1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Điển hay, tích lạ!(mục lục Điển tích- Trang 1)

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi yahaha22, 04/11/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Chitto

    Chitto Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    5.198
    Đã được thích:
    13
    Dạ, lần đầu tiên nghe đến tên con Quốc Quốc đấy ạ.
    Tra từ điển chắc chắn không có con chim này.
    Mà chỉ có con Cuốc (hoặc Cuốc Cuốc) mà thôi. Đồng âm nhưng khác nghĩa và viết cũng khác. Viết con Quốc Quốc thì - xin lỗi - vốn tiếng Việt hơi nghèo.
    Vì vậy Bà Huyện Thanh Quan mới viết :
    Mất nước đau lòng con cuốc cuốc
    Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
    Nhưng thế vẫn là chưa đúng. Chim da da (đa đa) đọc giống với gia gia (nhà), nên chính xác thì phải là
    Mất nước đau lòng con cuốc cuốc
    Thương nhà mỏi miệng cái da da
    Có điều "gia gia" đã đi vào sách giáo khoa rồi, chẳng thể nào sửa được nữa.
    Cũng lần đầu tiên tôi được nghe rằng An Dương Vương nhảy xuống Sông tự tử. Khổ thay cho biển Thiên Cầm....
    ----------
    Đọc những bài trên, có quá nhiều điều đáng nói, nhưng thời gian không cho phép, và chắc mọi người cũng chán.
    Chỉ xin nói rằng : Tiếng Việt - tiếng và nghĩa, Điển tích - mang tính tương đối chuẩn mực, thì không thể tuỳ tiện thêm thắt, uốn éo văn hoa, rườm rà câu chữ được.
    Nếu là "truyện" thì không sao, đã là "Điển" mà lại múa may thì thực là coi thường tiền nhân, hậu thế, và chính mình.
    --------------------------------------------------------------
    Sống trên đời sống cần có một tấm lòng
  2. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Lá gió, cành chim
    Kể quãng đời oan khổ của Thuý Kiều nơi lầu xanh của Tú Bà (Truyện Kiều), Nguyễn Du viết:
    "Dập dìu lá gió, cành chim
    Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh"

    "Lá gió, cành chim" có nghĩa là việc đón đưa khách làng chơi, như lá đưa những ngọn gió qua lại, như cành đón những con chim nam bắc đi về. Sự tích như sau:
    Ðời nhà Ðường (Trung quốc) ở Thành Ðô, tỉnh Tứ Xuyên, nhà nho Tiết Trịnh sinh một con gái đặt tên là Tiết Ðào. Cô bé đã xinh lại thông minh, khác hẳn các bạn trai, gái cùng lứa tuổi. Ðôi mắt cô bé đen lánh, sâu thẳm, miệng tươi hoa nở. Lúc thì cô vui tươi, hớn hở, nói cười hồn nhiên, lúc thì cô mơ mộng, như đãng trí. Cô học đâu nhớ đấy, lại hay hỏi thêm cha những điều cô nghĩ, nhiều khi rất bất ngờ. Lên sáu, cô bé đã làm thơ; thơ cô thường táo bạo, không theo khuôn sáo. Tiết Ðào lên tám; môt buổi trời thu trong sáng, hai cha con ngồi ngoài hiên nhìn cảnh đẹp. Ông Tiết Trịnh nhìn cây ngô đồng ngoài sân, thân cây vút lên trời, cành lá nhuốm vàng. Biết con hay thơ, ông cảm hứng đọc hai câu thơ tả cây ngô đồng vươn lên trời cao. Tức thì Tiết Ðào đọc tiếp hai câu thơ, ý nói
    "Cánh đón chim nam bắc
    Lá đưa gió lại qua"
    (Chỉ nghinh nam bắc điểu
    Diệp tống vãng lai phong)
    Tiết Trịnh giật mình: ông lo buồn, nhìn con gái, thương xót "Con bé thế mà lời thơ đã phóng túng, lả lơi"- Ông nghĩ bụng "sau này, biết đời con sẽ thế nào?". Mấy năm trôi qua, Tiết Trịnh bị bệnh rồi qua đời. Tiết Ðào đã lớn. Cảnh nhà túng thiếu. Ðể kiếm tiền nuôi mẹ, nàng phải làm kỹ nữ. Nàng tài hoa, làm thơ, sáng tác nhạc, đàn hay, hát giỏi. Người kỹ nữ nổi danh tài sắc khắp tỉnh Tứ Xuyên, rồi từ Tứ Xuyên đến các đô thành. Nhiều chàng trai từ kinh đô đến chiêm ngưỡng sắc đẹp của nàng và nghe nàng đàn hát, rồi ra đi, bâng khuâng và buồn bã. Bởi vì Tiết Ðào không để ý đến một ai. Tài hoa và sáng tạo, nàng chế một loại giấy hoa tiên đủ các màu tươi thắm, trên vẽ cành thông, hoa sen, hoa cúc. Giấy của nàng dùng để chép thơ của nàng. Một danh nho là Nguyên Chẩn từ kinh đô đến, xin gặp nàng. Nguyên Chẩn là một người hào hoa, cùng nàng hoạ thơ, chơi cờ. Hai bên say mê nhau. Rồi chàng vội ra đi, vì việc triều đình. Biết bao nước mắt nhớ thương. Nguyên Chẩn hẹn ngày trở lại. Nhưng chàng chưa đến thì giặc tỉnh bên kéo sang đánh phá và bao vây Thành Ðô, nơi nàng ở. Vòng vây xiết chặt, không một ai qua lọt. Nguyên Chẩn, ruột nóng như lửa đốt, phái nhiều người đến Thành Ðô tìm nàng, nhưng mọi người đều trở về tay không, không một tin tức, không ai qua được vòng vây. Tiết Ðào nhớ thương người yêu. Nàng bỏ ca lâu, lui về một nơi vắng vẻ, ăn chay niệm Phật. Rồi nàng qua đời trong cô đơn.
    LÁ THẮM
    Kim Trọng (Truyện Kiều) sau buổi gặp Thuý Kiều ngày hội Ðạm Thanh nhớ thương nàng; chàng tìm đến nhà Kiều, song nhà thì rào kín, cổng đóng im ỉm, không thể gặp được người đẹp:
    "Thâm nghiêm kín cổng cao tường
    Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh".
    Khi gặp được nàng, Kim Trọng giãi bày tấm lòng thương yêu, Kiều ngẩn ngơ đáp:
    "Dù khi lá thắm chỉ hồng
    Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha".
    Trong buổi gặp gỡ dưới trăng, nàng nói:
    Nàng rằng: "Hồng diệp xích thằng...".
    "Lá thắm", "Hồng diệp" (Hồng = đỏ, diệp = lá) gợi nhớ mối tình của một cung nữ với một thư sinh đời Ðường (Trung Quốc).
    Vua Hy Tông đời Ðường có ba nghìn cung nữ, cung phi Hàn Thuý Tần sắc đẹp mơ màng, ánh mắt long lanh huyền diệu, có một tâm hồn say đẵm. Nàng sống cô độc giữa những cung nữ trăm sắc trăm hương. Nàng chẳng hề mong mỏi xe dê của vua dừng lại trước phòng; nàng ước ao được trở về nhà, gặp một chàng trai vừa duyên phải lứa. Sống cô đơn, nàng thường tha thẩn những nơi vắng vẻ, nơi cảnh đẹp thiên nhiên hoa lá khẽ hát ca. Một hôm, nàng ngồi trên một phiến đá trắng bên bờ một con ngòi, nước trong vắt; nước ngòi lững lờ trôi; nó chảy qua chân bức tường thành cao ngất, ra ngoài thế gian vui tươi, tự do. Tủi phận, nàng nhặt một cái lá đỏ, đề trên lá một bài thơ, "nhờ lá thắm gửi ai mối sầu trong cung sâu"; nàng thả chiếc lá đỏ xuống dòng nước; dòng nước mang bài thơ không biết đến nơi nào. Không ngờ lúc đó, một thư sinh ở bên ngoài thành, buồn bã đi dọc con ngòi, bỗng trông thấy lá đỏ; chàng ngơ ngẩn mang lá thắm về nhà, trân trọng cất trong tráp sách. Chàng là Vu Hựu, một văn nhân phong nhã, qua Kinh đô, ở tạm nhà quan tể tướng Hàn Vinh. Hôm sau, đợi khi nước con ngòi chảy ngược vào trong thành, chàng thả một cái lá đề thơ của chàng; thơ kể "nỗi lòng xót thương ai cô đơn đã gửi thư trên lá thắm trôi trên mặt nước". Mỹ nữ Hàn Thuý Tần tình cờ trông thấy vớt lên, thấy thơ đáp lại thơ nàng. Nàng ôm ấp chiếc lá đề thơ rồi cất vào hộp tư trang. Hai người thương nhớ nhau, thỉnh thoảng lại mang lá đỏ ra đọc thơ, xem từng nét chữ, rồi trân trọng cất đi.
    Một hôm, khu Cung các nàng phi ở xôn xao, náo động: Vua Ðường cho nhiều cung nữ về nhà. Hàn Thuý Tần thuộc số những thiếu nữ được trả tự do. Nàng vội vã ra khỏi thành. Nàng vào nhà Tể tướng Hàn Vinh là chú họ, tạm ở ít ngày chờ gia quyến đến đón về. Nàng bâng khuâng, xót xa nghĩ đến người yêu trong mộng. Chàng Vu Hựu thì ngẩn ngơ, tính ngày về. Một hôm, chàng thấy một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt vời ngồi dưới mái hiên, tay cầm một cái lá đỏ, mắt buồn thăm thẳm. Chàng nhìn kỹ cái lá đỏ. Trời! Lá bài thơ của chàng. Chàng nhanh trí đoán biết tất cả. Nén xúc động, chàng trở về thư phòng, mở tráp lấy lá bài thơ của người đẹp. Hạnh phúc tràn đầy, chàng muốn ghẹo nàng chút ít. Chàng thong thả bước đến gần mái hiên, giả không trông thấy nàng; chàng lấy vẻ bi thảm, đọc bài thơ của nàng viết trên lá thắm. Mỹ nữ ngẩng đầu, sửng sốt. Chàng đọc bài thơ của chàng, người đẹp đang cầm nơi tay. Nàng hiểu, nước mắt đầm đìa hai má.
    Tể tướng được chàng kể đầu đuôi câu chuyện lạ lùng của trai tài, gái sắc. Ông nghĩ rằng cái lá đỏ kia là kẻ mối manh bí ẩn cho hai người yêu nhau. Ông viết thư cho hai gia đình hãy về dinh ông bàn chuyện cưới Thuý Tần lấy Vu Hựu.

    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  3. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7

    NẰM GAI, NẾM MẬT
    Câu Tiễn và vợ, cùng với Phạm Lãi cắt cỏ trên một cánh đồng; trời đã về chiều mặt trời chênh chếch về phía Tây. Ba người dừng tay, vơ cỏ, bó thành ba bó to rồi mỗi người ôm một bó rảo bước trở về thành. Về đến chuồng ngựa, ba người xếp cẩn thận cỏ vào một ngăn. Phạm Lãi người khoẻ mạnh hơn cả, xách một cái thùng to ra giếng gần đấy múc nước, rồi đổ mạnh vào chuồng ngựa. Câu Tiễn và vợ lấy chổi quét phân ngựa; họ làm việc yên lặng, cần cù; khi chuồng ngựa sạch bóng, Phạm Lãi dắt bốn con tuấn mã cao, to, lông bóng nhẫy đưa vào chuồng; Câu Tiến đóng cửa bốn chuồng ngựa cẩn thận; ba người ra cạnh giếng rửa chân tay, rồi lặng lẽ như ba cái bóng, cùng đi về nhà giam xây đá hộc, tường cao ngất gọi là Thạch Thất (Nhà Ðá). Chú lính gác mở cổng nhà giam, ba người đi vào; cổng sắt đóng lại. Không một tiếng đông, không một lời nói. Một mâm cơm đã đặt sẵn dưới đất bên cạnh một nồi cơm to đã nguội; cơm hẩm, một bát rau, một đĩa muối ẩm ướt. Phạm Lãi xới ba bát cơm, lấy hai tay dâng cơm lên Câu Tiễn và vợ; Chàng nhìn xung quanh; không thấy ai, chàng khóc, đưa tay gạt nước mắt, khẽ nói: "Hạ thần tài hèn, đức mọn, nên nông nỗi này"... Câu Tiễn đưa mắt nghiêm khắc nhìn Phạm Lãi. Phạm Lãi biết ý, im bặt. Song nước mắt chàng cứ tràn xuống hai má.
    Tướng Phạm Lãi thoáng nhớ lại tất cả: chiến tranh giữa nước Việt và nước Ngô kéo dài. Trận cuối cùng, trận đánh ở Cối Kê thật khủng khiếp; quân nước Việt đại bại; quân nước Ngô xung trận chém giết quân và tướng Việt vô cùng dã man; các tướng giỏi của Việt đều bị chém đầu hoặc bị bắt sống; lính chết như rạ. Vua Việt là Câu Tiễn phải mở cổng thành xin hàng quân Ngô. Vua Ngô là Phù sai cho bắt vua Câu Tiễn cùng Hoàng hậu mang về đất Ngô làm tù binh, giam vào nhà đá; tướng Phạm Lãi được phép theo hầu vua Câu Tiễn sang Ngô. Ba người tù hàng ngày phải cắt cỏ cho ngựa, quét dọn chuồng ngựa; ba người vô cùng đau xót, tướng Phạm Lãi lúc vắng người khóc một mình thảm thiết; chàng cho rằng vì chàng đức tài hèn mọn nên vua Câu Tiễn và Hoàng hậu mới nhục nhã thế này. Song vua Câu Tiễn nghĩ khác; ông cam chịu tất cả mọi khổ nhục, ông nuôi chí báo thù, lúc này ông không khóc, ông chịu đựng tất cả, sau này trở về nước khôi phục giang sơn; ông chỉ xót thương Hoàng hậu; ông nuôi chí lớn. Gần ba năm trôi qua.
    Vua Ngô Phù Sai, thấy ba người tù ngày ngày âm thầm làm việc chăm chỉ tin rằng vua Câu Tiễn đã thật lòng quy phục mình. Người ta kể rằng, để thử lòng ông vua tù nhân, Phù Sai nhân khi ốm, bắt Câu Tiễn nếm phân của mình. Câu Tiễn không nề hà làm theo ý Phù sai. Ðêm ấy Hoàng hậu và Phạm Lãi khóc suốt. Câu Tiễn không nói một lời. Ba người bị giam đã ba năm thì được Ngô Phù Sai trả lại tự do; vua Câu Tiễn, Hoàng hậu và Phạm Lãi trở về nước. Vua cùng Phạm Lãi và nhiều đại thần yêu nước chiêu hiền đãi sĩ, mưu tính việc báo thù cho đất nước. Vua giảm thuế, mở rộng nhiều quyền hạn của dân. Mùa cày ruộng, vua đi cày cùng với dân; mùa gặt lúa, vua gặt cùngvới dân. Hoàng hậu chăn tằm, dệt vải. Câu Tiễn sống thạt kham khổ để nuôi chí căm thù, lạnh không đắp chăn, nóng vẫn nằm bên bếp lửa. Dưới chỗ nằm, ông trải một lượt gai, để hành thân xác; ở nơi làm việc và nơi nằm ngủ, ông treo một túi mật, thỉnh thoảng nếm một giọt để nhớ những cay đắng, tủi nhục mà gia đình ông, nhân dân nước ông đã chịu từ trận Cối Kê thảm hại.
    ÍT năm sau, nước đã mạnh, dân giàu, được Phạm Lãi giúp mưu kế, vua Câu Tiễn cho quân đánh nước Ngô đã suy yếu và chinh phục được nước này.
    "Nằm gai, nếm mật" là chịu đựng những đau khổ để mưu việc lớn. Trong bài Văn tế trận vong tướng sĩ, Nguyễn Văn Thành viết :"Nằm gai nếm mật chung nỗi ân ưu; mở suối bắc cầu riêng phần lao khổ".
    NGUYỆT LÃO
    [/siz=4]
    Ðời Ðường thịnh trị (Trung Quốc), có chàng nho sĩ Vi Cố nổi tiếng thơ hay. Một hôm, chàng dạo chơi thành Ðông Ðô, trời yên tĩnh, trăng sáng lạ lùng. Trăng sáng tỏ, sao khuya lấp lánh. Bỗng chàng thấy xa xa một bóng người ngồi trên một phiến đá dưới trăng. Chàng đến gần: ông cụ già râu tóc bạc phơ như cước trắng, đang đọc một quyển sách to đặt trên đùi, tay xe những sợi dây đỏ như tơ hồng. Chàng ngập ngừng khẽ lên tiếng:
    - Thưa lão trượng, xin lão trượng cho hàn sĩ biết lão trượng đọc sách gì dưới vầng trăng sáng, giữa đêm khuya?
    Cụ già phúc hậu như tiên ông, ngẩng đầu lên và nói:
    - Ta là Nguyệt Lão, ta xem sổ hôn nhân số trời đã định và ta xe dây hồng buộc vợ chồng với nhau.
    Chàng nho sĩ mừng lắm, mắt chàng ngời sáng. Chàng cung kính xưng tên và xin cụ già cho biết duyên số của chàng. Nguyệt Lão giở sổ tra, liếc qua mấy dòng chữ rồi cụ mĩm cười bảo:
    - Duyên số con hơi lạ lùng, con sẽ lấy người thiếu nữ hiện nay là một cô bé lên ba, con một bà ăn mày ở chợ Ðông Ðô. Số trời đã định, tránh cũng chẳng xong.
    Nói rồi Nguyệt Lão biến thành một đám mây nhẹ, bay lên trời. Chàng Vi Cố buồn bực, gần như tuyệt vọng. Trở về nhà, chàng thao thức suốt đêm. Sớm hôm sau, chàng ra chợ Ðông Ðô tìm bà ăn mày; qua mấy dãy hàng quán, quả nhiên chàng thấy một bà ăn mày áo quần rách rưới, tay bế một đứa bé gái trạc 3 tuổi. Chàng tái mặt, vừa hoảng hốt, vừa tức tối. Chàng gọi một gã đàn ông mặt mặt hung dữ, cho nó một số tiền và bảo phải giết chết cô bé. Gã đàn ông nhận tiền, rình chém em bé gái một nhát vào đầu rồi tẩu thoát. Bà ăn mày hốt hoảng, ôm chặt lấy con, vừa kêu thét vừa bỏ chạy. Vi Cố lẩn trốn về nhà.
    Hơn 10 năm trôi qua. Chàng Vi Cố về Kinh đô thi, chàng đỗ Thám hoa. Sau khi vào triều bái yết Vua, chàng đến nhà chủ khảo khoa thi, Tể tướng họ Chu, để tạ lễ. Quan Tể tướng tiếp đãi niềm nở và hứa gả con gái cho chàng. Vi Cố nhận lời ngay không do dự, chàng vẫn lo sợ và muốn tránh lời tiên đoán của ông CỤ GIÀ DƯỚI TRĂNG. ÍT LÂU sau ngày cưới, một hôm vợ chàng gội đầu, chàng nhác thấy một vết sẹo. Nàng khóc lóc rồi kể: nàng không phải là con đẻ của quan Tể tướng. Khi xưa, khi nàng còn là một cô bé lên ba, mẹ nàng nghèo lắm phải đi xin ăn ở chợ Ðông Ðô. Bỗng một hôm, một gã đàn ông độc ác, không biết tại sao, xông đến chém nàng một nhát vào đầu rồi trốn mất. Chẳng bao lâu, vết chém lành, song mẹ nàng quá đau đớn vì thương con và uất hận phận nghèo, đã qua đời. Quan Tể tướng thương nàng bơ vơ, mang về nuôi và cho học hành tử tế.
    Vi Cố nghe vợ kể chuyện đến đâu, mặt tái đi đến đấy. Chàng ân hận và xót xa, nhưng nhìn người vợ xinh đẹp, hiền hậu, chàng nghĩ duyên số của mình thật may mắn.
    Nguyệt Lão hay ông cụ từ Cung Trăng xuống trần thế trông coi việc hôn nhân, cũng như "ông tơ", "xích thắng", "chỉ hồng" chỉ việc nhân duyên.
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  4. pittypat

    pittypat Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/07/2001
    Bài viết:
    2.803
    Đã được thích:
    0
    Các bác ơi, em không hiểu cụm "bố vợ phải đấm" này nghĩa là thế nào? Và liệu nó có "sự tích" nào đi kèm không?
    [blue]Wherever u go, whatever u do
    I will be rite here waiting for u.
    Whatever it takes, or how my heart breaks
    I will be rite here waiting for you.[/blue]
  5. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Hi bạn ơi, Tực ngữ có câu: Vênh váo như khố rợ phải lấm , chứ không phải là bố vợ phải đấm như cậu nói đâu. Nguồn gốc cái câu này ; là do ngày xưa, do nghèo nên người ta thường phải tết vỏ cây để làm khố mặc.Nhưng vỏ cây, khi gặp bùn, nước thì nó cứng, và vênh lên.Nên có câu này.Sau này chuyễn nghĩa thì chỉ sự vênh váo.
    Nhà văn Nguyễn Công Hoan có nói 1 câu có thể chấp nhận được là câu Vênh váo như bố vợ cậu ấm. Cậu ấm thường là con nhà quan, nên bố vợ cũng được nê, thường vênh váo.
    ------------------------------------
    [marquee][blue]Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/blue][/marquee]
  6. LeAnNa

    LeAnNa Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/08/2003
    Bài viết:
    337
    Đã được thích:
    0
    Các bạn ơi mình đọc 1 quyển sách thấy có so sánh nam giới đẹp như Tống Ngọc, Phan An. Chắc là có điển tích điển cố gì nên người ta mới nói vậy!
    Ah trong sách còn nhắc đến cụm từ " kết duyên châu trần" và "duyên Tấn Tần". Vậy là sao nhỉ???
    Bạn nào biết làm ơn nói cho mình nghe nhé!! Cảm ơn rất nhiều đó!!!!

     
  7. Namdinh80

    Namdinh80 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/02/2003
    Bài viết:
    6.230
    Đã được thích:
    2.686
    Phan An, Tống Ngọc là 2 người con trai hoà hoa phong nhã. Mặt mũi đẹp đẽ, thơ phú đầy mình ..etc...
    Còn "duyên Tần Tấn" cũng vậy bạn đọc chú giải ở truyện Kiều chẳng hạn thì có ngay thôi.
    Thực ra tôi viết thế này là không nên vì làm hỏng topic nhưng dù sao cũng giúp bạn được đôi chút. Sorry!
    ...Có chăng chừa rượu với chừa trà.
  8. ruavang

    ruavang Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    27/10/2002
    Bài viết:
    361
    Đã được thích:
    0
    Hai câu của bà Huyện Thanh Quan là :
    Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
    Thương nhà mỏi miệng cái da da
    chứ bác chitto & bác home_nguoikechuyen nhỉ ? ý đối ý, lời đối lời.
    Còn Thục đế của điển cố trên là ông vua Thục ở bên kia thập vạn đại sơn chứ không liên quan gì đến câu chuyện nỏ thần của ta.
    Hãy sống và ước vọng.
    Để thấy đời bao dung
  9. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Phan an thì mình không nhớ lắm, chỉ nhớ Tống Ngọc thôi.
    Tống Ngọc, người nước Sở đời Xuân Thu

    Tiểu sử của Tống Ngọc còn mơ hồ. Người ta biết ông có tài văn chương qua các thiên "Chiêu hồn", "Ðại chiêu", "Cửu biện" và nhiều bài phú như "Ðăng đồ tử hiếu sắc phú" , "Cao đường phú"... Chỉ có biết chắc hơn ông là người đẹp trai, lãng mạn, đa tình....
    Về văn chương có một số đặc sắc sở trường về miêu tả, như trong hai thiên "Chiêu hồn" và "Ðại Chiêu", ông tả mỹ nhân thì môi son, răng trắng, xương nhỏ, thịt đầy, mày cong và dài, dung nhan tú nhã, vui vẻ khoan thai; tả cung thất thì nào sân, nào hiên, cửa son, gác tía... Trước ông, chưa ai tả tỉ mỉ, đầy đủ chi tiết như thế.
    Tương truyền, một lần vua Sở hỏi Tống Ngọc:
    - Tiên sinh hẳn có khuyết điểm trong tính hạnh nên trong nước không có mấy người khen. Phải thế chăng?
    Tống Ngọc đáp:
    - Trong nước không có ai khen, hạ thần thực rất lấy làm vẻ vang. Khi xưa ở kinh đô, có một nhà ca nhạc trứ danh. Buổi đầu hát khúc "Hạ lý ba nhân", cả thiên hạ đều nức nở khen hay; rồi hát khúc "Dương a hệ lộ" thì người khen còn có vài trăm; lại hát đến khúc "Dương xuân bạch tuyết" thì chỉ còn hơn mười bằng lòng. Vì khúc hát càng cao, người hiểu lại càng ít. Chim phụng giương cánh bay chín tầng mây, dọc ngang trong khoảng mênh mông vô tận; chim én đậu ở hàng rào, không cùng chim phụng biết đất trời là rộng nên chê chim phụng lung lăng. Cá côn sớm dậy ở Côn Lôn, trưa nằm vườn non Kiệt Thạch, tối bơi về biển Mạnh Trư; cá chép ở ao tù, không cùng cá côn biết sông biển là lớn nên chê cá côn hiếu sự. Người ta tư tưởng càng cao, tính hạnh càng quý lại càng ít có người biết đến. Cho nên, lời chê của thiên hạ, hạ thần vui lòng nhận lấy, và lại mong thiên hạ ngày càng chê thêm mãi lên..."
    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  10. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0

    Duyên Châu Trần: Bạch Cư Dị đời Đường có bài thơ nói có thôn Châu Trần, huyện Cổ Phong thuộc Từ Châu, trong làng chỉ có hai họ Châu và Trần đời đời kết hôn với nhau. Sau người ta dùng chữ Châu Trần để chỉ sự kết hôn.
    Ví dụ:
    Thực là tài tử giai nhân,
    Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn!
    (1458 - truyện Kiều)
    Mụ càng xua đuổi cho liền
    Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu Trần
    (2094)
    Tình xưa ơn trả nghĩa đền
    Gia thân bèn mới kết duyên Châu Trần
    (2866)
    ------------------------------------
    Màu thời gian không xanh
    Màu thời gian tím ngát
    Hương thời gian không nồng
    Hương thời gian thanh thanh

Chia sẻ trang này