1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Điển hay, tích lạ!(mục lục Điển tích- Trang 1)

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi yahaha22, 04/11/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7


    GIÁ ÁO TÚI CƠM
    Thời Ngũ Đại, có một người tên là Mã Ân, tiếm ngôi vuạ Mã Ân nguyên trước chỉ là một vị quan võ nhỏ, bộ hạ của quan Vũ An Tiết Độ Sứ đời Đường là Lưu Kiến Phong. Rồi sau, Lưu Kiến Phong bị bộ hạ giết, Mã Ân
    được tôn lên làm Thống soáị
    Rồi đến khi Chu Ôn soán được thiên hạ của nhà Đường, đổi quốc hiệu là Lương (sử gọi là nhà Hậu Lương), thì Mã Ân được phong làm Sở Vương, làm chủ cả một giải đất Đông Bắc tỉnh Hồ Nam và Quảng Tây, quyền uy lừng lẫy một thờị
    Nhưng Mã Ân thật sự lại chỉ là một kẻ tầm thường, bất tài, chuyên lo hưởng thụ, người đương thời rất khinh thường Mã Ân, và gọi Mã Ân là "Tửu nang phạn đại", ý nói rằng Mã Ân chỉ là cái túi để chứa rượu, đựng cơm mà thôị
    Về sau, người đời biến "Tửu nang phạn đại" thành thành ngữ để chỉ hạng người bất tài vô đức, không giúp gì được cho quốc gia xã hội, trái lại chỉ chạy theo lợi danh, mưu cầu cơm áo cho mình mà thôị

    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  2. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    VẮNG NHƯ CHÙA BÀ ÐANH
    Chùa Bà Đanh là tên gọi Nôm của chùa Châu Lâm. Chùa này được cất lên cùng với viện Châu Lâm vào thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) ở làng Thụy Chương, Hà Nộị Vì để tránh húy miếu vua Thiệu Trị nên sau này Thụy Chương phải đổi thành Thụy Khuệ Vào thời đó, viện Châu Lâm được dùng làm chỗ ở cho những người Chiêm Thành được đưa về sau các cuộc chiến tranh, còn chùa Châu Lâm là nơi dành cho họ cúng lễ (vì hầu hết những người này đều theo đạo Phật).
    Sau khi người Pháp chiếm đóng Hà Nội, họ đã chiếm khu vực đất này để lập trường Trung học bảo hộ (1907) - nay là trụ sở của trường trung học Chu Văn An, vì thế chùa Châu Lâm phải dời về phía Tây Nam, ở cuối làng và đổi sang tên mới là chùa Phúc Lâm.
    Dấu tích của chùa Phúc Lâm hiện vẫn còn giữ lại được tấm bia ghi rõ: Bà Đanh tự (chùa Bà Đanh). Theo tục truyền, Bà Đanh là một người đàn bà đã có công dựng lên chùa này, vì thế mà ngôi chùa mang tên bà. Từ khi viện Châu Lâm bị bãi bỏ, số người đến lễ bái chùa này ngày một ít đị Chính vì thế mà không khí ngôi chùa này ngày càng trở nên vắng vẻ. Trong bài "Tụng Tây Hồ phú" của Nguyễn Huy Lượng có ghi lại cảnh vắng của chùa này:
    Dấu bố cái rêu in nền phủ
    Cảnh Bà Đanh hóa khép cửa chùạ
    Cảnh vắng vẻ, thiếu người đến lễ bái của chùa Bà Đanh dần dần đã trở thành một hình ảnh để so sánh với bất cứ một cảnh vắng vẻ nàọ "Vắng như chùa Bà Đanh" là một sự vắng vẻ yên tĩnh gợi nên vẻ lạnh lẽo, cô quạnh, thiếu hơi ấm của con ngườị Ca dao Hà Nội có câu:
    Còn duyên kẻ đón người đưa
    Hết duyên vắng ngắt như chùa Bà Đanh.
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  3. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7

    TỨ ÐẠI MỸ NHÂN
    Người Trung Hoa ngày xưa chọn bốn người con gái có sắc đẹp tuyệt nhất trong lịch sử, gọi là "Tứ Đại Mỹ Nhân", đó là Tây Thi, Chiêu Quân, Điêu Thuyền, và Dương Quý Phị Cho nên trong nhân gian còn truyền tụng:
    "Tây Thi nhạn lạc,
    Chiêu Quân trầm ngư,
    Điêu Thuyền Bế Nguyệt,
    Dương Ngọc Hoàn tu hoa"
    (dịch là chim nhạn thấy Tây Thi đẹp phải rớt xuống. Con cá đang bơi thấy Chiêu Quân phải lặn ngaỵ Mặt trăng đang sáng thấy Điêu Thuyền phải hổ thẹn che mặt lạị Hoa đang nở thấy Dương Ngọc Hoàn (Dương Quý Phi) phải cúi đầu)
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  4. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Giấc Mộng Nam Kha
    Thuần Vu Phần ngày xưa rất nghèo, nằm ngủ bên gốc cây hòe, chiêm bao thấy hai sứ giả mời ông làm Phò mã, rồi được vua phong làm Thái thú ở đất Nam Kha rất vinh hiển. Khi tỉnh giấc chỉ thấy một đàn kiến bên mình.
    "Giấc mộng Nam Kha", ý nói giấc mộng đẹp đẽ và ngắn ngủi (tương tự như "Giấc mộng hoàn lương")
    Giấc Mộng Hoàng Lương
    "Hoàng lương" có nghĩa là kê vàng.
    Ngày xưa có Lư Sinh đi thi không đỗ, vào hàng cơm nghỉ chân. Có một lão già cho mượn một cái gối nằm. Lư Sinh ngủ và chiêm bao thấy đỗ tiến sĩ, làm quan to, vinh hiển hơn 20 năm, gia đình hưng vượng, con cháu đầy đàn. Tỉnh ra mới biết ấy chỉ là một giấc mộng. Nồi kê nhà hàng còn chưa chín. Ý nói giấc mộng đẹp và ngắn ngủị
    Kết Cỏ Ngậm Vành
    Ngụy Thù, người nước Tấn, có người vợ lẻ trẻ đẹp. Lúc Ngụy Thù gần chết, không muốn cho người vợ thuộc về người khác, bèn dặn con là Ngụy Khỏa phải chôn sống nàng chung trong áo quan của mình. Ngụy Thù chết, Ngụy Khỏa động lòng trắc ẩn nên tha cho người vợ trẻ. Về sau, Ngụy Khỏa đi đánh tướng nhà Tần là Đỗ Hồi trên đồng cỏ xanh. Tự nhiên Đỗ Hồi vướng chân vào cỏ và ngã xuống, bị Ngụy Khỏa đâm chết. Đêm hôm ấy Ngụy Khỏa nằm chiêm bao thấy cha của người vợ lẻ Ngụy Thù hiện đến và nói: "Tôi cám ơn ông đã không chôn sống con gái tôi, cho nên đã kết cỏ quấn quanh chân Đỗ Hồi cho nó ngả."
    Thời Đông Hán, có người tên Dương Bảo đi chơi, thấy một con chim sẻ bị chim cắt đánh rơi, bèn đem về săn sóc nuôi nấng, đến khi chim mạnh thì thả bay đị Về sau, bỗng có đứa trẻ mặc áo vàng, cầm bốn cái vành ngọc đến tạ ơn" "Tôi cám ơn ông đã cứu mạng tôị Tôi tặng ông bốn vành ngọc nàỵ Ai có được nó thì con cháu sẽ đời đời được giàu có vinh hiển."
    "Kết cỏ ngậm vành", ý nói lòng biết ơn sâu sắc người đã giúp đỡ mình.
    Lo Bò Trắng Răng
    Người VN ta thường nghe thành ngữ "Lo bò trắng răng"; nó mang ý nghĩa hoàn toàn tương đồng với thành ngữ của Tàu "Kỷ nhân ưu thiên" (Người nước Kỷ lo trời sụp). Thời Xuân Thu, một học giả tên là Liệt Ngư Khấu có trước tác một bộ sách nhan đề là Liệt tử, trong đó kể một sự tích như sau :
    Xưa ở nước Kỷ có một người không lo gì ngoài việc lo một ngày nào đó bầu trời sẽ sụp đổ, và lúc đó anh ta sẽ không có chỗ nương thân.
    Anh ta suy nghĩ mãi mà không giải quyết được vấn đề này, do đó cứ lo lắng quên ăn quên ngủ. Sau dó, có người bảo cho anh ta biết là trời chỉ là bầu không khí thật lớn mà thôi, làm sao sụp đổ được mà lọ Người
    nước Kỷ này hỏi lại rằng :
    - Nếu bảo bầu trời không sụp đổ được, nhưng mặt trời mặt trăng và các tinh tú lại không sụp đổ được sao ?
    Người kia giải thích rằng :
    - Mặt trời, mặt trăng và tinh tú cũng là do thể khí tích tụ lại mà thành những vật thể phát ra ánh sáng, dẫu cho mặt trời mặt trăng và các tinh tú có sụp xuống đất, cũngkhông gây hại gì cả cho loài ngườị
    Người nước Kỷ nghe giải thích như vậy, từ đó mới hết lo trời sụp.
    Thời Xuân Thu cách chúng ta hơn 2200 năm rồi, thời đó loài người chưa có kiến thức về khoa học, do đó sự hiểu biết về vũ trụ vạn vật rất mù mờ. Dĩ nhiên lời giải thích trên không có căn cứ khoa học.
    Tuy nhiên, câu chuyện ngụ ngôn trên muốn nói là không nên lo lắng về những thứ không thiết thực, không đáng lọ Cho nên, dù kiến thức khoa học của người xưa có sai lầm thiếu sót, thì ý nghĩa câu chuyện ngụ ngôn vẫn không bị ảnh hưởng.
    Từ câu chuyện ngụ ngôn trên, chép trong sách Liệt tử, người đời sau rút ra thành ngữ "Kỷ nhân ưu thiên" để nói về người có tật lo lắng không đâu, lo cái không đáng lo, để tự chuốc lấy phiền muộ n cho mình.
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  5. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Mất Nước Đau Lòng Con Quốc Quốc
    Tiếng kêu con chim Quốc não nùng ai oán.
    Tục truyền rằng ngày xưa vua Thục Đế (An Dương Vương) bị con gái là Mỵ Châu nhẹ dạ trao nỏ thần cho Trọng Thủy, con trai Triệu Đà, cho nên bị mất nước. Oan ức quá, Thục Đế nhảy xuống sông tự tử mà chết, hóa thành chim Quốc, ngày đêm sầu oán kêu mãi không thôị
    Mài Dao Dạy Vợ
    Ngày xưa có một người nhà quê lấy phải vợ độc ác. Người vợ này đối xử với mẹ chồng rất là hỗn láo vô lễ. Người chồng khuyên hoài không được, bèn nghĩ ra một kế.
    Anh ta sắm một con dao bầu thật sắt. Mỗi ngày lấy ra màị Người vợ lấy làm lạ hỏi, nhưng anh ta không đáp. Người vợ tò mò hỏi hoài, cuối cùng anh ta trả lời: "Tôi mài dao để có dịp giết mẹ đi thôị Mẹ đã già, sống mà ngày nào cũng cãi cọ với mình vậy thì thà chết đi cho rồị".
    Người vợ thấy thế hoảng hốt, rồi ăn năn: "Xin mình đừng giết mẹ, từ nay tôi hứa sẽ không có điều chi to tiếng trong nhà nữa".
    Từ đó trong nhà thuận hòa vui vẻ.
    "Mài dao dạy vợ" ý nói sự khôn ngoan của người chồng để khuyên bảo vợ mình làm điều phải lẽ.
    Nằm Giá, Khóc Măng
    Vương Tường, đời Tần, mồ côi mẹ, phải sống với dì ghẻ. Bà dì ghẻ rất độc ác, tuy vậy, Vương Tường vẫn một lòng hiếu thảọ Có một mùa Đông tuyết giá, bà dì ghẻ thèm ăn cá tươi, Vương Tường bèn cởi trần nằm trên băng tuyết để chờ bắt cá. Bỗng nhiên tảng băng bị nức làm đôi, có hai con cá chép nhảy lên. Vương Tường bắt hai con cá về cho dì ghẻ ăn, nhờ vậy mà cảm hóa được lòng bà dì ghẻ.
    Mạnh Tông, đời Tam Quốc, mồ côi cha, sống chí hiếu với mẹ. Đang mùa măng khan hiếm mà mẹ bị bịnh, thèm ăn măng. Không biết làm sao, Mạnh Tông ra bụi tre sau vườn ngồi khóc. Bỗng chốc có mụt măng dưới đất mọc lên, Mạnh Tông bèn hái về nấu cháo cho mẹ ăn, nhờ đó mà mẹ khỏi bệnh.
    "Nằm Giá, Khóc Măng" là thuật ngữ ý chỉ tấm lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ
    Ngậm Ngải Tìm Trầm
    Trầm là một loại cây có mùi hương, nên còn được gọi là Trầm Hương, trị được nhiều chứng bệnh, rất quí và hiếm.
    Những người đi tìm Trầm thường được gọi là "đi điệu".
    Người "đi điệu" phải là đàn ông, vì người ta tin rằng Trầm kỵ âm khí (đàn bà). Ngày ra đi cũng phải coi kỹ là ngày tốt, hạp tuổị Họ cúng vái cẩn thận với Thiên Y Thánh Mẫu (hiện thân của Trầm và Kỳ Nam). Rồi họ đi theo từng nhóm, mỗi nhóm có mật hiệu để khỏi bị lạc.
    Vì Trầm Hương thường ở sâu trong rừng, rất khó tìm, lắm khi tìm được rồi, người ta lạc luôn trong rừng, không tìm thấy đường về. Cho nên những người "đi điệu" phải ngậm một thứ ngải rừng để chống lại những bệnh hiểm nghèọ Ngải này không phải là một loại bùa yếm, mà là một loại thảo có lá dài như cỏ tranh, củ bằng lóng tay màu vàng. Theo các nhà nghiên cứu ngày nay, loại thảo dược này rất tốt để trị bịnh phong thấp, nóng lạnh, sốt rét...
    "Ngậm Ngải tìm Trầm" có ý nói là một công việc rất khó, bỏ nhiều thời gian và sức lực, nhưng kết quả thì ít có hy vọng.
    Ngưu Lang Chức Nữ (Mưa Ngâu)
    "Thương thay Chức Nữ Ngưu Lang,
    Trong đêm gặp gỡ mơ màng khóc nhaụ.."
    Ngưu Lang là một gã chăn trâu nghèo, gặp Chức Nữ, một nàng tiên. Hai người yêu nhau say đắm. Ngọc Hoàng Thượng Đế bèn cho hai người lấy nhaụ
    Tuy vậy, Ngưu Lang từ đó không chăm lo đàn trâụ Chức Nữ cũng lười nhác làm bổn phận mình là kéo tơ dệt vảị
    Ngọc Hoàng thấy thế bèn nổi giận làm cho chàng và nàng cách biệt nhau, lấy sông Ngân Hà chia đôi hai đàng. Ngọc Hoàng chỉ cho hai người gặp nhau một lần trong năm, đó là vào đêm Thất Tịch, mồng 7 tháng 7 Âm lịch.
    Thế gian đồn rằng trong đêm ngày 7 tháng 7, các con quạ đội đá bắt cầu Ô Thước qua sông Ngân Hà để cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhaụ Người ta còn nói vào dịp này, vì nàng Chức Nữ quá hồi hộp mừng rỡ được gặp người yêu cho nên làm cho chỉ tơ rơi đầy trời, ấy là mưa Ngâu (mưa tháng 6).
    Tam Tòng
    Ngày xưa, người Việt Nam trọng nam khinh nữ. Quan niệm bấy giờ cho rằng đàn bà có nghĩa phải có tam tòng (ba điều lệ thuộc) "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử." Có nghĩ là lúc bé thơ thì phải nghe theo cha, khi lấy chồng phải phụng sự chồng, khi chồng chết phải phụng sự cho con.
    Thần Tài
    Theo truyền thuyết, thần tài chính là Triệu Công Minh, người đời nhà Tần. Ông lánh đời đi tu tại núi Chung Nam. Về sau đắc đạo, ông được phong làm Chính Nhất Huyền Đàn Nguyên Soái, coi việc đuổi trừ ôn dịch, cứu bịnh trừ taị Hơn nữa, ai bị oan ức đến cầu cứu ông thì được giúp đỡ. Người buôn bán thì cúng cầu ông để được phát đạt may mắn.
    Người ta thường vẽ ông thành hình một người mặt đen, râu rậm, tay cầm coi, cưỡi cọp đen. Dân gian còn gọi ông là Tài Bạch Tinh Quân hay Triệu Công Nguyên Soá
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  6. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Tứ Đức
    Người xưa đánh giá đàn bà con gái phải có đủ "Tứ Đức" mới gọi là hiền. "Tứ Đức" ấy là "Công, Dung, Ngôn, Hạnh"
    + Công: Là nghề khéọ Đàn bà phải cần biết vá may nấu nướng. Ai giỏi nữa thì biết cầm kỳ thi họa
    + Dung: Là diện mạọ Đàn bà phải biết chải chuốt gọn gàng sạch sẽ, đi đứng phải khoan thaị
    + Ngôn: Là lời nóị Đàn bà ăn nói phải dịu dàng nhỏ nhẹ
    + Hạnh: Là tính hạnh. Đàn bà phải ăn ở nết na, kính trên nhường dưới, không hợm hĩnh cay nghiệt với aị
    Tứ Hỉ
    Tứ Hỉ phát xuất từ quan niệm của người Trung Hoa, cho rằng trong đời người, có 4 điều tốt lành mà ai cũng đáng vui mừng:
    Cữu hạn phùng cam vũ
    Tha hương ngộ cố tri
    Động phòng hoa chúc dạ
    Kim bảng quải danh thì.
    Có nghĩa là:
    Hạn hán lâu ngày nay có mưa
    Nơi xứ lạ quê người gặp được bạn cũ
    Đêm động phòng hoa chúc của vợ chồng mới cưới
    Lúc thi đỗ bảng vàng.
    Xướng Ca Vô Loài
    Người Việt Nam xưa chia tầng lớp xã hội ra làm 4: Công, Nông, Binh, Thương.
    Công là những người làm nghề công nhân nhà máy, chuyên về công nghiệp. Nông là những người sống băng nghề trồng trọt chăn nuôi, sản xuất nông nghiệp. Binh là những người trong quân đội, làm lính đánh trận. Thương là những người sống bằng nghề buôn bán.
    Trong 4 tầng lớp đó, nghề hát xướng không thuộc vào lĩnh vực nào cả nên được coi như là "vô loài", thường bị coi thường. Thậm chí, người xưa còn coi nghiệp hát xướng là đáng khinh rẻ chê cười nữạ
    Bạch Diện Thư Sinh
    Đời nhà Tống, ở vùng Vũ Khang thuộc Ngô Quận, có 1 người tên là Trầm Khánh Chi, từ nhỏ đã ôm chí lớn, lại có sức mạnh và giỏi về bài binh bố trận.
    Niên hiệu Nguyên gia thứ 27, Tống Văn đế muốn mở mang bờ cõi về phương Bắc, sai nhóm Vương Huyền Mô đem quân Bắc phạt. Trầm Khánh Chi hết lời can ngăn, lại đưa ra trường hợp của nhiều vị vua trước, đã nhiều lần Bắc phạt nhưng đều thất bạị Tống Văn đế liền cử 2 vị quan văn ra tranh luận với Trầm Khánh Chị Trầm Khánh Chi nói :
    - Giữ việc nước, cũng như lo việc nhà vậỵ Muốn bàn luận về việc cày ruộng thì phải bàn luận với 1 nông phu nhiều kinh nghiệm. Muốn bàn luận về việc canh cửi thì phải bàn luận với người đàn bà dệt vảị Nay Bệ hạ muốn mở chiến tranh với nước khác, mà lại để những người bạch diện thư sinh không 1 chút kinh nghiệm về quân sự đứng ra bàn luận, thì làm sao mà thành công được.
    Tống Văn đế không nghe lời Trầm Khánh Chi, cứ cho đem quân đánh phương Bắc, và quả nhiên bại trận nặng nề.
    Từ câu nói của Trầm Khánh Chi mà người đời sau rút ra thành ngữ "Bạch diện thư sinh" để chỉ người trẻ tuổi, chỉ có cái học sách vở, không có kinh nghiệm gì và không biết đối phó với thực tế ngoài đờị
    Bá Nha Tử Kỳ
    Bá Nha đời Xuân Thu là một người có tài đàn. Chung Tử Kỳ là người biết thưởng thức âm nhạc. Khi Bá Nha ngồi gảy đàn, bụng nghĩ đến núi, thì Chung Tử Kỳ khen: "Tiếng đàn chót vót như núi cao". Lúc Bá Nha đánh đàn, lòng nghĩ về sông nước, thì Chung Tử Kỳ nói: "Tiếng đàn cuồn cuộn như nước chảỵ"
    Sau khi Chung Tử Kỳ chết, Bá Nha đập vỡ đàn, bảo rằng: "Trong thiên hạ không ai còn được nghe tiếng đàn của ta nữa".
    Bá Nha Tử Kỳ, ý nói một tình bạn hữu thắm thiết.
    Châu Về Hợp Phố
    "Châu về Hợp (hiệp) Phố" ý nói trùng phùng gặp gỡ, đoàn tụ lạị
    Hợp Phố xưa thuộc tỉnh Giao Châu, nay là Quảng Đông. Vào thời Bắc thuộc, miền bể ấy có rất nhiều ngọc châu (ngọc trai). Các quan Tàu cứ bắt dân phải đi mò và nộp cống. Các ngọc châu vì vậy bỏ đi nơi khác.
    Về sau có một người tên là Mạnh Thường về làm quan. Mạnh Thường thanh liêm và thương dân nghèọ Những ngọc châu tự nhiên lại trở về Hợp Phố.
    Dây Tơ Hồng
    Điển tích Tơ Hồng do chuyện ngày xưa, bên Tàu có một người tên là Vi Cố, một bữa đi chơi trăng, bắt gặp một ông già đang ngồi xe các sợi dây đỏ. Hỏi ra thì ông ta nói ông là Nguyệt Lão, chuyên coi việc xe duyên vợ chồng nhân gian. Ông nói "ta buộc dây tơ này vào chân người nào thì dù thế nào cũng phải lấy nhau". Vi Cố bèn hỏi sau này ông sẽ lấy ai, Nguyệt lão nói Vi Cố sẽ lấy một cô gái hàng rau rách rưới bẩn thỉụ Vi Cố giận lắm toan giết cô gái, nhưng rồi cuối cùng hai người cũng lấy nhaụ
    Người Việt Nam tin tình duyên do tiền định trước, cho nên thành vợ thành chồng rồi thì phải tạ ơn ông Nguyệt Lão và cầu mong dây tơ hồng được cột chặt bền lâu


    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  7. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    NGỰA TÁI ÔNG
    Phúc - hoạ, may rủi là những điều khó đoán định, khó lường trước được. Chả thế mà người Việt Nam chúng ta hay nói tới ngựa Tái Ông với ý nghĩa như vây:
    "Kìa tụ tán chẳng qua là tiễn biệt
    Ngựa Tái Ông hoạ phước biết về đâu"
    (Thơ Huỳnh Thúc Kháng)
    Cách nói ngựa Tái Ông vốn được xuất phát từ dạng thức Hán Việt Tái Ông thất mã với một câu chuyện đầy kịch tính và hết sức thú vị kèm theo. Số là, Thượng Tái Ông có một con ngựa quý, tự nhiên biến mật Những người quen biết đến nhà hỏi thăm, ông nói với họ: "Biết đâu lại là phúc đó". Quả nhiên, ít hôm sau chẳng những ngựa quý trở về mà còn kéo thêm mấy con ngựa khác cùng về. Anh em láng giềng đến chia vui, ông lại nói: "Biết đâu lại là hoạ đó". Cầu được ước thấy ! Con trai ông vì thấy có nhiều ngựa mà mải mê leo trèo, phi ngựa suốt ngày để đến nỗi 1 hôm phải ngã ngựa gãy cả chân. Trước sự kiện này, mọi người cho là tai hoạ, nhưng Tái Ông vẫn ung dung nói: "Biết đâu lại là phúc đó". Mà cũng nghiệm vậy. Sau đó có giặc, trai trẻ phải ra trận, nhiều người chẳng bao giờ về nữa, riêng con trai ông vì tàn tật mà được ở lại và sống sót. Quả là phúc hoạ đó. Biết về đâu !
    Ngựa Tái Ông được dùng để nói tới cả phúc lẫn hoạ. Tuy nhiên, trên thực tế, khi nói tới ngựa Tái Ông là giả định có một tai hoạ đã xảy ra với 1 ai đó, và cách nói này trở thành lời động viên, au ủi người gặp nạn. Dĩ nhiên, cũng có trường hợp ngược lại, nhưng ít gặp hơn. Có lẽ trong ý thức của người việt Nam, trước tai hoạ của người khác, người ta thường dành những lời an ủi và phước lộc của kẻ khác, không ai nỡ lòng nghĩ tới tai hoạ và sự rủi ro cho họ.
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  8. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7

    Ăn Ốc, Nói Mò
    Mới nghe qua dường như có thể giải thích thành ngữ "ăn ốc nói mò" nhờ vào quan hệ nhân quả: "ăn ốc thì nói mò" hay "vì ăn ốc nên nói mò". Tương tự như khi hiểu các tổ hợp từ "ăn ốc lạnh bụng", "uống rượu nhức đầu", "hút thuốc khản giọng"... Song cái ý "nói mò" (tức nói đoán chừng, hú họa, không chắc trúng, vì không có đủ căn cứ để nói) của "ăn ốc nói mò" lại chẳng có mối liên hệ nào với việc ăn ốc cả. Nói cách khác, ở đây giữa "ăn ốc" và "nói mò" không có quan hệ nhân quả. Vậy thì, "ăn ốc" và "nói mò" kết hợp với nhau theo quan hệ gì ? Và thành ngữ "ăn ốc nói mò" đã xuất hiện như thế nào ?
    Có người cho "ăn ốc nói mò" có xuất xứ ở việc uống rượu ăn ốc ở các quán đầu làng. Rượu vào lời ra. Người quá chén thường nói năng lung tung, hết chuyện này sang chuyện khác, đúng, sai, hay, dở, tục, thanh, không để ý tới. Cách giải thích này xem ra có một ít lý lẽ, song chưa thể yên tâm được. "Nói mò" trong "ăn ốc nói mò" không phải nói lung tung, chuyện này sang chuyện nọ như người say rượu, mà là nói hú họa, đoán chừng về một điều cụ thể, vốn xác thực nhưng không biết hoặc chưa biết chắc chỗ đúng của điều cần nói là đâu.
    Cũng có người nghĩ tới quan hệ điều kiện - giả định giữa việc "ăn ốc" và việc "mò ốc" : "muốn ăn ốc phải mò ốc" để cắt nghĩa xuất xứ của "ăn ốc nói mò". Nhưng tại sao ý "muốn ăn ốc phải mò ốc" lại liên hội được với ý "nói mò, nói hú họa, nói không có chứng cớ" của "ăn ốc nói mò" đã nêu trên.
    Chúng ta thử tìm hiểu nguyên lai của thành ngữ này theo một hướng khác. Như đã biết, trong tiếng Việt có một từ "mò" là động từ (mò ốc, mò cua,...) và một từ "mò" là trạng từ (nói mò, đoán mò,...). "Mò" trong "ăn ốc nói mò" chính là từ "mò" trạng từ, chỉ cách thức hành động. Như vậy, giả định có quan hệ điều kiện giữa "ăn ốc" và "mò ốc" nêu trên là không có lý. Điều cần làm rõ ở đây là, vậy thì (nói) "mò" đã đi vào "ăn ốc nói mò" bằng con đường nào ?
    Trong lời ăn tiếng nói của dân gian, bên cạnh "ăn ốc nói mò" chúng ta còn gặp các cách nói "ăn măng nói mọc, ăn cò nói bay", "ăn măng nói mọc" dùng chỉ sự bịa đặt, dựng chuyện, vu khống; "ăn cò nói bay" nói về thói chối bay, chối phắt, coi như không có, không biết điều đó có xảy ra thật. Ở hai cách nói này, gánh nặng ý rơi vào các vế sau (nói mọc, nói bay), giống như cách nói "ăn ốc nói mò". Và, vế đầu (ăn măng, ăn cò) dường như chỉ giữ chức năng cấu tạo hình thái chứ không mang chức năng biểu ý. Đây là một loại cấu trúc độc đáo, rất hiếm thấy trong thành ngữ tiếng Việt. Có thể hình dung cơ chế tạo lập kiểu cấu trúc như sau:
    1. Có một từ A biểu thị một hiện thực, ví dụ "mọc" trong "ăn măng nói mọc" biểu thị tính hay vu khống, dựng chuyện ở một loại người nào đó.
    2. Do nhu cầu diễn đạt có tính hình ảnh, gây ấn tượng mạnh mẽ hơn, người ta đã tạo ra lối nói mới dựa trên khuôn mẫu của cách nói đã có trước trong ngôn ngữ. Cách nói mới này được xây dựng trên nguyên tắc:
    a) Tìm trong ngôn ngữ một từ B có quan hệ lôgich với A, sao cho được một quan niệm khi kết hợp với A (theo trật tự AB hay BA) hợp với logic nhận thức bản ngữ. Ví dụ: nếu A là "mọc" thì B phải là "măng" (hay "trăng", "răng",...), vì nói "măng mọc" (hay "trăng mọc", "răng mọc",...) đều có thể quan niệm được. Còn nếu A là "bay" thì B phải là "cò" (hay "chim", "cờ", "lá",...) vì nói "chim bay" ("cờ bay", "lá bay")... đều hợp logic.
    b) Tùy vào đặc tính phạm trù của điều được nói đến và của hiện thực do B biểu đạt, tìm một hình thức (từ hoặc tổ hợp từ) có khả năng tương kết với AB (BA) theo luật này hay khác (chẳng hạn, điều được nói tới trong "ăn măng nói mọc" (ăn ốc nói mò, ăn cò nói bay,...) có thể quy vào phạm trù ứng xử nói năng. Do đó, các từ được chọn làm các yếu tố cấu trúc có thể là "ăn nói", "lời lẽ", "nói năng",... Vì B là từ chỉ sự vật thuộc phạm trù cái ăn được, nên người nói đã chọn từ "ăn nói" trong số các từ trên tương kết với "măng mọc".
    Cuối cùng, dùng luật đối và điệp, vốn là biện pháp được dùng rất phổ biến trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt, với tư cách là chất gắn kết các yếu tố A, B để tạo thành khuôn mới.
    Cụ thể "ăn măng nói mọc" được phân tích ra như sau: "ăn nói" tương kết với "măng mọc" nhờ luật đối và điệp tạo thành "ăn măng nói mọc" giống như dân gian đã dùng các từ "ong ****" và "lả lơi" để tạo ra thành ngữ "**** lả ong lơi" hoặc dùng các từ "đi về" và "mây gió" để tạo ra "đi mây về gió". "Ăn cò nói bay" và "ăn ốc nói mò" đều được tạo thành theo con đường nói trên.
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  9. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Đánh Trống Bỏ Dùi
    Thoạt nghe, tưởng chừng thành ngữ "đánh trống bỏ dùi" chẳng có vấn đề gì về mặt chữ nghĩa, vậy mà chính nó là một thành ngữ khá phức tạp, không đơn giản như nhiều người vẫn hiểu. Tất cả cũng tại một chữ "dùi" !
    Thông thường, nhiều người diễn giải rằng "đánh trống bỏ dùi" là dùng dùi để đánh trống và đánh xong thì đem vất dùi đi. Từ đó mà suy ra nghĩa của thành ngữ. Có người còn suy ra là người đánh trống, khi xong công việc thì chỉ mang trống về, chỉ giữ gìn lấy trống mà vất dùi lại, chẳng tiếc gì thứ "rẻ tiền" đó nữa.
    Trách ai tham trống bỏ dùi
    (Ca dao)
    Nhưng lại có một cách hiểu khác về chữ "dùi". "Dùi" là tên gọi những tiếng trống lẻ sau những hồi trống dài, liên tục. Như vậy, "dùi" còn mang ý nghĩa như "tiếng" do phép hoán dụ, dùng phương tiện hành động chỉ kết quả hành động. Trong thổ ngữ Nghệ Tỉnh, "dùi" và "tiếng" song song tồn tại bên nhau và có khả năng thay thế cho nhau: "ba hồi chín dùi = ba hồi chín tiếng". Đáng lưu ý là những "dùi" trống riêng lẻ này rất quan trọng vì chúng là tín hiệu góp phần phân biệt quy định các hiệu lệnh khác nhau của hồi trống "ba hồi chín dùi" có nội dung thông báo khác với hiệu lệnh "ba hồi ba dùi". Đánh trống mà bỏ (không đánh) những "dùi" lẻ này thì người nghe không thể biết đó là hiệu lệnh gì để đáp ứng yêu cầu kịp thời. Ấy vậy là làm việc không chu đáo và thiếu trách nhiệm.
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  10. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    CÓ CÔNG MÀI sắt có ngày nên kim

    Nhà Ðường ( Trung Quốc) sáng tạo một thời đại thơ ca muôn ngàn hương sắc. Lý Bạch là một trong những thiên tài lừnglẫy. Thơ ông bát ngát những ước mơ đẹp thấm thía tình yêu con người. Tương truyền, từ thuở nhỏ, Lý Bạch đã yêu say đắm thiên nhiên, ao hồ, sông núi . Chú bé thường mải mê đi tìm hoa cỏ đẹp, có khi quên cả buổi học, chú chán lớp học. Một hôm chú men theo dòng suối, đến chân núi. Một cụ già đang ngồi mải mê với một phiến đá và một mảnh sắt nhỏ. Chú đến gần xem và tò mò hỏi:" Bà ơi, Bà mài sắt làm gì thế?" Bà nhìn cậu bé đáng yêu đáp:" Bà mài sắt để làm kim khâu cháu ạ". Mắt bà sao phúc hậu thế, giọng bà sao hiền từ thế. Rồi bà bảo bé Lý Bạch ngồi xuống bên cạnh. Chú nhìn chăm chăm hai bàn tay gầyđưa đi đưa lại miếng sắt hàng trăm ngàn lần trên phiến đá mài; chú khẽ hỏi:" Miếng sắt to thế này mà làm được kim hả bà?" Bà bảo: " Mài mãi, sắt cũng mòn đi, bé lại và thành cái kim" Chú lại hỏi: " Thế bao giờ mới xong hả bà?" Bà lại đáp, giọng ôn tồn: " Bà cứ mài, mài mãi, hôm nay, ngày mai, một tháng, hai tháng, năm nay, sang năm, thế nào cũng xong." bà nói tiếp, dằn giọng hơn "phải xong". Chào bà cụ, chú bé đứng dậy ra về; suốt dọc đường , chú suy nghĩ về lời bà ; chú ghi nhớ:" Có công mài sắt có ngày nên kim", nhớ cái phút bà ngẩng nhìn chú với ánh mắt sáng và nói:" Thế nào cũng xong, phải xong", cái phút ấy làm bừng một ánh sáng trong lòng chú bé và, suốt đời, sẽ còn rung động trong trái tim Lý Bạch. Từ ngày đấy, chú bé ham mê đọc sách, ghi chép, đọc thật nhiều sách. Với tâm hồn dễ xúc động và kiến thức rộng bao la, Lý Bạch đã để lại cho đời sau những áng thơ tuyệt mỹ.
    Chúng ta thấy đấy,mảnh sắt mài mãi cũng thành kim. Kiên trì , nhẫn nại thì có thể làm được nhiều việc khó. Ðó là phẩm chất phải có của các nhà khoa học, các nghệ sĩ chân chính." Có công mài sắt có ngày nên kim" là điển tích lấy từ giai thoại văn học Trung quốc. Nó đồng nghĩa với thành ngữ Việt nam: " Kiến tha lâu cũng đầy tổ".

    ------------------------------------
    Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui

Chia sẻ trang này