Biên về đóng quân ngay tại một xã thuộc huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa). Trên đường đi, khi đoàn quân chúng tôi vừa sang khỏi đèo Pha-đin thì gặp đoàn tù binh Pháp vừa bại trận ở Điện Biên Phủ hôm trước lếch thếch đi bộ với bộ mặt buồn rũ dưới sự chỉ huy của cán bộ quân đội ta dẫn chúng về một trại giam ở chùa Hang (Ninh Bình).
    Do không quen đi bộ, phần thì bị thương, ốm đau nên không ít những ?oông Tây? trắng to, cao, mày rậm không theo kịp đồng nghiệp của chúng phải nằm lại ở hai bên vệ đường kêu la ầm ĩ. Thế mới biết: ?ođá? đã thua trận, còn ?otrứng? càng chiến đấu, càng vững vàng, lập công to lớn, góp phần viết thêm trang sử vẻ vang cho Tổ quốc, làm chấn động địa cầu.
  8. simbat1080

    simbat1080 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    16/09/2003
    Bài viết:
    478
    Đã được thích:
    0
    Cho em mạn phép chen ngang
    Sau chiến thắng ĐBP, tù binh Pháp bị ta chia ta rồi dong khắp Việt Bắc, mặc dù ta đã cố đối xử tốt (khẩu phần như lính ta) nhưng mà... chỉ 1/3 còn sống mà về tới quê mẹ (nghĩ cũng thương ).
    Tức là riêng trong trận này ta (mặc dù không cố ý) đã làm khoảng 6000 - 7000 bác tù binh Tây - Phi về với Chúa! Thế mà không thấy Pháp nó kêu ca gì
    Trong khi đó mấy chú phi công Mỹ ở Hoả Lò có vài năm, khẩu phần gấp 4 lần lính phòng không nhà mình mà về nước đã kêu như cha chết. Mother chúng nó
    Được simbat1080 sửa chữa / chuyển vào 19:31 ngày 11/05/2006
  9. altus

    altus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    1.503
    Đã được thích:
    1
    Không kêu là thế nào, nó chửi ầm lên ấy chứ. Sách nào của bọn Pháp về ĐBP cũng nhắc đến chuyện này. Nhưng mà lâu ngày rồi thì chắc cũng nguôi. Sau chiến tranh bọn Pháp không có ý định mang hài cốt lính Pháp về nước, chôn hết ở VN, trả tiền cho ta chăm sóc mộ nhưng sau đó một thời gian ta bảo không có điều kiện thế là tụi nó mang hết về.
  10. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Nó kêu thì nó cũng kêu đấy, nhưng mà nó kêu tại nó không biết hết
    Theo số liệu gần đây cho thấy thì phải cẩn thận trên số 5-6 ngàn này là có lẫn vào vài hạt sạn :
    1- Số liệu thương vong chính xác trong trận đánh, bọn tây chỉ biết đến cuối tháng 4 thôi, sau đó tình hình lộn xộn quá, chúng nó không biết gì nữa. Như vậy có nghĩa là bọn nó không có số liệu đầy đủ về số chết trận gì từ cuối tháng 4 đến mồng 7 tháng 5, khi mà trận đánh vào lúc cao điểm nhất (và có lẽ là tổn thất tây nặng nhất). Nhưng từ đó đến nay bọn nó vẫn cộng số tử vong của những ngày cuối cùng này vào số tù binh luôn ( ý định chính trị chăng?). Cái này chỉ mới được công bố năm ngoái trong hội nghị Pháp -Việt nhân 50 năm dưới sự điều hành của giáo sư Hugues Tertrais ở Paris khi họ bàn về số thiệt hại của quân đội viễn chinh pháp ở ĐBP (hình như chính ở cái hội nghị này mà mấy bọn ba que hay bù lu bù loa cái chuyện phía ta không có cựu chiến binh nào đi ).
    2- Một số tù binh (nhất là tù binh bắc phi) đã giác ngộ được lý tưởng CM và đã xin ở lại. Hồi mấy năm 50-60, ở Sơn Tây có cả 1 làng bắc phi gồm mấy trăm gia đình người Tunisia, Ma-rốc, Algeria. Họ chỉ trở về nước họ sau khi các nước này dành lại độc lập.
    Trong bản nghiên cứu trên, họ còn nghiên cứu số thiệt hại thật sự trong trại tù binh của các sỹ quan và hạ sỹ quan nữa (do số liệu về lính trơn không đầy đủ vì mấy lí do trên cho nên họ không làm được). Số thiệt hại là : 5.4 % số sỹ quan và 17.6 % số hạ sỹ quan chết trong trại tù binh.
    ( Source : Jean-Jacques Arzalier "ĐBP : les pertes humaines"
    dans "la bataille de DBP, entre Histoire et Memoire" colloque sous la direction de Pierre Journoud et Hugues Tertrais, Paris 2004)
    Được panzerlehr sửa chữa / chuyển vào 01:49 ngày 12/05/2006
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này