1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

ĐIỂN TÍCH TRUYỆN KIỀU

Chủ đề trong 'Văn học' bởi falling-rain, 04/12/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    "ậy", HTy xem thế nào chứ nhỉ?
    Mà sao bạn không đọc được vậy nhỉ?
    FR
  2. annonymous

    annonymous Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/03/2002
    Bài viết:
    2.070
    Đã được thích:
    0
    Thây o trong trang Viêt hoc dang co câu dô:
    Nghe ra(`ng em thuô.c làu Kiê`u
    Dô' em kê? duo.c mô.t do`ng toa`n Nôm!

    và:
    Nghe ra(`ng em thuô.c làu Kiê`u
    Dô' em kê? duo.c hai do`ng toa`n Nôm!

    Dong o dây hiêu là 1 cap 2 câu 6-8, kho phê't dây!
    Gót danh lợi bùn pha sắc xám
    Mặt phong trần nắng rám mùi dâu
    Nghĩ thân phù thế mà đau
    Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê
  3. HTYCG

    HTYCG Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    18/03/2002
    Bài viết:
    557
    Đã được thích:
    0
    ậy tha cho HTy nhé ... lần cuối mà
    ---------------------------
    1) Đố Kiều thì lại thưởng Kiều,
    Thưởng người giải trúng một điều như sau:
    Truyện Kiều ai đã thuộc lòng,
    Đố ai nói được hai dòng toàn Nôm?
    Vân Hạc trong cuốn Truyện Kiều Chú Giải cho rằng hai câu
    "Này chồng, này mẹ, này cha, / Này là em ruột, này là em dâu." (Kiều, hg. 2981-2982) mà .. đã nêu ra là "thuần chữ Nôm" (sđd., tr. 563).
    "Lần lần tháng trọn ngày qua,
    Nỗi gần nào biết đường xa thế này"
    Chữ thuần Nôm hay chữ sáng tạo gồm có ba loại: Hình Thanh, Hội Ý, và Hội Thanh.
    *********
    2) Đố Kiều thì lại thưởng Kiều,
    Thưởng người giải trúng một điều như sau:
    Truyện Kiều ai đã thuộc lòng,
    Đố ai nói được hai dòng toàn Nho?
    Sinh càng thảm thiết bồi hồi
    Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua
    Hy vọng góp ý lần cuối ...
    Dựa vào FURUM của ... Việt Học và sách chú dẫn Kiều ...
    Được htycg sửa chữa / chuyển vào 22:45 ngày 02/01/2003
  4. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Mặn tình cát luỹ lạt tình tao khang
    Kiều và Thúc Sinh bấy giờ được sống chung nhau. Thời gian non một năm, Kiều lo ngại có sự xảy ra không may giữa Kiều và vợ cả của Thúc Sinh, nên mới "bày tình riêng chung", tức là tình riêng giữa Kiều với Thúc Sinh, và tình chung là tình giữa Thúc Sinh với Kiều và vợ cả- mới giục Thúc Sinh về thăm nhà. Có câu:
    Phận bồ từ vẹn chữ tòng
    Ðổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên
    Tin nhà ngày một vắng tin
    Mặn tình cát luỹ lạt tình tao khang
    Nghĩ ra thật cũng nên dường
    Tăm hơi ai kẻ giữ giàng cho ta?
    (câu 1477 đến 1482)
    Ðời nhà Hán, Tống Hoằng nhà nghèo, có chí học tập. Vợ chồng sống đạm bạc, vất vả nhưng vẫn yêu quý nhau. Tống Hoằng sau thi đỗ làm quan triều Hán Quang Võ đến tước Thượng Khanh.
    Nhà vua có người em gái tên Hồ Dương, chồng sớm mất, nàng còn trẻ đẹp. Thấy vợ của Tống Hoằng mộc mạc, quê mùa, nhà vua có ý muốn gả cho Tống Hoằng làm thiếp, mới ướm hỏi Tống Hoằng:
    - Trẫm từng nghe trong thiên hạ bảo: giàu đổi bạn sang đổi vợ, có phải thế không?
    Tống Hoằng thưa:
    - Muôn tâu: "Tao Khang chi thế bất khả hạ đường; bần tiện chi giao bất khả phong".
    Nhà vua biết ý của Tống Hoằng nên không đặt thành vấn đề nữa.
    "Tao" là bã rượu, "Khang" là cám gạo. Người vợ cùng với mình ăn bã rượu và cám gạo (ý nói ăn ở với nhau từ lúc nghèo nàn) không nên để xuống dưới nhà (ý nói không nên ruồng bỏ); người bạn chơi với mình từ lúc nghèo hèn không nên quên.
    Ðời Xuân Thu, vua Cảnh Công nước Tề có người con gái yêu quý, muốn gả cho QUAN TỂ TƯỚNG LÀ ÁN TỬ (ÁN ANH). MỘT HÔM, NHÀ VUA ĐẾN DỰ TIỆC NHÀ CỦA ÁN TỬ, THẤY VỢ ÁN TỬ, HỎI:
    - Phu nhân đấy phải không?
    ÁN TỬ THƯA:
    - Vâng, phải đấy.
    Nhà vua nói:
    - Ôi, người trông sao vừa già vừa xấu! Quả nhân có đứa con gái trẻ và đẹp muốn cho về hầu, khanh nghĩ sao?
    ÁN TỬ ĐỨNG DẬY, THƯA:
    - Nội tử tôi thật già và xấu nhưng cùng tôi chung sống từ lúc còn trẻ và đẹp. Xưa nay đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ cậy lúc già, lúc đẹp cốt để nhờ cậy lúc xấu. Nội tử tôi thường nhờ cậy tôi mà tôi cũng đã nhận sự nhờ cậy ấy. Nay nhà vua tuy muốn ban ơn, chắc cũng không nở để cho tôi ăn ở bội bạc với những điều mà nội tử tôi đã nhờ cậy tôi bấy lâu nay.
    ĐOẠN, ÁN TỬ LẠY HAI LẠY, XIN TỪ CHỐI.
    Trong thơ "Lục Vân Tiên" của cụ "Nguyễn Ðình Chiểu", đoạn Võ Thể Loan tiễn Lục Vân Tiên đi thi, có câu:
    Chàng dầu gặp hội biển vàng
    Thiếp xin vẹn chữ tao khang đạo hằng
    Xin đừng tham đó bỏ đăng
    Có lê quên lựu có trăng quên đèn
    Bài "Dạ cổ hoài lang" của ta cũng có câu:
    Từ (là từ) phu tướng
    Bảo kiếm sắc phong lên đàng
    Vào ra luống trông tin chàng
    Thêm đau gan vàng
    Trông tin chàng
    Gan vàng thêm đau.
    Chàng dầu say ong ****
    Xin đó đừng phụ nghĩa tao khang
    ..........
    "Tao Khang" là tình vợ chồng ở với nhau khi lúc còn nghèo nàn, thì khi giàu sang có quyền thế, địa vị không nỡ bỏ nhau.
    "Mặn tình cát lũy"... "Cát luỹ" là sắn bìm, một loại dây leo cũng như "cát đằng" (đằng là cây mây): "Cũng may dây cát được nhờ bóng cây", "tuyết sương che chở cho thân cát đằng" chỉ người vợ lẽ; "tao khang" ở đây chỉ người vợ cả, mặc dù Thúc Sinh và vợ là Hoạn Thư toàn hạng giàu sang (dòng quan lại và thương buôn), có ăn "bã rượu và cám gạo" gì đâu, nhưng đã chung sống từ xưa.
    Ở đây, tác giả diễn tả cái tình trung thực của Kiều, một là tự nhận mình làm phận lẽ mọn, hai là khuyên Thúc Sinh đừng quá say mê (mặn tình) với vợ lẽ là Kiều mà quên hay nhẹ đi mối tình (nhạt tình) đối với vợ cả là Hoạn Thư. Tình trung thực ấy ấy đi đôi với trí thông minh của Kiều là nàng đã nhận biết sớm muộn gì, việc chung sống giữa nàng và Thúc Sinh cũng bị lộ "tăm hơi ai kẻ giữ giàng cho ta", tất khó giữ được tính ghen tuông nguy hiểm của người vợ cả:
    E thay những dạ phi thường
    Dễ dò rốn biển khôn lường đáy sông!
    (câu 1485 đến 1486)
    Cho nên nàng khuyên Thúc Sinh nên về thăm vợ:
    Xin chàng lại kíp về nhà
    Trước người đẹp ý sau ra biết tình

    (câu 1491 đến 1492)
    Như vậy là để vợ cả (người) đẹp lòng, vui vẻ; sau là để biết rõ tình ý vợ cả (Hoạn Thư) đối với việc Thúc Sinh lấy Kiều.
    Ở đây, người đọc thấy Kiều có tình nghĩa và rất thông minh. Ðáng tiếc, Thúc Sinh tuy về nhà nhưng lại không nghe lời Kiều, để giải bày sự thực về việc Thúc Sinh với Kiều, vì chàng họ Thúc này thấy vợ vẫn giữ vẻ cười nói đằm thắm như thường, nên:
    Nghĩ đã bưng kín miệng bình
    Nào ai có khảo mà mình lại xưng
    (câu 1577 và 1578)
    Do đó, gây nên một thảm cảnh cho Kiều vì tay một người đàn bà ghen tức sâu hiểm... sau này.
    (Theo Ðiển tích Truyện Kiều, NXB Ðồng Tháp)
    FR
  5. HTYCG

    HTYCG Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    18/03/2002
    Bài viết:
    557
    Đã được thích:
    0
    Lữ khách dừng chân nơi quán vắng (1 chiều cuối thu)
    bụi đường đen lấm .. phủ vó câu
    Thiền môn là chốn .. Am thanh tịnh
    chuyên tình khó nói ... người áo nâu (Chú tiểu Lan )
    Lữ khách .. trên tay 1 đôi kiếm
    chú tiểu thân gầy ,,, trong gió bay
    xin đừng chuông động ... gió lay
    Nam mô .. niệm phật cõi này .. thực hư ?
    Lữ khách về đâu ,,, nặng tâm tư
    đông về tuyết lạnh ,,, báo tàn thu
    sân chùa ,,, bụi trắng - vườn Hoa tuyết
    đêm về ,, khách trở bệnh tương tư
    Lữ khách quên sầu trong cơn say
    ngoài kia gió thổi ,, tuyết bay bay
    Men rượu cuồng say dâng phẫn nộ
    không thương không nhớ ,,, tiên có hay ?
    May 2002 Nhâm Ngọ.
    ----------
    Lữ khách xin người dừng chân lại
    Bụi trần vương áo dễ lấm tay
    Cửa thiền như nước đêm trăng lọc
    Đừng để lệ rơi, vẩn chốn này
    Lữ khách xin người đừng chắp tay
    Ta như ngọn cỏ chỉ thân gầy
    Đừng làm rung động cho thêm tội
    Tâm tuệ đã tròn chân đã quay
    Lữ khách người đừng ru gió may
    Thu sang kéo lá đổ nơi này
    Sân chùa chữ Tịnh thanh cao lắm
    Lòng ta hoảng rồi người có hay
    Lữ khách xin người bớt chén Say
    Chữ Cuồng như gió cuốn trong mây
    Mở tình một chút quên đi Nộ
    Mà nhớ rằng ta đợi chốn này
    Collogne , Hà Nội , TTVNonline ( Trần Thu Trang )

    ... nhưng em đã biết: " 1 ngày Anh có em, một ngày T. có anh; tình yêu đó là thiên thu .. "

    Được HTyCG sửa chữa / chuyển vào 06:46 ngày 04/01/2003
  6. Hoabaoxuan

    Hoabaoxuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/10/2002
    Bài viết:
    1.232
    Đã được thích:
    0
    Về việc nàng Kiều tại sao lại phải 15 năm lưu lạc mà không dài hơn, không ngắn hơn... như bác HTYCG đã hỏi, đó không phải là ý của ND, cũng không phải là do Nguyễn Du đi sứ ở TQ đến 15 năm trời, đó là do ở trong cuốn Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài nhân và trong lịch sử, nàng Kiều có thật cũng đã phải trải qua 15 năm đoạn trường. ND lúc viết truyện Kiều không sửa đổi về thời gian lưu lạc của nàng...
    Còn về ngọn nghành của việc ND viết Kiều thì đến nay không có ai dám nói là nắm được, người ta chỉ dựa vào TK và vào cuộc đời của ND để bàn mà thôi. Dưới đây là một đoạn trích từ trong tiểu thuyết Ba trăm năm lẻ của tác giả Vũ Ngọc Khánh - NXB Văn hoá - 1988. Em xin post vào để các bác nghiên cứu. Theo ý kiến chủ quan của em thì tác giả cũng đã hé được một chút gì đó ở phía sau bức rèm lịch sử cho người đọc nhưng còn nặng về diễn giải và cắt nghĩa, độc thoại... Tóm lại là hành văn không hay. Em chỉ trích một đoạn ngắ thôi nhé, em chẳng có nhiều thời gian lắm đâu, các bác thông cảm cho em!
    Đoạn trích này nằm trong chương VII - có tựa là "Cảo thơm lần giở trước đèn"...
    Không có ai là người tri kỷ, không muốn tâm sự với ai, song thực ra ND không tự kéo dài cuộc sống vô vị chán chường. Ông vẫn có một nơi gửi gắm niềm riêng. Đó là Thơ. Ông làm thơ rất nhiều: thơ tâm tình, thơ tức cảnh... Hồi còn ở Bắc, những bài thơ ông viết góp lại đến hai tập, đặt tên là Thanh Hiên tiền hậu tập. Vào làm quan trong Nam, ông có Nam trung tạp ngâm. Đi sứ nước ngoài, ông có Bắc hành tạp lục. Thơ ông làm nhanh chóng, đặt bút nên vần, nhưng sự suy tư thì khắc khổ. Mặc cho người đời tham danh trục lợi, mặc cho cả những việc triều đình dinh trấn bộn bề phức tạp, Tố Như chỉ biết có lặng lẽ suy tư và âm thầm sáng tạo. (....)
    Tố Như đã từ lâu ủ ấp một niềm hoài vọng. Ước mơ nhóm lên từ dạo về ở ẩn dưới mái non Hồng. Không, có lẽ còn xa hơn. Ông đã sống những ngày tuổi trẻ dồi dào phong vị văn chương trong xóm Bích Câu, giữa kinh đô Thăng Long văn vật. Ở đó nét thời thượng rõ nhất là văn chương quốc âm rất thịnh đạt. Họ hàng nội ngoại của ND, nhiều người nổi bật và như cũng có phần kín đáo đua tranh học hỏi lẫn nhau. Các ông Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Trọng, Nguyễn Khản rồi Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiện đều sành văn Nôm. Đặc biệt là Nguyễn Huy Tự đã sáng tác được truyện Hoa Tiên. Trong những ngày nhàn tản dưới chân núi Hồng, ND được đọc kỹ và rất tâm đắc với với tác phẩm của người cháu rể hơn tuổi này. Tác phẩm chưa làm ông vừa ý, song rõ ràng nó đã vượt xa những cuốn truyện Nôm đã được lưu hành. NHT đã biết mô tả thiên nhiên, lại còn dám đi sâu vào mối tình của những cặp trai gái dậy thì, khá gần gũi với phong cách của những giai nhân tài tử. NHT cũng đã học được ít nhiều kinh nghiệm viết truyện của những người xưa bên TQ, như cách viết của tác giả Tây Sương Ký. Thế là quí lắm. Nước Nam mình đã có sách "tài tử" xứng đáng với nền văn hiến xưa nay. ND nghĩ thế và cũng nảy ra ý kiến chọn lựa một đầu đề, gắng sức sử dụng văn quốc âm là loại văn ông ham thích. Ông đã tự mình thử thách với bài văn Nôm, văn tế. Nhưng đây là viết truyện. Viết truyện dài hơi và gửi gắm nỗi lòng được đầy đủ hơn.
    Trong hàng trăm cuốn sách được đọc, ND đã để ý đến cuốn Kim Vân Kiều truyện của TTTN. Ông đọc đi đọc lại và lặng lẽ tìm hiểu về lai lịch của nó. Gốc gác là câu chuyện thực về một viên quan triều đình có công dẹp giặc, nhưng dần dần đã trở thành truyện về cuộc đời chìm nổi của một kỹ nữ giang hồ. Đáng trọng thay tác giả TTTN đã tư kiệu phong phú để viết thành cuốn tiểu thuyết dày dặn, chứa đựng khá nhiều vấn đề, nhiều chi tiết tâm dắc với mình! ND nghĩ thế và ông quyết định gắn bó với câu chuyện này. Câu chuyện từ đó ám ảnh ông... (... em bỏ đoạn ND suy nghĩ và viết K. nhu thế nào nhé, chỉ nêu hoàn cảnh và nguyên nhân thôi mà!....)
    ....
    Cốt truyện ông đã mượn của TTTN, nhưng tấm lòng là của ông. Cũng như các nhân vật dựng lên, ông đều đã gửi gắm được phần riêng tư trong đó. "Tất cả là ta trong tập truyện này. Xin gửi lại cho đời, xin gửi lại cho tát cả những kiếp tài hoa trong cõi thế! Cuộc dời xưa - mà nhất là hôm nay, vốn là bể khổ, đã chôn vùi bao nhiêu nhân cách tâm hồn, và chác không phải là hiếm, những tiếng kêu thương bật lên giữa những đêm trường thế kỉ. Ta xin gửi vào đó một tiếng kêu ai oán nữa, tiếng kêu chân thành, bi thiết nhất, xuất phát từ cõi lòng ta! " Đây cũng là tiếng kêu đứt gan đứt ruột của ta đây? ND nắm chặt lấy bản thảo của mình, trân trân nhìn vào từng dòng, từng chữ. Nước mắt ông bỗng trào ra, giàn dụa. Không lấy khăn để lau dòng lệ, ông lại rút ra một tờ giấy trắng, trịnh trọng ghi lên mấy chữ. Vừa ghi, ông vừa nói một cách khẩn cầu, tha thiết, cũng không nhận ra là mình nói với ai:
    "Xin đặt tên cho cuốn truyện này là cuốn Đoạn trường tân thanh"

    Một vài điều gửi tới các bác thế nhé, nhất là chị FR và bác HTYCG. Có gì nữa thì sẽ bàn lại sau!!!!!!
    *********
    Lòng em cát bụi kinh thành
    Đa đoan vó ngựa, chung tình bánh xe!
    ************
    Được hoabaoxuan sửa chữa / chuyển vào 17:09 ngày 05/01/2003
  7. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Cây đàn của Thúy Kiều
    Giáo sư Trần Văn Khê
    Năm 1976, sau buổi nói chuyện của tôi về giá trị âm nhạc dân tộc Việt Nam tại trường âm nhạc Hà Nội, một giảng viên về văn học cho sinh viên trường nhạc có đặt câu hỏi:"Từ lâu, tôi thắc mắc chẳng biết rõ Thúy Kiều dùng cây đàn gì? Xin anh giải đáp cho nếu anh có dịp nghiên cứu về vấn đề ấy?"Anh thắc mắc là phải. Vì khi giới thiệu nhân vật Thúy Kiều, cụ Nguyễn Du đã cho chúng ta biết rằng:
    Cung thương là bực ngũ âm
    Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một chương

    mà hồ cầm thường dùng chỉ một cây đàn của "thợ Hồ" tức là không phải đàn Trung Quốc. Người Trung Quốc gọi đàn nhị là nhị hồ (erhu) hay là hồ cầm (huquin). Nhưng đàn nhị chỉ có hai dây lại có cung kéo, đàn của Thúy Kiều có bốn dây, lại có khảy và nhấn. Khi đàn cho Kim Trọng nghe thì nàng đã:
    So lần dây Vũ dây Vân
    Bốn dây to nhỏ theo vần Cung Thương

    lúc bị Hoạn Thư bắt thì phải đàn cho Thúc Sinh nghe:
    Bốn dây như khóc như than
    Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng

    sau khi Từ Hải chết, nàng phải đàn cho Hồ Tôn Hiến nghe thì:
    Một cung gió tủi mưa sầu
    Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay

    Ðã là hồ cầm mà có bốn dây thì chỉ có đàn tỳ bà - người Trung Quốc và Triều Tiên gọi là pipa, người Nhựt Bổn gọi là biwa. Người Trung Quốc cũng gọi đàn pipa là huqin, tức là hồ cầm, vì đàn ấy không phải do người Trung Quốc chế ra mà của dân tộc vùng Tây á đem vào. Giáo sư Nhựt Tanabe Hisao và Kishibe Shigeo cho rằng đàn pipa có thể bắt nguồn từ đàn barbat của người Ba Tư, đã theo con đường buôn bán tơ lụa ngày xưa mà nhập vào Trung Quốc, rồi sau đó sang Triều Tiên, Nhựt Bổn, Việt Nam: chính vì vậy trong các quyển truyện Kim Vân Kiều, người ta thường vẽ Thúy Kiều ôm đàn tỳ bà. Khi Thúy Kiều đàn cho Hồ Tôn Hiến nghe đến chảy máu năm đầu ngón tay, làm cho Hồ cũng ?onhăn mà rơi châu", trước khi nàng được xin phép về, có than phận mình:
    Còn chi nữa, cánh hoa tàn
    Tơ lòng đã đứt, dây đàn Tiểu lân

    Tiểu Lân là Phùng Tiểu Lân, vợ vua nước Tề, đàn tỳ bà rất hay. Sau khi nghe vua nước Tề bị giặc giết, vua Võ Ðế nhà Châu bắt Tiểu Lân gả cho vua Ðại Vương tên Ðạt. Nhân khi đàn đứt dây, đã làm bài thơ:
    Tuy tụ kim nhựt sủng
    Du tích tích thời duyên
    Dục tri âm đoạn tuyệt
    Ưng khán tất thương huyền
    Trong quyển Kim Túy Tình Từ, mà theo giáo sư Thuần Phong thì do chính cụ Nguyễn Du chú giải, có bài thơ nôm dịch như sau đây:
    Tuy là yêu mến ngày nay
    Hãy còn nhớ tiếc những ngày trước kia
    Nếu muốn biết ruột gan lìa
    Thì nên xem lấy dây kia trên đờn.
    Cây đàn của Thúy Kiều chắc chắn sẽ là đàn tỳ bà, nếu không có câu:
    Hiện sau treo sẵn cầm trăng
    Vội vàng, Sanh đã tay nâng ngang mày

    Kim Trọng thấy cây cầm trăng tức nguyệt cầm - gọi như thế là vì thùng đàn hình tròn như trăng rằm - đã nâng đàn ngang mày mời Thúy Kiều so dây nắm phím. Thùng đàn tỳ bà hình bầu dục như nửa trái lê, làm sao tròn như trăng được? Nếu mà đàn nguyệt thì thùng đàn tròn mà đàn chỉ có hai dây lại không mang tên là hồ cầm. Như thế không ổn chút nào cả. Huống chi là dưới thời cụ Nguyễn Du, tức là vào khoảng gần nửa thế kỷ thứ 18, thì nước ta có một cây đàn mà thùng tròn, cần dài mang tên là "cái đàn song vận". Trong sách Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Ðình Hổ, có nói đến ?ođàn đáy, đàn tranh gảy bằng tiếng tơ", và "gần đây mới chuộng đàn nguyệt, thứ hồ cầm đời cổ còn gọi tên đàn là Nguyễn cầm", bởi ông Nguyễn Hàm đời Tấn chế ra, mà không nói đến cái đàn song vân. Chỉ trong bộ Ðại Thanh hội điển sử lệ, quyển 528, tờ số ba, có đoạn nói về dàn nhạc nước ta, sang ở tại triều nhà Thanh từ năm 1789, gọi là An Nam quốc nhạc, đến năm 1804 đổi tên là Việt Nam quốc nhạc, có nhiều cây đàn mà người Trung Quốc đã ghi tên bằng chữ nôm: một cái cổ (trống), một cái phách (sinh tiền), hai cái sáo, một cái đàn huyền tử (đàn tam), một cái đàn hồ cầm (đàn nhị), một cái đàn song vận hay là đàn nguyệt cầm, một cái đàn tỳ bà, một cái đàn tam âm la (3 cái thanh la nhỏ). Nếu là đàn nguyệt thì tên nó là cái đàn song vận, mà lại không thể gọi là hồ cầm. Như vậy thứ cây đàn của Thúy Kiều chỉ có thể là Nguyễn cầm, vừa có thùng tròn như đàn nguyệt, có 4 dây thuộc về loại tỳ bà, mà cũng gọi là hồ cầm.
    Sách Thích Danh, về cây đàn tỳ bà, có chép rằng tỳ bà có ba loại: tứ huyền tỳ bà - thùng bầu dục có 4 dây, ngũ huyền tỳ bà - hình dáng như cây trước mà có 5 dây - người Triều Tiên cũng gọi là Hương tỳ bà - tức là tỳ bà của Triều Tiên, và Nguyễn cầm thùng tròn và có 4 dây to. Nguyễn cầm thì nay không còn thấy ở Trung Quốc, mà tại viện bảo tàng viện Shosoin ở tỉnh Nara ( Nhựt Bổn) còn nhiều cây Nguyễn cầm thời xưa.
    Tôi lại nói thêm tin chắc rằng Thúy Kiều đã dùng cây Nguyễn cầm, khi tôi đọc một bài thơ chữ Hán của cụ Nguyễn Du, "Long thành cầm giả ca", in trong quyển thứ ba Hợp tuyển văn thơ Việt Nam, tại Hà Nội năm 1963, trong đó cụ cũng để trong tay một người đàn bà ở Long Thành cây đàn Nguyễn cầm.
    Long Thành giai nhân
    Tính thị bất kỳ danh
    Ðộc thiện Nguyễn cầm
    Cử thành chi nhân dĩ cầm danh
    (người đẹp ở Long Thành, không biết tên họ là chi, mà tiếng đàn Nguyễn cầm rất hay, nên người trong thành đều gọi là Cô Cầm).
    Cụ đã gặp cô ấy hai mươi năm về trước, lúc nhan sắc cô còn lộng lẫy, tiếng đàn điêu luyện đã làm say mê các quan Tây Sơn trong buổi tiệc ở Hồ Giám. Khi Nguyễn Văn Thành, quan tổng trấn của nhà Nguyễn hội yến, trong buổi tiệc có cụ Nguyễn Du, cụ lại được nghe tiếng đàn của người đẹp năm xưa, mà nay nét mặt võ vàng, thần sắc khô khan. Tóc cụ đã bạc trắng, mà tóc Cô Cầm cũng hoa râm. Cụ xúc động làm bài thơ ấy, trong đó có đoạn tả tiếng đàn của Cô Cầm:
    Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến
    Hoãn như sơ phong độ tùng lâm
    Thanh như song hạc minh tại âm
    Liệt như tiến phúc bi đồ toái tích lịch
    Ai như Trang Tích, bệnh trung vi Việt ngâm...
    Khương Hữa Dung đã dịch đoạn ấy ra như sau đây:
    Dưới năm ngón cung đàn réo rắt
    Trong như tiếng hạc kêu sương
    Khoan như gió sớm lướt ngang rừng tùng
    Mạnh như sấm sét đùng đùng
    bia Tiến phúc nát từng mảnh con
    Buồn như Trang Tích ốm mòn
    ngâm tiếng Việt nỗi buồn quê xa...
    Cụ Nguyển Du đã cảm xúc khi nghe tiếng đàn Nguyễn cầm của người đẹp Long Thành thưở nọ. Và cây Nguyễn cầm thời ấy có lẽ cũng được nhiều người ưa thích. Cụ Nguyễn Du khi đặt trong tay nhân vật chính của truyện Kiều một cây đàn, mặc dù nhân vật đó theo sách xưa ở vào thời Gia Tĩnh triều Minh, tức là giữa thế kỷ thứ 16, cũng đã nghĩ đến cây Nguyễn cầm, nên mới có những đoạn nói về cây hồ cầm 4 dây mà thùng tròn như trăng rằm.
    Khi trả lời cho anh bạn giảng viên trường âm nhạc, tôi có nhắc đến sự tích của đàn tỳ bà, đến đoạn nói về cây đàn song vận trong bộ Ðại Thanh hội điển sự lệ, đến quyển Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Ðình Hổ, đến bài Long Thành cầm giả ca, có chổ gọi là bài Cầm giả dân, để kết luận cây đàn của Thúy Kiều không thể là cây đàn tỳ bà, hay là đàn nguyệt, chính là cây Nguyễn cầm mà ngày nay đã thất truyền.

    FR
  8. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương
    Ðoạn diễn tả về sắc và tài của Kiều, ngoài sắc đẹp "một hai nghiêng nước nghiêng thành", Kiều còn:
    Thông minh vốn sẵn tư trời
    Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
    Cung thương làu bực ngũ âm
    Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương
    Khúc nhà tay lựa nên chương
    Một thiên Bạc mạng lại càng não nhân

    (câu 29 đến 34)
    "Hồ Cầm" là một thứ đàn giống đàn nhị của ta, kéo bằng cung căng mã vĩ. Kiểu giống đàn tỳ bà, gọi là Nguyệt cầm (đàn nguyệt). Ðàn này do ở Tây vực du nhập Trung Hoa nên gọi là Hồ cầm.
    Sách "Uyên giám" cho rằng: người Hồ lấy gỗ ngô đồng chế ra đàn Tỳ bà. Ðàn có bốn dây. Ðầu cung có khắc đầu chim Phượng hoặc đầu con Rồng uốn vào nhau rất mỹ thuật. Cổ đàn dài, mặt phẳng, lưng tròn, thùng rộng và dẹt. Trong thùng đàn có buộc một sợi dây đồng. Khi gảy sợi tơ bên ngoài phát âm, đàn rung thì sợi dây đồng bên trong cũng rung theo, phụ hoạ thành một âm thanh tuyệt diệu. Trên mặt đàn có bốn phím bằng ngà là phím thấp, chín phím bằng trúc là phím cao. Tất cả là 13 phím ở vào một vị trí nhất định. Cung đàn có thước tấc quy định rõ rệt để làm tiết độ cho âm thanh khi trong, khi đục, khi réo rắt, khi trầm buồn, khi hùng tráng, khi thánh thót, lửng lơ...
    Năm 33 trước Dương lịch, triều Hán Nguyên đế, Vương Tường tức Vương Chiêu Quân lúc xa lìa tổ quốc sang cống chúa nước Hồ đến ải Nhạn môn, nàng dùng đàn này gảy một khúc đàn có 24 câu rất ai oán. Ngày xưa, gảy đàn Tỳ bà- cũng gọi là đánh đàn- tức là dùng gỗ tròn để buông bắt tiếng rung trên phím đàn như cách đánh đàn Hạ- uy- di (guitare Harwaiene) ngày nay. Về sau, đến đời nhà Ðường (618- 904), triều Ðường Thái Tông (627- 650) có người nhạc trưởng tên Bùi Ngọc Nhi tìm cách bỏ gỗ dùng tay mà vuốt, nắm lấy phím rung vừa nhẹ vừa thanh hơn.
    Trong bài "Vịnh Minh phi thôn" của thi hào Ðỗ Phủ đời nhà Ðường, khi đi ngang qua thôn Minh Phi, quê hương của Chiêu Quân, có câu (câu 7 và 8):
    Thiên tải Tỳ bà tác Hồ ngữ
    Phân minh oán hận khúc trung lôn"
    Bùi Khánh Ðản dịch:
    Muôn thuở tiếng Hồ trong khúc nhạc
    Ðàn Tỳ oán hận vẳng dư thanh
    Bạch Cư Dị (772- 846)- một thi hào danh tiếng thời Thịnh Ðường làm Hàn lâm học sĩ bị Vua nghe lời gièm pha biếm làm Tư mã đất Giang Châu. Một đêm khuya mùa thu vắng lạnh, trên bến Tầm Dương, Bạch tiễn chân người bạn ra bến nước, bỗng nghe tiếng tỳ bà văng vẳng trên sông. Vốn sẵn tâm hồn nghệ sĩ, ông liền tìm đến. Nghe tiếng động, tiếng Tỳ bà dứt. Người đánh đàn trên thuyền là một phụ nữ. Trước, nàng là một ca kỹ "nổi danh tài sắc một thời" nhưng thời vàng son trôi qua nhanh chóng, ngày càng nhạt phấn tàn hương, kiếp hoa xuân sớm tàn, rồi khách du cũng dần thưa vắng... Gia đình nàng lại gặp nhiều biến cố: dì chết, em đi lính xa xôi...
    Bấy giờ, nàng phải gởi thân cho khách buôn trà. Nhưng cuộc sống quá ghẻ lạnh. Chồng mãi đeo đuổi lợi lộc, bỏ nàng chiếc bóng thui thủi với chiếc thuyền không giữa dòng sông nước mênh mông. Rồi đêm đêm, chạnh nghĩ đến thời quá khứ vàng son trẻ đẹp mà nhìn về tương lai lại mịt mù, nàng chỉ còn biết mượn tiếng tơ đồng của đàn Tỳ bà, để gởi mối sầu cô quạnh chan chứa ở lòng mình!
    Bạch Cư Dị nghe tâm sự của nàng ca kỹ mà bắt nao lòng. Nghĩ tâm sự của nàng với tâm sự của mình có điểm tương đồng, vì:
    Ðồng thị thiên nhai luân lạc nhân
    Tương phùng hà tất tằng tương thức
    Phan Huy Vịnh dịch:
    Cùng một lứa bên trời lận đận
    Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau
    Nhân đó, Bạch Cư Dị viết thành bài "Tỳ bà hành":
    Kim dạ văn quân Từ bà ngữ
    Như thỉnh tiên nhạc nhĩ tạm minh
    Mạc từ cánh toạ đàn nhứt khúc
    Vị quân phiên tác Tỳ bà hành
    Võ Danh dịch:
    Ðêm nay nghe được Tỳ bà khúc
    Nư nghe tiên nhạc mở thông minh
    Chớ từ gảy lại cho nghe nữa
    Vì mình ta làm Tỳ bà hành...
    Kiều có tài về âm nhạc. "Cung thương làu bực ngũ âm". Ngũ âm tức là năm cung, năm bực trong âm giai: cung, thương, giốc, truỷ, vũ. Cung là tiếng to, nặng, rất thấp, rất đục, chậm. Thương là tiếng hơi đục, hơi thấy, mau lẹ. Giốc là tiếng lơ lửng, không cao, không thấp, không trong, không đục, tiếng tròn và kéo dài. Truỷ là tiếng hơi cao, hơi trong như tiếng chim hót. Vũ là tiếng rất cao, rất trong như tiếng chim vỗ cánh. "Làu bực ngũ âm" tức là sành (rành) âm nhạc. Và, Kiều chuyên sử dụng đàn Hồ rất tuyệt vời, không ai bằng được (nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương). Lại chính tay Kiều soạn lấy bản nhạc và lời (khúc nhà tay lựa nên chương) đều sầu thảm, nhứt là bài "Bạc mạng" càng làm cho người nghe thêm não lòng.
    Mở đầu truyện, tác giả "Truyện Kiều" chú trọng giới thiệu Kiều- nhân vật chính- về sắc và tài với số phận của nàng..
    Sắc "một hai nghiêng nước nghiêng thành", tài "thi hoạ ca ngâm". Ðặc biệt là âm nhạc. Bản nhạc buồn thảm, lời nhạc ảo não với "thiên Bạc mạng". Hồ cầm, bắt người nhớ đến Chiêu Quân gảy đàn Tỳ bà khi phải sang cống Hồ, lại liên tưởng đến nàng ca kỹ bến Tầm dương... qua bài "Tỳ bà hành" của Bạch Cư Dị.
    Từ cách dùng điển cố, dùng vật, dùng từ... mới xem cho là những chi tiết tầm thường, nhưng vốn có mối liên hệ chặt chẽ nhau có tính nhứt quán, trở nên quan trọng để báo hiệu cho cuộc đời của một con người theo chủ thuyết "Tài mạng tương đố", "Tạo vật đố hồng nhan", "Nhứt phiến tài tình thiên cổ luỵ"!.
    (Theo Ðiển tích Truyện Kiều- NXB Ðồng Tháp)
    FR
  9. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Cung thường làu bậc ngũ âm
    Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
    .
    Nàng Chiêu Quân, húy danh là Vương Tường, còn gọi là Minh Phi, là một cung phi của vua Hán Nguyên Đế. Có quá nhiều cung nữ được tuyển, đến nỗi vua không sao thấy mặt hết. Có nhiều hồng nhan , từ khi tuyển vào cung cho đến lúc vua băng hà, chưa một lần được diện kiến long nhan. Để tiết kiệm thời gian vàng ngọc, vua truyền nội thần Mao Diên Thọ cho họa sĩ vẽ chân dung từng cung phi trưng bày tại nội điện, để cho vua chọn mỗi ngày.
    Các cung phi muốn hình của mình đẹp mới mong được ơn mưa móc, phải đút lót cho các hoạ sĩ trổ tài phượng múa rồng bay. Nàng Chiêu Quân, nhan sắc hoa nhường nguyệt thẹn, lại có tài đàn ca giỏi, thi phú hay; nàng không thèm mua chuộc nên các họa sĩ gieo họa, đã không vẽ hình nàng. Vua nào hay biết đến nàng.
    Ngày tháng Chiêu Quân chìm sâu trong cung cấm. Một hôm tiếng đàn lâm ly tỉ tê của nàng đến tai Lâm Hoàng Hậu; bà cho vời Chiêu Quân đến mới hay Hán Đế đã bỏ rơi một quốc sắc thiên hương. Hoàng hậu tâu lại với vua. Vua nổi giận, a thì ra bọn thợ vẽ quả là khi quân. Đám họa sĩ bị đem ra chém đầu; Mao Diên Thọ bị khiển trách nặng.
    Tìm gặp Chiêu Quân, nhà vua giật mình, ôi đúng là một tiên nga, mắt sáng sao, mày xanh lá liễu, da tuyết mịn màng. Mấy ngàn cung nữ đã tuyển chọn nay lùi sau mộ t khoảng cách quá xa đối với nhan sắc, tài nghệ Chiêu Quân. Hán Đế phong cho Chiêu Quân làm Tây Phi; từ đó ngày đêm vua say đắm ở tây phòng.
    Bấy giờ, Hung Nô là nước lân bang nhưng thường xuyên cứ đem quân quấy nhiễu biên cương. Thời đại Tần Thủy Hoàng đã cho xây vạn lý trường thành để ngăn giữ rợ Hung Nô, nhưng nay chúng vẫn vượt qua cướp' bóc. Biên ải Nhạn Môn Quan nhiều phen cấp báo về triều xin cứu viện.
    Nội thần Mao Diên Thọ từ ngay bị vua quở trách, đâm ra oán hận Chiêu Quân. Y đánh cắp chân dung Chiêu Quân, lén đem nạp cho vua Hung Nô là Thiền Vụ. Chỉ mới nhìn chân dung mà rung động cả lòng, Thiền Vu liền cất quân sang đánh, buộc vua Hán phải gả nàng Chiêu Quân thì mới bãi binh. Giao tranh xảy ra ác liệt Hán Đế thất trận đành phải, hoặc nước mất nhà tan dưới sức xâm lược vũ bão Hung Nô hoặc phải đem nàng Tây Phi yêu dấu của mình cống Hồ. Phải có cuộc chia tay, quá não nùng. Chiêu Quân gạt lệ:
    - Một chút huy hoàng được quân vương sủng ái, còn hơn suốt đời bị lãng quên trong cung cấm. Thôi cũng đành, thần thiếp hy sinh vì việc nước. Nay xin vĩnh biệt bệ hạ để rồi sẽ chết trên đất rợ Hồ, thay cho cái chết muôn vạn quân binh ngoài biên ảị. Tình duyên kiếp này vắn số, xin hẹn quân vương kiếp saụ. Thần thiếp còn song thân, hiện chưa đền đáp được hiếu đạo nay xin gởi lại song đường, mong bệ hạ chu toàn sớm hôm.
    Hán Đế đã bật khóc:
    - Ái khanh đã nén tình riêng để cứu lấy muôn dân; lòng trẫm xót xa dường nào, nhưng cũng đành. Ta sẽ thay nàng chu toàn hiếu đạo với song đường.
    Sau chén rượu ly bôi, Hán Đế cho gọi Lưu Văn Long - một quan văn trẻ, có tài vào cung, căn dặn:
    - Nay việc đi Phiên quốc sẽ gặp nhiều gian khổ. Trẫm cho ngươì theo phò tá Tây cung. Nhà ngươi sẽ được cải thành họ Vương để làm người em của Tây hậụ Vương Long tuân lệnh, phò tá nàng Vương Tường Chiêu Quân lên đường.
    Sách Hán Thư cũng đầm đìa nước mắt theo buổi biệt ly sầu thảm này.
    Sau gần cả tháng trời vất vả đường trường mới đến được ải Nhạn Môn Quan, cửa khẩu Hán - Phiên. Đêm đó, nơi quan ải, Chiêu Quân đánh đàn tì bà ca khúc tạ từ dưới ánh trăng:
    Ai ơi xin chớ sai lời
    Sai lời thề nguyện
    Duyên nợ ba sinh
    Giấc mộng năm canh
    Trách hẳn trời xanh
    Sao khéo vô tình
    Bâng khuâng nhớ thuở tơ đào
    Ra vào dưới gối
    Duyên cớ vì đâu dần đến cách xa
    Ôi, đau đớn lòng ta
    Tự cổ hồng nhan bạc mệnh
    Mong sao sông núi an hòa.
    Trong cơn sầu muộn sâu thẳm, nàng chỉ biết gởi gấm tâm sự trong tiếng đàn tì bà của mình; vì vậy tì bà của Chiêu Quân còn gọi là Hồ cầm.
    (sưu tầm)
    FR
  10. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Đàn Tôi
    Nguyễn Bính
    Đàn tôi đứt hết dây rồi
    Không người nối hộ, không người thay cho
    Rì rào những buổi gieo mưa
    Lòng đơn ngỡ tiếng quay tơ đằm đằm.
    Có cô lối xóm hàng năm
    Trồng dâu tốt lá, chăn tằm ươm tơ
    Năm nay biết đến bao giờ
    Dâu cô tới lứa, tằm cô chín vàng?
    Tơ cô óng chuốt mịn màng
    Sang xin một ít cho đàn có dây .

    FR

Chia sẻ trang này