1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

ĐIỂN TÍCH TRUYỆN KIỀU

Chủ đề trong 'Văn học' bởi falling-rain, 04/12/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    ĐIỂN TÍCH TRUYỆN KIỀU

    ẤY là hồ điệp hay là Trang sinh

    Qua lời yêu cầu tha thiết của Kim Trọng và "hai thân cũng quyết theo một bài"... Kiều đành phải chấp thuận, và cả hai làm lễ động phòng. Nhưng rồi cũng trong đêm động phòng "bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa", Kiều lại tủi thẹn, than thở phận mình, khiến chàng Kim phải an ủi "lọ là chăn gối mới ra sắt cầm", nên chuyện sang xin Kiều cho mình thưởng thức ngón đàn ngày xưa. Kiều vâng lời "phím đàn dìu dặt tay tiên" với:

    Khúc đâu đầm ấm dương hoà,
    ẤY là hồ điệp hay là Trang sinh
    Khúc đâu êm ái xuân tình
    Ấy hồn Thục Ðế hay mình Ðỗ quyên?
    Trong sao châu rỏ duềnh quyên?
    Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông

    (câu 3199 đến 3204)

    Trang sinh tên Trang Chu cũng gọi là Trang Tử, học đạo Lão Tử, người đời Chiến Quốc.

    Ðời ông, về sau, có người thêu dệt lắm chuyện huyền hoặc, vô lý gọi là "Trang Tử thử vợ". Chuyện rằng:

    Một hôm, Trang Tử đi chơi ngang một nghĩa địa, thấy một người đàn bà đang ngồi cầm quạt , quạt một nấm mồ còn ướt. Ông lấy làm lạ hỏi thì người đàn bà ấy cho biết: đó là mộ của chồng. Vì khi gần chết, chồng có trối lúc nào muốn tái giá thì phải đợi mộ chồng khô. Nay có người đến hỏi, nàng muốn tái giá nhưng giữa lúc mộ chưa khô nên phải quạt cho mau khô, để kịp thời gian lấy chồng.

    Trang Tử bật cười. Mãi về đến nhà vẫn còn cười. Vợ ngạc nhiên hỏi, ông thuật cả sự việc. Vợ bật cười, bảo: "Sao có người tệ bạc lắm vậy!" Trang Tử không nói gì.

    Một hôm, Trang Tử đột ngột lâm bệnh chết! Ðám tang được quàn trong ba hôm. Vợ Trang Tử khóc lóc kể lể, lúc nào cũng đầm đìa nước mắt. Ðến ngày thứ hai, bỗng có một chàng thanh niên đến nhà, xưng là học trò của Trang Tử ở xa đến thăm thầy, nhưng chẳng may thầy mất, vậy xin điếu tang và ở lại lo việc ma chay cho thầy được trọn tình sư đệ.

    Người học trò của chồng sao mà khôi ngô tuấn tú quá, lời nói sao mà ấm áp dịu dàng khiến vợ Trang Tử phải lòng, rồi cả hai dan díu tư tình nhau... Nhưng đến nửa đêm, chàng rên rỉ quằn quại kêu đau bụng, đau một cách dữ dội. Vợ Trang Tử lấy làm lo sợ, hỏi cách chạy chữa thì chàng bảo chỉ cần có sọ người mới chết đem mài uống thì bệnh hết ngay, nếu không sẽ chết mất. Thấy chàng sao thương quá, sợ mất chàng lại nghĩ chồng mới chết, sọ chồng hẳn có hiệu nghiệm, nên vợ Trang Tử không còn phải đắn đo gì nữa, nàng liền lấy vồ đập vỡ nắp săng (quan tài) định lấy sọ chồng làm thuốc cho tình nhân.

    Nhưng nắp săng vừa bật lên thì Trang Tử cũng ngồi bật dậy, và cũng vừa lúc ấy chàng thanh niên biến mất. Thì ra, Trang Tử có phép thuật, giả chết để thử vợ. Người vợ lấy làm xấu hổ quá, tự tử. Trang Tử không buồn, tay vỗ cổ bồn, hát:

    Kham ta phù thế sự
    Hữu như hoa khai tạ
    Thê tử ngã tất mai
    Ngã tử thê tất giá
    Ngã nhược tiên tử thì
    Nhất trường đại tiếu hoạ
    Ðiền bị tha nhân canh
    Mã bị tha nhân khoá
    Thê bị tha nhân luyến
    Tứ bị tha nhân mạ
    Suy thử đổng thường tình
    Tương khan luỵ bất hạ
    Thế nhân tiếu ngã bất bi thương
    Ngã tiểu thế nhân thống đoạn trường
    Thế sự nhược hoàn khốc đắc chuyển
    Ngã diệc thiên thu luỵ vạn hàng

    Tạm dịch:

    Nên than ôi, thế sự
    Ðường hoa đơm lại rã
    Vợ chết ắt ta chôn
    Ta chết vợ cải giá
    Ví bằng ta chết trước
    Một cuộc cười ha hả
    Ruộng phải người khác cày
    Ngựa phải người khác cưỡi
    Vợ phải người khác lấy
    Con phải người khác mắng
    Nghĩ lại chạnh tấm lòng
    Nhìn nhau khôn tuôn lệ
    Ðời cười ta chẳng bi thương
    Ta cười đời luống đoạn trường
    Việc đời khóc mà chuyển biến được
    Ta cũng ngàn thu khóc vạn hàng
    (Bản dịch của Vô Danh)

    Do câu chuyện trên nên trong dân gian có câu:

    Thương thay cho kẻ quạt mồ
    Ghét thay cho kẻ cầm vồ bửa săng

    "Quạt mồ, bửa săng" hẳn là chuyện bịa nhằm để châm biếm một số đàn bà, một số người vợ không tốt, không thuộc hạng "tiết hạnh khả phong". Giả chết để thử vợ âu cũng là một điều hay. Hẳn Trang Tử không cần.

    Trang Tử tức Trang Chu là một nhà đạo học, vốn có tư tưởng xuất thế bắt nguồn tư tư tưởng vô vi của Lão Tử mà suy diễn ra. Ông chủ trương không tham sống, không sợ chết, không vui, không buồn, không dụng tâm vực đạo, không gắng sức giúp đời. Vì cái nhân sinh quan tự nhiên nhi nhiên đó, nên theo ông hễ gặp lúc nào sống mà sống là hợp thời, gặp lúc nào chết mà chết là thuận cảnh. Trang Tử bảo "Kẻ chân nhân ở đời xưa không tham sống, ghét chết. Sinh ra ai cũng không mừng, chết đi cũng không chống, thoắt qua thoắt lại, không quên lúc mới sinh, chết cũng mặc kệ, sinh ra rồi thì thường tự đắc, có chết đi thì cũng là trở lại với trời, không cần dụng tâm mà vực đạo, không cần lấy sức người mà giúp trời, như thế gọi là chân nhân vậy?" Ông có để lại bộ "Nam hoa Kinh". Về mặt văn học, lời mạnh mẽ, tư tưởng tân kỳ, tưởng tượng dồi dào, phép ngụ ngôn tuyệt khéo.

    Vợ ông chết. Bạn ông là Huệ Tử đến viếng, thấy chỗ ông ngồi duỗi xoạc hai chân, tay gõ nhịp vào bồn nước mà hát. Huệ Tử bảo:
    - Mình đã ăn ở với người ta, có con với người ta, bây giờ người ta chết, mình không khóc cũng là đủ. Thế mà ngồi gõ bồn hát, chẳng là quá lắm ư!
    Trang Tử đáp:
    - Không phải thế. Lúc vợ tôi mới chết, tôi cũng lấy làm thương tiếc lắm. Nhưng xét cho cùng thì vốn không có gì cả. Chẳng những không có hình lại cũng không có khí. Con người ấy chẳng qua là tạp chất biến mà hoá ra có khí; khí biến ra hình, hình biến mà hoá ra sinh, có sinh lại biến ra có tử khác nào Xuân, Hạ, Thu, Ðông bốn mùa cứ tuần hoàn đi lại không? Vả lại, người ta chết là trở về với tạo hoá, cũng như người đi ra ngoài rồi về nhà, thế mà ta cứ còn theo đuổi nghêu ngao khóc lóc thì chính ta chẳng hoá ra không biết mạng trời ư? Cho nên ta không khóc mà lại còn hát nữa.

    Vì quan niệm về vũ trụ và nhân sinh như vậy nên sách Trang Tử thiên "Tề vật luận" có chép: Trang Sinh (tức Trang Chu) có lúc nằm mộng thấy mình hoá con **** (hồ điệp) thong dong bay lượn, đoạn chợt tỉnh dậy, ông tự hỏi: Không biết mình hoá làm **** hay **** hoá làm mình?

    Tư tưởng của Trang Tử cũng như của Lão Tử (thường gọi là tư tưởng Lão Trang) là một thứ triết học cao siêu, khiến trí não của con người mờ mờ ảo ảo, mơ màng như bay bổng lên những cảnh giới siêu nhiên huyền dịu.

    "Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh", vốn mượn ý Trang Chu để tả vẻ mơ màng thánh thoát của khúc đàn. Khúc đàn sum họp của buổi giao hoan tình ái nghe mơ mơ màng màng, hoặc nghe khúc đàn, người thưởng thức cảm thấy mình như lâng lâng tha thướt, nhẹ ru đi vào cõi mộng êm đềm... Ý câu này lại đi liền với ý câu trên "Khúc đâu đầm ấm dương hoà".

    Tác giả Truyện Kiều chỉ mượn ý giấc mộng êm dịu mơ màng của Trang Chu đến đỗi "Không biết mình hoá làm **** hay **** hoá làm mình" hàm súc một triết lý vô vi, xuất thế của đạo Lão, để diễn tả tiếng đàn có mãnh lực truyền cảm cho người nghe đàn.

    (THEO ĐIỂN TÍCH TRUYỆN KIỀU, NXB Ðồng Tháp)



    FR

    Được falling-rain sửa chữa / chuyển vào 05/12/2002 ngày 01:38
  2. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Ấy hồn Thục Ðế hay mình Ðỗ Quyên
    "Ðỗ Quyên" là một loại chim cũng còn gọi là Tử Quy, tiếng nôm na là chim Cuốc. Ðầu mỏ chim hơi cong, miệng to, đuôi dài, lông lưng màu tro, bụng trắng có một đường đen thẳng ngang. Nó thường lủi trong bụi rậm, dưới ao sâu hoặc hồ rộng. Cuối Xuân sang Hè thì bắt đầu kêu vào đêm trăng mờ tịch mịch ở nông thôn. Giọng kêu buồn thảm, gợi lòng lữ khách nhớ nhà, nhớ quê hương.
    "Thục Ðế" là vua nước Thục tên Ðỗ Vũ thấy vợ của một bề tôi là Biết Linh, người rất đẹp nên tìm cách thông dâm. Tức giận, Biết Linh dấy loạn, đem quân đánh phá kinh thành. Thục Ðế thất bại, mất ngôi, chạy trốn vào rừng, khổ sở quá rồi chết. Ðoạn này, sách "Thành đô ký" chép có khác là vua Thục thông dâm với vợ Biết Linh. Biết chuyện, Biết Linh bắt buộc vợ nói khích vua Thục nhường ngôi cho Biết Linh, rồi cùng vợ Biết Linh bỏ nước ra đi để sống cho trọn tình chung thuỷ. Thục Ðế say mê vợ Biết Linh quá, thà mất ngôi vàng hơn mất người đẹp nên nghe theo. Nhưng thảm cho Thục Ðế đã mất ngai vàng cuốn theo mất người đẹp, vì vợ của Biết Linh quay trở lại sống với chồng.
    Nhục nhã, buồn tủi, vào rừng ở, nhớ ngai vàng, nhớ nước, Thục Ðế chết hoá thành chim Ðỗ quyên ngày đêm kêu "cuốc, cuốc" hay "quốc, quốc" (nước, nước). "Quốc, quốc" do tá âm "cuốc, cuốc".
    Trong bài "Qua đèo Ngang" của Bà huyện Thanh Quan, có câu:
    Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
    Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
    Thi ca cổ điển Việt Nam dùng rất nhiều điển tích về hai chim này.
    TRẦN DANH ÁN, MỘT DI THẦN NHÀ HẬU LÊ (1423- 1788), NGHE TIẾNG CUỐC KÊU CŨNG cảm xúc, nhớ lại một triều đại hưng thịnh... mà cuối cùng vua Lê Chiêu Thống lại hèn nhát đầu hàng ngoại quốc, khiến lòng ái quốc tha thiết sống động trong tâm hồn thi sĩ, nhưng cảm thấy mình bất lực trước thời cuộc, nên đành gói gém tâm sự di thần của mình trong mấy vần thơ:
    Giá cô tại giang Nam
    Ðỗ Quyên tại giang Bắc
    Giá cô minh gia gia
    Ðỗ Quyên minh quốc quốc
    Vi cầm do hữu quốc gia thanh
    Cô thần đối thử tình vô cực
    Nghĩa:
    Chim Giá cô ở bờ sông Nam
    Chim Ðỗ Quyên ở bờ sông Bắc
    Giá cô kêu gia gia
    Ðỗ Quyên kêu quốc quốc
    Chim nhỏ còn kêu tiếng nước nhà
    Cô thần đối cảnh tình man mác!
    Ðứng trước thành Cổ Loa, xưa nơi đây là cung miếu của vua Thục An Dương Vương, nhà thơ Chu Mạnh Trinh bất giác sinh lòng hoài cổ. Cung miếu đó, xưa tráng lệ huy hoàng bao nhiêu thì nay điêu tàn quạnh quẽ bấy nhiêu. Trong cảnh vắng vẻ lạnh lùng này, dưới ánh trăng mờ nhạt, tiếng Cuốc khắc khoải năm canh vọng lên buồn bã:
    Tịch mịch tiền triều cung ngoại miếu
    Ðỗ Quyên đề đoạn nguyệt âm âm
    Nghĩa:
    Cung miếu triều xưa đây vắng ngắt
    Trăng mở khắc khoải Cuốc kêu thâu
    Tiếng Cuốc của Chu Mạnh Trinh tuy có não ruột, nhưng chưa sâu xa thấm thía và bi ai bằng tiếng Cuốc của nhà thơ Yên Ðổ Nguyễn Khuyến. Tiếng Cuốc của Nguyễn là tất cả tiếng nói của lòng, của một người dân yêu nước bị mất nước. Tiếng Cuốc đó còn nói lên một nỗi đau buồn, uất hận của tác giả vì bất lực trước cảnh đen tối của đất nước bị nạn ngoại xâm. Và, đó cũng là tiếng nói của lương tâm đương thôi thúc của tác giả xông vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc:
    Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
    ẤY hồn Thục Ðế thác bao giờ
    Năm canh máu chảy đêm hè vắng
    Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
    Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
    Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
    Ban đêm ròng rã kêu ai đó
    Giục khách gian hồ dạ ngẩn ngơ!
    Mượn tiếng Cuốc kêu hay Ðỗ Quyên, hay Thục Ðế... để diễn tả tâm sự của một người dân vong quốc vẫn là một thông lệ trong văn chương.
    Khúc đâu êm ái xuân tình
    ẤY hồn Thục Ðế hay mình Ðỗ Quyên

    Lẽ tất nhiên khúc đàn của Kiều ở đây không phải để tỏ lòng nhớ nước, mà là lòng thương tiếc thời tuổi trẻ với mối tình xuân nồng nàn thâm thuý ở buổi đầu "có phải tiếc xuân mà đứng gọi..."
    Khúc đàn "đầm ấm dương hoà" lâng lâng mơ màng đến nỗi tưởng "mình hoá làm **** hay **** hoá làm mình" qua một cơn mộng đẹp. Ðoạn kế tiếp, khúc đàn êm ái xuân tình cũng lâng lâng mơ màng, không biết phải Thục Ðế hoá thành Ðỗ Quyên hay Ðỗ Quyên hoá làm Thục Ðế. Tác giả mượn hư nói thực, mượn thực nói hư.
    Trên là tính chất của bản đàn.
    Tiếp đến, tác giả tả tính chất của tiếng đàn.
    Tiếng đàn rất trong và rất ấm.
    Trong sao châu rỏ duềnh quyên
    Ấm sao hạt ngọc Lam Ðiền mới đông

    Tiếng đàn sao mà trong trẻo thế. Trong như hạt châu rỏ xuống vũng nước (duềnh) đẹp (quyên) của đêm trăng. Hạt châu đã trong rỏ nước xuống dưới ánh trăng trong càng trong thêm. Cũng như hạt châu, tiếng đàn như hạt châu rỏ xuống duềnh quyên với một âm điệu trong sáng, êm ái, nhẹ nhàng.
    Tiếng đàn ấm là tiếng đàn còn dư sức ngân mà chỉ ngân vừa chừng để dư âm lại sau. Tác giả cụ thể hoá sức ấm của tiếng đàn, ví như hạt ngọc Lam Ðiền mới đông.
    Phê bình tiếng đàn, người ta thường cho rằng: tiếng đàn trong là tiếng đàn của người nhàn nhã, thanh tao; tiếng đàn ấm là tiếng đàn của người có hậu tức là có tướng tốt đẹp. Tác giả muốn tiếng đàn của Kiều, tỏ ra lúc này là tiếng đàn của người được hưởng thụ hạnh phúc sau 15 năm chịu cảnh đoạ đày, thuyết minh một định luật "bĩ cực thái lai", khác những khúc đàn trước!
    Một điều cần tìm hiểu thêm- cũng như một số nhà nghiên cứu "Truyện Kiều"- là tác giả đã dịch thoát ý một số câu trong bài thơ "Cẩm SẮT" CỦA LÝ THƯƠNG ẨN ĐỜI NHÀ ĐƯỜNG.
    Nguyên bài thơ "Cẩm sắt" có 8 câu:
    Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền
    Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên
    Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp
    Thục Ðế xuân tâm thác Ðỗ Quyên
    Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ
    Lam Ðiền nhựt noãn ngọc sinh yên
    Thử tình khả đãi thành truy ức
    Chỉ thị đương thời dĩ vãng nhiên
    Nghĩa:
    Cẩm sắt năm mươi chẵn sợi mành
    Mỗi dây một trụ nhớ ngày xanh
    Mơ màng **** lẫn Trang sinh mộng
    áo não quyên kêu Thục Ðế tình
    Thương hải lệ châu trăng chiếu suốt
    Lam Ðiền hơi ngọc nắng hun thành
    Tình này đợi nhớ trong mai hậu
    Chán nản giờ đây khổ nỗi mình
    (Bản dịch của Bửu Cầm và Tạ Quang Phát)
    Như vậy, ta thấy tác giả Truyện Kiều không mượn ý của toàn bài mà chỉ mượn có 4 câu (thứ ba, tư, năm, sáu). Tại sao chỉ lấy 4 câu?
    Ðây là một dụng ý sâu xa của tác giả.
    Trong bài "Cẩm sắt": câu 3 tả tiếng đàn mơ màng; câu 4 tả tiếng đàn áo não; câu 5 tả tiếng đàn trong trẻo; câu 6 tả tiếng đàn ấm áp. Phải chăng tính chất của những tiếng đàn ấy thể hiện được cuộc đời của Kiều theo từng giai đoạn. Hay nói một cách khác, ngược lại, cuộc đời của Kiều đã trải qua những giai đoạn được thể hiện qua tiếng đàn.
    "Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp" (câu 3): tiếng đàn có một âm điệu mơ màng, lâng lâng như một giấc mộng mà Trang Tử đến nỗi không biết mình hoá làm **** hay **** hoá làm mình. Cũng như Kiều sống mơ màng huyền ảo với hương vị của mối tình đầu lúc Kiều và Kim Trọng mới yêu nhau. Ðôi trai tài gái sắc này lúc trao kỷ vật, cắt tóc thề nguyền, lúc đề thơ hội hoạ, lúc đánh đàn- tuy thời gian ngắn ngủi- nhưng đã xây nhiều mộng đẹp. Thực và ảo ảnh dường như trùng hợp có một liên hệ chặt chẽ.
    "Thục Ðế xuân tâm thác đỗ quyên" (câu 4): tiếng đàn có một âm điệu não nuột, ai cảm như nỗi uất hận của vua Thục nhớ nước nhớ nhà gởi vào tiếng nấc nghẹn ngào, thảm não của Kiều khi lưu lạc, nhớ quê, nhớ cảnh, nhớ cha mẹ, người yêu, sống đoạ đày trong kiếp phong trần vùi hoa dập liễu.
    "Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ" (câu 5): tiếng đàn đến đây thì trong trẻo như ánh trăng vằng vặc chiếu xuống biển xanh qua suốt lớp nước sâu đến những hạt châu long lanh như đẫm lệ. Cái trong trẻo thanh tao ấy chẳng khác gì tấm thân tài sắc và lòng trinh trắng của Kiều được chìm sâu dưới nước sông Tiền Ðường để rửa sạch hết bụi trần nhơ, và để rồi sống một cuộc đời thanh u, nhàn nhã dưới của thiền bên cạnh vãi Giác Duyên.
    "Lam điền nhật noãn ngọc sinh yêu" (câu 6): tiếng đàn cuối cùng với một âm điệu nồng nàn, ấm áp như ánh nắng nhẹ, êm ả chiếu xuống núi Lam điền khiến cho ngọc quý nơi đây bốc lên hơi. Cái ấm áp ấy thực nồng nàn, thắm thiết, thi vị như Kiều đoàn tụ với gia đình, gặp lại người yêu, nối lại khúc tình xưa. Ngọc lên hơi thoang thoảng như ái tình lên hương thấm thía đậm đà.
    Qua 4 câu trong bài thơ "Cẩm sắt" của Lý THƯƠNG ẨN VÀ NGẪM LẠI CUỘC ĐỜI CỦA KIỀU, CHÚNG TA THẤY SỰ NGẪU HỢP thích thú và cũng lạ kỳ giữa tiếng đàn của một nhà thơ đời Ðường với cuộc đời của một giai nhân đời Minh, và sử dụng ý khéo léo của tác giả Truyện Kiều, một thi hào cận đại của Việt Nam chúng ta.
    Vì cuộc đời của Kiều- nhân vật chính của truyện- phải trải qua bốn giai ĐOẠN CÓ TÍNH CÁCH KHÁC NHAU, MƠ MÀNG, ÁO NÃO, TRONG TRẺO VÀ ẤM ÁP. Ý TỨ TRONG 4 câu (3, 4, 5, 6) của bài "Cẩm sắt" của Lý THƯƠNG ẨN PHẢI ĐƯỢC ĐẶT ĐÚNG CHỖ Ở PHẦN KẾT CUỘC CỦA TRUYỆN, ĐỂ người đọc thoả lòng, mừng cho một khách má hồng tài sắc được sống một cuộc đời đáng sống trong hương vị ngây ngất ấm êm. Và, cũng để tạo cho người đọc một tư tưởng lạc quan, yêu đời, không vì thuyết "tài mạng tương đố, tạo vật đố hồng nhan" quá máy móc mà đâm ra bi quan, yếm thế, tiêu cực. Và, cái số kiếp đoạn trường của con người đâu phải là một định luật bất di bất dịch.
    Mượn ý của 4 câu thơ "Cẩm sắt", cũng như tác giả Truyện Kiều tuy phóng tác của một truyện của Trung Hoa nhưng tác giả đã chuyển hoá, sáng tạo chẳng những để cho tác phẩm của mình được rực rỡ, phong phú mà còn làm cho điển tích được sáng thêm với tính phổ cập và đề cao.
    (THEO ĐIỂN TÍCH TRUYỆN KIỀU- NXB Ðồng Tháp)
    FR
  3. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
    Ðoạn diễn tả Kim Trọng thiu thiu ngủ, mơ màng có câu:
    Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
    Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng

    (Câu 439 đến 440)
    Ðất Cao đường, bên cạnh đầm Vân Mộng có ngọn Vu Sơn của dãy núi Vu Giáp thuộc tỉnh Hồ Bắc ở Trung Hoa. Ðời Xuân Thu (772- 480 trước DL) vua Sở Tương vương thường đến du ngoạn. Một hôm nhà vua đến đấy, say sưa ngắm cảnh, một lúc mệt mỏi nằm ngủ dưới chân núi Vu Sơn.
    Trong lúc say ngủ, Vua Sở Công thấy một thiếu nữ tuyệt sắc, tha thướt đến bên mình, rồi cùng vua chung chăn chung gối. Sau khi cùng giai nhân thoả tình ân ái, nhà vua hỏi:
    - Chẳng hay ái khanh ở đâu đến đây để quả nhân duyên may gặp gỡ?
    Nàng mỉm miệng cười duyên, thưa:
    - Thiếp là thần nữ núi Vu Sơn, qua chơi đất Cao Ðường, vốn cùng nhà vua có tiền duyên, nay được gặp gỡ thật thoả lòng mong ước. Thiếp có nhiệm vụ buổi mai làm mây, chiều làm mưa ở Dương Ðài.
    Nói xong đoạn biến mất.
    Nhà vua chợt tỉnh dậy, cảm thấy mùi hương như còn thoang thoảng quanh mình. Mộng đẹp vơ vẩn trong trí não, nhà vua thấy luyến tiếc vô cùng. Nhưng rồi ngủ đi ngủ lại, cả đêm lẫn ngày, nhà vua mong được lại khách giai nhân trong mộng đẹp ái ân, nhưng con người đẹp đó không còn xuất hiện nữa. Nhà vua sai người lập miếu thờ gọi là miếu "Vu Sơn thần nữ". Cảm nhớ người đẹp trong mộng, vua Sở thuật lại cho quan Ðại phu là Tống Ngọc nghe. Vốn một danh sĩ đương thời, Tống Ngọc liền làm bài "Phú Cao đường" ghi lại sự gặp gỡ trong mộng của vua Sở cùng thần nữ Vu Sơn ở đỉnh Vu Giáp:
    "Tiên vương du Cao đường
    Ðái nhi trú tầm
    Mộng kiến nhứt phu nhân viết:
    "Thiếp Vu Sơn chỉ thần nữ dã
    Vi Cao Ðường chỉ khách
    Văn quân du Cao Ðường
    Nguyện tiến chẫm tịch"
    Vương nhận hạnh chi
    Khứ nhi tử viết:
    "Thiếp tại Vu Sơn chỉ dương
    Cao khâu chi trở
    Triệu vi hành vân
    Mộ vi hành vũ"
    Tạm dịch:
    "Tiên vương dạo Cao Ðường
    Mỏi mệt ngủ ngày
    Mộng gặp người đàn bà nói:
    "Thiếp là thần nữ Vu Sơn
    Ðến Cao Ðường làm khách
    Tin vua dạo Cao Ðường
    Nguyện dâng cùng chăn gối"
    Vua nhận yêu nàng
    Khi đi nàng nói
    "Thiếp ở Vu Sơn chốn Ðương đài
    Cao khâu hiểm trở
    Sớm đi làm mây
    Chiều đi làm mưa"
    Trong bài "Thanh bình điệu" của thi hào Lý Bạch đời nhà Ðường, có câu:
    "Nhứt chi nùng diếm lộ ngưng hương
    Vân vũ Vu Sơn uổng đoạn trường"
    Ngô Tất Tố dịch:
    "Một cành sương đọng ngát hương thơm
    Mây mưa Vu Giáp nỗi đau lòng"
    Trong bài "Ðĩ già đi tu" của Tôn Thọ Tường, có câu:
    "Chày Kình gióng tỉnh giấc Vu Sơn
    Mái tóc Kim Sinh nửa trắng vàng"
    Cùng đầu đề trên, cụ Huỳnh Mẫn Ðạt có câu:
    "Lầu xanh thảnh thót tiếng chuông chiều
    Tỉnh giấc Cao Ðường lúc ngửa nghiêng"
    Những tiếng "giấc Vu Sơn", "giấc Cao Ðường", "Ðỉnh Giáp", "Vu Giáp", "Giấc mộng Dương Ðài"... đều chỉ việc trai gái chung chạ chung chăn gối, ấu yêu nhau. Dùng những tiếng này để tránh những tiếng tục. Nhưng vì thần nữ ở Vu Sơn của đỉnh Vu Giáp cho rằng "sớm đi làm mây, chiều đi làm mưa" nên nhân đó, người ta thường dùng "mây mưa" (vân vũ) cùng có ý nghĩa như trên.
    Khi Kim Trọng tỏ vẻ lả lơi, suồng sã, Kiều van lơn, lý luận khuyên ngăn, có câu:
    "Mây mưa đánh đổ đá vàng
    Qúa chiều nên đã chán chường yến oanh"

    (Câu 513 và 514)
    Cũng có lúc để chỉ cơn giận như đoạn miêu tả mẹ của Hoạn Thư khi hai tên Khuyển, Ưng bắt Kiều đưa đến:
    "Bất bình nổi trận mây mưa
    Nhiếc rằng: những giống bơ thờ quen thân
    Con nầy chẳng phải thiện nhân
    Chẳng phường trốn chúa cũng quân lộn chồng"

    (câu 1727 đến 1730)
    "Mây mưa" ở đây không có nghĩa như điển tích trên.
    Riêng về tiếng "mưa gió" cũng có hai nghĩa.
    Ðoạn miêu tả một trận cuồng dục, dâm bạo của Mã Giám Sinh đối với Kiều khi mua Kiều, trong đêm tạm ở trú phường trước khi đem về lầu xanh giao cho Tú Bà:
    "Một cơn mưa gió nặng nề
    Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương"

    (Câu 847 và 848)
    Hoặc nhẹ nhàng hơn qua câu trả lời của Kiều khi mụ Tú Bà dặn dò:
    "Nghề chơi cũng lắm công phu
    Làng chơi ta phải biết cho đủ điều
    Nàng rằng: Mưa gió dập dìu
    Liều thân thì cũng phải liều thế thôi"

    (Câu 1201 đến 1204)
    Lại cũng chỉ sự đánh đập tàn nhẫn, đoạn tả Kiều bị mẹ của Hoạn Thư ra lịnh cho bọn a hoàn dùng trúc côn đánh đập Kiều:
    "Xót thay đào lý một cành
    Một phen mưa gió tan tành một phen"

    (câu 1741 và 1742)
    "Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần", ý chỉ Kim Trọng mơ nhớ say sưa mộng thấy Kiều... như Sở Tương vương mộng thấy thần nữ- người đẹp- cùng giao hoan, mà nhà tâm lý học cùng nhà y học cho là "mộng dâm". Qua cuộc án ân, người nằm mộng tỉnh dậy, khiến lòng càng say sưa mơ nhớ, bâng khuâng hơn:
    "Vẩn vơ còn nhớ người trong mộng
    Mộng đến tàn canh cũng não nùng!"
    Trong "Truyện Kiều", tác giả diễn tả liên tiếp bốn câu:
    "Tiếng sen sẽ động giấc hoè
    Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
    Bâng khuâng Ðỉnh Giáp non thần
    Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng"

    Dùng hai điển tích: Từ giấc ngủ chợt chiêm bao đến... liền đó để diễn tả sự say mê đắm đuối của chàng Kim, và mối tình của cả hai, nhất là đối với Kim Trọng vỡ tan như một giấc mộng hay chỉ là một giấc mộng, mãi đến 15 năm sau mới có thực khi Kiều được sum họp gia đình.
    Nghệ thuật diễn tả quá khéo.
    (Theo Ðiển tích Văn học- NXB Ðồng Tháp)
    FR
  4. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Bây giờ gương vỡ lại lành
    Sau 15 năm lưu lạc, Kiều được sum họp gia đình. Thuý Vân trước đã nhận lời thay Kiều làm vợ Kim Trọng và cũng được cha mẹ chấp nhận. Nhưng trong buổi tiệc đoàn viên, Vân đứng lên khuyên Kiều và Kim Trọng nối lại duyên xưa. Có câu:
    Những là rày ước mai ao
    Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình
    Bây giờ gương vỡ lại lành
    Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi
    Còn duyên may lại còn người
    Còn vừng trăng bạc còn lời nguyền xưa

    (câu 3069 đến 3074)
    "Tình sử" Trung Hoa chép:
    Nước Trần đời Xuân Thu có chàng nho sĩ tên Từ Ðức Ngôn theo hầu cận Thái tử có tình với công chúa Nhạc Xương. Cả hai tha thiết yêu nhau vừa được kết duyên chồng vợ.
    Gặp lúc nước Tần có loạn, giặc đánh vào kinh thành, tình thế nguy ngập. Công chúa bảo Từ:
    - Thế ta yếu, chạy loạn có thể vợ chồng ta có lúc phải xa nhau. Nếu tình duyên chưa dứt tất có ngày tái hợp. Ðể lấy làm tin, chàng giữ một mảnh gương này. Cứ ngày rằm tháng giêng, chàng sẽ đem ra chợ Trường An bán để làm tin gặp nhau.
    Ðoạn, công chúa cầm lấy chiếc gương của vợ chồng hằng ngày thường soi mặt, đập vỡ làm hai, chia nhau mỗi người giữ một mảnh.
    Giặc đột nhập kinh thành. Từ chạy thoát. Công chúa thất lạc, bị tướng giặc là Việt Công cưỡng bách làm vợ. Công chúa đau khổ vô cùng, muốn tự tử. Nhưng Việt Công cho người canh giữ nghiêm nhặt. Vả lại, Công chúa còn đặt hy vọng tìm cách báo tin cho chồng biết, hay chờ tin chồng sống chết thế nào trước khi nàng chết.
    Từ Ðức Ngôn từ khi chạy loạn, lưu lạc khắp nơi, không biết vợ ở chốn nào, nhưng nhớ lại lời dặn của vợ, nên đến rằm tháng giêng, đem mảnh gương ra chợ Trường An bán để tìm nhau. Người đi chợ thấy Từ bán mảnh gương vỡ thì ai cũng bật cười, cho là người mất trí.
    Ở TRONG CUNG CẤM, CÔNG CHÚA NHỚ LỜI DẶN TRƯỚC NÊN ĐẾN NGÀY RẰM tháng Giêng, nhờ đứa hầu thân tín đem nửa mảnh ra chợ, xem người nào có bán nửa mảnh gương, đem so vào hợp thành một cái gương lành thì bảo người ấy cho nàng biết tin tức ra sao.
    Thế là Từ biết vợ còn sống, hiện giờ làm vợ tướng giặc nên vô cùng đau đớn. Từ liền viết vào hai mảnh gương một bài thơ, nhờ đứa hầu trở về trao lại cho vợ:
    Người đi gương cũng đi
    Gương về người chưa về
    Hằng Nga đâu chẳng thấy
    Chỉ thấy trăng sáng thôi!
    Nguyên văn:
    Cảnh dữ nhân câu khứ
    Cảnh quy nhân vị quy
    Vô phục Hằng Nga ảnh
    Không lưu minh nguyệt luỵ!
    Tiếp được gương và thơ, Công chúa biết chồng còn sống, lòng đau như cắt, úp mặt vào gương khóc lóc bi thiết. Việt Công lấy làm lạ hỏi. Công chúa kể lại sự tình, và quyết chết để trọn tình chồng vợ mà thôi. Việt Công xem bài thơ, biết mình không giữ được Công chúa nên thả Công chúa trở lại cùng chồng.
    "Gương vỡ lại lành" (phá cảnh trùng viên) có ý nghĩa là sau khi ly tán được sum họp lại.
    Dùng điển cố rất sát ý.
    Lời nói thực chân tình của một con người trung thực, mộc mạc. "Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi", trời đã chọn lọc, quyết định cho cả hai (tức Kiều và Kim Trọng) kết thành chồng vợ với nhau rồi; vả lại hai người trước đã có lời thề nguyền với nhau thì cần phải giữ, cần phải thực hiện khi được gặp nhau, vì trước "gương kia đã vỡ nay gắn lại cho lành" là lẽ tất nhiên.
    Vân nói gọn gàng, vắn tắt.
    Vâng lời chị chung thân với Kim Trọng, Vân có buồn tủi thân phận chăng? Nay chị trở về, trả chồng lại cho chị tất chịu thân phận mình làm thứ thiếp, Vân có ganh tị, ghen tuông, hờn mát mà nói "lẫy" không?
    Vân, con người trầm lặng, khô khan, khó hiểu.
    Bút pháp của tác giả "Truyện Kiều" diễn tả tâm lý, tình cảm của nhân vật trong truyện rất điêu luyện, nhưng đối với Thuý Vân- được coi là nhân vật phụ nên tác giả diễn tả ở phần đầu đơn sơ quá. Phải chăng vì Vân là nhân vật phụ với bản tính mộc mạc, trầm lặng, một nhân vật tầm thường, không cần thiết nên không cần phải lưu ý?
    Ca dao ta có câu:
    ỚT NÀO LÀ ỚT CHẲNG CAY
    Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng
    Vôi nào là vôi không nồng
    Gái nào là gái có chồng không ghen
    Hay là:
    Có thương nên mới có ghen
    Không thương ai ở bạc đen mặc lòng
    Hoạn Thư, nhân vật của truyện qua bút pháp của tác giả- đã trở thành một nhân vật điển hình của một người vợ ghen sâu hiểm, có tri thức, có "tầm cở". Nàng bảo thẳng trước mặt Kiều:
    Lòng riêng riêng những kính yêu
    Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai

    (câu 2369 và 2370)
    Cho nên đối với tình địch:
    Làm cho nhìn chẳng được nhau
    Làm cho đày đoạ cất đầu chẳng lên
    Làm cho trông thấy nhãn tiền
    Cho người thăm ván bán thuyền biết tay

    (câu 1549 đến 1552)
    và:
    Làm cho cho mệt cho mê
    Làm cho đau đớn ê chề cho coi
    Trước cho bõ ghét những người
    Sau cho để một trò cười về sau

    (câu 1617 đến 1620)
    Dùng một loạt điệp từ "cho", ta có thể tưởng tượng một người đàn bà ghen tuông đưa tay xỉa xói, vừa nghiến răng trèo trẹo hét vào mặt tình địch với một giọng đanh đá "cho mày chết, cho mày chết"!
    Tâm lý, tình cảm chung của đàn bà. Tất cả đều có máu ghen. Nhiều hay ít. Có trí thức hay vụng về. Có nghệ thuật ghen hay không mà thôi.
    Ngược lại- cũng qua bút pháp của tác giả- Vân với Hoạn Thư là hai thái cực. Vân không biết ghen là gì chăng? Vân biết an phận tuỳ duyên "hồng nhan bạc phận" hay Vân là một người đần độn?
    "Trai năm thê bảy thiếp..." là một lẽ thường. Có chồng chung với chị hay chị chết thay chị làm vợ... cũng chả có sao. Phong kiến Trung Hoa đã chấp nhận, khuyến khích. Nhưng chế độ tàn khốc đối với nữ giới đó làm sao thống trị được tình cảm, tâm lý hay tiếng đập của con tim. Một nhà văn lãng mạn Pháp cũng đã bảo: "Trái tim có những lý lẽ mà lý trí không biết được" (Le coeur a ses raisons que la raison ne conait pas)
    Nếu đi sâu vào bản chất con người và sự việc, ta có thể nhận thấy Vân là một vai trò phụ, nhưng có lúc nàng trở nên một nhân vật chính yếu có tính cách quan trọng trong cuộc đời tình ái giữa Kim Trọng và Thuý Kiều.
    Kiều đã tuyệt vọng vì lỡ làng duyên tơ tóc với Kim Trọng nên xin Vân thay mình làm vợ Kim Trọng "gọi là trả chút nghĩa người", nhưng dẫu sao người đọc có thể nghĩ rằng: Kiều cũng có ý không muốn để mất Kim Trọng vào tay của một phụ nữ xa lạ nào khác. Vân đã làm tròn được vai trò này. Ví phỏng không có Vân thì tình tiết dẫn đến đoạn Kiều được sum họp với gia đình và đối với Kim Trọng sẽ ra sao một khi hoàn cảnh đã thay đổi khác: Kim Trọng kết hôn với một người phụ nữ không phải là Vân.
    Tuy ở một chế độ gia trưởng, nhưng kẻ làm cha mẹ có ai dám can đảm đứng ra tuyên bố rứt Kim Trọng trong tay Vân để trả lại cho Kiều? Tự Kim Trọng đương nhiên dám mở lời xin Kiều tái hợp duyên xưa với câu hết sức tán tụng Kiều "hoa tàn mà lại thêm tươi; trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa", để rồi "hai thân thì cũng quyết theo một bài"?
    Ai? Chỉ có Vân.
    "Gương vỡ lại lành", Vân là một nhân vật "mở gút" tuyệt đẹp, một nhân vật cần thiết, hy sinh tình cảm uẩn khúc của mình, thà mang tiếng mà nhà thơ nữ Hồ Xuân Hương đã nguyền rủa một cách căm hờn cay đắng:
    Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
    Và:
    Thân này ví biết dường này nhỉ
    Thà trước thôi đành ở vậy xong!
    Chửi cái kiếp lấy chồng chung, phải chăng nữ sĩ họ Hồ có ngụ ý chửi cả chế độ.
    Vân đem lại cho người đọc nhiều cảm tình. Tác giả Truyện Kiều diễn tả đơn giản quá, chỉ cho người một khái niệm: Vân mộc mạc, chất phác, con người chỉ sống bình lặng, hưởng thụ... đến độ xem như ngô nghê, ngốc nghếch không xa lắm... nhưng đó chỉ là ở giai đoạn đầu. Nay đến giai đoạn cuối, vai trò này lại nổi bật lên một cách bất ngờ, không giống các nhân vật khác mà tác giả đã diễn tả.
    Ðể nhân vật (Vân) dùng lời nói rất văn chương bóng bẩy theo ý định cương quyết (chịu làm phận lẻ mọn) được cho là nhiều nhất trong đoạn đời nàng, có thể để người đọc nhận xét, đánh giá một con người chất phác gần như ngô nghê đó vẫn chan chứa một tâm lý uẩn khúc, một trí thức biết người biết mình và một tình cảm rất đẹp... dành cho gia đình: cho cha mẹ, cho chị, cho chồng.
    Trong "Tam quốc diễn nghĩa", tác giả La Quán Trung diễn tả hành động của Ðiêu Thuyền, thực hiện "Liên hoàn kê" thành công, giết được tên ác bạo khát máu Ðổng Trác, về ở với Lữ Bố. Nhưng sau thất bại trận Hạ Bì, Lữ Bố bị Tào Tháo bắt giết chết đâu còn thấy bóng dáng Ðiêu Thuyền ở chỗ nào? Nhà phê bình Thánh Thán có lời cho rằng: "Nàng chính là con Rồng thiêng, chỉ lộ cái đầu, cái mình với đời mà không cho đời sau biết cái đuôi mình ẩn ở đâu hết. Có thể danh tiếng mới không bị tổn thương".
    Ở ĐÂY, TÁC GIẢ TRUYỆN KIỀU CÓ KHÁC. BẰNG VÀI NÉT CHẤM PHÁ ĐƠN giản cái đầu Rồng dẫn đến thân Rồng, cuối cùng cái đuôi Rồng rất sung mãn, làm tăng vẻ uy nghiêm cho toàn bộ con Rồng.
    Thuý Vân tất nhiên không phải là Ðiêu Thuyền đóng vai trò "con Rồng" đời Tam quốc, nhưng muốn nói đến tính cách diễn tả vai trò Vân qua bút pháp của tác giả Truyện Kiều. Vì giấu đuôi để "có thể danh tiếng mới không bị tổn thương" là một điều hay. Nhưng để lộ đuôi mà làm tăng danh tiếng mới là tuyệt diệu?
    Tất cả 14 câu. Trong truyện, đến bây giờ mới được nghe Vân nói nhiều nhất.
    (Theo Ðiển tích Truyện Kiều, NXB Ðồng Tháp)
    FR
  5. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh
    Tưởng nhớ Thuý Kiều, Kim Trọng thẫn thờ đi tìm chỗ ở của Kiều. Nhìn cảnh vật, bóng người đâu chẳng thấy, lòng mang một thất vọng nặng nề:
    "Thẳm nghiêm kín cổng cao tường
    Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh"

    (Câu 267 đến 268)
    Và, khi Kim Trọng may mắn gặp Kiều tại vườn hoa, chàng tỏ tình thương nhớ, yêu đương thì Kiều:
    "Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
    Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong
    Dầu khi lá thắm chỉ hồng
    Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha
    Nặng lòng xót liễu vì hoa
    Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa
    "
    (Câu 331 đến 336)
    "Lá thắm" là lá đỏ, do chữ "hồng diệp"
    Ngày xưa, triều vua nào cũng vậy, nhiều giai nhân tuyệt sắc trong nước bị tuyển vào cung làm cung hầu vua. Họ có đi mà chẳng có về, suốt đời chịu cảnh lạnh lùng, buồn duyên tủi phận gối lẻ chiếc bóng trong thâm cung. Chỉ có khi nào bị sa thải vì hết đẹp, vì già...
    Ðời Ðường (618- 907), triều Hy tông, có nàng cung nữ tên Hàn Thuý Tần cũng như bao cung nữ khác sống cô lạnh trong thâm cung. Buồn tủi cho số kiếp của mình, nàng thường nhặt những chiếc lá đỏ rồi đề thơ trên lá, thả xuống ngòi nước như mong nước trôi xuôi cuốn đi nỗi tâm sự u uất của mình:
    "Lưu thuỷ hà thái cấp
    Cung trung tân nhiệt nhân
    Ân cần tạ hồng diệp
    Hảo khư đảo nhân gian"
    Tạm dịch:
    "Nước chảy sao mà vội
    Cung sâu suốt buổi nhàn
    Ân cần nhờ lá thắm
    Trôi đến tận nhân gian"
    Chiếc lá chở bài thơ theo dòng nước chảy xuôi ra ngoài vòng cấm luỹ. Lúc bấy giờ có người môn khách của quan Tể tướng Hàn Vinh tên Vu Hựu vốn người phong lưu tài tử, thơ hay chữ tốt, chỉ hiềm nỗi vận chưa đạt nên đành chịu sống nhờ nơi quan Tể tướng họ Hàn. Ðương thơ thẩn ngắm dòng nước chảy, Vu Hựu bỗng nhìn thấy chiếc lá có bài thơ, lấy làm lạ liền vớt lên xem. Cảm tình chan chứa với người gởi thơ lạ mặt, chàng cũng nhặt một chiếc lá, viết một bài thơ vào đấy, đợi dòng nước xuôi mới thả lá xuống cho trôi trở vào cung:
    "Sầu kiến oanh đề liễu nhứ phi
    Thượng đương cung nữ đoạn trường thì
    Tư quân bất cấm đông lưu thuỷ
    Diệp thượng đề thi ký giữ thuỳ"
    Phan Như Xuyên dịch:
    "Nghe oanh thấy liễu chạnh lòng thương
    Thương kẻ trong cung lúc đoạn trường
    Chiếc lá đề thơ trôi mặt nước
    Gởi cho ai đó nói không tường"
    Nàng cung nữ họ Hàn thường ngồi thơ thẩn nhìn dòng nước chảy, bỗng bắt được chiếc lá chở bài thơ của người không quen biết, vừa mừng, vừa lấy làm lạ, liền đem cất vào rương son phấn.
    Non mười năm sau, vua mới lên ngôi, sa thải một số cung nữ cũ, trong đó có Hàn Thuý Tần. Nàng đến ở tạm dinh quan Tể tướng họ Hàn là chú họ của nàng, để chờ chuyến thuyền trở về quê nhà. Gặp Vu Hựu, cả hai trò chuyện hợp ý tâm đầu. Tể tướng họ Hàn thấy cả hai xứng lứa vừa đôi nên làm mối cho kết thành duyên giai ngẫu.
    Ðêm tân hôn, Hựu chợt mở rương son phấn của vợ, thấy chiếc lá của mình ngày xưa, chàng cũng đem chiếc lá của mình vớt được, đem cho vợ xem. Cả hai lấy làm lạ, đoạn nhìn nhau âu yếm mĩm cười. Thì ra cả hai giữ hai chiếc lá của nhau, cho là duyên trời định.
    Cảm xúc cảm tình, cổ thi có bài- nhưng có sách lại cho bài sau này do Hàn Thuý Tần làm ra:
    "Nhứt liên giai cú tuỳ lưu thuỷ
    Thập tải ưu tư mãn tố hoài
    Kim nhựt khước thành loan phượng lữ
    Phương tri hồng diệp thị lương môi"
    Nghĩa:
    "Một đôi thi cú theo dòng nước
    Mười mấy năm qua nhớ dẫy đầy
    Mừng bấy ngày nay loan sánh phượng
    Cũng nhờ lá thắm khéo làm mai"
    (Bản dịch của Vô Danh)
    "Chim xanh" tức là chim báo tin.
    Nguyên vua Võ Ðế đời nhà Hán đương ngự chơi ở vườn Thượng uyển, bỗng thấy có hai con chim xanh bay đến. Ðông Phương Sóc hầu bên tâu rằng: đó là sứ giả của Tây vương mẫu đến trước báo tin Tây vương mẫu sắp đến. Qủa nhiên, một lúc sau, Tây vương mẫu đến thăm nhà vua.
    "Chim xanh" được mượn chỉ sứ giả, người đưa tin.
    "Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh" có nghĩa là không có dòng sông thả lá thắm, không có lối chim xanh bay vào, ý nói không thông tin tức được với người bên trong. Xem như tất cả nỗi chờ mong gặp gỡ hay tin tức đều hoàn toàn tuyệt vọng.
    Ðoạn tả Kim Trọng có vẻ suồng sã, lả lơi với Kiều, Kiều khuyên có câu:
    "Vẻ chi một đoá yêu đào
    Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh"

    (Câu 503 đến 504)
    "Chim xanh" ở đây không còn có ý nghĩa chỉ sứ giả nữa, mà chỉ người mai mối. Kiều nói nhún mình: "Thân em là (một hoa đào) tầm thường trong vườn đào đáng giá gì mà không bằng lòng chấp nhận người mai mối (một khi chàng yêu) được chàng đưa đến... Vậy là Thuý Kiều "buộc" Kim Trọng phải thực hiện điều quan trọng đầu tiên hơn hết, rồi sau sẽ muốn gì thì muốn.
    (Theo Ðiển tích Truyện Kiều, NXB Ðồng Tháp)
    FR
  6. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Cầm đường ngày tháng thanh nhàn
    Thể theo lời căn dặn của Kiều, Kim Trọng lấy Thuý Vân làm vợ. Nhân hội chế khoa, Kim Trọng và Vương Quan đều thi đỗ "cùng chiếm bảng xuân một ngày". Kim Trọng được bổ làm tri huyện:
    Vâng ra ngoại nhậm Lâm tri
    Quan sơn nghìn dặm thê nhi một đoàn
    Cầm đường ngày tháng thanh nhàn
    Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao

    (câu 2873 đến 2876)
    "Cầm đường" nghĩa đen là đánh đàn; nghĩa bóng là nha quan huyện. Nguyên sách "Lữ thị xuân thu" có câu: "Bật Tử Tiện trị đơn phủ đàn minh cầm, thân bất hạ đường nhi Ðơn phủ trị". Nghĩa là Bật Tử Tiện cai trị huyện Ðơn phủ, gảy đàn cầm, THÂN KHÔNG XUỐNG KHỎI THỀM CÔNG ĐƯỜNG VÀ HUYỆN §ƠN PHỦ ĐƯỢC YÊN TRỊ. Ý KHEN CHÍNH lịnh của Bật Tử Tiện.
    Bật Tử Tiện là học trò của đức Khổng Tử, làm quan nước Tấn đời Xuân Thu, giữ chức Tri huyện. Khổng Miệt là cháu đức Khổng Tử cùng làm quan một thời với Bật Tử Tiện. Một hôm Khổng Tử đến viếng Khổng Miệt, hỏi:
    - Từ khi ngươi ra làm quan được những điều gì, mất những điều gì?
    Khổng Miệt thưa:
    - Từ khi tôi ra làm quan chưa được điều gì mà mất ba điều: việc quan bận, không còn thì giờ học tập, vì thế mà học vấn không tiến; bổng lộc ít không đủ chu cấp cho họ hàng, vì thế mà họ hàng không thân thiết; công việc nhiều không thể đi thăm người đau, viếng người chết, vì thế mà ăn ở với bầu bạn không trọn vẹn.
    Nghe nói, Khổng Tử không bằng lòng.
    Khi đến viếng Bật Tử Tiện, Khổng Tử cũng hỏi như thế. Bật Tử Tiện thưa:
    - Từ khi tôi ra làm quan chưa có điều gì mất mà có ba điều được. Những điều trước học nay đem ra thực hành, vì thế mà sự học càng rõ; bổng lộc dầu bạc cũng có thể chu cấp ít nhiều cho họ hàng, vì thế mà họ hàng càng gần; việc quan tuy bận nhưng cũng bớt được ít nhiều thì giờ đi thăm người đau, viếng người chết, vì thế mà bầu bạn càng thân.
    Khổng Tử nghe, khen cho là bực quân tử.
    Bật Tử Tiện giữ chức tri huyện, hằng ngày thường gẩy đàn rất thanh nhã mà công việc cai trị vẫn chạy đều, dân trong huyện được yên ổn làm ăn, đời sống vẫn no ấm. Về sau, ông được thăng bổ đi nơi khác, có Vu Mã Tử Kỳ đến thay. Tử Kỳ lại tất bật công việc ngày đêm, không lúc nào được thanh thản nghỉ ngơi, trong huyện mới được yên ổn. Tử Kỳ lấy làm lạ, thân đến hỏi Tử Tiện:
    - Tôi làm việc không nghỉ, đầu tắt mặt tối, công việc được thanh thản đã đành. Còn ông chỉ ngồi gảy đàn, uống trà, chẳng phải bận rộn gì mà công việc vẫn được chu tất là nghĩa làm sao?
    Bật Tử Tiện đáp:
    - Tôi chia việc và điều khiển những kẻ khác làm, còn ông tự làm lấy nên việc khó nhọc. Vả, việc cai trị là việc lớn cần phải có nhiều người làm. Ta cần biết dùng người tuỳ tài sức, tuỳ công việc mà giao trách nhiệm. Ðối với việc công có ích lợi cho nước, ích lợi cho mình, ai lại chẳng muốn gánh vác, riêng mình bao biện là tranh lấy việc người, tạo lòng căm ghét cho người thì mình cá nhân làm sao nên được việc. Ðó là tự mình gây mối loạn và gây khổ lấy mình.
    Tử Kỳ chắp tay bái phục:
    - Như thế quả tôi không bằng được ông
    "Cầm đường ngày tháng thanh nhàn" là thế.
    Triệu Biện, người đời nhà Tống khi được bổ làm quan Huyện chỉ đem theo một con hạc, một cây đàn mà không đem vợ con theo. Hằng ngày thường ngồi gảy đàn cho hạc múa xem rất thong dong, nhưng công việc trong huyện vẫn điều hoà, đời sống của dân được yên ổn, sung túc. Vì Triệu Biện biết dùng người để phân bố công việc.
    "Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao" là thế.
    Cả hai câu chứng tỏ Kim Trọng có tài cai trị như Bật Tử Tiện và Triệu Biện danh tiếng ngày xưa. Gảy đàn uống trà, gảy đàn cho hạc múa mà trị an đất nước, tạo được ấm no hạnh phúc cho dân.
    Gảy đàn ở đây có tính cách quan trọng. Nho gia vốn chú trọng về Nhạc và Lễ. Và đây cũng là cách lập giáo của Khổng Tử ở phần Hình nhi hạ học. Vì theo đạo Nho, nhạc cũng như lễ rất có ảnh hưởng về phương diện chính trị. Khổng Tử cho rằng: "Ðạo thanh âm thông với chính trị vậy" (Thanh âm chi đạo, dữ chính thông hĩ- Nhạc Ký, XIX); và "Xét cho kỹ âm nhạc để biết chính trị hay dở" (Thẩm nhạc dĩ tri chính- Nhạc Ký, XIX). Nhạc để khiến người ta đồng vui, đồng thương. Nhưng vui hay thương vẫn phải lấy sự điều hoà làm chủ. Do đó, Khổng Tử nói: "Vui mà không dâm, thương mà không hại" (Lạc nhi bất dâm, ai nhi bất thương- Luận ngữ: Bát dật, III)
    Như vậy, gảy đàn tức âm nhạc vốn có tính cách chính trị an nước an dân.
    (Theo Ðiển tích Truyện Kiều, NXB Ðồng Tháp)
    FR
  7. Bui_quy

    Bui_quy Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/02/2002
    Bài viết:
    156
    Đã được thích:
    0
    Hay quá, cám ơn bạn. Mình lâu rồi cũng thấy cuốn điển tích truyện Kiều nhưng không được chi tiết như bài của bạn. Cám ơn.
    All we are is dust in the wind
  8. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn Bui_quy, đọc tiếp nhé
    CÒN NHIỀU KẾT CỎ NGẬM VÀNH VỀ SAU
    KIỀU BỊ TÚ BÀ DỐI GẠT GIỮ TẠI LẦU NGƯNG BÍCH. Ở đây, Kiều gặp Sở Khanh. Tin lời khoác lác của Sở, Kiều tưởng hắn sẽ bỏ tiền ra mua chuộc nàng, cứu nàng thoát khỏi cảnh lầu xanh của mụ Tú Bà nên có lời tha thiết nói với hắn:
    Rằng: "Tôi bèo bọt chút thân"
    Lạc đàn mang lấy nợ nần yến oanh
    Dám nhờ cốt nhục tử sinh

    Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau"
    "Kết cỏ, ngậm vành" đều chỉ sự báo đáp ơn nghĩa.
    Ðời Xuân Thu (772- 480 trước DL) tướng nước Tần là Ðỗ Hồi đem quân đánh nước Tấn.
    Hồi là một lực sĩ, hình dung cổ quái, răng nhọn bén như lưỡi cưa, mắt tròn xoe như ốc nhồi, tay cứng như đồng, mặt đen như sắt, thân người cao lớn chuyên sử dụng cây khai sơn đại phủ (búa lớn) nặng 120 cân, người thuộc giống Bạch Ðịch, đánh trận chuyên đi bộ. Ðã có lần tại núi Thanh Mi, Ðỗ Hồi đâm chết 5 con hổ một lần, lột da đem về, và cũng có lần, Hồi chỉ huy 300 quân mà phá vỡ hơn 10.000 quân giặc ở núi Sa Nga. Thật là một quái nhơn mạnh tợn, khét tiếng lừng danh.
    Tướng của nước Tấn là Nguỵ Khoả đem quân ra nghênh chiến. Ðỗ Hồi dẫn 300 quân xông vào mặt trận, múa cây khai sơn đại phủ tung hoàng chém giết. Búa đến đâu là người bay văng lông lốc. Quân Tấn chết nằm ngổn ngang như rạ.
    Nguỵ Khoả vội rút quân, đóng chặt cửa thành giữ lấy thế thủ. Mặc dầu Ðỗ Hồi đến khiêu chiến, chửi rủi thậm tệ suốt cả mấy ngày, Khoả vẫn bất động như câm như điếc. Vừa lúc ấy có em của Khoả là Nguỵ Kỳ vâng lệnh vua Tấn, đem quân tiếp ứng. Khoả thuật cả sự việc lại. Kỳ không tin, hôm sau đem quân nghênh chiến.
    Ðỗ Hồi lại múa búa tả xông hữu đột, chém giết quân Tấn tơi bời, máu chảy tợ suối, Nguỵ Kỳ thua to. May nhờ có Nguỵ Khoả liều thân đổ quân tiếp cứu mới được về thành.
    Ðêm hôm ấy, Nguỵ Khoả ngồi buồn rầu, nghĩ quanh quẩn, không biết mưu kế gì phá được giặc. Ðương mơ màng, bỗng nghe văng vẳng tiếng người ở bên tai "Thanh thảo pha! Thanh thảo pha!". Ðến lúc tỉnh dậy, không hiểu nghĩa là gì mà chợp mắt ngủ lại thì cũng nghe như trước. Nguỵ Khoả thuật cho Kỳ biết. Kỳ nói:
    - Cách đây độ 10 dặm có một bãi cỏ tên Thanh thảo pha, có lẽ thần linh mách bảo quân Tần sẽ bị đại bại tại đó. Vậy tôi xin đem một toán quân mai phục sẵn, rồi anh lập kế dụ quân địch đến. Bây giờ hai bên đổ ra cùng đánh, chắc chắn sẽ thắng.
    Nguỵ Khoả bằng lòng.
    Sáng ra, Nguỵ Khoả giả cách truyền lệnh rút quân. Quả nhiên, Ðỗ Hồi xua quân đuổi theo. Nguỵ Khoả giao chiến qua loa một lúc rồi bỏ chạy, dụ Hồi đến Thanh thảo pha. Bấy giờ, quân mai phục của Nguỵ Kỳ ở hai bên bất thần đổ ra hợp quân với quân của Nguỵ Khoả vây chặt lấy Ðỗ Hồi. Hồi chẳng nao núng, múa búa tung hoành chống đánh như vào chỗ không người. Nhưng bỗng nhiên, Ðỗ Hồi đi một bước lại ngã chúi một cái như trượt hay bị dây quấn chân, giống như người say rượu nặng. Quân Tấn ngạc nhiên, reo ầm cả lên.
    Nguỵ Khoả cũng lấy làm ngạc nhiên, nhìn kỹ thấy bóng lờ mờ một cụ già mặc áo vải, chân đi giày cỏ đương kết cỏ lại làm vướng chân Ðỗ Hồi. Bấy giờ, Khoả và Kỳ xông lại bắt sống Hồi. Quân Tần mất tướng chỉ huy nên bỏ chạy tán loạn, bị quân Tấn đuổi bắt giết gần hết.
    Ðem Ðỗ Hồi về dinh, Nguỵ Khoả hỏi:
    - Mày cậy có sức mạnh, sao nay để bị bắt?
    Hồi uất hận trả lời:
    - Ta đương đánh, không biết có vật gì trói lấy chân ta làm cho ta ngã. Ðó là trời hại ta, chớ không phải ta thua.
    Nguỵ Khoả nghe nói càng lấy làm lạ. Thấy Hồi có sức mạnh phi thường, sợ đánh thoát được nên Nguỵ Khoả truyền đem giết ngay, cắt lấy đầu dâng lên vua Tấn. Ðêm đến, Nguỵ Khoả nằm mộng thấy cụ già kết cỏ ở Thanh thảo pha hiện đến chào, nói:
    - Tướng quân có biết tại sao Ðỗ Hồi bị bắt không? Tôi kết cỏ lại làm vướng chân hắn đấy.
    Nguỵ Khoả kính sợ, chắp tay đáp lễ, nói:
    - Tôi chưa biết cụ già bao giờ, sao cụ có lòng tốt giúp tôi như vậy? Tôi biết lấy gì đáp ơn cụ cho xứng đáng!
    Cụ già nói:
    - Tôi là cha của Tố Cơ. Tướng quân theo lời trị mạng của tiền nhân không chôn sống con tôi mà còn tìm chỗ xứng đáng gả con tôi lấy chồng. Vì cảm ơn ấy nên tôi giúp tướng quân để gọi là đáp nghĩa.
    Nói xong biến mất.
    Nguyên trước kia, cha của Nguỵ Khoả là Nguỵ Thù có một người thiếp tên là Tố Cơ. Mỗi khi Nguỵ Thù đi đánh giặc, thường dặn Nguỵ Khoả: "Nếu cha chẳng may chết ở chiến trường, con nên tìm chỗ tử tế mà gả Tố Cơ cho nàng khỏi phải khổ sở tấm thân. Cha dẫu chết cũng được yên lòng". Nhưng đến lúc Nguỵ Thù đau nặng, trước giờ phút chết lại bảo Nguỵ Khoả: "Tố Cơ là người thiếp yêu của cha. Khi cha chết rồi, con phải đem nàng mà chôn theo cha để cha ở suối vàng có người làm bạn"
    Nguỵ Thù chết. Nguỵ Khoả an táng cha nhưng không bắt Tố Cơ chôn theo. Nguỵ Kỳ hỏi tại sao không vâng lời cha trối lúc lâm chung thì Nguỵ Khoả đáp:
    - Thân phụ lúc nào cũng dặn ta sau này nên gả Tố Cơ lấy chồng. Nhưng đến lúc gần mất lại dặn phải đem chôn theo. Người con hiếu nên theo trị mạng (lời dặn trong lúc tỉnh) chớ không nên theo loạn mạng (lời dặn trong lúc mê).
    Sau, Nguỵ Khoả gả Tố Cơ cho một danh sĩ.
    Do đó, cụ già kết cỏ để đền ơn trả nghĩa.
    "Ngậm vành" do chữ "Hoàng tước hàm hoàn", nghĩa là do chim Hoàng tước ngậm vòng (vành)
    Ðời nhà Thương (1783- 1154 trước DL), triều vua Thái Mậu (1637- 1562 trước DL) có một chư hầu đem dâng cho nhà vua một chim Hoàng tước trống.
    Ðược chim quý, nhà vua truyền làm một chiếc ***g bằng vàng, chén ăn bằng ngọc và bắt quan thái giám chăm sóc cẩn thận. Nhưng chim ngày ngày vẫn ủ rũ, không nhảy nhót, kêu hót. Hằng ngày, ngoài vườn lại có con Hoàng tước mái từ đâu đến đậu, cất tiếng kêu ảo não. Hoàng tước trống trong ***g cũng cất tiếng ảo não họa theo. Và, từ đó ngày lại ngày, chim trống bỏ ăn bỏ uống.
    Thấy chim trống buồn, chim mái bi thương, nhà vua động lòng thương xót, truyền thả Hoàng tước trống ra. Ðược thoát khỏi ***g, trống mái sum họp. Ðôi chim bay lượn ba vòng chung quanh đền, cất tiếng hót véo von, giọng lảnh lót, hân hoan.
    Một thời gian, nhà vua đương ngự trên đền, bỗng thấy Hoàng tước trống bay đến, miệng ngậm một chiếc vòng. Chim lại sà trước mặt nhà vua, nhả chiếc vòng ngọc quý rồi vỗ cánh múa, tỏ vẻ tạ ơn đoạn bay đi.
    Lại có thêm một điển tích khác.
    Ðời Hậu Hán (25- 219) có cậu bé tên Dương Bảo, một hôm đi chơi bên cạnh một khu rừng. Thấy một chim sẻ vàng bị chim cắt đánh rơi xuống. Chim sẽ bị què chân, gãy cánh, quằn quại kêu la thảm thiết. Bảo đem về chăm sóc, đến khi chim lành mạnh liền cho bay đi. Một hôm có một chàng trai tuấn tú, mặc áo vàng đến nói với Bảo:
    - Tôi là sứ giả của bà Tây Vương Mẫu, chẳng may gặp nạn, may nhờ ông cứu, ơn ấy chẳng quên. Vậy xin dâng ông 4 vòng ngọc quý, chúng sẽ làm cho bốn đời nhà ông được hưởng phú quý, sang làm đến chức Tam công.
    Dương Bảo nhận lấy vòng, chưa kịp tạ ơn thì chàng trai áo vàng biến mất. Quả nhiên về sau, họ Dương bốn đời đều sang cả, vì những chiếc vòng ấy như nhắc nhở họ Dương đời đời làm điều thiện.
    Người làm ơn nghĩa không mong người đáp ơn trả nghĩa. Nhưng hành động đáp ơn trả nghĩa âu cũng có tác dụng khuyến khích người luôn luôn giữ nghĩa thi ơn làm tròn đạo lý.
    "Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau", Kiều mong được Sở Khanh cứu giúp Kiều thoát khỏi cảnh lầu xanh, sau này nàng sẽ đền đáp ơn sâu nghĩa nặng nhiều lần, mãi mãi chớ không phải một lần. Kiều nói một câu khẳng định và thuỷ chung. Vì thường tình có kẻ vong ơn bội nghĩa "tắm khi nào vuốt mặt khi nấy"; hoặc có vẻ đẹp một chút là trả ơn một lần coi là xong việc.
    Tác giả Truyện Kiều dùng tiếng "còn nhiều" làm tăng thêm phần giá trị nội dung cho điển tích; và cũng để người đời càng thẳng tay kết tội Sở Khanh, một người được Kiều coi là một vị cứu tinh, không ngờ là một tên bịp bợm tai ác.
    "Sở Khanh" trở thành một nhân vật điển hình bỉ tiện- một thành ngữ chỉ những tên lừa bịp tình cảm gạt gẫm lấy gái rồi bỏ.
    (Theo Ðiển tích Truyện Kiều- NXB Ðồng Tháp)
    FR
  9. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    CŨNG THẦN MÀY TRẮNG cũng phường lầu xanh
    Ðoạn diễn tả cảnh thanh lâu của Tú Bà, "Truyện Kiều" có câu:
    Giữa thì hương án hẳn hoi
    Trên treo một tượng trắng đôi lông mày
    Lầu xanh quen thói xưa nay
    Nghề này thì lấy ông này tiên_sư
    Hương hoa hôm sớm phụng thờ
    Cô nào xấu vía có thưa mối hàng
    Cởi xiêm trút áo chán chường
    Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm
    Ðổi hoa lót xuống chiếu nằm
    **** ong bay lại ầm ầm tứ vi

    (Câu 929 đến 938)
    Và, khi Kiều bị Bạc bà cưỡng bức lấy cháu của mụ là Bạc Hạnh làm chồng, để tên này đưa về Châu Thai, bán vào lầu xanh:
    Mượn người thuê kiệu rước nàng
    Bạc đem mặt bạc kiếm đường cho xa
    Kiệu hoa đặt trước thềm hoa
    Bên trong thấy một mụ ra vội vàng
    Ðưa nàng vào lạy gia đường

    Cũng thần Mày Trắng cũng phường lầu xanh"
    (câu 2143 đến 2148)
    "Lầu xanh" tên chữ là "thanh lâu"
    "Truyện Kiều" có dùng nhiều từ này ở nhiều câu:
    Lầu xanh có mụ Tú Bà
    Làng chơi đã trở già hết duyên

    (câu 809 và 810)
    Bạc tình nổi tiếng lầu xanh
    Một tay chôn biết mấy cành phù dung

    (câu 1159 và 1160)
    Lầu xanh mới rũ trướng đào
    Càng treo giá ngọc càng cao phẩm người

    (câu 1227 và 1228)
    Sá chi liễu ngỏ hoa tường
    Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh

    (câu 1355 và 1356)
    Quyết ngay biện bạch một bề
    Dạy cho má phấn lại về lầu xanh

    (câu 1391 và 1392)
    Một là cứ phép gia hình
    Hai là lại cứ lầu xanh phó về

    (câu 1419 và 1420)
    Hết nạn ấy đến nạn kia
    Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần

    (câu 2667 và 2668)
    Tào Thực, con của vua Nguỵ Tào Tháo, một nhà thơ nổi tiếng đời Tam quốc (220- 280), có câu:
    Thanh lâu lâm đại lộ
    Cao môn kết trùng quan
    Nghĩa:
    Lầu xanh bên đường lớn
    Cửa cao mấy lần then
    Ngày xưa, lầu xanh là nơi các nhà quyền quý, những thiếu nữ khuê các ở. "Ðại lộ khởi thanh lâu" tức đường lớn dựng lầu xanh
    Nhà Tề, vua Võ Ðế bắt dân phu và Bộ công kiến trúc những lầu cao thực đẹp. Cửa đều sơn màu xanh. Nơi này vốn để nhà vua ở cùng với mỹ nữ cung tần. Dần dần lâu đài của hàng công khanh cũng sơn cửa màu xanh. Do đó, dân chúng bấy giờ gọi chỗ vua chúa, công khanh ở là "lầu xanh"
    Về sau, những nhà quyền quý có con gái đẹp, ước mong con nhà mình được vào hầu vua trong cung nên cũng sơn nhà màu xanh cho con gái ở. Nhà nào cửa sổ hoặc lầu đài sơn xanh là nhà có gái đẹp, coi như một cách ... quảng cáo để hàng vương tôn, công tử chú ý. Thế rồi, bọn buôn son bán phấn đem gái đẹp mở nhà rước khách thưởng hoa, muốn quyến rũ khách chơi hoa hay các bậc vương tôn, công tử tìm thú tiêu khiển nên cũng sơn nhà màu xanh đón khách lấy tiền.
    Ý NGHĨA "LẦU XANH" BIẾN ĐỔI, DẦN DẦN TRỞ THÀNH một nhà chứa gái, nuôi gái mãi dâm. Vì thế, đời nhà Lương, nhà thơ Lưu Diễn có câu:
    Xướng nữ bất thăng sầu
    Kết phát hạ thanh lâu
    Nghĩa:
    Gái hát chẳng xiết buồn
    Vén tóc xuống lầu xanh
    Ðỗ Mục, thi hào đời nhà Ðường có bài:
    Sở yêu tiên tế chưởng trung khinh
    Thập niên nhất giác Dương châu mộng
    Doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh
    Nghĩa:
    Quảy rượu lang thang khắp đó đây
    Lưng thon gái Sở nhẹ trên tay
    Mười năm tỉnh giấc Dương châu mộng
    Ðể lại lầu xanh tiếng mặt dầy
    (Bản dịch của Bùi Khánh Ðản)
    Có lẽ vì bị bọn "lầu xanh" này lấn chiếm màu xanh, nên các nhà cao sang quyền quý có gái đẹp đổi sang màu hồng, nên có tiếng gọi là "lầu hồng" (hồng lâu), chỉ chỗ ở của gái đẹp.
    ở các lầu xanh ngày xưa, các mụ Tú Bà thường dựng một bàn hương án giữa nhà, có treo một tượng đồ. Tượng này vẽ một vị tướng có đôi mày trắng, gọi là thần Bạch Mi (thần Mày Trắng).
    Sách "Dã hoạch biên" có chép: các thanh lâu thường thờ thần Bạch Mi. Thần này mặt đỏ, râu dài, cỡi ngựa, cầm đao, xem na ná như hình Quan Công đời Tam Quốc mặt đỏ nhưng lông mày trắng. Sách không ghi lai lịch thần Mày Trắng ra sao?
    Nguyên đời Xuân Thu, Quản Di Ngô tức Quản Trọng được Tề Hoàn công vời đến, bàn về quốc sách trước khi được phong làm Tể tướng, có hỏi: làm sao có của đủ dùng trong nước? Quản Trọng hiến kế thưa: khai mỏ để đúc tiền, nấu nước biển làm muối cho lợi chung cả thiên hạ, buôn để một chỗ, đợi dịp cao mà bán ra lấy lãi; lập 300 nhà nữ lư cho khách buôn bán đi lại tụ họp mua vui để lấy thuế...
    Lập "nữ lư" tức là lập nhà chứa gái để khách mua vui. Ðể họ làm lén hay khi khách mua hoa- nhất là hạng thương buôn thì không biết có chỗ. Thế là bọn gái nầy vừa có tiền, lợi cho cá nhân vừa nộp thuế làm lợi cho nhà nước. Thì ra Quản Trọng quả có sáng kiến... kinh doanh cho nhà nước!
    "Nữ lư" có thể được coi như một tổ chức lầu xanh đầu tiên. Cho nên, nghề làm ăn này "thì lấy ông nầy tiên_sư", suy tôn là một vị tổ để cầu cho được phát đạt, cửa hàng đông khách cũng như nhiều nghề khác... đều có tổ!
    Quản Trọng có đôi mày trắng như trong tranh vẽ, được Hoàn công nước Tề phong làm Tể tướng, lại còn được các lầu xanh tôn là thần Bạch Mi làm tổ của nghề.
    Ðời nhà Minh (1368- 1648), các lầu xanh có tục lạ là đuổi vía, khi cô nào vắng khách, bị ế hàng thì đến trước thần Mày Trắng, trút bỏ cả quần áo, đốt hương van vái, cầu nguyện. Ðoạn lấy hoa mới cúng trên bàn thờ đem lót ở chiếu mình nằm, tất sẽ đắt khách hàng. Họ mê tín như thế.
    "Truyện Kiều", hai tiếng "đoạn trường" được tác giả nói rất nhiều, thì tiếng "lầu xanh" cũng được nhắc đến khá lắm. Phải chăng, tác giả cảm thông nỗi đau lòng của một người có tài sắc vì hoàn cảnh xã hội mà sa chân vào lầu xanh. Mà vào lầu xanh tức là vào cảnh đoạn trường, thuộc hàng đệ tử của thần Bạch Mi.
    (Theo Ðiển tích Truyện Kiều, NXB Ðồng Tháp)
    FR
    Được falling-rain sửa chữa / chuyển vào 05:54 ngày 07/12/2002
  10. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Thật là thú vị, khì mà mình lập cái topic này trước bạn mấy ngày, nhưng mà không biết làm sao, lập xong, hôm sau lại lại không thấy(chắc là do lỗi kĩ thuật của TTVN). Rùi mình cũng không lập lại nữa, hôm nay lên lại thấy 1 cái topic :điển tích truyện Kiều, lạ quá!!!?????Vui nẵu???
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.

Chia sẻ trang này