1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Diễn đàn thơ Bùi Giáng

Chủ đề trong 'Thi ca' bởi ndmt, 05/09/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Một lần, Bùi Giáng giải thích: " Dù sao, tôi nói dù sao, bởi vì thiên hạ vốn ưa thích dù sao. Cho có mạch lạc. Chứ thật tình tôi chẳng rõ sao gọi là mạch lạc liên tục ngụ trong tính tình của ngôn ngữ dù sao dao sù" (9)
    Cách phân tích như trên khá nguy hiểm: nó dễ làm cho người ta có cảm tưởng thơ Bùi Giáng là một cái gì tĩnh tại và cố định. Thật ra, không phải. Theo dõi thơ Bùi Giáng chúng ta sẽ nhận ra ông thay đổi không ít. Tập Mưa Nguồn xuất bản năm 1962 rất trong sáng; từ tập Ngàn thu rớt hột (1963) về sau, thơ ông tối tăm hẳn; sau năm 1975, ở hai tập thơ xuất bản tại hải ngoại, thơ ông trong sáng trở lại, nhưng so với Mưa Nguồn, đằm hơn, lắng hơn và chín hơn. Mưa Nguồn là niềm nhớ thương đồng ruộng không nguôi:
    -Viết thơ lạc dấu sai dòng
    Viết trong tức tưởi sợ đồng lúa mong
    -Viết thơ là trở lại bên
    Con người thôn nữ răng đen hai hàng

    (Ca dao)
    Sau này, ông vẫn bâng khuâng nhớ đồng quê. Chỉ bâng khuâng thôi. Nghĩa là rất man mác. Có một câu thơ có lẽ ông thích, cứ lặp đi lặp lại rải rác ở nhiều bài thơ khác nhau:
    Trông về đồng ruộng đôi khi
    Thị thành tâm sự hoài nghi trăng tà

    (Gấu buồn)
    Nhưng tâm sự chính của ông là nỗi tuyệt vọng về khả năng giao cảm giữa người và người, niềm cay đắng trước một xã hội ngày một đảo điên. Ông hoàn toàn cô độc:
    quay về một cõi riêng thôi
    liệu trong tấc cỏ kiếm trời ba xuân

    (Ðời rộng đương chìm)
    Ông làm thơ cho hư không:
    Bây giờ xin ngó cụm cây
    Chắp hàng viết nốt áng mây về trời

    (Bây giờ)
    Ông độc thoại:
    Ngàn năm độc đối riêng hàng
    Tờ xanh ứa lệ đẫm trang xuân đầu

    (Khởi từ)
    Có khi ông im lặng:
    Từ đây đổi vịt thay gà
    Chán chường đến thế là ta ngậm lời

    (Nhà ma đi đời)
    Sau 1975, cảm giác cay đắng và tuyệt vọng ấy, không hiểu tại sao dường như nhẹ nhàng đi nhiều. Ðời sống ông cơ cực hơn, những cơn điên đến với ông thường xuyên hơn (10), song thơ của ông lại có vẻ thanh thản hơn. Ông bớt những thắc mắc siêu hình để quan tâm hơn đến khía cạnh cảm xúc, từ đó, nhấn mạnh đến yếu tố tâm hồn, coi đó là nguồn gốc của thơ:
    Chợt mùa thơ vội đổi giòng
    Cỗi nguồn cũng bởi tự lòng mà ra

    (Từ bấy tới nay)
    Với quan niệm như vậy, thơ không còn là trò đùa nghịch chữ nghĩa nữa mà là một sự bộc bạch tâm sự:
    Lời tỉnh táo, lời mê man
    Ðiệu thê thiết rống điệu bàng hoàng ca

    (Y ư mộng du ư mê)
    Do đó, ông khao khát được thông cảm:
    Xổ bầu tâm sự điêu linh
    Ai người chia xẻ với mình với ta

    (Một giờ)
    Bài Bao giờ in trong tập Thơ Bùi Giáng do Thế Kỷ 21 xuất bản là một bài thơ hay:
    Bằng bút chì đen
    Tôi chép bài thơ
    Trên tường vôi trắng
    Bằng bút chì trắng
    Tôi chép bài thơ
    Trên lá lục hồng
    Bằng cục than hồng
    Tôi đốt bài thơ
    Từng phút từng giờ
    Tôi cười tôi khóc bâng quơ
    Người nghe cười khóc có ngờ chi không

    Thơ, với Bùi Giáng, trước hết là một sự hiện hữu cụ thể với những màu sắc cụ thể nhất định: đó là một văn bản với những từ, ngữ, giấy, mực cụ thể. Văn bản ấy có đời sống riêng của nó: có sinh có tử. Nhưng đằng sau, ẩn náu phía trong cái hình thức cụ thể ấy lại là một tâm tình, là tiếng cười, là tiếng khóc. Tâm tình của người làm thơ òa vỡ bất chấp những giới hạn tự thân của ngôn ngữ:
    Ngữ ngôn khép kín mặc dầu
    Hùng tâm tim máu óc đầu mở ra

    (Bé con ơi)
    Bùi Giáng băn khoăn:
    Tôi cười tôi khóc bâng quơ
    Người nghe cười khóc có ngờ chi không ?

    Bùi Giáng lại năn nỉ:
    Tặng nhau từ ngữ lạc lầm
    Cũng xin hồng lệ hãy đầm đìa tuôn

    (Y ư mộng du ư mê)
  2. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Trong bài Thuở chưa điên in trong tập Thơ Bùi Giáng do Việt Thường xuất bản tại Canada năm 1990, Bùi Giáng tự so sánh thơ mình ngày trước với thơ mình bây giờ:
    Ấy là thơ thuở chưa điên
    Ở trong dấu ngoặc quàng xiên reo cười
    Bây giờ xoang điệu đười ươi
    Ðiệu hoa lầu các ngậm ngùi dấn thân

    Sự khác nhau không phải ở chỗ: có lúc ông " quàng xiên reo cười" , có lúc ông lại " ngậm ngùi dấn thân" . Ở Bùi Giáng, cái cười và cái khóc đôi khi rất giống nhau. Theo tôi, chỗ khác nhau căn bản là: trước đây, Bùi Giáng loay hoay mãi trong " dấu ngoặc" của ý thức, của cái tôi; sau nầy, ông tung hê hết, ông hòa nhập vào cái chung của cuộc đời:
    Ta quên như thể mình ta quên mình
    (Tặng hai cháu Quỳnh và Na)
    Ông trở thành dễ thương và tội nghiệp vô cùng:
    Trái tim mỗi mới mỗi ngày
    Mỗi giờ phút động mây trời rung rinh
    Ðường đi mất hút thình lình
    Những khuôn mặt lạ những hình ảnh quen
    Tạm nhờ men rượu nguôi quên
    Niềm vui nỗi nhớ chênh vênh lạ lùng

    (Ðường quanh ngõ quẹo)
    Ở khía cạnh nầy, có thể nói Bùi Giáng xóa nhòa ranh giới giữa cái tôi và cái ta, giữa cái riêng và cái chung: Hoặc rằng người cũng là tôi
    Hay là tôi cũng là tôi như người
    Ấy rằng tinh thể đười ươi
    Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
    Ấy rằng một cũng là ba

    Là hai mai một mốt là hôm nay. Xóa nhòa. Xóa nhòa ranh giới giữa các giọng điệu, giữa truyền thống và hiện đại, giữa thơ và phi thơ, giữa cái lý và cái phi lý, giữa cái tôi và cái ta, cái riêng và cái chung, xóa nhòa mọi sự phân biệt, biện biệt; theo tôi, đó là những đặc điểm nổi bật nhất trong thơ Bùi Giáng. Bằng những sự xóa nhòa ấy, Bùi Giáng xóa nhòa luôn cả ranh giới giữa cái gọi là văn hóa cao cấp và văn hóa bình dân. Ðồng thời, Bùi Giáng cũng xóa nhòa luôn cả tính chất nghiêm nghị, nghiêm túc với những khẩu hiệu ồn ào như " vị nhân sinh" , " vị nghệ thuật" vốn kéo dài rất lâu trong văn học Việt Nam. Khác với các nhà thơ khác, lúc nào cũng nhăn mặt nhíu mày, lao vào thơ như lao vào một trận địa, kỳ khu và khắc khổ, lúc nào cũng khắc khoải sáng tạo ra cái mới, mà chưa chắc đã mới và chưa chắc đã hay. Bùi Giáng, ngược lại, làm thơ cứ như đùa như giỡn, như không phải đang làm thơ, vậy mà tự nhiên thơ lại trở thành bát ngát, lấp lánh và lộng sắc lộng hương. Mai Thảo kể: " ba chữ " vui thôi mà" là câu trả lời mơ hồ nghịch ngợm duy nhất của Bùi Giáng trước mọi tìm hiểu của (về?) lực thơ và số lượng thơ không thể tưởng tượng được ở nơi ông" , rồi bình tiếp: " thơ Bùi Giáng vui thật. Một vĩ đại vui" (11). Theo Leslie Fiedler, sự xóa nhòa văn hóa giữa văn hóa bình dân và văn hóa cao cấp, và cùng với nó, việc đoạn tuyệt với chủ nghĩa đặc tuyển (elitism) và tính chất nghiêm cẩn (seriousness) là những đặc điểm chính yếu của chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism) (12). Ở khía cạnh nầy, Bùi Giáng rất gần các nhà thơ hậu hiện đại.
    Bùi Giáng còn gần gũi các nhà thơ hậu hiện đại ở một khía cạnh khác nữa: một số khá nhiều các bài thơ của ông là loại thơ không thể giảng. Susan Sontag cho một trong những đặc trưng lớn của chủ nghĩa hậu hiện đại là tính chất phản diễn dịch (anti-interpretation), là sự nhấn mạnh vào hình thức và sự trình diễn (performance) hơn là nội dung và ý nghĩa (13). Chúng ta biết theo quan niệm của Ferdinand de Saussure, ngôn ngữ chỉ là một hệ thống ký hiệu, ở đó, mỗi đơn vị ký hiệu đều có hai mặt: cái biểu đạt (signifier) và cái được biểu đạt (signified). Cái biểu đạt là âm hoặc chữ viết. Cái được biểu đạt là ý niệm do âm hoặc chữ viết ấy gợi lên trong đầu chúng ta. Ví dụ, nghe âm " chó" (cái biểu đạt), chúng ta nghĩ ngay đến giống vật thường được nuôi trong nhà (cái được biểu đạt) (14). Từ đó, người ta đi đến chỗ coi bài thơ cũng là cái biểu đạt. Ðọc thơ là để tìm kiếm cái được biểu đạt, tức ý nghĩa, điều ẩn giấu phía sau bài thơ. Với Bùi Giáng, cũng như với các nhà thơ hậu hiện đại, ngược lại, bài thơ là cái được biểu đạt chứ không phải là cái biểu đạt. Nói cách khác, bài thơ là bài thơ. Không có ý nghĩa nào ẩn sau bài thơ để chúng ta đào xới, tìm kiếm. Nó giống như một bức tượng đá. Bề mặt: đá; trong ruột: cũng là đá. Do đó, nếu hỏi ý nghĩa bài thơ Ðạm Tiên tôi dẫn ở trên là gì ư? Chịu! ý nghĩa của nó là chính sự hiện hữu của nó, là bài thơ có nhan đề Ðạm Tiên, vậy thôi! Chúng ta không thể phân tích. Chúng ta chỉ cần nghiệm (experience). Ðọc lần thứ nhất: chúng ta không hiểu gì cả. Ðọc lần thứ hai: chúng ta vẫn không hiểu gì cả. Nhưng càng đọc, chúng ta càng nghe rõ, càng thấm, càng cảm cái nhạc điệu lầm rầm, lầm rầm của bài thơ. Nghe như thần chú. Như tiếng tụng kinh. Như lời cầu hồn. Chúng ta sống trong một không khí huyền bí, ma quái, không có gì rõ nét. Thì Ðạm Tiên là một bóng ma mà! Ở nhiều bài thơ khác, điều chúng ta nghiệm được thường là sự bất lực của ngôn ngữ; chúng ta không hiểu vì chính nhà thơ cũng không thể diễn tả được những gì ông chỉ cảm nhận một cách mơ màng hoặc bằng trực giác hoặc bằng tiềm thức.
    Chúng ta có thể gọi Bùi Giáng là nhà thơ hậu hiện đại được chăng? Khái niệm hậu hiện đại, mặc dầu xuất hiện từ thập niên 30 và 40 với Frederico de Oniz, Dudley Fitts và Arnold Toynbee, được sử dụng khá nhiều tại Mỹ vào thập niên 50 và 60, trở thành thời thượng tại Âu Mỹ từ giữa thập niên 80 đến nay (15), vẫn còn khá xa lạ với giới cầm bút Việt Nam. Ðiều đó dễ gợi cho chúng ta ấn tượng chủ nghĩa hậu hiện đại là cái gì rất mới, chỉ gần đây thôi, gắn liền với máy vi tinh, chẳng hạn. Tuy nhiên, trên thực tế, khác hẳn. Danh sách các nhà thơ hậu hiện đại được Jerome Mazzaro phê bình trong quyển Postmodern American Poetry bao gồm W.H.Auden (1907-73), Randall Jarrell (1914-65), Theodore Roethke (1908-63) v..v..(16). Với Margaret E. Gray, ngay cả Marcel Proust (1871-1922) cũng là một nhà văn hậu hiện đại (17). Chúng ta có thể gọi Bùi Giáng là nhà thơ hậu hiện đại hay hậu " iện" đại (người vượt ra ngoài chủ nghĩa " iện" đại tại Việt Nam) hay " ậu" hiện đại (người ít nhiều - chứ chưa hoàn toàn - nhích ra khỏi chủ nghĩa hiện đại theo cách hiểu truyền thống tại Tây phương) được chăng? Dù sao, vấn đề xác định danh xưng ở đây, tôi nghĩ, cũng không phải là điều quan trọng. Quan trọng hơn, chúng ta cần ghi nhận đóng góp lớn lao của Bùi Giáng: ông đã tiến một bước khá xa trên con đường hòa giải giữa thơ và hiện thực cũng như giữa nhà thơ và người đọc.
    Nguyễn Hưng Quốc (Trích " Thơ, v.v...và v.v.." )
    Chú thích:
    (1) Mai Thảo (1994), " thay lời bạt: Một vài kỷ niệm với Bùi Giáng" , in trong tập Thơ Bùi Giáng, nxb Thế kỷ 21, California, 1994. tr. 146.
    (2) Như trên, tr. 139.
    (3) Thanh Tâm Tuyền (1994) " Bùi Giáng, một hồn thơ bị vây khốn" , Tạp chí Thơ (California) số 1, Mùa thu 1994, tr, 73-75.
    (4) Bùi Giáng (1969), Thi ca tư tưởng, Ca Dao, Saigon. tr, 102-3.
    (5) Thơ Bùi Giáng, Việt Thường xuất bản tại Montreal, 1990 và Thơ Bùi Giáng, Thế Kỷ 21 xuất bản tại CA, 1994. (6) Trong bài " Bao giờ" và " Bài thơ của tháng giêng" in trong tập Liên, đêm mặt trời tìm thấy, nxb Sáng Tạo, Saigon, 1964.
    (7) Bùi Giáng (1970) Mùa thu trong thi ca, Sống Mới in lại tại hải ngoại, không ghi năm, tr. 223-4.
    (8) Dẫn theo Steiner,G. (1967) Language and Silence, Faber & Faber, London, tr. 72.
    (9) Bùi Giáng (1970) Mùa thu trong thi ca, sđd. tr. 17.
    (10) Xem Phạm Xuân Ðài, " Kẻ cuồng sĩ trong vườn cây" lời tựa tập Thơ Bùi Giáng, Thế Kỷ 21, 1994, tr. 15-26.
    (11) Mai Thảo (1994), bài đã dẫn, tr. 141.
    (12) Fiedler, L. (1975) " Cross the Border - Close the Gap: Postmodernism" in trong tập American Literature since 1900 do Cunliffe chủ biên, Sphere Books, London, 1975, tr. 344-366.
    (13) Sontag, S. (1966), Against Interpretation and Other Essays, Delta, New York.
    (14) Tác phẩm chính của Saussure, Cours de linguistique générale, in tại Paris năm 1916, sau đó, được dịch ra nhiều thứ tiếng và tái bản rất nhiều lần; một thời gian dài, ít nhất cho đến đầu thập niên 70, được xem như một tác phẩm kinh điển trong ngành ngôn ngữ học trên khắp thế giới. Về Saussure, có thể xem quyển sách giới thiệu rất hàm súc của Jonathan Culler, Saussure, Fontana/Collins, 1976.
    (15) Về lịch sử thuật ngữ " chủ nghĩa hậu hiện đại" , có thể xem: Bertens.H.(1986), " The Postmodern Weltanschauung and Its Relation with Modernism: An Introductory Survey" in trong Approaching Postmodernism do Fokkema, D & Bertens, H. biên tập, John Bengamins xuất bản tại Amsterdam, 1986, tr. 9-51; Best, S & Kellner, D. (1991), Postmodern Theory, Macmillan, Hampshire, tr. 1-33. Về chủ nghĩa hậu hiện đại trong lãnh vực văn học, có thể xem: Hassan, (1982), The Dismenberment of Orpheus: toward a Postmodern Literature, Oxford University Press, NY.; Hassan, I. (1987), The Postmodern Turn: Essays in Postmodern Theory and Culture, Columbus; Spanos, W. (biên tập) (1979),Martin Heidegger and the Questions of Literature: toward a Postmodern Literary Hermeneutics, Indiana University Press, Bloongton; Connor, S. (1989), Postmodernist Culture: an Introduction to Theories of the Contemporary, Basil Blackwell, Oxford, đặc biệt chương 4, " Postmodernism and Literature" , tr. 103-131; McHale, B. (1986), " The Semantic and Syntatic Organisation of Postmodernist Texts" in trong tập Approaching Postmodernism, sđd, tr. 81-98; và Jameson, F. (1988), " Postmodernism and Consumer Society" in trong Postmodernism and its Discontents: Theories & Practices, Kaplan E.A. biên tập, Verso, London, tr. 13-29.
    (16) Mazzaro, J. (1980), Postmodern American Poetry, University of Illinois Press, Urbana.
    (17) Gray, M. E. (1992), Postmodern Proust, University of Pennsylvania Press, Philadelphia.

  3. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Trong bài Thuở chưa điên in trong tập Thơ Bùi Giáng do Việt Thường xuất bản tại Canada năm 1990, Bùi Giáng tự so sánh thơ mình ngày trước với thơ mình bây giờ:
    Ấy là thơ thuở chưa điên
    Ở trong dấu ngoặc quàng xiên reo cười
    Bây giờ xoang điệu đười ươi
    Ðiệu hoa lầu các ngậm ngùi dấn thân

    Sự khác nhau không phải ở chỗ: có lúc ông " quàng xiên reo cười" , có lúc ông lại " ngậm ngùi dấn thân" . Ở Bùi Giáng, cái cười và cái khóc đôi khi rất giống nhau. Theo tôi, chỗ khác nhau căn bản là: trước đây, Bùi Giáng loay hoay mãi trong " dấu ngoặc" của ý thức, của cái tôi; sau nầy, ông tung hê hết, ông hòa nhập vào cái chung của cuộc đời:
    Ta quên như thể mình ta quên mình
    (Tặng hai cháu Quỳnh và Na)
    Ông trở thành dễ thương và tội nghiệp vô cùng:
    Trái tim mỗi mới mỗi ngày
    Mỗi giờ phút động mây trời rung rinh
    Ðường đi mất hút thình lình
    Những khuôn mặt lạ những hình ảnh quen
    Tạm nhờ men rượu nguôi quên
    Niềm vui nỗi nhớ chênh vênh lạ lùng

    (Ðường quanh ngõ quẹo)
    Ở khía cạnh nầy, có thể nói Bùi Giáng xóa nhòa ranh giới giữa cái tôi và cái ta, giữa cái riêng và cái chung: Hoặc rằng người cũng là tôi
    Hay là tôi cũng là tôi như người
    Ấy rằng tinh thể đười ươi
    Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
    Ấy rằng một cũng là ba

    Là hai mai một mốt là hôm nay. Xóa nhòa. Xóa nhòa ranh giới giữa các giọng điệu, giữa truyền thống và hiện đại, giữa thơ và phi thơ, giữa cái lý và cái phi lý, giữa cái tôi và cái ta, cái riêng và cái chung, xóa nhòa mọi sự phân biệt, biện biệt; theo tôi, đó là những đặc điểm nổi bật nhất trong thơ Bùi Giáng. Bằng những sự xóa nhòa ấy, Bùi Giáng xóa nhòa luôn cả ranh giới giữa cái gọi là văn hóa cao cấp và văn hóa bình dân. Ðồng thời, Bùi Giáng cũng xóa nhòa luôn cả tính chất nghiêm nghị, nghiêm túc với những khẩu hiệu ồn ào như " vị nhân sinh" , " vị nghệ thuật" vốn kéo dài rất lâu trong văn học Việt Nam. Khác với các nhà thơ khác, lúc nào cũng nhăn mặt nhíu mày, lao vào thơ như lao vào một trận địa, kỳ khu và khắc khổ, lúc nào cũng khắc khoải sáng tạo ra cái mới, mà chưa chắc đã mới và chưa chắc đã hay. Bùi Giáng, ngược lại, làm thơ cứ như đùa như giỡn, như không phải đang làm thơ, vậy mà tự nhiên thơ lại trở thành bát ngát, lấp lánh và lộng sắc lộng hương. Mai Thảo kể: " ba chữ " vui thôi mà" là câu trả lời mơ hồ nghịch ngợm duy nhất của Bùi Giáng trước mọi tìm hiểu của (về?) lực thơ và số lượng thơ không thể tưởng tượng được ở nơi ông" , rồi bình tiếp: " thơ Bùi Giáng vui thật. Một vĩ đại vui" (11). Theo Leslie Fiedler, sự xóa nhòa văn hóa giữa văn hóa bình dân và văn hóa cao cấp, và cùng với nó, việc đoạn tuyệt với chủ nghĩa đặc tuyển (elitism) và tính chất nghiêm cẩn (seriousness) là những đặc điểm chính yếu của chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism) (12). Ở khía cạnh nầy, Bùi Giáng rất gần các nhà thơ hậu hiện đại.
    Bùi Giáng còn gần gũi các nhà thơ hậu hiện đại ở một khía cạnh khác nữa: một số khá nhiều các bài thơ của ông là loại thơ không thể giảng. Susan Sontag cho một trong những đặc trưng lớn của chủ nghĩa hậu hiện đại là tính chất phản diễn dịch (anti-interpretation), là sự nhấn mạnh vào hình thức và sự trình diễn (performance) hơn là nội dung và ý nghĩa (13). Chúng ta biết theo quan niệm của Ferdinand de Saussure, ngôn ngữ chỉ là một hệ thống ký hiệu, ở đó, mỗi đơn vị ký hiệu đều có hai mặt: cái biểu đạt (signifier) và cái được biểu đạt (signified). Cái biểu đạt là âm hoặc chữ viết. Cái được biểu đạt là ý niệm do âm hoặc chữ viết ấy gợi lên trong đầu chúng ta. Ví dụ, nghe âm " chó" (cái biểu đạt), chúng ta nghĩ ngay đến giống vật thường được nuôi trong nhà (cái được biểu đạt) (14). Từ đó, người ta đi đến chỗ coi bài thơ cũng là cái biểu đạt. Ðọc thơ là để tìm kiếm cái được biểu đạt, tức ý nghĩa, điều ẩn giấu phía sau bài thơ. Với Bùi Giáng, cũng như với các nhà thơ hậu hiện đại, ngược lại, bài thơ là cái được biểu đạt chứ không phải là cái biểu đạt. Nói cách khác, bài thơ là bài thơ. Không có ý nghĩa nào ẩn sau bài thơ để chúng ta đào xới, tìm kiếm. Nó giống như một bức tượng đá. Bề mặt: đá; trong ruột: cũng là đá. Do đó, nếu hỏi ý nghĩa bài thơ Ðạm Tiên tôi dẫn ở trên là gì ư? Chịu! ý nghĩa của nó là chính sự hiện hữu của nó, là bài thơ có nhan đề Ðạm Tiên, vậy thôi! Chúng ta không thể phân tích. Chúng ta chỉ cần nghiệm (experience). Ðọc lần thứ nhất: chúng ta không hiểu gì cả. Ðọc lần thứ hai: chúng ta vẫn không hiểu gì cả. Nhưng càng đọc, chúng ta càng nghe rõ, càng thấm, càng cảm cái nhạc điệu lầm rầm, lầm rầm của bài thơ. Nghe như thần chú. Như tiếng tụng kinh. Như lời cầu hồn. Chúng ta sống trong một không khí huyền bí, ma quái, không có gì rõ nét. Thì Ðạm Tiên là một bóng ma mà! Ở nhiều bài thơ khác, điều chúng ta nghiệm được thường là sự bất lực của ngôn ngữ; chúng ta không hiểu vì chính nhà thơ cũng không thể diễn tả được những gì ông chỉ cảm nhận một cách mơ màng hoặc bằng trực giác hoặc bằng tiềm thức.
    Chúng ta có thể gọi Bùi Giáng là nhà thơ hậu hiện đại được chăng? Khái niệm hậu hiện đại, mặc dầu xuất hiện từ thập niên 30 và 40 với Frederico de Oniz, Dudley Fitts và Arnold Toynbee, được sử dụng khá nhiều tại Mỹ vào thập niên 50 và 60, trở thành thời thượng tại Âu Mỹ từ giữa thập niên 80 đến nay (15), vẫn còn khá xa lạ với giới cầm bút Việt Nam. Ðiều đó dễ gợi cho chúng ta ấn tượng chủ nghĩa hậu hiện đại là cái gì rất mới, chỉ gần đây thôi, gắn liền với máy vi tinh, chẳng hạn. Tuy nhiên, trên thực tế, khác hẳn. Danh sách các nhà thơ hậu hiện đại được Jerome Mazzaro phê bình trong quyển Postmodern American Poetry bao gồm W.H.Auden (1907-73), Randall Jarrell (1914-65), Theodore Roethke (1908-63) v..v..(16). Với Margaret E. Gray, ngay cả Marcel Proust (1871-1922) cũng là một nhà văn hậu hiện đại (17). Chúng ta có thể gọi Bùi Giáng là nhà thơ hậu hiện đại hay hậu " iện" đại (người vượt ra ngoài chủ nghĩa " iện" đại tại Việt Nam) hay " ậu" hiện đại (người ít nhiều - chứ chưa hoàn toàn - nhích ra khỏi chủ nghĩa hiện đại theo cách hiểu truyền thống tại Tây phương) được chăng? Dù sao, vấn đề xác định danh xưng ở đây, tôi nghĩ, cũng không phải là điều quan trọng. Quan trọng hơn, chúng ta cần ghi nhận đóng góp lớn lao của Bùi Giáng: ông đã tiến một bước khá xa trên con đường hòa giải giữa thơ và hiện thực cũng như giữa nhà thơ và người đọc.
    Nguyễn Hưng Quốc (Trích " Thơ, v.v...và v.v.." )
    Chú thích:
    (1) Mai Thảo (1994), " thay lời bạt: Một vài kỷ niệm với Bùi Giáng" , in trong tập Thơ Bùi Giáng, nxb Thế kỷ 21, California, 1994. tr. 146.
    (2) Như trên, tr. 139.
    (3) Thanh Tâm Tuyền (1994) " Bùi Giáng, một hồn thơ bị vây khốn" , Tạp chí Thơ (California) số 1, Mùa thu 1994, tr, 73-75.
    (4) Bùi Giáng (1969), Thi ca tư tưởng, Ca Dao, Saigon. tr, 102-3.
    (5) Thơ Bùi Giáng, Việt Thường xuất bản tại Montreal, 1990 và Thơ Bùi Giáng, Thế Kỷ 21 xuất bản tại CA, 1994. (6) Trong bài " Bao giờ" và " Bài thơ của tháng giêng" in trong tập Liên, đêm mặt trời tìm thấy, nxb Sáng Tạo, Saigon, 1964.
    (7) Bùi Giáng (1970) Mùa thu trong thi ca, Sống Mới in lại tại hải ngoại, không ghi năm, tr. 223-4.
    (8) Dẫn theo Steiner,G. (1967) Language and Silence, Faber & Faber, London, tr. 72.
    (9) Bùi Giáng (1970) Mùa thu trong thi ca, sđd. tr. 17.
    (10) Xem Phạm Xuân Ðài, " Kẻ cuồng sĩ trong vườn cây" lời tựa tập Thơ Bùi Giáng, Thế Kỷ 21, 1994, tr. 15-26.
    (11) Mai Thảo (1994), bài đã dẫn, tr. 141.
    (12) Fiedler, L. (1975) " Cross the Border - Close the Gap: Postmodernism" in trong tập American Literature since 1900 do Cunliffe chủ biên, Sphere Books, London, 1975, tr. 344-366.
    (13) Sontag, S. (1966), Against Interpretation and Other Essays, Delta, New York.
    (14) Tác phẩm chính của Saussure, Cours de linguistique générale, in tại Paris năm 1916, sau đó, được dịch ra nhiều thứ tiếng và tái bản rất nhiều lần; một thời gian dài, ít nhất cho đến đầu thập niên 70, được xem như một tác phẩm kinh điển trong ngành ngôn ngữ học trên khắp thế giới. Về Saussure, có thể xem quyển sách giới thiệu rất hàm súc của Jonathan Culler, Saussure, Fontana/Collins, 1976.
    (15) Về lịch sử thuật ngữ " chủ nghĩa hậu hiện đại" , có thể xem: Bertens.H.(1986), " The Postmodern Weltanschauung and Its Relation with Modernism: An Introductory Survey" in trong Approaching Postmodernism do Fokkema, D & Bertens, H. biên tập, John Bengamins xuất bản tại Amsterdam, 1986, tr. 9-51; Best, S & Kellner, D. (1991), Postmodern Theory, Macmillan, Hampshire, tr. 1-33. Về chủ nghĩa hậu hiện đại trong lãnh vực văn học, có thể xem: Hassan, (1982), The Dismenberment of Orpheus: toward a Postmodern Literature, Oxford University Press, NY.; Hassan, I. (1987), The Postmodern Turn: Essays in Postmodern Theory and Culture, Columbus; Spanos, W. (biên tập) (1979),Martin Heidegger and the Questions of Literature: toward a Postmodern Literary Hermeneutics, Indiana University Press, Bloongton; Connor, S. (1989), Postmodernist Culture: an Introduction to Theories of the Contemporary, Basil Blackwell, Oxford, đặc biệt chương 4, " Postmodernism and Literature" , tr. 103-131; McHale, B. (1986), " The Semantic and Syntatic Organisation of Postmodernist Texts" in trong tập Approaching Postmodernism, sđd, tr. 81-98; và Jameson, F. (1988), " Postmodernism and Consumer Society" in trong Postmodernism and its Discontents: Theories & Practices, Kaplan E.A. biên tập, Verso, London, tr. 13-29.
    (16) Mazzaro, J. (1980), Postmodern American Poetry, University of Illinois Press, Urbana.
    (17) Gray, M. E. (1992), Postmodern Proust, University of Pennsylvania Press, Philadelphia.

  4. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7

    Xuân Thu Trang Phượng
    Thơ: Bùi Giáng
    Muà Xuân hẹn Thu về em trở lại
    Ta nhìn nhau trong bóng nước mơ màng
    Nước chảy mãi bởi vì xuân trở lại
    Với giòng trong em hẹn ở bên đường.
    Em sẽ khóc khi nhìn trong khóe mắt
    Thấy một mình người đi lại lang thang
    Còn ghì giữ ân tình trong cỏ nhặt
    Múa vi vu vì hẹn với truông ngàn.
    Ta sẽ đợi nghe đời em kể lại
    Thuở xưa kia ... bờ nước ấy xưa kia
    Ta sẽ đợi nghe đời em nói mãi
    Bên đời ai vẫn đợi đã chia lià .
    Mùa xuân hẹn thu về em trở lại
    Bên đời đi còn giữ mãi hay không
    Giòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại
    Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non hồng.
  5. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7

    Xuân Thu Trang Phượng
    Thơ: Bùi Giáng
    Muà Xuân hẹn Thu về em trở lại
    Ta nhìn nhau trong bóng nước mơ màng
    Nước chảy mãi bởi vì xuân trở lại
    Với giòng trong em hẹn ở bên đường.
    Em sẽ khóc khi nhìn trong khóe mắt
    Thấy một mình người đi lại lang thang
    Còn ghì giữ ân tình trong cỏ nhặt
    Múa vi vu vì hẹn với truông ngàn.
    Ta sẽ đợi nghe đời em kể lại
    Thuở xưa kia ... bờ nước ấy xưa kia
    Ta sẽ đợi nghe đời em nói mãi
    Bên đời ai vẫn đợi đã chia lià .
    Mùa xuân hẹn thu về em trở lại
    Bên đời đi còn giữ mãi hay không
    Giòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại
    Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non hồng.
  6. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    ĐÔI MẪU CHUYỆN VỀ BÙI GIÁNG
    Nguyễn Thùy
    Ai đã gần Bùi Giáng ít lâu cũng đều có thể ghi lại đôi sự việc khác thường dần dần được xem như là giai thoại trong cuộc sống của ông. Bùi Giáng và tôi thân nhau trước tiên do cùng đồng hương xứ Quãng, tiếp theo do thời gian thuê nhà ở sát bên nhau vào những năn 1959-1961 tại một hẽm đường Trương Tấn Bửu. Sau nầy, Bùi Giáng thường đến nhà tôi ở Chung Cư Minh Mạng đường Sư Vạn Hạnh, có lúc ở luôn cả hai ba tháng. Có nhiều sự việc kỳ lạ nơi anh nhưng tôi không nhớ hết, chỉ xin kể đôi việc do chính tôi chứng kiến.
    Những người nữ Việt Nam mà anh hay nhắc đến là: Ni cô Trí Hải, Nam Phương Hoàng Hậu và Kim Cương (thỉnh thoảng có Hà Thanh và Thu Trang). Với Nam Phương Hoàng Hậu, anh không có lời nào bông đùa, vô lễ, có lẽ anh quí trọng nét phúc đức hiền hậu, nét thiên hương quốc sắc mà cũng có thể do anh nhớ lời Jésus qua câu nói bí hiểm: "Trong cuộc xét đoán Nữ Vương Nam Phương sẽ đứng lên với dòng dõi nầy mà định tội nó..." (ma:12-42). Thử nghe một đoạn anh nói về Hoàng Hậu Nam Phương: "...Nhưng tại sao từ Cổ chí Kim, chỉ riêng nhịp bước khoan thai của Nam Phương Hoàng Hậu là nhu mỳ, kiều diễm mà thôi? Thậm chí đôi phen Nam Phương Hoàng Hậu vội vàng cuống cuồng hấp tấp, thiên hạ nhìn vào vẫn cứ thấy là rất mực kiều diễm du dương? Thế thì? Nếu như quốc sắc thiên hương có riêng thể lệ ẩn mật của thiên tài thiên hương quốc sắc thì Thiên Tài Thi Nhiên kinh thiên động địa há chăng chẳng thể nào có riêng thể lệ thiên tài của nó dựng lập lên từ bờm xờm ngổn ngang gò đống dâu biển hay sao? Với Ni cô Trí Hải, thường anh gọi là mẫu thân và cũng không lời nào xúc phạm vì là một nữ tu và anh xem như là hình ảnh một nhân vật võ hiệp trong tiểu thuyết "Tiếu Ngạo Giang Hồ" của Kim Dung. Riêng với Kim Cương, anh thường gọi là mẫu thân, kỳ nữ, tiên nương, nương tử và hay đùa cợt. Một lần tôi theo anh đi ngang qua nhà Kim Cương nơi đường Trương Minh Ký, anh đi qua, đi lại và la lớn: "Cô Kim Cương có mấy cái...cô Kim Cương có ba cái...; một cái tròn, một cái vuông, một cái tam giác...". Kim Cương trong nhà bỗng mở cửa gọi lớn: "Anh Giáng, anh lại đây...". Anh đang do dự, Kim Cương lại gọi: "Anh đến đây, Kim nói điều nầy cho nghe...". Anh vừa bước đến, Kim Cương lôi cả anh và tôi vào nhà rồi năn nỉ: "Anh Giáng, Kim van anh, anh đừng nói thế nữa. Anh cứ oang oang như thế, bọn trẻ thấy Kim nơi đâu cũng réo như vậy, Kim chịu sao nỗi...". Anh xin lỗi, hứa không nói nữa, rồi uống xong hai chén trà, lại ra đi, Kim Cương giữ lại ăn tối, nhất định không chịu.Thấy anh nhiều tình cảm và thương mến Kim Cương, một hôm tôi đề nghị: "Cô Kim, hay là cô lấy anh Giáng làm chồng đi. Biết đâu cô có thể giúp anh ta bớt khùng và sẽ viết lách đường hoàng, chĩnh chạc, dễ hiểu hơn". Kim Cương bảo: "Không chịu nỗi ảnh đâu, anh Thuỳ ơi! Ảnh sống kỳ cục lắm. Với lại, ảnh đâu có yêu Kim đâu. Ảnh chỉ thương thôi. Anh xem, ảnh chỉ ngồi nói chuyện nhiều lắm là 5, 10 phút rồi lại chạy ra đường múa may một hồi rồi mới trở lại tiếp tục như thế. Anh ta không bao giờ ngồi với Kim hay với cô gái nào được lâu đâu. Kim cũng muốn giúp anh Giáng nhiều nhưng anh ấy vẫn chứng nào tật nấy". Tôi không rõ, anh để ý Kim Cương có do tên cô trùng hợp với nhan đề Kinh Kim Cang của Phật Giáo hay không...Điều Kim Cương nói có thể đúng, Giáng chỉ thương người chứ không yêu ai cả theo nghĩa mối tình nam nữ.
    Ngày anh và vợ chồng tôi thuê nhà ở sát cạnh nhau, anh còn chĩnh chạc lắm, đi dạy ở các trường Tân Thịnh, Tân Thanh (do Phan Thuyết và Phan Út, người Quãng Nam, có bà con xa gần với anh, làm hiệu trưởng), anh nuôi cô em đi học. Lúc nầy, anh viết khảo luận văn học, vẽ tranh và làm thợ Tranh anh vẽ, chẳng ai hiểu gì, chẳng thuộc một trường phái nào cả, nội dung theo anh là minh hoạ lại các huyền thoại, thần thoại Hy- Lạp. Thơ anh lúc nầy chưa "kỳ cục" như sau nầỵ Anh thường kéo tôi vào những lùm cây đường Nguyễn Huỳnh Đức, ngồi hết gốc cây nầy đến gốc cây khác và anh làm thơ dù nhiều lúc trời tối mịt, anh vẫn cứ viết trên một cuốn tập nhỏ. Một lần kiến cắn anh, anh phủi tùm lum cả người rồi la lên: "Kiến cắn thơ tao". Một buổi chiều, Nguyễn Đức Quỳnh đến chơi, vợ tôi mời anh qua ăn cơm. Tôi phải đi dạy tối, lúc về vợ tôi thuật lại là anh và Nguyễn Đức Quỳnh cãi nhau đến thế nào đó, anh quơ tay hất hết cả thức ăn, chén đĩa xuống đất. Hầu như, từ lâu, anh không mấy thiện cảm với các nhà học giả, các giáo sư Đại Học, các nhà phê bình. Trong "Con Đường Ngã Ba" (An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1972), Bùi Giáng cho đấy là "những đạo thính đồ thuyết" (nghe ngoài đường và nói ngoài đường) là hoạt tinh thể của con người mạt hậu. Nó thông minh một cách thô thiển, nó vễnh tai ở ngoài đường và bi bô ăn nói ngoài đường để tàn phá mọi ngã ba đường của bước chân đi từ nội tâm, nội mật. Nguyễn Bách Khoa là lãnh tụ bọn chúng...phó lãnh tụ là Đặng Thai Mai. Tổng Thư Ký là Vũ Ngọc Phan". Cũng thế, Bùi Giáng công kích Jean Wahl, giáo sư Đại Học Sorbonne, Jean Paul Sartre khi nhà văn, nhà triết nầy viết "Giảng Luận" về "Kẻ Xa Lạ" (explication de 1Etranger) của Albert Camus, công kích Giáo Sư Trần Thái Đỉnh, học giả Phùng Hữu Lan, Thiền Sư Daisets Teltars Suzuki,...
    Ngày tôi về chung cư Minh Mạng, anh thường đến tôi, có lúc ở liền hai ba tháng, ban ngày "thiền hành" với bộ quần áo "cái bang", đêm về lăn kềnh ra sàn xi măng ngủ hoặc đọc thơ, nói oang oang những gì khiến người các nhà kế bên không ngủ được. Một lần anh xách một con mèo chết, cẩn thận treo nơi sợi giây thép phía sau nhà, tôi dùng để phơi quần áọ Hai ba ngày sau, mùi hôi thối không chịu nổi, tôi năn nỉ mấy anh cũng không chịu xách quăng đị Cuối cùng hàng xóm la ó quá, tôi nhân lúc anh đi vắng, xách ném vào đống rác; lúc anh về biết rõ sự việc, chỉ lắc đầu nhưng rồi lại bảo: "Chú mày làm được lắm!". Sau năm 1975, anh không làm thơ cũng không viết lách gì; thỉnh thoảng ngồi nơi chân cầu thang ở chung cư tôi ở, anh có làm ít câu nhưng rồi không tiếp tục và thường trùng với những câu trong các tác phẩm trước. Anh đi vào cuộc điên nhiều hơn. Những lần "được điên", anh vui lắm như được sống trong một thế giới nào khác thường, thật hạnh phúc. Những lần không đi được vào "cuộc điên" anh dã dượi, tê liệt, nằm suốt cả mấy ngày hay hằng tuần liên tiếp như một lần ở chùa Long Vân Gò Vấp; mấy thầy trong chùa và tôi đến lay anh dậy ăn cơm, anh đều nằm lỳ bất động. Lúc đó, đọc thơ hay nói chuyện tư tưởng nào Phật, Chúa, Heidegger, Nietzche, Nguyễn Du,...anh đều khoát tay không nghe và không cho nói. Lúc vào cơn điên, anh chạy, nhảy múa may, chọc ghẹo đủ mọi hạng người từ trẻ con đến ông già, các bà bán hàng, các cô bán thuốc lá. Tôi khổ nhất là phải theo anh, nghe anh chửi bới lung tung, mượn tôi làm đòn kê để chửi thiên hạ, rồi nói tục hết sức tục, bắt tôi phải cúi lạy các cô bán thuốc lá lẻ, bảo đấy là thánh nữ, tiên nương, là Quan Thế Âm Bồ Tát. Anh cứ bảo tôi là bỏ dạy, bỏ hết mọi thứ theo anh, điên như anh mới thấy vui, mới cứu được đời. Phải nói rằng anh làm khổ tôi rất nhiều nhưng không hiểu sao, cứ có anh là tôi lại thấy vui ra, một niềm vui không thể phân tích được, một cái vui kín nhiệm, bàng bạc lạ kỳ; vì thế mà tôi chịu khó với anh. Có tôi đi với anh, anh càng dễ điên hơn, vui hơn và thấy yên ổn hơn. Anh bảo tôi là thầy giáo, hiền lành nên nếu có ai "trận thượng" với anh, tôi can thiệp, người ta sẽ bỏ qua. Nhiều khi có một cô gái nào đó, mến anh, đi theo anh "thiền hành" dọc đường, anh thấy vui và yên tâm lắm. Cô bồ tôi là Hoàng Hải Thanh Vân, sinh viên Đại Học Sư Phạm ban Anh Văn thường theo anh và uống cà phê với anh. Quàng vai anh giống như một nhân tình, anh thấy vui và thú vị lắm. Năm 1976, lúc cô phải tiếp tục năm học sau cùng, anh thường đến Đại Học Vạn Hạnh (********* chuyển Đại Học Sư Phạm về đó), đứng dưới réo to lên: "Cô Thanh Vân ơi! Bồ Tát Thanh Vân ơi! Xuống đây, đưa tôi đi uống cà phê, học làm gì nữa, bọn dốt nó biết gì mà dạy cô. Cô phải dạy chúng nó chứ...". Một buổi tối, tôi đi vắng, ở nhà, anh đưa mấy bài thơ tiếng Anh cho cô dịch, anh khen cô thông minh, rồi bảo cô hãy đặt chân lên đầu anh. Cô không dám, anh liền nâng chân cô đặt trên đầu mình rồi lảm nhảm những gì đó. Sau nầy, vào những năm 1982, 1983, cô ĐNLH một giáo viên cấp ba, hình như là cháu bà Tôn Nữ Hỷ Khương cùng một cô nữa (tôi quên tên) hình như là cháu của nhà văn Cung Giữ Nguyên (theo cô bảo) bỗng xách đồ đạt đến nhà tôi ở. Một tháng sau, cô nầy bỏ đi, cô H còn ở lại những mấy tháng nữa. Bùi Giáng đến, hai cô nầy hoảng quá, nhưng sau thấy Bùi Giáng "đường hoàng" nên lại cảm mến. Cô H lại chịu khó theo anh "thiền hành" qua các ngã đường, vào quán cà phê, quàng tay, ôm hôn Bùi Giáng khiến mọi người rất ngạc nhiên. Trong thời gian cô H ở nhà tôi, nhiều lần nhà họa và điêu khắc Phạm Văn Hạng cũng có đến và gặp Bùi Giáng. Có cả Giáo Sư Nguyễn Văn Trung đến, nghe cô H ngâm thơ nhưng ông Trung không gặp Bùi Giáng. Lại có cả nhà thơ Trần Đới và sau nầy thêm nhà thơ Lê Nhược Thuỷ và chính Lê Nhược Thuỷ đã đem cô H đi nơi khác. Có một cô gái trẻ mà anh không biết, không quen, theo anh suốt một tuần trong các cuộc điên của anh, anh thấy lạ hỏi tôi: "Có phải chúng nó cho cô ta theo dõi tao không?".
    Còn nhớ trước 1975, Bùi Giáng quen với Huệ Nhật giúp việc cho Hội "Đất Lành" (Terre des hommes) của Đức. Một bà Tiến Sĩ người Đức thuộc cơ sở nầy đến ở ngay nơi nhà Huệ Nhật nơi dưới phía cầu Tân Thuận. Bùi Giáng rủ tôi cùng đến nhà Huệ Nhật gặp bà đó. Nghĩ rằng bà ấy chắc biết nhiều về Triết, về tư tưởng, Bùi Giáng nói huyên thuyên về thơ văn, về Nietzche, về Heidegger, về Holderlin...nhưng bà ta nào có biết gì về tư tưởng, lại thêm giọng Đức, giọng Anh của Bùi Giáng chẳng ra hồn gì mà bà lại không biết tiếng Pháp nên mặc cho Bùi Giáng nói, bà chỉ nghe thôi, nhưng bà rất kính trọng Bùi Giáng, mỗi lần anh và tôi đến, không có Huệ Nhật thì chính bà nấu trà và đem bánh ra đãi.
    Sau năm 1975, vào những năm 1982, 1983 gì đó, Huệ Nhật ở chung với cô Nguyễn Thị Muộn. Hai người lập một quán cơm Xã Hội ở một đường vùng Chợ Lớn. Bùi Giáng thường đến. Tôi có đến giúp việc. Chính quán cơm xã hội nầy, một buổi chiều mưa, anh Giáng ngồi, mượn tôi chửi đổng thiên hạ cho đến tối mịt. Vừa hết mưa, tôi giục anh về; đến nhà thờ Ngã Sáu, lại mưa, cả hai chui vào căn lều bằng tấm bạt của một ông già (hình như trốn vùng kinh tế mới về). Anh lại la to và nói tục không thể tưởng tượng được, khiến ông già đuổi đi. Cả hai lại đi trong mưa, về đến Chung Cư, tôi thay đồ, bật đèn ngồi viết còn anh thì cứ để nguyên quần áo cái bang ướt át, lăn kềnh ra nhà ngủ. Một ít lâu sau, do Huệ Nhật nói sau không biết, thêm đứa học trò cũ của tôi là Phạm Đình Thành, nhà ở Chung Cư Ấn Quang rủ rê thế nào, giới thiệu anh tiếp xúc với đôi Mục Sư Tin Lành từ quận 8 sang nhà Huệ Nhật, anh Giáng lại ngã theo Tin Lành. Huệ Nhật và Phạm Đình Thành sắm sửa áo quần, giày dép, cà vạt và đưa anh đi nhà thờ. Các vị Mục Sư cũng vui lắm, được Bùi Giáng theo đạo thật vô cùng quí. Nhưng chỉ chừng hơn nữa tháng sau, anh đến nhà tôi với quần áo cái bang như cũ. Tôi hỏi: "Sao, Chúa bỏ anh hay anh bỏ Chúa?". Anh trả lời: "Ông Chúa, ông Phật có bỏ ai đâu; tao bỏ các ổng. Mà lạ quá! Tao khoái các ổng, mà theo thì...khó chịu quá. Các ổng điên khác tao. Cũng giống như Tô Đông Pha không chịu làm thiền sư để chỉ làm thơ thôi". Anh tiếp xúc nhiều với các tu sĩ Phật Giáo, nhờ anh mà tôi biết được các Ngài Huyền Quang (tại chùa Kim Cương đường Trương Tấn Bữu), Thích Minh Châu ở Đại Học Vạn Hạnh, Thích Đức Nhuận (tại đường Phan Thanh Giản), sư Viên Minh (chùa Thereveda đường Phan Đình Phùng), các thầy ở chùa Long Vân Gò Vấp. Anh cũng gặp và nói chuyện với đôi Linh Mục, Mục Sư. Anh luôn luôn thiện cảm, ca tụng và đề cao nữa nhưng không thể theo một Giáo Hội nào.
  7. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    ĐÔI MẪU CHUYỆN VỀ BÙI GIÁNG
    Nguyễn Thùy
    Ai đã gần Bùi Giáng ít lâu cũng đều có thể ghi lại đôi sự việc khác thường dần dần được xem như là giai thoại trong cuộc sống của ông. Bùi Giáng và tôi thân nhau trước tiên do cùng đồng hương xứ Quãng, tiếp theo do thời gian thuê nhà ở sát bên nhau vào những năn 1959-1961 tại một hẽm đường Trương Tấn Bửu. Sau nầy, Bùi Giáng thường đến nhà tôi ở Chung Cư Minh Mạng đường Sư Vạn Hạnh, có lúc ở luôn cả hai ba tháng. Có nhiều sự việc kỳ lạ nơi anh nhưng tôi không nhớ hết, chỉ xin kể đôi việc do chính tôi chứng kiến.
    Những người nữ Việt Nam mà anh hay nhắc đến là: Ni cô Trí Hải, Nam Phương Hoàng Hậu và Kim Cương (thỉnh thoảng có Hà Thanh và Thu Trang). Với Nam Phương Hoàng Hậu, anh không có lời nào bông đùa, vô lễ, có lẽ anh quí trọng nét phúc đức hiền hậu, nét thiên hương quốc sắc mà cũng có thể do anh nhớ lời Jésus qua câu nói bí hiểm: "Trong cuộc xét đoán Nữ Vương Nam Phương sẽ đứng lên với dòng dõi nầy mà định tội nó..." (ma:12-42). Thử nghe một đoạn anh nói về Hoàng Hậu Nam Phương: "...Nhưng tại sao từ Cổ chí Kim, chỉ riêng nhịp bước khoan thai của Nam Phương Hoàng Hậu là nhu mỳ, kiều diễm mà thôi? Thậm chí đôi phen Nam Phương Hoàng Hậu vội vàng cuống cuồng hấp tấp, thiên hạ nhìn vào vẫn cứ thấy là rất mực kiều diễm du dương? Thế thì? Nếu như quốc sắc thiên hương có riêng thể lệ ẩn mật của thiên tài thiên hương quốc sắc thì Thiên Tài Thi Nhiên kinh thiên động địa há chăng chẳng thể nào có riêng thể lệ thiên tài của nó dựng lập lên từ bờm xờm ngổn ngang gò đống dâu biển hay sao? Với Ni cô Trí Hải, thường anh gọi là mẫu thân và cũng không lời nào xúc phạm vì là một nữ tu và anh xem như là hình ảnh một nhân vật võ hiệp trong tiểu thuyết "Tiếu Ngạo Giang Hồ" của Kim Dung. Riêng với Kim Cương, anh thường gọi là mẫu thân, kỳ nữ, tiên nương, nương tử và hay đùa cợt. Một lần tôi theo anh đi ngang qua nhà Kim Cương nơi đường Trương Minh Ký, anh đi qua, đi lại và la lớn: "Cô Kim Cương có mấy cái...cô Kim Cương có ba cái...; một cái tròn, một cái vuông, một cái tam giác...". Kim Cương trong nhà bỗng mở cửa gọi lớn: "Anh Giáng, anh lại đây...". Anh đang do dự, Kim Cương lại gọi: "Anh đến đây, Kim nói điều nầy cho nghe...". Anh vừa bước đến, Kim Cương lôi cả anh và tôi vào nhà rồi năn nỉ: "Anh Giáng, Kim van anh, anh đừng nói thế nữa. Anh cứ oang oang như thế, bọn trẻ thấy Kim nơi đâu cũng réo như vậy, Kim chịu sao nỗi...". Anh xin lỗi, hứa không nói nữa, rồi uống xong hai chén trà, lại ra đi, Kim Cương giữ lại ăn tối, nhất định không chịu.Thấy anh nhiều tình cảm và thương mến Kim Cương, một hôm tôi đề nghị: "Cô Kim, hay là cô lấy anh Giáng làm chồng đi. Biết đâu cô có thể giúp anh ta bớt khùng và sẽ viết lách đường hoàng, chĩnh chạc, dễ hiểu hơn". Kim Cương bảo: "Không chịu nỗi ảnh đâu, anh Thuỳ ơi! Ảnh sống kỳ cục lắm. Với lại, ảnh đâu có yêu Kim đâu. Ảnh chỉ thương thôi. Anh xem, ảnh chỉ ngồi nói chuyện nhiều lắm là 5, 10 phút rồi lại chạy ra đường múa may một hồi rồi mới trở lại tiếp tục như thế. Anh ta không bao giờ ngồi với Kim hay với cô gái nào được lâu đâu. Kim cũng muốn giúp anh Giáng nhiều nhưng anh ấy vẫn chứng nào tật nấy". Tôi không rõ, anh để ý Kim Cương có do tên cô trùng hợp với nhan đề Kinh Kim Cang của Phật Giáo hay không...Điều Kim Cương nói có thể đúng, Giáng chỉ thương người chứ không yêu ai cả theo nghĩa mối tình nam nữ.
    Ngày anh và vợ chồng tôi thuê nhà ở sát cạnh nhau, anh còn chĩnh chạc lắm, đi dạy ở các trường Tân Thịnh, Tân Thanh (do Phan Thuyết và Phan Út, người Quãng Nam, có bà con xa gần với anh, làm hiệu trưởng), anh nuôi cô em đi học. Lúc nầy, anh viết khảo luận văn học, vẽ tranh và làm thợ Tranh anh vẽ, chẳng ai hiểu gì, chẳng thuộc một trường phái nào cả, nội dung theo anh là minh hoạ lại các huyền thoại, thần thoại Hy- Lạp. Thơ anh lúc nầy chưa "kỳ cục" như sau nầỵ Anh thường kéo tôi vào những lùm cây đường Nguyễn Huỳnh Đức, ngồi hết gốc cây nầy đến gốc cây khác và anh làm thơ dù nhiều lúc trời tối mịt, anh vẫn cứ viết trên một cuốn tập nhỏ. Một lần kiến cắn anh, anh phủi tùm lum cả người rồi la lên: "Kiến cắn thơ tao". Một buổi chiều, Nguyễn Đức Quỳnh đến chơi, vợ tôi mời anh qua ăn cơm. Tôi phải đi dạy tối, lúc về vợ tôi thuật lại là anh và Nguyễn Đức Quỳnh cãi nhau đến thế nào đó, anh quơ tay hất hết cả thức ăn, chén đĩa xuống đất. Hầu như, từ lâu, anh không mấy thiện cảm với các nhà học giả, các giáo sư Đại Học, các nhà phê bình. Trong "Con Đường Ngã Ba" (An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1972), Bùi Giáng cho đấy là "những đạo thính đồ thuyết" (nghe ngoài đường và nói ngoài đường) là hoạt tinh thể của con người mạt hậu. Nó thông minh một cách thô thiển, nó vễnh tai ở ngoài đường và bi bô ăn nói ngoài đường để tàn phá mọi ngã ba đường của bước chân đi từ nội tâm, nội mật. Nguyễn Bách Khoa là lãnh tụ bọn chúng...phó lãnh tụ là Đặng Thai Mai. Tổng Thư Ký là Vũ Ngọc Phan". Cũng thế, Bùi Giáng công kích Jean Wahl, giáo sư Đại Học Sorbonne, Jean Paul Sartre khi nhà văn, nhà triết nầy viết "Giảng Luận" về "Kẻ Xa Lạ" (explication de 1Etranger) của Albert Camus, công kích Giáo Sư Trần Thái Đỉnh, học giả Phùng Hữu Lan, Thiền Sư Daisets Teltars Suzuki,...
    Ngày tôi về chung cư Minh Mạng, anh thường đến tôi, có lúc ở liền hai ba tháng, ban ngày "thiền hành" với bộ quần áo "cái bang", đêm về lăn kềnh ra sàn xi măng ngủ hoặc đọc thơ, nói oang oang những gì khiến người các nhà kế bên không ngủ được. Một lần anh xách một con mèo chết, cẩn thận treo nơi sợi giây thép phía sau nhà, tôi dùng để phơi quần áọ Hai ba ngày sau, mùi hôi thối không chịu nổi, tôi năn nỉ mấy anh cũng không chịu xách quăng đị Cuối cùng hàng xóm la ó quá, tôi nhân lúc anh đi vắng, xách ném vào đống rác; lúc anh về biết rõ sự việc, chỉ lắc đầu nhưng rồi lại bảo: "Chú mày làm được lắm!". Sau năm 1975, anh không làm thơ cũng không viết lách gì; thỉnh thoảng ngồi nơi chân cầu thang ở chung cư tôi ở, anh có làm ít câu nhưng rồi không tiếp tục và thường trùng với những câu trong các tác phẩm trước. Anh đi vào cuộc điên nhiều hơn. Những lần "được điên", anh vui lắm như được sống trong một thế giới nào khác thường, thật hạnh phúc. Những lần không đi được vào "cuộc điên" anh dã dượi, tê liệt, nằm suốt cả mấy ngày hay hằng tuần liên tiếp như một lần ở chùa Long Vân Gò Vấp; mấy thầy trong chùa và tôi đến lay anh dậy ăn cơm, anh đều nằm lỳ bất động. Lúc đó, đọc thơ hay nói chuyện tư tưởng nào Phật, Chúa, Heidegger, Nietzche, Nguyễn Du,...anh đều khoát tay không nghe và không cho nói. Lúc vào cơn điên, anh chạy, nhảy múa may, chọc ghẹo đủ mọi hạng người từ trẻ con đến ông già, các bà bán hàng, các cô bán thuốc lá. Tôi khổ nhất là phải theo anh, nghe anh chửi bới lung tung, mượn tôi làm đòn kê để chửi thiên hạ, rồi nói tục hết sức tục, bắt tôi phải cúi lạy các cô bán thuốc lá lẻ, bảo đấy là thánh nữ, tiên nương, là Quan Thế Âm Bồ Tát. Anh cứ bảo tôi là bỏ dạy, bỏ hết mọi thứ theo anh, điên như anh mới thấy vui, mới cứu được đời. Phải nói rằng anh làm khổ tôi rất nhiều nhưng không hiểu sao, cứ có anh là tôi lại thấy vui ra, một niềm vui không thể phân tích được, một cái vui kín nhiệm, bàng bạc lạ kỳ; vì thế mà tôi chịu khó với anh. Có tôi đi với anh, anh càng dễ điên hơn, vui hơn và thấy yên ổn hơn. Anh bảo tôi là thầy giáo, hiền lành nên nếu có ai "trận thượng" với anh, tôi can thiệp, người ta sẽ bỏ qua. Nhiều khi có một cô gái nào đó, mến anh, đi theo anh "thiền hành" dọc đường, anh thấy vui và yên tâm lắm. Cô bồ tôi là Hoàng Hải Thanh Vân, sinh viên Đại Học Sư Phạm ban Anh Văn thường theo anh và uống cà phê với anh. Quàng vai anh giống như một nhân tình, anh thấy vui và thú vị lắm. Năm 1976, lúc cô phải tiếp tục năm học sau cùng, anh thường đến Đại Học Vạn Hạnh (********* chuyển Đại Học Sư Phạm về đó), đứng dưới réo to lên: "Cô Thanh Vân ơi! Bồ Tát Thanh Vân ơi! Xuống đây, đưa tôi đi uống cà phê, học làm gì nữa, bọn dốt nó biết gì mà dạy cô. Cô phải dạy chúng nó chứ...". Một buổi tối, tôi đi vắng, ở nhà, anh đưa mấy bài thơ tiếng Anh cho cô dịch, anh khen cô thông minh, rồi bảo cô hãy đặt chân lên đầu anh. Cô không dám, anh liền nâng chân cô đặt trên đầu mình rồi lảm nhảm những gì đó. Sau nầy, vào những năm 1982, 1983, cô ĐNLH một giáo viên cấp ba, hình như là cháu bà Tôn Nữ Hỷ Khương cùng một cô nữa (tôi quên tên) hình như là cháu của nhà văn Cung Giữ Nguyên (theo cô bảo) bỗng xách đồ đạt đến nhà tôi ở. Một tháng sau, cô nầy bỏ đi, cô H còn ở lại những mấy tháng nữa. Bùi Giáng đến, hai cô nầy hoảng quá, nhưng sau thấy Bùi Giáng "đường hoàng" nên lại cảm mến. Cô H lại chịu khó theo anh "thiền hành" qua các ngã đường, vào quán cà phê, quàng tay, ôm hôn Bùi Giáng khiến mọi người rất ngạc nhiên. Trong thời gian cô H ở nhà tôi, nhiều lần nhà họa và điêu khắc Phạm Văn Hạng cũng có đến và gặp Bùi Giáng. Có cả Giáo Sư Nguyễn Văn Trung đến, nghe cô H ngâm thơ nhưng ông Trung không gặp Bùi Giáng. Lại có cả nhà thơ Trần Đới và sau nầy thêm nhà thơ Lê Nhược Thuỷ và chính Lê Nhược Thuỷ đã đem cô H đi nơi khác. Có một cô gái trẻ mà anh không biết, không quen, theo anh suốt một tuần trong các cuộc điên của anh, anh thấy lạ hỏi tôi: "Có phải chúng nó cho cô ta theo dõi tao không?".
    Còn nhớ trước 1975, Bùi Giáng quen với Huệ Nhật giúp việc cho Hội "Đất Lành" (Terre des hommes) của Đức. Một bà Tiến Sĩ người Đức thuộc cơ sở nầy đến ở ngay nơi nhà Huệ Nhật nơi dưới phía cầu Tân Thuận. Bùi Giáng rủ tôi cùng đến nhà Huệ Nhật gặp bà đó. Nghĩ rằng bà ấy chắc biết nhiều về Triết, về tư tưởng, Bùi Giáng nói huyên thuyên về thơ văn, về Nietzche, về Heidegger, về Holderlin...nhưng bà ta nào có biết gì về tư tưởng, lại thêm giọng Đức, giọng Anh của Bùi Giáng chẳng ra hồn gì mà bà lại không biết tiếng Pháp nên mặc cho Bùi Giáng nói, bà chỉ nghe thôi, nhưng bà rất kính trọng Bùi Giáng, mỗi lần anh và tôi đến, không có Huệ Nhật thì chính bà nấu trà và đem bánh ra đãi.
    Sau năm 1975, vào những năm 1982, 1983 gì đó, Huệ Nhật ở chung với cô Nguyễn Thị Muộn. Hai người lập một quán cơm Xã Hội ở một đường vùng Chợ Lớn. Bùi Giáng thường đến. Tôi có đến giúp việc. Chính quán cơm xã hội nầy, một buổi chiều mưa, anh Giáng ngồi, mượn tôi chửi đổng thiên hạ cho đến tối mịt. Vừa hết mưa, tôi giục anh về; đến nhà thờ Ngã Sáu, lại mưa, cả hai chui vào căn lều bằng tấm bạt của một ông già (hình như trốn vùng kinh tế mới về). Anh lại la to và nói tục không thể tưởng tượng được, khiến ông già đuổi đi. Cả hai lại đi trong mưa, về đến Chung Cư, tôi thay đồ, bật đèn ngồi viết còn anh thì cứ để nguyên quần áo cái bang ướt át, lăn kềnh ra nhà ngủ. Một ít lâu sau, do Huệ Nhật nói sau không biết, thêm đứa học trò cũ của tôi là Phạm Đình Thành, nhà ở Chung Cư Ấn Quang rủ rê thế nào, giới thiệu anh tiếp xúc với đôi Mục Sư Tin Lành từ quận 8 sang nhà Huệ Nhật, anh Giáng lại ngã theo Tin Lành. Huệ Nhật và Phạm Đình Thành sắm sửa áo quần, giày dép, cà vạt và đưa anh đi nhà thờ. Các vị Mục Sư cũng vui lắm, được Bùi Giáng theo đạo thật vô cùng quí. Nhưng chỉ chừng hơn nữa tháng sau, anh đến nhà tôi với quần áo cái bang như cũ. Tôi hỏi: "Sao, Chúa bỏ anh hay anh bỏ Chúa?". Anh trả lời: "Ông Chúa, ông Phật có bỏ ai đâu; tao bỏ các ổng. Mà lạ quá! Tao khoái các ổng, mà theo thì...khó chịu quá. Các ổng điên khác tao. Cũng giống như Tô Đông Pha không chịu làm thiền sư để chỉ làm thơ thôi". Anh tiếp xúc nhiều với các tu sĩ Phật Giáo, nhờ anh mà tôi biết được các Ngài Huyền Quang (tại chùa Kim Cương đường Trương Tấn Bữu), Thích Minh Châu ở Đại Học Vạn Hạnh, Thích Đức Nhuận (tại đường Phan Thanh Giản), sư Viên Minh (chùa Thereveda đường Phan Đình Phùng), các thầy ở chùa Long Vân Gò Vấp. Anh cũng gặp và nói chuyện với đôi Linh Mục, Mục Sư. Anh luôn luôn thiện cảm, ca tụng và đề cao nữa nhưng không thể theo một Giáo Hội nào.
  8. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Đi với tôi, anh chỉ đọc thơ, nói oang oang những gì đâu đâu, chẳng bao giờ giảng tôi nghe về Phật, Chúa, Khổng, Trang cũng chẳng giảng gì về Nguyễn Du, Heidegger,...tôi bảo anh phải nói sao chứ cứ lối điên điên, khùng khùng ấy, làm sao tôi hiểu. Anh bảo là: "Chú mày chỉ nghe, không cần hiểu". Anh nói là tôi có cái Tâm tốt, có chút thông minh, và thường nhìn tôi lúc tôi thiu thỉu ngủ như muốn tìm xem nơi tôi có nét gì đó mà chưa hiện ra. Sau nầy, từ 1979, tôi lại có hứng làm thơ, viết lách, những gì anh nói lối phiêu bồng phiêu hốt đó bỗng nhiên mơ hồ đến với tôi và tôi hình dung ra là anh đã gián tiếp "giáo dục" tôi theo lối "giáo ngoại biệt truyền".
    Nửa tháng sau, trước khi quyết định vượt biên (năm 1988), tôi ngõ ý rủ anh. Anh trầm ngâm không nói gì. Ít hôm sau, anh bảo: "Tao không đi được. ở bên nầy còn có các bà già, bọn trẻ con với bạn bè như chú mầy cho tao ăn, chứ qua bên đó, người ta nhốt tao vào nhà thương điên đến rục xương, tao sống sao được". Ít hôm sau nữa, anh bảo: "Hay là mầy đừng đi, ở lại vào cuộc điên với tao. Mầy đi, tao buồn đến chết thôi". Ít ngày sau, anh lại nói: "Mà mầy đi cũng được lắm. Mầy ở lại chẳng làm được gì. Mầy có cái Tâm tốt, bây giờ đã vào đại hải, qua bên đó biết đâu sẽ làm được cái gì". Trước ngày tôi đi, tôi gởi tặng anh một bài thơ, anh xem xong chỉ trầm ngâm gật đầu, không nói lời gì nhưng xem ra anh buồn lắm.
    Bùi Giáng là người đức độ lớn. Anh thương tất cả mọi người. Anh nhìn ai cũng như thấy cái tâm hồn thánh nhân và anh muốn khơi động tấm lòng nhân thánh đó qua lối điên khùng của anh. Anh lại rất tin người. Có một kẻ bảo với anh: "Anh không biết, chứ bác Hồ trước đây đọc thơ và sách anh, khen anh lắm". Anh tin ngay và hí hửng nói với tôi, tôi chỉ cười. Một lần, một người bạn bên Pháp về, bảo anh: "Brigite Bardot đi tắm biển, nằm trên ghế xích đu đọc sách anh, thích thú lắm". Anh hỏi lại: "Cô có biết tiếng Việt đâu mà đọc sách tôỉ". Người bạn đáp: "Cô ta đọc quyển Dialogue trong đó có bài anh viết cho René Char ấy". Thế là anh tin và kể với tôi. Để anh vui tôi bảo: "Có thể lắm". Một lần, anh kể với tôi và sau nầy, hình như anh viết lại trong "Ngày Tháng Ngao Du" chuyện sau đây:
    "Một hôm, Brigite Bardot chạy tới ôm chầm Bùi Giáng rồi bảo:
    - Anh yêu ơi! Hôm nay, em mới rõ là anh yêu em, nhiều, thật nhiều, hơn cả chị Monroe.
    - Sao cô biết?
    - Thì đây nầỵ Thư anh viết cho em dở ẹt, còn anh viết cho chị Monroe thì văn hoa, bay **** không thể tả.
    - Thư tôi viết cho cô dở ẹt, sao cô bảo tôi yêu cô hơn Monroe?
    - Anh còn giả vờ nữa. Thư viết dở ẹt thì tình mới thật, mới chân; còn thư viết bay **** thì chỉ là tán tỉnh chứ tình đâu có thật".
    Một chuyện nữa giữa anh và tôi. Một hôm, vừa chạng vạng, trời mưa lâm râm, anh đến tìm tôi nơi nhà anh Lê Đình Duyên nơi tôi trọ (Lê Đình Duyên lúc này dạy học ở trường Tân Thạnh, sau nầy làm Đổng Lý Văn Phòng Bộ Thông Tin, Bộ Trưởng là Phạm Thái thời Nguyễn Khánh, sau đó làm Dân Biểu), đọc mấy câu thơ của Nguyên Sa:
    Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
    Tóc em anh sẽ bảo là mây
    Ngày mai hai đứa mình xa cách
    Anh vẫn được nhìn mây trắng baỵ
    (không rõ tôi nhớ có đúng nguyên văn không)
    Rồi anh hỏi tôi: "Mầy thấy hay không?". Tôi đáp: "Kể ra thơ tình tuổi sinh viên, học sinh, như thế cũng có thể xem là hay". Anh hỏi tiếp: "Thế, theo mầy, Truyện Kiều có hay không?". Tôi bảo: "Hay là cái cẳng rồi". Anh bỗng nỗi sùng, mắng tôi: "Khả năng như mầy mà dám bảo Truyện Kiều hay? Mầy phải nói "Truyện Kiều dở như ...C... Truyện Kiều đáng đem chùi đít; như thế ông Nguyễn Du sẽ cười ha hả, cho rằng trên thế gian có kẻ hậu sinh hiểu ông. Mầy mà khen Truyện Kiều là mày làm nhục ông Nguyễn Du, dưới suối vàng ông không nhắm mắt được đâu". Nói xong anh bỏ đi ngaỵ Bực mình nhưng tôi nín thinh. Trước nay, đi dạy, tôi giảng Truyện Kiều cũng chỉ theo các sách giáo khoa đã có, chứ chưa để ý đào sâụ Câu mắng của anh ám ảnh tôi mãi cho đến năm 1983, tôi bắt đầu viết cuốn "Đoạn Trường Tân Thanh: Tiếng Vui Trong Lời Buồn" mới phát hiện được những độc đáo thâm sâu của Nguyễn Du và nhận ra rằng "Đoạn Trường Tân Thanh" là một tác phẩm tư tưởng không riêng của dân tộc ta mà chung cho cả nhân loạị
    Trên đây là những điều có thật về Bùi Giáng mà tôi được chứng kiến. Tôi kể lại trung thực, không hoa hoè, thêm bớt. Còn một số chuyện nữa nhưng đã quá dài. Có thể phần nào, tôi tự xem là kẻ "chịu chơi" với cơn điên của Bùi Giáng nhiều nhất, chịu khổ với cơn điên của anh cũng nhiều nhất (tôi lảnh anh ra khỏi nhà thương Chợ Quán hai lần và một lần tại Phường 1 Cảnh Sát Quận 10 ngày 29 tháng 4 năm 1975), chịu nghe anh mắng chửi nhiều nhất và cũng nhận được nơi anh nguồn vui tin lạ kỳ mỗi khi được ở bên anh. Tôi muốn viết một tác phẩm về "Tư Tưởng Bùi Giáng"nhưng chưa có thời giờ và hiện chẳng có một tác phẩm nào của anh. Bài thơ đặc sắc nhất, tiêu biểu và làm cơ sở cho khuynh hướng tư tưởng của anh, theo tôi là bài "Chào Nguyên Xuân", bài thơ đầu trong tập "Mưa Nguồn".
    Nguyễn Thuỳ
    (Bài viết cho buổi nói chuyện "Bên Trời Tưởng Nhớ" do Câu Lạc Bộ Văn Hoá Việt Nam Paris tổ chức ngày 15-06-2002)
    Vài nét về nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Thùy
    Đại Chúng 103, 1/8/02
    Nguyễn Thuỳ sinh quán Tiên Phước, Quãng Nam, nguyên giáo sư các trường trung học Sài Gòn: Hưng Đạo, Phan Sào Nam, Tân Thanh...
    Làm thơ và viết văn từ cuối thập niên 50.
    Những tác phẩm đã được xuất bản:
    - Nền Tảng Tranh Chấp Liên Xô - Trung Cộng (1962)
    - Ngụ Ngôn - Trùng Ngôn
    - Tinh Thần Việt Nam
    - Giảng Luận Ca Dao Dân Ca
    - Nhân Loại Mới: Từ Nhất Thể Khởi Nguyên đến Nhất Thể Hồi Phục
    - Đoạn Trường Tân Thanh Tiếng Vui Trong L?i Buồn
    - Mây Rồng
    - Bình Minh Không Trong Tượng Số
    - Cánh Chim Huyền Thoại
    - Thơ Gởi Thượng Đế và Người Đời
    - Sao Mắt
    - Lẽ Đạo và Dòng Sử Mệnh Việt Nam
    - Thơ Gởi Người Em Không Tên
  9. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Đi với tôi, anh chỉ đọc thơ, nói oang oang những gì đâu đâu, chẳng bao giờ giảng tôi nghe về Phật, Chúa, Khổng, Trang cũng chẳng giảng gì về Nguyễn Du, Heidegger,...tôi bảo anh phải nói sao chứ cứ lối điên điên, khùng khùng ấy, làm sao tôi hiểu. Anh bảo là: "Chú mày chỉ nghe, không cần hiểu". Anh nói là tôi có cái Tâm tốt, có chút thông minh, và thường nhìn tôi lúc tôi thiu thỉu ngủ như muốn tìm xem nơi tôi có nét gì đó mà chưa hiện ra. Sau nầy, từ 1979, tôi lại có hứng làm thơ, viết lách, những gì anh nói lối phiêu bồng phiêu hốt đó bỗng nhiên mơ hồ đến với tôi và tôi hình dung ra là anh đã gián tiếp "giáo dục" tôi theo lối "giáo ngoại biệt truyền".
    Nửa tháng sau, trước khi quyết định vượt biên (năm 1988), tôi ngõ ý rủ anh. Anh trầm ngâm không nói gì. Ít hôm sau, anh bảo: "Tao không đi được. ở bên nầy còn có các bà già, bọn trẻ con với bạn bè như chú mầy cho tao ăn, chứ qua bên đó, người ta nhốt tao vào nhà thương điên đến rục xương, tao sống sao được". Ít hôm sau nữa, anh bảo: "Hay là mầy đừng đi, ở lại vào cuộc điên với tao. Mầy đi, tao buồn đến chết thôi". Ít ngày sau, anh lại nói: "Mà mầy đi cũng được lắm. Mầy ở lại chẳng làm được gì. Mầy có cái Tâm tốt, bây giờ đã vào đại hải, qua bên đó biết đâu sẽ làm được cái gì". Trước ngày tôi đi, tôi gởi tặng anh một bài thơ, anh xem xong chỉ trầm ngâm gật đầu, không nói lời gì nhưng xem ra anh buồn lắm.
    Bùi Giáng là người đức độ lớn. Anh thương tất cả mọi người. Anh nhìn ai cũng như thấy cái tâm hồn thánh nhân và anh muốn khơi động tấm lòng nhân thánh đó qua lối điên khùng của anh. Anh lại rất tin người. Có một kẻ bảo với anh: "Anh không biết, chứ bác Hồ trước đây đọc thơ và sách anh, khen anh lắm". Anh tin ngay và hí hửng nói với tôi, tôi chỉ cười. Một lần, một người bạn bên Pháp về, bảo anh: "Brigite Bardot đi tắm biển, nằm trên ghế xích đu đọc sách anh, thích thú lắm". Anh hỏi lại: "Cô có biết tiếng Việt đâu mà đọc sách tôỉ". Người bạn đáp: "Cô ta đọc quyển Dialogue trong đó có bài anh viết cho René Char ấy". Thế là anh tin và kể với tôi. Để anh vui tôi bảo: "Có thể lắm". Một lần, anh kể với tôi và sau nầy, hình như anh viết lại trong "Ngày Tháng Ngao Du" chuyện sau đây:
    "Một hôm, Brigite Bardot chạy tới ôm chầm Bùi Giáng rồi bảo:
    - Anh yêu ơi! Hôm nay, em mới rõ là anh yêu em, nhiều, thật nhiều, hơn cả chị Monroe.
    - Sao cô biết?
    - Thì đây nầỵ Thư anh viết cho em dở ẹt, còn anh viết cho chị Monroe thì văn hoa, bay **** không thể tả.
    - Thư tôi viết cho cô dở ẹt, sao cô bảo tôi yêu cô hơn Monroe?
    - Anh còn giả vờ nữa. Thư viết dở ẹt thì tình mới thật, mới chân; còn thư viết bay **** thì chỉ là tán tỉnh chứ tình đâu có thật".
    Một chuyện nữa giữa anh và tôi. Một hôm, vừa chạng vạng, trời mưa lâm râm, anh đến tìm tôi nơi nhà anh Lê Đình Duyên nơi tôi trọ (Lê Đình Duyên lúc này dạy học ở trường Tân Thạnh, sau nầy làm Đổng Lý Văn Phòng Bộ Thông Tin, Bộ Trưởng là Phạm Thái thời Nguyễn Khánh, sau đó làm Dân Biểu), đọc mấy câu thơ của Nguyên Sa:
    Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
    Tóc em anh sẽ bảo là mây
    Ngày mai hai đứa mình xa cách
    Anh vẫn được nhìn mây trắng baỵ
    (không rõ tôi nhớ có đúng nguyên văn không)
    Rồi anh hỏi tôi: "Mầy thấy hay không?". Tôi đáp: "Kể ra thơ tình tuổi sinh viên, học sinh, như thế cũng có thể xem là hay". Anh hỏi tiếp: "Thế, theo mầy, Truyện Kiều có hay không?". Tôi bảo: "Hay là cái cẳng rồi". Anh bỗng nỗi sùng, mắng tôi: "Khả năng như mầy mà dám bảo Truyện Kiều hay? Mầy phải nói "Truyện Kiều dở như ...C... Truyện Kiều đáng đem chùi đít; như thế ông Nguyễn Du sẽ cười ha hả, cho rằng trên thế gian có kẻ hậu sinh hiểu ông. Mầy mà khen Truyện Kiều là mày làm nhục ông Nguyễn Du, dưới suối vàng ông không nhắm mắt được đâu". Nói xong anh bỏ đi ngaỵ Bực mình nhưng tôi nín thinh. Trước nay, đi dạy, tôi giảng Truyện Kiều cũng chỉ theo các sách giáo khoa đã có, chứ chưa để ý đào sâụ Câu mắng của anh ám ảnh tôi mãi cho đến năm 1983, tôi bắt đầu viết cuốn "Đoạn Trường Tân Thanh: Tiếng Vui Trong Lời Buồn" mới phát hiện được những độc đáo thâm sâu của Nguyễn Du và nhận ra rằng "Đoạn Trường Tân Thanh" là một tác phẩm tư tưởng không riêng của dân tộc ta mà chung cho cả nhân loạị
    Trên đây là những điều có thật về Bùi Giáng mà tôi được chứng kiến. Tôi kể lại trung thực, không hoa hoè, thêm bớt. Còn một số chuyện nữa nhưng đã quá dài. Có thể phần nào, tôi tự xem là kẻ "chịu chơi" với cơn điên của Bùi Giáng nhiều nhất, chịu khổ với cơn điên của anh cũng nhiều nhất (tôi lảnh anh ra khỏi nhà thương Chợ Quán hai lần và một lần tại Phường 1 Cảnh Sát Quận 10 ngày 29 tháng 4 năm 1975), chịu nghe anh mắng chửi nhiều nhất và cũng nhận được nơi anh nguồn vui tin lạ kỳ mỗi khi được ở bên anh. Tôi muốn viết một tác phẩm về "Tư Tưởng Bùi Giáng"nhưng chưa có thời giờ và hiện chẳng có một tác phẩm nào của anh. Bài thơ đặc sắc nhất, tiêu biểu và làm cơ sở cho khuynh hướng tư tưởng của anh, theo tôi là bài "Chào Nguyên Xuân", bài thơ đầu trong tập "Mưa Nguồn".
    Nguyễn Thuỳ
    (Bài viết cho buổi nói chuyện "Bên Trời Tưởng Nhớ" do Câu Lạc Bộ Văn Hoá Việt Nam Paris tổ chức ngày 15-06-2002)
    Vài nét về nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Thùy
    Đại Chúng 103, 1/8/02
    Nguyễn Thuỳ sinh quán Tiên Phước, Quãng Nam, nguyên giáo sư các trường trung học Sài Gòn: Hưng Đạo, Phan Sào Nam, Tân Thanh...
    Làm thơ và viết văn từ cuối thập niên 50.
    Những tác phẩm đã được xuất bản:
    - Nền Tảng Tranh Chấp Liên Xô - Trung Cộng (1962)
    - Ngụ Ngôn - Trùng Ngôn
    - Tinh Thần Việt Nam
    - Giảng Luận Ca Dao Dân Ca
    - Nhân Loại Mới: Từ Nhất Thể Khởi Nguyên đến Nhất Thể Hồi Phục
    - Đoạn Trường Tân Thanh Tiếng Vui Trong L?i Buồn
    - Mây Rồng
    - Bình Minh Không Trong Tượng Số
    - Cánh Chim Huyền Thoại
    - Thơ Gởi Thượng Đế và Người Đời
    - Sao Mắt
    - Lẽ Đạo và Dòng Sử Mệnh Việt Nam
    - Thơ Gởi Người Em Không Tên
  10. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Trần Hữu Thục
    Bùi Giáng giữa chúng ta
    Có lẽ chưa có người nghệ sĩ nào mà cái chết gây ra sự quan tâm nơi nhiều người thuộc nhiều thế hệ khác nhau như Bùi Giáng. Từ trong nước ra ngoài nước, từ già đến trẻ, từ chống Cộng đến thân Cộng và kể cả Cộng sản, tất cả đều nhất loạt bày tỏ tình cảm và lòng trân trọng của mình đối với Bùi Giáng. Tin tức về sức khỏe cũng như cái chết của ông được loan báo tức thời, đồng loạt trên các báo trong và ngoài nước. Chúng ta có cảm tưởng như cái chết của ông đã tạo nên một sự đoàn kết hiếm có giữa những người viết lách trong giai đoạn lịch sử mà sự nghi kỵ vẫn còn nằm ở hàng đầu.
    Hầu như các nhà văn, nhà thơ, nhà báo đều nhất loạt ca ngợi nhân cách và sự nghiệp của nhà thơ đất Quảng này. Mọi người đều dùng những từ hay nhất, đẹp nhất để xưng tụng ông. Ta thử đọc qua một số câu trích của một số nhà văn, nhà thơ viết về ông trên Hợp Lưu, số đặc biệt về Bùi Giáng [1] sau đây:
    * Nhà thơ Huy Tưởng: Bùi Giáng "thông tuệ và tài ba ngất trời điên đảo" ..." thiên tài thơ Bùi Giáng" (HL, tr. 9)
    * Nhà văn Mai Thảo:"Bùi Giáng chất ngất một trời chữ nghĩa, Bùi Giáng trùng trùng một biển văn chương" (HL, tr. 12)
    * Nhà phê bình Huỳnh Hữu Ủy: " Ði cho tới cùng cái sâu thẳm nhất của ngôn ngữ, tới đỉnh cao chót vót của nó, sống với nó trong từng mỗi giây phút, trong từng mỗi sát na, xưa nay có lẽ chỉ mới có Bùi Giáng là một." (HL, tr. 19)
    * Nhà văn Cung Tích Biền: "Bùi Giáng giàu ngôn ngữ như cát bãi biển"... "Bùi Giáng đã trải một cánh bay dài mênh mông chiếc bóng trong bầu trời thi ca Việt Nam nữa thế kỷ qua" (HL, tr. 62 & 54)
    * Nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc: "Ông là một thi sĩ bát ngát, ngây thơ và cỏ hoa điên đảo" (HL, tr. 75)
    * Nhà phê bình Hoàng Nguyên Nhuận: "Ðời anh là một công án tử sinh" (HL, tr. 96)
    * Ông Huỳnh Ngọc Chiến: "Bùi Giáng là bậc thượng trí, hầu như "vô sở ngộ" (HL, tr. 135).
    * Bà Ý Nhi: "...những câu thơ được chắt ra từ máu của con người khắc khoải khôn nguôi về thân phận con người, về thế gian này" (HL, tr. 138)
    * Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền: "Bùi Giáng là một thiên tài tự hủy ghê gớm nhất của thi ca hiện đại" [2]
    * Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc: "Thơ Bùi Giáng là những phún thạch phun lên từ hỏa diệm sơn của hồn ông". [3]
    * Ông Nguyễn Hoàng Văn: "Thơ ông là khối trầm hương chữ nghĩa" [4]
    vv...và vv...
    Tóm lại, đặt bút viết về ông, ta chỉ biết có ca tụng và ca tụng. Dường như ta có quyền dùng bất cứ ngôn ngữ xưng tụng nào sáng giá nhất để nói về ông mà không sợ đại ngôn, không sợ nhầm lẫn.
    Bùi Giáng giữa chúng ta: hư cấu.
    Thế là, năm nay (1998) , văn học Việt Nam có ba cái tang lớn: Mai Thảo, Nguyên Sa và Bùi Giáng. Nói chung, cảm giác của chúng ta đối với ba cái chết không hoàn toàn giống nhau, Mai Thảo một cách, Nguyên Sa một cách và Bùi Giáng một cách. Nhưng Bùi Giáng khác xa nhất.
    Theo tôi, khi nghĩ đến Mai Thảo hay Nguyên Sa, ta nghĩ đến những con người thật. Họ đã đến, đã sống, đã tồn tại đâu đó, như ta, bên cạnh ta, vui buồn với ta, chia sẻ với ta, cao thượng như ta và cũng tục tằn như ta. Mai Thảo chết như là một maithảo. Nguyên Sa chết như một nguyênsa. Cũng như, tôi rồi sẽ chết như tôi, anh rồi sẽ chết như anh. Bùi Giáng thì khác. Bùi Giáng không chết như Bùi Giáng. Ông chết như một người khác chết. Khi nghe tin ông chết, ta có thương tiếc, nhưng dường như không xúc động mấy. Không bàng hoàng mấy. Không xót xa mấy. Ta có cảm giác như nhà thơ vừa lên đường rong chơi ở một nơi nào đấy rất xa, rất khác thế giới chúng ta đang ở. Và sẽ trở về. Mai, mốt, hay một lúc nào đó, nhưng chắc chắn trở về. Tại sao ta có cảm giác đó? Tôi không nghĩ rằng vì Bùi Giáng hiện đang ở trong nước còn Mai Thảo hay Nguyên Sa thì ở ngoài nước, tức là gần chúng ta hơn. Theo tôi, ngay khi ông còn sống, ông vốn đã cư ngụ ở một thế giới khác với chúng ta rồi, dù ông vẫn ăn, vẫn uống, vẫn gần cận ta hàng ngày. Chúng ta vẫn gặp ông đâu đó, thỉnh thoảng, hoặc có khi hàng ngày, hàng tuần mà không có cảm giác gì khác ngoài cảm giác này: đó là Bùi Giáng. Thế thôi. Ta biết ông vẫn còn đó, chưa đi đâu xa. Cần cho ông cái gì, ta sẽ có ông bên cạnh để cho. Cần thơ, ông sẽ chép ngay một loạt mấy bài thơ hay cả chục bài thơ không chừng. Ông ở đó, như ta, với ta, nhưng dường như khác băng tầng. Hồi còn ở Sài Gòn, nhiều khi ở tiệm sách ra, trên tay còn cầm cuốn sách của ông vừa mới mua, lại gặp ông đang đứng ngay giữa đường, múa may, cười cợt mà tôi vẫn ít có liên hệ nào giữa cuốn sách đang cầm trên tay và tác giả đang ở đó. Hình như Bùi Giáng trên sách không dính dáng gì đến Bùi Giáng đang ở kia.
    Thế đấy! Trong chúng ta, Bùi Giáng nửa thực, nửa hư. Vừa thiên tài, vừa là người điên. Vừa rất giống lại vừa quá khác chúng ta. Trong chúng ta, Bùi Giáng luôn luôn là một nghịch lý. Ta vừa quan tâm đến ông, vừa hững hờ với ông. Tin ông chết không làm tim ta đau nhói lên như một số người khác, Nguyên Sa chẳng hạn. Tôi muốn nói: Bùi Giáng hiện hiện giữa cuộc đời và giữa chúng ta như một hư cấu. Nghĩa là một nhân vật. Một câu chuyện. Có thể nói cho rõ hơn, theo tôi, ông là nhân vật trong một cuốn truyện dài không kết thúc. Và sẽ không bao giờ kết thúc. Ngay lúc này đây, ông chết đã mấy tháng rồi mà tâm thức của tôi về ông vẫn chẳng khác gì trước đây, khi còn ở Sài Gòn hay cách xa ông đến ½ vòng trái đất. Tôi vẫn tự hỏi: chẳng biết ông chết thật hay ông giả vờ. Bùi Giáng thân xác đã tiêu tán, nhưng Bùi-Giáng-như-một-hiện-sinh vẫn còn đâu đó, nghêu ngao ca hát, làm thơ và sống hồn nhiên trên các đường phố Sài Gòn. Một Sài Gòn có Bùi Giáng và một Bùi Giáng có Sài Gòn:
    Và ở Sài Gòn vẫn còn Bùi Giáng
    Tối tối về chùa đêm làm thơ
    Ngày ca múa khóc cười giữa chợ
    Kẻ sĩ điên thế kỷ mù rồi.
    Mai Thảo

Chia sẻ trang này