1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Diễn đàn thơ Bùi Giáng

Chủ đề trong 'Thi ca' bởi ndmt, 05/09/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. evian

    evian Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/04/2003
    Bài viết:
    191
    Đã được thích:
    0
    Sozy sozy, đúng là của ông Phạm Thiên Thư. Sozy
    (Bằng này tuổi rồi mà còn bị bắt báo)
    tôi gọi mỹ tho là mỹ thỏ. nhầm lẫn lung tung hết roài
    Dans " je t'aime" il y a " tu m'appartiens"
  2. beenagirl83

    beenagirl83 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/07/2002
    Bài viết:
    380
    Đã được thích:
    0
    bằng tuổi đó là mấy tuổi hả anh evian
    Đi vào cõi thơ - của Bùi Giáng có một bài khá ngộ của ông, đó là chính Bùi Tiên Sinh ?onhận định? về mình. Xin chép ra cho anh chị trong này đọc chơi
    Những bài thơ ?ochuồn chuồn châu chấu? của ông quả thật là có ý nghĩa. Nó bay nhẹ vi vu quả có đúng như là phận mỏng cánh chuồn. Vào những buổi sáng mùa đông lạnh lùng ở Trung Việt, vào những buổi chiều mùa thu ở Bắc Hà, hình bóng những con chuồn chuồn bay lượn cuối ngõ, đầu xuân, quả thật là tha thướt. Đôi phen cái tiết điệu riêng biệt ấy cũng còn tái hiện trong đôi vần phồn hoa, mặc dù ở phồn hoa không bao giờ có chuồn chuồn bay vòng mùa lượn. Bài thơ ?oGiữa phố? sau đây là một thí dụ:
    Thiên tiên đẹp cũng như người
    Ngẫu nhiên kỳ ngộ miệng cười nửa môi
    Miền xanh đứng bóng mặt trời
    Cõi xanh cung nguyệt cạn lời cảo thơm
    Đi qua làn gió xanh rờn
    Đi về ở lại còn hơn xanh rì
    Phút giây đè nặng như chì
    Thoảng qua như mộng không kỳ hạn qua
    Chiêm bao nàng ghé lại nhà
    Môi cười nửa miệng như là ngẫu nhiên
    Nửa môi còn ngậm phi tuyền
    Tuyết pha in mặt thần tiên như người
    Tuy nhiên vì Bùi Giáng là chỗ quen biết với tôi nên không tiện bàn luận chi nhiều. Chê thì mất lòng nhau. Mà khen thì mang tiếng ?omẹ hát, con vỗ tay?.
    Dù sao, bài sau đây cũng nên trích thêm vào tập:
    Bóng dương buồn ngủ qua chiều
    Qua sông tại hạ toan liều dấn thân
    Đường sông bóng đổ cơ trần
    Gẫm chông gai ấy ai từng đạp qua
    Ghì môi cơn mộng la đà
    Tiêu dao suốt cõi mù sa bên rừng
    Nửa vời trăng rộng mông lung
    Đường hoa nghi hoặc tháp tùng ni cô

    buồn cười gì đâu
    "Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy" đã chơi thì mặc xác luân hồi
  3. beenagirl83

    beenagirl83 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/07/2002
    Bài viết:
    380
    Đã được thích:
    0
    bằng tuổi đó là mấy tuổi hả anh evian
    Đi vào cõi thơ - của Bùi Giáng có một bài khá ngộ của ông, đó là chính Bùi Tiên Sinh ?onhận định? về mình. Xin chép ra cho anh chị trong này đọc chơi
    Những bài thơ ?ochuồn chuồn châu chấu? của ông quả thật là có ý nghĩa. Nó bay nhẹ vi vu quả có đúng như là phận mỏng cánh chuồn. Vào những buổi sáng mùa đông lạnh lùng ở Trung Việt, vào những buổi chiều mùa thu ở Bắc Hà, hình bóng những con chuồn chuồn bay lượn cuối ngõ, đầu xuân, quả thật là tha thướt. Đôi phen cái tiết điệu riêng biệt ấy cũng còn tái hiện trong đôi vần phồn hoa, mặc dù ở phồn hoa không bao giờ có chuồn chuồn bay vòng mùa lượn. Bài thơ ?oGiữa phố? sau đây là một thí dụ:
    Thiên tiên đẹp cũng như người
    Ngẫu nhiên kỳ ngộ miệng cười nửa môi
    Miền xanh đứng bóng mặt trời
    Cõi xanh cung nguyệt cạn lời cảo thơm
    Đi qua làn gió xanh rờn
    Đi về ở lại còn hơn xanh rì
    Phút giây đè nặng như chì
    Thoảng qua như mộng không kỳ hạn qua
    Chiêm bao nàng ghé lại nhà
    Môi cười nửa miệng như là ngẫu nhiên
    Nửa môi còn ngậm phi tuyền
    Tuyết pha in mặt thần tiên như người
    Tuy nhiên vì Bùi Giáng là chỗ quen biết với tôi nên không tiện bàn luận chi nhiều. Chê thì mất lòng nhau. Mà khen thì mang tiếng ?omẹ hát, con vỗ tay?.
    Dù sao, bài sau đây cũng nên trích thêm vào tập:
    Bóng dương buồn ngủ qua chiều
    Qua sông tại hạ toan liều dấn thân
    Đường sông bóng đổ cơ trần
    Gẫm chông gai ấy ai từng đạp qua
    Ghì môi cơn mộng la đà
    Tiêu dao suốt cõi mù sa bên rừng
    Nửa vời trăng rộng mông lung
    Đường hoa nghi hoặc tháp tùng ni cô

    buồn cười gì đâu
    "Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy" đã chơi thì mặc xác luân hồi
  4. ndmt

    ndmt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/08/2003
    Bài viết:
    314
    Đã được thích:
    0
    Thượng thừa đầy ắp **** ong
    Câu thơ trên nghe chướng tai vô cùng. nhưng đó cũng là cái "chướng tai" trong các kinh Đại Thừa. câu thơ gợi nhớ những lời kinh đã từng làm "hoang mang" cả những bậc Đại Trí xa xưa.
    Sinh Tử là Niết Bàn
    Dâm Dục là Như Lai
    .......
    (ở đây tôi chỉ nhắc lại sau khi đã tự sám hối về sự cuồng ngôn của mình. Vì, chỉ có những bậc Thánh mới có thể " Thỏng tay vào chợ" mà không hề vướng bận)
    Nuôi lan
    Bùi Giáng
    (Kính tặng Thầy Nghị)

    Nuôi Lan từ bấy tới nay
    Thành thân cách điệu thiên tài thong dong
    Thượng thừa đầy ắp **** ong
    Vi vu cung bậc càng đong càng đầy
    Lạ lùng Đại Lãn sơ khai
    Nhịp triều phiêu lãng từ rày về sau
    Thịnh triều trăng mọc chậm mau
    Nguyệt hoa hoa nguyệt từ đầu mà ra
    Tới đuôi kỳ vỹ ngọc ngà
    Thành thân vô lượng như hà hình dung?
    9.1992
    Nam Mô A Di Đà Phật.
    ndmt
    Được ndmt sửa chữa / chuyển vào 21:12 ngày 26/02/2004
  5. ndmt

    ndmt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/08/2003
    Bài viết:
    314
    Đã được thích:
    0
    Thượng thừa đầy ắp **** ong
    Câu thơ trên nghe chướng tai vô cùng. nhưng đó cũng là cái "chướng tai" trong các kinh Đại Thừa. câu thơ gợi nhớ những lời kinh đã từng làm "hoang mang" cả những bậc Đại Trí xa xưa.
    Sinh Tử là Niết Bàn
    Dâm Dục là Như Lai
    .......
    (ở đây tôi chỉ nhắc lại sau khi đã tự sám hối về sự cuồng ngôn của mình. Vì, chỉ có những bậc Thánh mới có thể " Thỏng tay vào chợ" mà không hề vướng bận)
    Nuôi lan
    Bùi Giáng
    (Kính tặng Thầy Nghị)

    Nuôi Lan từ bấy tới nay
    Thành thân cách điệu thiên tài thong dong
    Thượng thừa đầy ắp **** ong
    Vi vu cung bậc càng đong càng đầy
    Lạ lùng Đại Lãn sơ khai
    Nhịp triều phiêu lãng từ rày về sau
    Thịnh triều trăng mọc chậm mau
    Nguyệt hoa hoa nguyệt từ đầu mà ra
    Tới đuôi kỳ vỹ ngọc ngà
    Thành thân vô lượng như hà hình dung?
    9.1992
    Nam Mô A Di Đà Phật.
    ndmt
    Được ndmt sửa chữa / chuyển vào 21:12 ngày 26/02/2004
  6. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    BÙI GIÁNG: Trường Hợp Bùi Giáng
    Nguyễn Hưng quốc
    Hôm nay tình cờ mục kích những "thói đời" trơ trẽn khiến người ta dở khóc dở cười, ít nhiều bỗng cám cảnh cho những lạc lõng, so le của những người trong cuộc. Không hiểu sao tự dưng tôi lại nghĩ đến nhà thơ Bùi Giáng.
    Tôi về tìm lại mấy bài viết về nhà thơ Bùi Giáng mà những người bạn đã sưu tầm gởi cho đã từ lâu lắm. 123 sẽ post dần vì phải e*** lại chút đỉnh cho ngay hàng thẳng lối, âu cũng là lòng trân trọng của kẻ hậu sinh đối với nhà thơ "không giống ai và cũng không ai giống ông".
    Nếu được, mong DT hãy bỏ vào "gia tài" của ông trong trang Thơ. Rất cám ơn. (123)
    ***
    TRƯỜNG HỢP BÙI GIÁNG
    (Nguyễn Hưng Quốc)
    Khi viết về thơ ở miền Nam trước 1975 cũng như thơ trong nước sau 1975, tôi ít nhắc đến Bùi Giáng. Không phải vì tôi đánh giá ông thấp. Ngược lại. Tôi đồng ý với Mai Thảo: Bùi Giáng là một tài thơ trác tuyệt. " Có Ông, thi ca mới đích thực có biển có trời" (1). Càng đọc Bùi Giáng tôi càng thấy ông lạ lùng. Con người ông lạ lùng: nói như Thanh Tâm Tuyền, qua lời kể của Mai Thảo, Bùi Giáng là người " ngủ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ thơ, làm thơ" (2). Thơ ông càng lạ lùng, lạ lùng đến nổi ai cũng ngại ngùng khi viết về ông. Kể chuyện về ông: có, nhưng phê bình thơ ông: chưa. Có lần, Thanh-Tâm-Tuyền gọi Bùi Giáng là một " thiên tài tự hủy ghê gớm nhất của thi ca Việt Nam hiện đại" và là " một hồn thơ bị vây khốn" (3). Bị vây khốn bởi cái gì? Theo tôi, Bùi Giáng bị vây khốn, trước hết, bởi những hoài nghi, những dằn vặt. Thì một số khá đông các nhà thơ khác ở miền Nam thời kỳ 1954-1975 cũng hoài nghi, cũng dằn vặt. Song, có điều, không ai sống đến tận cùng sự hoài nghi, sự dằn vặt như là Bùi Giáng. Thơ Bùi Giáng là những phún thạch phun lên từ hỏa diệm sơn của hồn ông. Nhưng khác các nhà thơ khác, Bùi Giáng lại ngụy trang thảm kịch của mình bằng một giọng cợt nhã, bông đùa. Trong một bài viết về Hàn Mặc Tử, sau khi ghi nhận thơ Hàn Mặc Tử là " một tiếng thét và một lời than. Tiếng thét đầy máu, tiếng than tràn ngập hư vô. Lúc hãi hùng khiếp đảm, lúc quạnh quẽ lạc phách xiêu hồn" , Bùi Giáng nhắc đến thơ của chính ông như một sự so sánh:
    " Thơ tôi làm...là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Ði vào giữa trung tâm bão giông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu chuồn chuồn, đem phó thác thảm họa trần gian cho chuồn chuồn mang trên hai cánh mỏng bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm, bay về Sương Hy Lạp, ghé Calvaire viếng thăm một vong hồn bát ngát, rồi quay trở về đồng ruộng làm mục tử chăn trâu. Làm mục tử chăn trâu không xong bỏ trâu bò chạy lạc, phá phách mùa màng khoai sắn, thì tôi chạy về bẩm báo với ni cô cho phép con chuồn chuồn của tôi cư lưu một phút giây trong linh hồn bao dung phương trượng. Ni cô xua đuổi tôi thì tôi ra bờ sông nằm ngủ khóc một mình thơ dại giữa chiêm bao. Trong chiêm bao, thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao" .(4)
    Có dìu ba đào về chân trời nào khác thì ba đào vẫn cứ là ba đào, động biển vẫn cứ là động biển. Bay đi đâu cánh chuồn chuồn của Bùi Giáng cũng gặp giông bão. Giông bão dậy lên, trước hết, từ đôi cánh của nó: ngôn ngữ. Ðã đành làm thơ, ai cũng chú trọng đến ngôn ngữ. Song tôi có cảm tưởng ít có ai bị ám ảnh bởi vấn đề ngôn ngữ một cách nặng nề, triền miên như Bùi Giáng. Chữ " ngôn ngữ" thường xuyên xuất hiện trong thơ ông, đặc biệt trong hai tập thơ mới xuất bản ở hải ngoại sau 1975 (5), ở đó câu Ðường qua ngôn ngữ tuyệt trù, Ðường qua ngôn ngữ điệp trùng và Ðường qua ngôn ngữ cuối cùng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong nhiều bài thơ khác nhau. Hãy để ý đến nhóm từ " đường qua ngôn ngữ" : với Bùi Giáng dường như công việc làm thơ chủ yếu là một cuộc hành trình vượt qua ngọn đèo cheo leo của ngôn ngữ trước khi là bất cứ một cái gì khác. Ngọn đèo ấy không những cheo leo mà còn mù mịt, thăm thẳm. Phần lớn các câu thơ kế tiếp mấy câu vừa dẫn đều là bóng đêm (Mừng xuân viễn vọng đêm bù cho đêm; Mừng xuân viễn vọng đêm lừng lẫy đêm; Mừng xuân viễn tuyệt đêm từng từng đêm...) Xuân, ừ thì xuân. Nhưng đêm vẫn mịt mùng đêm. Ðêm vô tận. Ngôn ngữ không làm cho bóng đêm ấy tan biến. Trái lại.
    Chấm ngòi bút sắt se vào mực
    Viết ra câu thúc giục sương mù

    (Mùa xuân chiêm bao)
    Trong lúc hầu hết các nhà thơ khác, mặc dù nhận chân được vị thế hẩm hiu của nhà thơ trong xã hội, vẫn tin tưởng vào ngôn ngữ và vẫn tự hào về công việc sáng tạo của mình, nói như Thanh Tâm Tuyền, " cuộc hành trình hoàn toàn cô độc" trên một " con đường chưa ai tới" (6), Bùi Giáng, ngược lại, tuy vẫn làm thơ, hơn nữa, còn làm thơ cực kỳ nhiều, nhiều hơn bất cứ một người nào khác, lại có vẻ rất coi thường cái việc làm thơ ấy và chắc chắn là không mấy tin tưởng vào khả năng thể hiện của ngôn ngữ:
    Người điên ngôn ngữ điệp trùng
    Dở chừng như mộng dở chừng như mê
    Thưa em ngôn ngữ quặt què
    Làm sao nói hết nghiệp nghề người điên

    (Người điên)
    Trong quyển " Mùa thu trong thi ca" , Bùi Giáng viết:
    Một hôm Mai Thảo bảo rằng
    Làm thơ bê bối sao bằng đi rong
    phố phường mọc cỏ quanh năm

    (Sa mạc phát tiết)
    Có người đọc câu thơ thấy đâm ra bực mình hỏi: " Phố phường đâu có cỏ nào mọc! Thằng thi sĩ ăn nói tầm phào, sai sự thật!" Ấy thế là người ta cưỡng bức thi ca một cách không chính đáng. Và trầm trọng hơn nữa, người ta tưởng chừng như tin rằng ngôn ngữ có thể nói ra được sự thật. Tưởng chừng như người ta chẳng bao giờ suy gẫm về Kim Cương Kinh. " Thế gian ngôn ngữ phi chân kinh" .(7)
    Ngôn ngữ không những quặt què, không những không nói ra được sự thật mà, hơn nữa, trong thời hiện đại, đặc biệt khi cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối Tư bản - Cộng sản đang gay gắt, khi cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam đang ác liệt, khi vấn đề thắng bại không những được quyết định ngoài chiến trường mà còn trên các bàn hội nghị quốc tế, ngôn ngữ còn có tác dụng ngược lại: nó che giấu sự thật và, thay vì đem lại sự cảm thông giữa loài người, nó lại làm cho con người ngộ nhận lẫn nhau, thù ghét lẫn nhau, say sưa chém giết lẫn nhau. Ðó là lý do tại sao Bùi Giáng lại:
    Tôi gọi Mỹ Tho là Mỹ Thỏ
    Mỹ Thọ muôn đời là lục tỉnh hôm nay
    Tôi gọi Sóc Trăng là Sóc Trắng
    Gọi người sương phụ gái thơ ngây

    (Lẫn lộn lung tung)
    Bùi Giáng xáo trộn chữ nghĩa để nói lên một sự thật: ngôn ngữ đang bị xáo trộn, đang bị tha hóa. Bùi Giáng gọi Mỹ Tho là Mỹ Thỏ, Mỹ Thọ, người ta cho là hài hước hoặc điên khùng, nhưng chẳng phải là trong cuộc sống, người ta đã không từng gọi một kẻ bán nước là yêu nước, một kẻ giết người như ngoé là nhân đạo, một kẻ bắn súng vào anh em vào đồng bào vào đồng loại vì một thiên đường không tưởng nào đó là cách mạng đó ư? Chẳng phải là người ta đã không từng gọi nhà tù là trại học tập, độc tài là tập trung dân chủ, sự ngu đần là đỉnh cao trí tuệ, khố xanh khố đỏ là quốc gia, thái độ khom lưng trước ngoại bang là biểu hiện của tinh thần dân tộc đó ư? Thử thế chữ Mỹ Tho bằng bất cứ chữ nào trong từ điển chính trị Việt Nam hiện đại, người ta sẽ thấy ngay cái điều mà Ionesco từng nói: " một nền văn minh của ngôn ngữ là một nền văn minh quẩn trí, hỗn độn" (8). Ngôn ngữ mất linh hồn. Ngôn ngữ xác xơ, rách mướp, tơi tả. Nhiều người thuộc loại nhạy cảm nhất trong thời đại chúng ta đã thất vọng não nề. Sự thất vọng ấy ở Tây phương, dẫn đến sự im lặng của một số người cầm bút, sự ra đời của loại kịch không lời; ở Bùi Giáng, tạo ra những vần thơ đại loại thế nầy:
    ...Một hai hai một di hài
    Dài hi hữu mộng an bài chẩm ma
    Chả xin? Chả hỏi? Vịt gà?
    Và thân thể máu me và thịt xương...
    ...Ma đên ỳ nẽ ô mà
    Xơ tin ô đố đâu là đến đây
    Xền nô đô thí xi đầy
    Xè rê tê nến ngọn lầy lội cơn
    A tin a tỉ oan hồn
    Vong lưu lỳ lẩy cung đờn cợt trêu
    Người ơi ô ướt dấu bèo
    ồ thôi thế vậy thu vèo sang thu
    Lừng bay thân thế pha mù
    Sương mây tuyết dậy thân bù cho thân

    (Ðạm Tiên)
  7. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    BÙI GIÁNG: Trường Hợp Bùi Giáng
    Nguyễn Hưng quốc
    Hôm nay tình cờ mục kích những "thói đời" trơ trẽn khiến người ta dở khóc dở cười, ít nhiều bỗng cám cảnh cho những lạc lõng, so le của những người trong cuộc. Không hiểu sao tự dưng tôi lại nghĩ đến nhà thơ Bùi Giáng.
    Tôi về tìm lại mấy bài viết về nhà thơ Bùi Giáng mà những người bạn đã sưu tầm gởi cho đã từ lâu lắm. 123 sẽ post dần vì phải e*** lại chút đỉnh cho ngay hàng thẳng lối, âu cũng là lòng trân trọng của kẻ hậu sinh đối với nhà thơ "không giống ai và cũng không ai giống ông".
    Nếu được, mong DT hãy bỏ vào "gia tài" của ông trong trang Thơ. Rất cám ơn. (123)
    ***
    TRƯỜNG HỢP BÙI GIÁNG
    (Nguyễn Hưng Quốc)
    Khi viết về thơ ở miền Nam trước 1975 cũng như thơ trong nước sau 1975, tôi ít nhắc đến Bùi Giáng. Không phải vì tôi đánh giá ông thấp. Ngược lại. Tôi đồng ý với Mai Thảo: Bùi Giáng là một tài thơ trác tuyệt. " Có Ông, thi ca mới đích thực có biển có trời" (1). Càng đọc Bùi Giáng tôi càng thấy ông lạ lùng. Con người ông lạ lùng: nói như Thanh Tâm Tuyền, qua lời kể của Mai Thảo, Bùi Giáng là người " ngủ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ thơ, làm thơ" (2). Thơ ông càng lạ lùng, lạ lùng đến nổi ai cũng ngại ngùng khi viết về ông. Kể chuyện về ông: có, nhưng phê bình thơ ông: chưa. Có lần, Thanh-Tâm-Tuyền gọi Bùi Giáng là một " thiên tài tự hủy ghê gớm nhất của thi ca Việt Nam hiện đại" và là " một hồn thơ bị vây khốn" (3). Bị vây khốn bởi cái gì? Theo tôi, Bùi Giáng bị vây khốn, trước hết, bởi những hoài nghi, những dằn vặt. Thì một số khá đông các nhà thơ khác ở miền Nam thời kỳ 1954-1975 cũng hoài nghi, cũng dằn vặt. Song, có điều, không ai sống đến tận cùng sự hoài nghi, sự dằn vặt như là Bùi Giáng. Thơ Bùi Giáng là những phún thạch phun lên từ hỏa diệm sơn của hồn ông. Nhưng khác các nhà thơ khác, Bùi Giáng lại ngụy trang thảm kịch của mình bằng một giọng cợt nhã, bông đùa. Trong một bài viết về Hàn Mặc Tử, sau khi ghi nhận thơ Hàn Mặc Tử là " một tiếng thét và một lời than. Tiếng thét đầy máu, tiếng than tràn ngập hư vô. Lúc hãi hùng khiếp đảm, lúc quạnh quẽ lạc phách xiêu hồn" , Bùi Giáng nhắc đến thơ của chính ông như một sự so sánh:
    " Thơ tôi làm...là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Ði vào giữa trung tâm bão giông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu chuồn chuồn, đem phó thác thảm họa trần gian cho chuồn chuồn mang trên hai cánh mỏng bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm, bay về Sương Hy Lạp, ghé Calvaire viếng thăm một vong hồn bát ngát, rồi quay trở về đồng ruộng làm mục tử chăn trâu. Làm mục tử chăn trâu không xong bỏ trâu bò chạy lạc, phá phách mùa màng khoai sắn, thì tôi chạy về bẩm báo với ni cô cho phép con chuồn chuồn của tôi cư lưu một phút giây trong linh hồn bao dung phương trượng. Ni cô xua đuổi tôi thì tôi ra bờ sông nằm ngủ khóc một mình thơ dại giữa chiêm bao. Trong chiêm bao, thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao" .(4)
    Có dìu ba đào về chân trời nào khác thì ba đào vẫn cứ là ba đào, động biển vẫn cứ là động biển. Bay đi đâu cánh chuồn chuồn của Bùi Giáng cũng gặp giông bão. Giông bão dậy lên, trước hết, từ đôi cánh của nó: ngôn ngữ. Ðã đành làm thơ, ai cũng chú trọng đến ngôn ngữ. Song tôi có cảm tưởng ít có ai bị ám ảnh bởi vấn đề ngôn ngữ một cách nặng nề, triền miên như Bùi Giáng. Chữ " ngôn ngữ" thường xuyên xuất hiện trong thơ ông, đặc biệt trong hai tập thơ mới xuất bản ở hải ngoại sau 1975 (5), ở đó câu Ðường qua ngôn ngữ tuyệt trù, Ðường qua ngôn ngữ điệp trùng và Ðường qua ngôn ngữ cuối cùng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong nhiều bài thơ khác nhau. Hãy để ý đến nhóm từ " đường qua ngôn ngữ" : với Bùi Giáng dường như công việc làm thơ chủ yếu là một cuộc hành trình vượt qua ngọn đèo cheo leo của ngôn ngữ trước khi là bất cứ một cái gì khác. Ngọn đèo ấy không những cheo leo mà còn mù mịt, thăm thẳm. Phần lớn các câu thơ kế tiếp mấy câu vừa dẫn đều là bóng đêm (Mừng xuân viễn vọng đêm bù cho đêm; Mừng xuân viễn vọng đêm lừng lẫy đêm; Mừng xuân viễn tuyệt đêm từng từng đêm...) Xuân, ừ thì xuân. Nhưng đêm vẫn mịt mùng đêm. Ðêm vô tận. Ngôn ngữ không làm cho bóng đêm ấy tan biến. Trái lại.
    Chấm ngòi bút sắt se vào mực
    Viết ra câu thúc giục sương mù

    (Mùa xuân chiêm bao)
    Trong lúc hầu hết các nhà thơ khác, mặc dù nhận chân được vị thế hẩm hiu của nhà thơ trong xã hội, vẫn tin tưởng vào ngôn ngữ và vẫn tự hào về công việc sáng tạo của mình, nói như Thanh Tâm Tuyền, " cuộc hành trình hoàn toàn cô độc" trên một " con đường chưa ai tới" (6), Bùi Giáng, ngược lại, tuy vẫn làm thơ, hơn nữa, còn làm thơ cực kỳ nhiều, nhiều hơn bất cứ một người nào khác, lại có vẻ rất coi thường cái việc làm thơ ấy và chắc chắn là không mấy tin tưởng vào khả năng thể hiện của ngôn ngữ:
    Người điên ngôn ngữ điệp trùng
    Dở chừng như mộng dở chừng như mê
    Thưa em ngôn ngữ quặt què
    Làm sao nói hết nghiệp nghề người điên

    (Người điên)
    Trong quyển " Mùa thu trong thi ca" , Bùi Giáng viết:
    Một hôm Mai Thảo bảo rằng
    Làm thơ bê bối sao bằng đi rong
    phố phường mọc cỏ quanh năm

    (Sa mạc phát tiết)
    Có người đọc câu thơ thấy đâm ra bực mình hỏi: " Phố phường đâu có cỏ nào mọc! Thằng thi sĩ ăn nói tầm phào, sai sự thật!" Ấy thế là người ta cưỡng bức thi ca một cách không chính đáng. Và trầm trọng hơn nữa, người ta tưởng chừng như tin rằng ngôn ngữ có thể nói ra được sự thật. Tưởng chừng như người ta chẳng bao giờ suy gẫm về Kim Cương Kinh. " Thế gian ngôn ngữ phi chân kinh" .(7)
    Ngôn ngữ không những quặt què, không những không nói ra được sự thật mà, hơn nữa, trong thời hiện đại, đặc biệt khi cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối Tư bản - Cộng sản đang gay gắt, khi cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam đang ác liệt, khi vấn đề thắng bại không những được quyết định ngoài chiến trường mà còn trên các bàn hội nghị quốc tế, ngôn ngữ còn có tác dụng ngược lại: nó che giấu sự thật và, thay vì đem lại sự cảm thông giữa loài người, nó lại làm cho con người ngộ nhận lẫn nhau, thù ghét lẫn nhau, say sưa chém giết lẫn nhau. Ðó là lý do tại sao Bùi Giáng lại:
    Tôi gọi Mỹ Tho là Mỹ Thỏ
    Mỹ Thọ muôn đời là lục tỉnh hôm nay
    Tôi gọi Sóc Trăng là Sóc Trắng
    Gọi người sương phụ gái thơ ngây

    (Lẫn lộn lung tung)
    Bùi Giáng xáo trộn chữ nghĩa để nói lên một sự thật: ngôn ngữ đang bị xáo trộn, đang bị tha hóa. Bùi Giáng gọi Mỹ Tho là Mỹ Thỏ, Mỹ Thọ, người ta cho là hài hước hoặc điên khùng, nhưng chẳng phải là trong cuộc sống, người ta đã không từng gọi một kẻ bán nước là yêu nước, một kẻ giết người như ngoé là nhân đạo, một kẻ bắn súng vào anh em vào đồng bào vào đồng loại vì một thiên đường không tưởng nào đó là cách mạng đó ư? Chẳng phải là người ta đã không từng gọi nhà tù là trại học tập, độc tài là tập trung dân chủ, sự ngu đần là đỉnh cao trí tuệ, khố xanh khố đỏ là quốc gia, thái độ khom lưng trước ngoại bang là biểu hiện của tinh thần dân tộc đó ư? Thử thế chữ Mỹ Tho bằng bất cứ chữ nào trong từ điển chính trị Việt Nam hiện đại, người ta sẽ thấy ngay cái điều mà Ionesco từng nói: " một nền văn minh của ngôn ngữ là một nền văn minh quẩn trí, hỗn độn" (8). Ngôn ngữ mất linh hồn. Ngôn ngữ xác xơ, rách mướp, tơi tả. Nhiều người thuộc loại nhạy cảm nhất trong thời đại chúng ta đã thất vọng não nề. Sự thất vọng ấy ở Tây phương, dẫn đến sự im lặng của một số người cầm bút, sự ra đời của loại kịch không lời; ở Bùi Giáng, tạo ra những vần thơ đại loại thế nầy:
    ...Một hai hai một di hài
    Dài hi hữu mộng an bài chẩm ma
    Chả xin? Chả hỏi? Vịt gà?
    Và thân thể máu me và thịt xương...
    ...Ma đên ỳ nẽ ô mà
    Xơ tin ô đố đâu là đến đây
    Xền nô đô thí xi đầy
    Xè rê tê nến ngọn lầy lội cơn
    A tin a tỉ oan hồn
    Vong lưu lỳ lẩy cung đờn cợt trêu
    Người ơi ô ướt dấu bèo
    ồ thôi thế vậy thu vèo sang thu
    Lừng bay thân thế pha mù
    Sương mây tuyết dậy thân bù cho thân

    (Ðạm Tiên)
  8. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Gắn liền với sự hoài nghi ngôn ngữ là sự hoài nghi lý trí. Trong lúc hầu hết các nhà thơ khác, mặc dầu hoài nghi lý trí, luôn luôn khắc khoải tìm kiếm sự thật, với niềm tin dù mơ hồ và mong manh, là sự thật ấy có đâu đó, sẽ gặp được một ngày. Bùi Giáng, ngược lại, tuy dịch và viết khá nhiều tác phẩm về triết học hiện đại Tây phương, lại hoàn toàn phủ nhận đầu óc duy lý của Tây phương, hoàn toàn mất niềm tin với mọi cái gọi là chân lý. Cuộc đời, với Bùi Giáng, là chuổi dài những nghi vấn và phẩn nộ:
    Ði vào giữa cuộc thị phi
    Nửa tam bành tới nửa nghi vấn về

    (Y ư mộng, du ư mê)
    Làm thơ, với Bùi Giáng, là một hành động phản kháng, phản loạn. Như Từ Hải trong truyện Kiều của Nguyễn Du: Sao bằng riêng một biên thùy
    Cõi điên vũ trụ tùy nghi tung hoành
    Xiết bao vô ngại ngọn ngành
    Chọc trời khuấy nước tan tành thịt xương
    Ấy như thể, ấy như dường
    Ði vô tận ý đi đường chơn không
    Ði mây gió đi phiêu bồng
    Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng ra đi
    Ði về thể lệ lâm ly
    Ði đi suốt cõi lời nghi vấn lời.

    (Sao bằng)
    Nghi vấn. Lúc nào cũng nghi vấn. Nghi vấn cả lời nói của mình. Bài thơ Tặng Mã Giám Sinh là một bài thơ hay:
    Hỏi tên? Rằng biển dâu xanh
    Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
    Gọi tên? rằng một hai ba
    Ðếm là diệu tưởng đo là nghi tâm.

    Tôi đoán là Bùi Giáng rất tâm đắc bài thơ nầy. Nó được in lần đầu trong " Mùa thu trong thi ca" với tựa là " Mã Giám Sinh" , sau in lại trong " Thơ Bùi Gíáng" xuất bản tại Canada năm 1990 với sự thay đổi nhỏ: thêm chữ " tặng" ở tựa đề. Có hay không có chữ " tặng" , thật ra cũng chả có gì quan trọng. Cũng như mọi cái tựa trong thơ Bùi Giáng chả có gì là quan trọng. Lười, ông thường nhặt bất cứ từ hay nhóm từ nào trong bài dùng để làm nhan đề. Bài thơ trên được đặt tựa là Mã Giám Sinh hay Tặng Mã Giám Sinh có lẽ để ghi lại xuất xứ một nguồn cảm hứng: nó xuất phát từ mấy câu thơ trong Truyện Kiều có liên quan đến Mã Giám Sinh:
    Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
    Hỏi quê, rằng: huyện Lâm Thanh, cũng gần.

    Trong bài Chiều nguyên xuân in trong tập Mưa Nguồn, xuất bản từ năm 1963, Bùi Giáng đã bị ám ảnh bởi vấn đề quê hương:
    Hỏi rằng: người ở quê đâu
    Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà

    Từ " ở rất lâu quê nhà" đến " mộng ban đầu đã xa" , tư tưởng của Bùi Giáng đã vượt biên, lấn sang một tầm khác. Với một sức oằn khác. Dẫu sao, ở đây điều quan trọng nhất là câu cuối cùng: " đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm" . Mọi sự phân biệt đều bị xóa nhòa. Tôi cho đây là đặc điểm nổi bật nhất trong phong cách thơ Bùi Giáng: Thơ Bùi Giáng chính là sự xóa nhòa của mọi đường biên quen thuộc vốn được mọi người chấp nhận như là một quy ước, một luật lệ trong văn học từ xưa đến nay.
    Thứ nhất là xóa nhòa những đường biên về giọng điệu. Những ai từng viết lách ít nhiều cũng đều hiểu cái khó nhất đối với người cầm bút là pha trộn giọng điệu, nghĩa là, chẳng hạn, vừa nghiêm túc lại vừa cười cợt, vừa uyên bác lại vừa bình dân, vừa suy tư lại vừa thích thảng. Bùi Giáng vượt qua tất cả những khó khăn ấy một cách nhẹ nhàng. Ví dụ dưới đây, tôi chọn một cách tình cờ:
    Hai cô bán phở dịu dàng
    Ðừng nên nói bậy hai nàng buồn ta"
    -Trẫm từ lịch kiếp phôi pha
    Tái sinh bất chợt mà ra phụ lòng
    Tình thương ẩn mặt từ trong
    Nội tâm vô tận mà long đong vì
    Phong tao phấn đại tương nghi
    Tùy thời thể dựng mà tuy nhiên là.

    (Tặng quán phở Huyền Trân)
    Ai cũng thấy rõ hai câu đầu và sáu câu sau có giọng điệu khác hẳn nhau. Vậy mà, riêng tôi, thú thật, tôi không hiểu tại sao Bùi Giáng có thể chuyển từ hai câu đầu xuống sáu câu dưới một cách dễ dàng tự nhiên như vậy. Mà đây cũng lại là một đặc điểm rất phổ biến trong thơ Bùi Giáng. Nói một cách tóm tắt, thơ ông có hai loại từ vựng: một loại tạm gọi là bác học và một loại tạm gọi là bình dân. Bác học thì như thục nữ, thuyền quyên, cảo thơm, thượng thừa, miên trường, đoạn trường, băng tuyết, thập thành v.v...nghĩa là những từ Hán Việt lâu lắm không còn được sử dụng nữa. Còn bình dân thì như đại ca, Huê ky., Liên Xồn, lai rai, nhậu nhẹt, máu me, số dzách, dấn bước, dấn liều v..v...nghĩa là những khẩu ngữ còn lấm lem bụi bặm ngoài đường ngoài phố. Cả hai loại đều dễ khiến giới làm thơ chùn tay. Dùng loại trên thì dễ có nguy cơ trở thành sáo, cổ. Dùng loại dưới thì dễ có nguy cơ trở thành nhả nhớt, rẻ tiền. Bùi Giáng hoàn toàn thoát khỏi hai nguy cơ ấy. Hơn nữa, ông còn hòa trộn cả hai loại ngôn ngữ ấy lại với nhau một cách tài tình. Ðọc, người ta không hề có chút cảm giác lấn cấn nào. Như một phép mầu.
    Gắn liền với sự xóa nhòa trên là một sự xóa nhòa khác: xóa nhòa ranh giới giữa truyền thống và hiện đại. Không phải Bùi Giáng kết hợp truyền thống và hiện đại, như cái điều chúng ta có thể nói về một số nhà thơ khác. Nói đến sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại tức là thừa nhận chúng ta có thể ít nhiều khu biệt đâu là truyền thống và đâu là hiện đại. Ở Bùi Giáng, mọi nỗ lực khu biệt ấy đều trở thành vô vọng. Ở Bùi Giáng, tính chất truyền thống và tính chất hiện đại tan hòa vào với nhau. Là một. Thể thơ ông dùng: cũ; hình tượng ông dựng: cũ; ngôn ngữ ông viết: cũ, thế nhưng, rất lạ, toàn bộ bài thơ của ông thì lại mới, mới như chưa từng có ai viết được như thế. Mới đến độ tôi có cảm tưởng phần lớn những từ, những chữ nào đã được Bùi Giáng sử dụng một lần đều trở thành của riêng của Bùi Giáng, một thứ tài sản của Bùi Giáng, trên đó có dấu ấn của Bùi Giáng; sau đó, ai dùng lại những từ ấy, chúng ta cứ ngờ ngợ như họ ăn cắp của Bùi Giáng. Ðọc thơ của bất cứ người nào, hễ gặp chữ " giũ áo" , " rớt hột" , " đười ươi" , " chuồn chuồn" ," châu chấu" ...chúng ta hay tri hô lên: Bùi Giáng! Ngay cả một số từ quen thuộc hơn, như " thập thành" , " máu me" , " lai rai" ...chúng ta cũng lại tri hô lên: Bùi Giáng! Trong lịch sử thi ca Việt Nam hiếm có trường hợp nào lạ lùng đến như vậy. Phần lớn, tính chất độc đáo chỉ ở cấp độ bài hoặc cấp độ câu. Ở Bùi Giáng, tính chất độc đáo thể hiện ngay ở đơn vị từ. Với sự xuất hiện của Bùi Giáng, số phận các nhà thơ đâm ra lao đao hẳn. Khi chọn chữ không khỏi có cảm giác e dè vì sợ dẫm vào dấu chân của Bùi Giáng.
    Thứ ba, là sự xóa nhòa ranh giới giữa cái gọi là thơ và cái gọi là phi thơ. Ngổn ngang trong thơ Bùi Giáng những chi tiết ngỡ như không bao giờ thành thơ được, ngỡ như mãi mãi thuộc thế giới của văn xuôi, của tiểu thuyết, của đời thường. Nhớ người yêu, có lẽ ai cũng nhớ như Bùi Giáng nhưng không có ai viết được như Bùi Giáng:
    Bây giờ em đứng nơi đâu
    Cỏ trong mình mẩy em sầu ra sao

    (Gửi thôn nữ Vĩnh Trinh)
    Bùi Giáng có tài hóa giải những tình thế oái oăm: cái đáng lẽ sàm sỡ, dưới ngòi bút ông, tự nhiên thành thơ mộng, thiết tha, tội nghiệp. Bùi Giáng cũng có tài làm cho những cái lắt nhắt trở thành mênh mang:
    Sáng nay bao tử mơ mòng
    Cà phê bên nọ, cháo lòng bên kia

    (Sáng nay)
    Tất cả những chi tiết ấy đều tầm thường đến độ nhảm nhí. Ði vào thơ Bùi Giáng, tự dưng chúng lại có một âm vang gì rất lạ, rất xa, tưởng như không còn là chuyện " cà phê" hay " cháo lòng" nữa.
    Một nỗi phân vân giữa cuộc đời, chẳng hạn. Một niềm xót xa trong cảnh khốn cùng, chẳng hạn. Bùi Giáng còn có tài làm cho những cái linh thiêng trở thành bình thường. Những Thượng Ðế, Phật, Thánh Hiền...đi vào thơ ông, mất một chút hào quang, song bù lại, dường như đẹp hơn. Bùi Giáng làm cho cái đáng kính biến thành cái đáng yêu. Hình tượng ni cô trong thơ ông là một ví dụ. Bùi Giáng cũng lại có tài làm cho cái thô và tục trở thành những cái thơ mộng, xôn xao. Cuối cùng, thứ tư, tôi tạm gọi là sự xóa nhòa giữa cái lý và cái phi lý; ít có ai để ý trong thơ Bùi Giáng có đặc điểm nầy: ông rất thích dùng những từ có tính chất lý luận như " mặc dù" , " càng...càng" , " vẫn là" , " và" , " vì" . " rằng" , " bởi chưng" , " chỉn e" , " té ra" , và đặc biệt, nhiều nhất là từ " tuy nhiên" ... Chắc chắn là không có nhà thơ nào dùng các từ nầy nhiều bằng ông. Thế nhưng, cách Bùi Giáng sử dụng các liên từ nầy rất lạ lùng, không giống bất cứ người nào trước ông hoặc sau ông. Xin hãy đọc lại bài Tặng quán phở Huyền Trân dẫn ở trên, và hãy chú ý đến ba câu cuối cùng: chữ " vì" và chữ " là" đứng hết sức lửng lơ. Chúng không nối kết cái gì cả. Chúng cũng không giải thích cái gì cả. Chúng hoàn toàn trái ngược mọi luật lệ ngữ pháp. Chúng thường xuất hiện ở những vị trí thật bất ngờ: ở cuối câu, thường là câu cuối bài:
    -Em về - nhà cửa nhỏ nhoi
    Buồn rầu khôn xiết em soi gương và...

    (Em đi)
    -Nối đuôi khởi sự từ đầu
    Ví dù kết thúc trước sau vẫn là...

    (Vẫn là là)
    -Bá phương phảng phất rồi xa
    Mùi hương xa vắng càng xa xôi càng...

    (Băng tâm)
    -Mai sau dù có đi về
    Xin nhìn gió rụng ngành tre thưa rằng...

    (Em về)
    Một điều vừa thú vị vừa khó hiểu là: người đọc thơ Bùi Giáng lại ít chú ý, không bị giật mình vì những cách dùng từ, đặt câu ngược ngạo như vậy. Mà, ở những trường hợp nầy, Bùi Giáng đều cố tình cả. Một mặt, tần số xuất hiện của những kiểu câu như thế ê hề; mặt khác, nhiều lúc Bùi Giáng đem những liên từ lý luận ra đùa nghịch:
    -Nếu và nhưng vẫn ắt rằng
    Tuy nhiên thế nọ thường hằng thế kia
    Và nhưng tuy dẫu là chia
    Lìa cha biệt mẹ bốc tia sinh tồn

    (Tuy nhiên)
    -Tuy nhiên đất quạnh sơn hà
    Còn tuy nhiên mãi họa là nhiên tuy

    (Ich dụng hung sự)
    -Mần răng ra rứa ví dù
    Mần ri thế nọ tịt mù thế kia

    (Mỗi ngày)
  9. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Gắn liền với sự hoài nghi ngôn ngữ là sự hoài nghi lý trí. Trong lúc hầu hết các nhà thơ khác, mặc dầu hoài nghi lý trí, luôn luôn khắc khoải tìm kiếm sự thật, với niềm tin dù mơ hồ và mong manh, là sự thật ấy có đâu đó, sẽ gặp được một ngày. Bùi Giáng, ngược lại, tuy dịch và viết khá nhiều tác phẩm về triết học hiện đại Tây phương, lại hoàn toàn phủ nhận đầu óc duy lý của Tây phương, hoàn toàn mất niềm tin với mọi cái gọi là chân lý. Cuộc đời, với Bùi Giáng, là chuổi dài những nghi vấn và phẩn nộ:
    Ði vào giữa cuộc thị phi
    Nửa tam bành tới nửa nghi vấn về

    (Y ư mộng, du ư mê)
    Làm thơ, với Bùi Giáng, là một hành động phản kháng, phản loạn. Như Từ Hải trong truyện Kiều của Nguyễn Du: Sao bằng riêng một biên thùy
    Cõi điên vũ trụ tùy nghi tung hoành
    Xiết bao vô ngại ngọn ngành
    Chọc trời khuấy nước tan tành thịt xương
    Ấy như thể, ấy như dường
    Ði vô tận ý đi đường chơn không
    Ði mây gió đi phiêu bồng
    Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng ra đi
    Ði về thể lệ lâm ly
    Ði đi suốt cõi lời nghi vấn lời.

    (Sao bằng)
    Nghi vấn. Lúc nào cũng nghi vấn. Nghi vấn cả lời nói của mình. Bài thơ Tặng Mã Giám Sinh là một bài thơ hay:
    Hỏi tên? Rằng biển dâu xanh
    Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
    Gọi tên? rằng một hai ba
    Ðếm là diệu tưởng đo là nghi tâm.

    Tôi đoán là Bùi Giáng rất tâm đắc bài thơ nầy. Nó được in lần đầu trong " Mùa thu trong thi ca" với tựa là " Mã Giám Sinh" , sau in lại trong " Thơ Bùi Gíáng" xuất bản tại Canada năm 1990 với sự thay đổi nhỏ: thêm chữ " tặng" ở tựa đề. Có hay không có chữ " tặng" , thật ra cũng chả có gì quan trọng. Cũng như mọi cái tựa trong thơ Bùi Giáng chả có gì là quan trọng. Lười, ông thường nhặt bất cứ từ hay nhóm từ nào trong bài dùng để làm nhan đề. Bài thơ trên được đặt tựa là Mã Giám Sinh hay Tặng Mã Giám Sinh có lẽ để ghi lại xuất xứ một nguồn cảm hứng: nó xuất phát từ mấy câu thơ trong Truyện Kiều có liên quan đến Mã Giám Sinh:
    Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
    Hỏi quê, rằng: huyện Lâm Thanh, cũng gần.

    Trong bài Chiều nguyên xuân in trong tập Mưa Nguồn, xuất bản từ năm 1963, Bùi Giáng đã bị ám ảnh bởi vấn đề quê hương:
    Hỏi rằng: người ở quê đâu
    Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà

    Từ " ở rất lâu quê nhà" đến " mộng ban đầu đã xa" , tư tưởng của Bùi Giáng đã vượt biên, lấn sang một tầm khác. Với một sức oằn khác. Dẫu sao, ở đây điều quan trọng nhất là câu cuối cùng: " đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm" . Mọi sự phân biệt đều bị xóa nhòa. Tôi cho đây là đặc điểm nổi bật nhất trong phong cách thơ Bùi Giáng: Thơ Bùi Giáng chính là sự xóa nhòa của mọi đường biên quen thuộc vốn được mọi người chấp nhận như là một quy ước, một luật lệ trong văn học từ xưa đến nay.
    Thứ nhất là xóa nhòa những đường biên về giọng điệu. Những ai từng viết lách ít nhiều cũng đều hiểu cái khó nhất đối với người cầm bút là pha trộn giọng điệu, nghĩa là, chẳng hạn, vừa nghiêm túc lại vừa cười cợt, vừa uyên bác lại vừa bình dân, vừa suy tư lại vừa thích thảng. Bùi Giáng vượt qua tất cả những khó khăn ấy một cách nhẹ nhàng. Ví dụ dưới đây, tôi chọn một cách tình cờ:
    Hai cô bán phở dịu dàng
    Ðừng nên nói bậy hai nàng buồn ta"
    -Trẫm từ lịch kiếp phôi pha
    Tái sinh bất chợt mà ra phụ lòng
    Tình thương ẩn mặt từ trong
    Nội tâm vô tận mà long đong vì
    Phong tao phấn đại tương nghi
    Tùy thời thể dựng mà tuy nhiên là.

    (Tặng quán phở Huyền Trân)
    Ai cũng thấy rõ hai câu đầu và sáu câu sau có giọng điệu khác hẳn nhau. Vậy mà, riêng tôi, thú thật, tôi không hiểu tại sao Bùi Giáng có thể chuyển từ hai câu đầu xuống sáu câu dưới một cách dễ dàng tự nhiên như vậy. Mà đây cũng lại là một đặc điểm rất phổ biến trong thơ Bùi Giáng. Nói một cách tóm tắt, thơ ông có hai loại từ vựng: một loại tạm gọi là bác học và một loại tạm gọi là bình dân. Bác học thì như thục nữ, thuyền quyên, cảo thơm, thượng thừa, miên trường, đoạn trường, băng tuyết, thập thành v.v...nghĩa là những từ Hán Việt lâu lắm không còn được sử dụng nữa. Còn bình dân thì như đại ca, Huê ky., Liên Xồn, lai rai, nhậu nhẹt, máu me, số dzách, dấn bước, dấn liều v..v...nghĩa là những khẩu ngữ còn lấm lem bụi bặm ngoài đường ngoài phố. Cả hai loại đều dễ khiến giới làm thơ chùn tay. Dùng loại trên thì dễ có nguy cơ trở thành sáo, cổ. Dùng loại dưới thì dễ có nguy cơ trở thành nhả nhớt, rẻ tiền. Bùi Giáng hoàn toàn thoát khỏi hai nguy cơ ấy. Hơn nữa, ông còn hòa trộn cả hai loại ngôn ngữ ấy lại với nhau một cách tài tình. Ðọc, người ta không hề có chút cảm giác lấn cấn nào. Như một phép mầu.
    Gắn liền với sự xóa nhòa trên là một sự xóa nhòa khác: xóa nhòa ranh giới giữa truyền thống và hiện đại. Không phải Bùi Giáng kết hợp truyền thống và hiện đại, như cái điều chúng ta có thể nói về một số nhà thơ khác. Nói đến sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại tức là thừa nhận chúng ta có thể ít nhiều khu biệt đâu là truyền thống và đâu là hiện đại. Ở Bùi Giáng, mọi nỗ lực khu biệt ấy đều trở thành vô vọng. Ở Bùi Giáng, tính chất truyền thống và tính chất hiện đại tan hòa vào với nhau. Là một. Thể thơ ông dùng: cũ; hình tượng ông dựng: cũ; ngôn ngữ ông viết: cũ, thế nhưng, rất lạ, toàn bộ bài thơ của ông thì lại mới, mới như chưa từng có ai viết được như thế. Mới đến độ tôi có cảm tưởng phần lớn những từ, những chữ nào đã được Bùi Giáng sử dụng một lần đều trở thành của riêng của Bùi Giáng, một thứ tài sản của Bùi Giáng, trên đó có dấu ấn của Bùi Giáng; sau đó, ai dùng lại những từ ấy, chúng ta cứ ngờ ngợ như họ ăn cắp của Bùi Giáng. Ðọc thơ của bất cứ người nào, hễ gặp chữ " giũ áo" , " rớt hột" , " đười ươi" , " chuồn chuồn" ," châu chấu" ...chúng ta hay tri hô lên: Bùi Giáng! Ngay cả một số từ quen thuộc hơn, như " thập thành" , " máu me" , " lai rai" ...chúng ta cũng lại tri hô lên: Bùi Giáng! Trong lịch sử thi ca Việt Nam hiếm có trường hợp nào lạ lùng đến như vậy. Phần lớn, tính chất độc đáo chỉ ở cấp độ bài hoặc cấp độ câu. Ở Bùi Giáng, tính chất độc đáo thể hiện ngay ở đơn vị từ. Với sự xuất hiện của Bùi Giáng, số phận các nhà thơ đâm ra lao đao hẳn. Khi chọn chữ không khỏi có cảm giác e dè vì sợ dẫm vào dấu chân của Bùi Giáng.
    Thứ ba, là sự xóa nhòa ranh giới giữa cái gọi là thơ và cái gọi là phi thơ. Ngổn ngang trong thơ Bùi Giáng những chi tiết ngỡ như không bao giờ thành thơ được, ngỡ như mãi mãi thuộc thế giới của văn xuôi, của tiểu thuyết, của đời thường. Nhớ người yêu, có lẽ ai cũng nhớ như Bùi Giáng nhưng không có ai viết được như Bùi Giáng:
    Bây giờ em đứng nơi đâu
    Cỏ trong mình mẩy em sầu ra sao

    (Gửi thôn nữ Vĩnh Trinh)
    Bùi Giáng có tài hóa giải những tình thế oái oăm: cái đáng lẽ sàm sỡ, dưới ngòi bút ông, tự nhiên thành thơ mộng, thiết tha, tội nghiệp. Bùi Giáng cũng có tài làm cho những cái lắt nhắt trở thành mênh mang:
    Sáng nay bao tử mơ mòng
    Cà phê bên nọ, cháo lòng bên kia

    (Sáng nay)
    Tất cả những chi tiết ấy đều tầm thường đến độ nhảm nhí. Ði vào thơ Bùi Giáng, tự dưng chúng lại có một âm vang gì rất lạ, rất xa, tưởng như không còn là chuyện " cà phê" hay " cháo lòng" nữa.
    Một nỗi phân vân giữa cuộc đời, chẳng hạn. Một niềm xót xa trong cảnh khốn cùng, chẳng hạn. Bùi Giáng còn có tài làm cho những cái linh thiêng trở thành bình thường. Những Thượng Ðế, Phật, Thánh Hiền...đi vào thơ ông, mất một chút hào quang, song bù lại, dường như đẹp hơn. Bùi Giáng làm cho cái đáng kính biến thành cái đáng yêu. Hình tượng ni cô trong thơ ông là một ví dụ. Bùi Giáng cũng lại có tài làm cho cái thô và tục trở thành những cái thơ mộng, xôn xao. Cuối cùng, thứ tư, tôi tạm gọi là sự xóa nhòa giữa cái lý và cái phi lý; ít có ai để ý trong thơ Bùi Giáng có đặc điểm nầy: ông rất thích dùng những từ có tính chất lý luận như " mặc dù" , " càng...càng" , " vẫn là" , " và" , " vì" . " rằng" , " bởi chưng" , " chỉn e" , " té ra" , và đặc biệt, nhiều nhất là từ " tuy nhiên" ... Chắc chắn là không có nhà thơ nào dùng các từ nầy nhiều bằng ông. Thế nhưng, cách Bùi Giáng sử dụng các liên từ nầy rất lạ lùng, không giống bất cứ người nào trước ông hoặc sau ông. Xin hãy đọc lại bài Tặng quán phở Huyền Trân dẫn ở trên, và hãy chú ý đến ba câu cuối cùng: chữ " vì" và chữ " là" đứng hết sức lửng lơ. Chúng không nối kết cái gì cả. Chúng cũng không giải thích cái gì cả. Chúng hoàn toàn trái ngược mọi luật lệ ngữ pháp. Chúng thường xuất hiện ở những vị trí thật bất ngờ: ở cuối câu, thường là câu cuối bài:
    -Em về - nhà cửa nhỏ nhoi
    Buồn rầu khôn xiết em soi gương và...

    (Em đi)
    -Nối đuôi khởi sự từ đầu
    Ví dù kết thúc trước sau vẫn là...

    (Vẫn là là)
    -Bá phương phảng phất rồi xa
    Mùi hương xa vắng càng xa xôi càng...

    (Băng tâm)
    -Mai sau dù có đi về
    Xin nhìn gió rụng ngành tre thưa rằng...

    (Em về)
    Một điều vừa thú vị vừa khó hiểu là: người đọc thơ Bùi Giáng lại ít chú ý, không bị giật mình vì những cách dùng từ, đặt câu ngược ngạo như vậy. Mà, ở những trường hợp nầy, Bùi Giáng đều cố tình cả. Một mặt, tần số xuất hiện của những kiểu câu như thế ê hề; mặt khác, nhiều lúc Bùi Giáng đem những liên từ lý luận ra đùa nghịch:
    -Nếu và nhưng vẫn ắt rằng
    Tuy nhiên thế nọ thường hằng thế kia
    Và nhưng tuy dẫu là chia
    Lìa cha biệt mẹ bốc tia sinh tồn

    (Tuy nhiên)
    -Tuy nhiên đất quạnh sơn hà
    Còn tuy nhiên mãi họa là nhiên tuy

    (Ich dụng hung sự)
    -Mần răng ra rứa ví dù
    Mần ri thế nọ tịt mù thế kia

    (Mỗi ngày)
  10. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Một lần, Bùi Giáng giải thích: " Dù sao, tôi nói dù sao, bởi vì thiên hạ vốn ưa thích dù sao. Cho có mạch lạc. Chứ thật tình tôi chẳng rõ sao gọi là mạch lạc liên tục ngụ trong tính tình của ngôn ngữ dù sao dao sù" (9)
    Cách phân tích như trên khá nguy hiểm: nó dễ làm cho người ta có cảm tưởng thơ Bùi Giáng là một cái gì tĩnh tại và cố định. Thật ra, không phải. Theo dõi thơ Bùi Giáng chúng ta sẽ nhận ra ông thay đổi không ít. Tập Mưa Nguồn xuất bản năm 1962 rất trong sáng; từ tập Ngàn thu rớt hột (1963) về sau, thơ ông tối tăm hẳn; sau năm 1975, ở hai tập thơ xuất bản tại hải ngoại, thơ ông trong sáng trở lại, nhưng so với Mưa Nguồn, đằm hơn, lắng hơn và chín hơn. Mưa Nguồn là niềm nhớ thương đồng ruộng không nguôi:
    -Viết thơ lạc dấu sai dòng
    Viết trong tức tưởi sợ đồng lúa mong
    -Viết thơ là trở lại bên
    Con người thôn nữ răng đen hai hàng

    (Ca dao)
    Sau này, ông vẫn bâng khuâng nhớ đồng quê. Chỉ bâng khuâng thôi. Nghĩa là rất man mác. Có một câu thơ có lẽ ông thích, cứ lặp đi lặp lại rải rác ở nhiều bài thơ khác nhau:
    Trông về đồng ruộng đôi khi
    Thị thành tâm sự hoài nghi trăng tà

    (Gấu buồn)
    Nhưng tâm sự chính của ông là nỗi tuyệt vọng về khả năng giao cảm giữa người và người, niềm cay đắng trước một xã hội ngày một đảo điên. Ông hoàn toàn cô độc:
    quay về một cõi riêng thôi
    liệu trong tấc cỏ kiếm trời ba xuân

    (Ðời rộng đương chìm)
    Ông làm thơ cho hư không:
    Bây giờ xin ngó cụm cây
    Chắp hàng viết nốt áng mây về trời

    (Bây giờ)
    Ông độc thoại:
    Ngàn năm độc đối riêng hàng
    Tờ xanh ứa lệ đẫm trang xuân đầu

    (Khởi từ)
    Có khi ông im lặng:
    Từ đây đổi vịt thay gà
    Chán chường đến thế là ta ngậm lời

    (Nhà ma đi đời)
    Sau 1975, cảm giác cay đắng và tuyệt vọng ấy, không hiểu tại sao dường như nhẹ nhàng đi nhiều. Ðời sống ông cơ cực hơn, những cơn điên đến với ông thường xuyên hơn (10), song thơ của ông lại có vẻ thanh thản hơn. Ông bớt những thắc mắc siêu hình để quan tâm hơn đến khía cạnh cảm xúc, từ đó, nhấn mạnh đến yếu tố tâm hồn, coi đó là nguồn gốc của thơ:
    Chợt mùa thơ vội đổi giòng
    Cỗi nguồn cũng bởi tự lòng mà ra

    (Từ bấy tới nay)
    Với quan niệm như vậy, thơ không còn là trò đùa nghịch chữ nghĩa nữa mà là một sự bộc bạch tâm sự:
    Lời tỉnh táo, lời mê man
    Ðiệu thê thiết rống điệu bàng hoàng ca

    (Y ư mộng du ư mê)
    Do đó, ông khao khát được thông cảm:
    Xổ bầu tâm sự điêu linh
    Ai người chia xẻ với mình với ta

    (Một giờ)
    Bài Bao giờ in trong tập Thơ Bùi Giáng do Thế Kỷ 21 xuất bản là một bài thơ hay:
    Bằng bút chì đen
    Tôi chép bài thơ
    Trên tường vôi trắng
    Bằng bút chì trắng
    Tôi chép bài thơ
    Trên lá lục hồng
    Bằng cục than hồng
    Tôi đốt bài thơ
    Từng phút từng giờ
    Tôi cười tôi khóc bâng quơ
    Người nghe cười khóc có ngờ chi không

    Thơ, với Bùi Giáng, trước hết là một sự hiện hữu cụ thể với những màu sắc cụ thể nhất định: đó là một văn bản với những từ, ngữ, giấy, mực cụ thể. Văn bản ấy có đời sống riêng của nó: có sinh có tử. Nhưng đằng sau, ẩn náu phía trong cái hình thức cụ thể ấy lại là một tâm tình, là tiếng cười, là tiếng khóc. Tâm tình của người làm thơ òa vỡ bất chấp những giới hạn tự thân của ngôn ngữ:
    Ngữ ngôn khép kín mặc dầu
    Hùng tâm tim máu óc đầu mở ra

    (Bé con ơi)
    Bùi Giáng băn khoăn:
    Tôi cười tôi khóc bâng quơ
    Người nghe cười khóc có ngờ chi không ?

    Bùi Giáng lại năn nỉ:
    Tặng nhau từ ngữ lạc lầm
    Cũng xin hồng lệ hãy đầm đìa tuôn

    (Y ư mộng du ư mê)

Chia sẻ trang này