1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

ĐIỂN TÍCH TRUYỆN KIỀU

Chủ đề trong 'Văn học' bởi falling-rain, 04/12/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Rằng: Nghe nổi tiếng cầm đài
    Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ

    Cầm đài: cái đài để Tư Mã Tương Như ngồi gảy đàn. Tri âm: hiểu biết nhau qua tiếng nhạc; từ chuyện Tử Kỳ tri âm Bá Nha thời Chiến Quốc, tri âm đã là nghĩa chung của một tình bạn thiết thân, thông hiểu được ý nhau.
    Vào lúc Tấn, Sở đang giao hảo nhau. Bá Nha là người nước Sở, nhưng lại làm quan đến chức Thượng đại phu của nước Tấn. Bá Nha nổi tiếng là một khách phong lưu văn mặc, lại có ngón đàn tuyệt diệu nhất đời; ngày liền đêm, Bá Nha không bao giờ rời cây Dao cầm thiết thân của mình.
    Năm ấy, trên đường từ Sở về lại Tấn sau sau chuyến công cán, Bá Nha cho thuyền đỗ lại bến Hàm Dương vào một đêm trăng thanh gió mát. Bá Nha cho đồng tử đốt lư trầm trước thuyền, rồi lấy Dao cầm ra so phi'm thử dâỵ. Dưới ánh trăng trong, tiếng đàn quyện lấy hương trầm đang cất vút lên cao giữa đêm thu thanh vắng, bỗng một tiếng " bựt " khô khan, dây tơ đồng đứt. Bá Nha nghĩ dây đàn đứt ắt có quân tử nào nghe lén đây, bèn sang sảng cất tiếng:
    - Có cao nhân nào trên bờ lắng nghe tiếng đàn của tại hạ, xin vui lòng ra mặt.
    Từ trên vách núị có tiếng vọng xuống:
    - Xin đại nhân thứ lỗi cho, tiểu dân này đi kiếm củi về muộn, đi ngang qua đây, nghe tiếng đàn tuyệt diệu quá, nên cất bước đi không đành.
    Bá Nha cười lớn:
    - Tiều phu nào mà lại dám nói chuyện nghe đàn với ta?.
    Tiếng nói từ trên núi lại đáp lại:
    - Đại nhân nói vậy, kẻ hèn này trộm nghĩ là không đúng. Há đại nhân không nhớ câu nói của người xưa: "Thập nhất chi ấp tất hữu trung tín" (Trong một ấp có mười nhà ắt có người trung tín). Hễ trong nhà có quân tử thì ngoài cửa ắt có người quân tử đến...
    Bá Nha có vẻ ngượng khi nghe câu nói của người tiều phu. Biết mình lỡ lời, ông tiến sát đến mũi thuyền nói lớn:
    - Nếu thật là người trên bờ biết nghe đàn, thì xin cho biết lúc nãy tại hạ đã đàn khúc gì?.
    Giọng trên bờ bình thản vọng xuống:
    - Đó là Khổng Vọng Vi, Đức Khổng Tử khóc thầy Nhan Hồi. Hồi nãy, đại nhân đang đàn thì đứt dây, nên còn thiếu mất câu chót.
    Nghe xong, Bá Nha thấy lòng phơi phới lạ, vội sai tùy tùng lên bờ rước người tiều phu xuống thuyền. Bá Nha trân trọng đón tiếp:
    - Quý hữu biết nghe đàn, vậy chắc cũng rõ được xuất xứ của cây Dao cầm?
    Tiều phu không ngập ngừng:
    - Nghe nói, thuở xưa vua Phục Hy tình cờ trông thấy có năm sắc sao rơi xuống cụm ngô đồng và chim phượng hoàng đến đó đậụ Vua biêt cây ngô đồng là thứ gỗ quý, hấp thụ tinh hoa của trơi đất, có thể dùng để làm nhạc khí được, liền cho người hạ cây, cắt làm ba đoạn Đoạn ngọn, tiếng quá trong và nhẹ, đoạn gốc tiếng đục và nặng, chỉ có đoa,n giữa tiếng vừa trong vừa đục. có thể dùng được. Nhà vua cho ngâm đoạn giữa thân cây giữa dòng nươc, đúng bảy mươi hai ngày đêm, vớt lên phơi trong mát cho thật khô rồi gọi người thợ giỏi Lưu Tử Kỳ đẻo thành cây Dao cầm. Dao cầm dài ba thước sáu tấc, một phần án theo ba trăm sáu mươi mốt độ chu thiên, mặt trước rộng tám tấc, án theo tám tiết, mặt sau rộng bốn tấc án theo bốn mùa, bề dày hai tấc án theo lưỡng nghị Đàn gồm mười hai phi'm, tượng trưng cho mười hai tháng trong năm , lại có thêm một phi'm phụ tượng trưng cho tháng nhuận. Đàn có năm dây án theo ngũ hành tượng trưng cho năm âm: cung, thương, giốc, thủy, vũ. Xưa, vua Thuấn gảy đàn Ngũ huyền, thiên hạ thái bình. Khi vua Văn Vương bị ngồi tù nơi DũLý, Bá Âp Khảo thêm một dây oán, gọi là văn huyền (dây văn). Về sau, khi VũVương đánh nước Trụ, thêm môt dây nữa gia tăng kích động gọi là vũ huyền (dây vũ). Do đó, Dao cầm lúc đầu có năm dây, sau có bảy dâỵ Dao cầm có bốn điều kỵ là: rét lớn, nắng lớn, gió lớn và tuyết lớn; và bảy điều không nên là: không đàn ở đám tang, không đàn lúc lòng rối loạn, không đàn lúc lòng không thanh bạch, không đàn lúc bận rộn nhiều việc, không đàn lúc y trang không chỉnh tề, không đàn lúc không có trầm hương và không đàn lúc không có bạn tri âm.
    Bá Nha nghe nói, biết tiều phu là bậc kỳ tài, đem lòng kính thương:
    - Hiền hữu quả là người tinh thông nhạc lý. Xưa kia, Khổng Tử đang gảy đàn, thầy Nhan Hồi bước vào, nghe thanh âm sao mà u trầm, biết là trong tâm Khổng Tử đang giao động . Hỏi ra, mới hay là trong khi Khổng Tử đàn, thấy con mèo đang bắt chuột, nên tâm tư đã chùng tiếng tơ đồng. Trước kia, Nhan Hồi nghe tiếng đàn mà biết được lòng học trò, còn ngày nay, nghe tiếng đàn Bá Nha này , hiền hữu có biết lòng ta đang tư lự gì không?
    - Xin đại nhân cho nghe một vài khúc nhạc nữa
    Bá Nha thay dây đàn, gảy khúc Ý tại non cao.
    Tiều phu ngẩng mặt mỉm cười:
    - Tuyệt thay, ý chí cao vút. Ý tại non cao.
    Bá Nha giật mình ngưng đàn. Một lúc sau gảy thêm khúc Ý tại lưu thủy.
    Tiều phu khua tay xuống dòng nước:
    - Trời nước bao lạ. Ý tại lưu thủy.
    Bá Nha thất kinh, nhìn người tiều phu không ngớt mắt, sao lại có người cảm thấu được tiếng đàn của minh như vậỵ Ông sai nguời hầu dẹp trà, bày tiệc rưọụ Xong, ông đứng lên trước mặt người tiều phu, kính cẩn hỏi:
    - Dám hỏi tiên sinh quý danh và quê quán.
    Tiều phu vội đứng lên, chắp tay thi lễ:
    - Tiện dân họ Chung, tên Tử Kỳ, người thôn Tập Hiền gần núi Mã Yên nàỵ Còn đại nhân, chẳng hay cao danh quý tánh là gì, hiện đi trấn nhậm nơi đâu mà ghé thuyền lại đây vãng cảnh.
    - Tại hạ họ Du tên Thụy, là Đại phu nuớc Tấn, nhân đi sứ nước Sở về, thấy cảnh Hàm Dương trăng thanh gió mát, nên ghé thuyền thưởng lãm. Tại hạ chỉ là một kể tài hèn đức bạc mà thôị Còn như tiên sinh đây học thức uyên bác cớ sao không xuất thân lập công danh, phò vua giúp nước, mà lại sống ẩn dật chốn núi non hẻo lánh này.
    - Tôi còn cha mẹ già, không có anh em, phận làm con phải lo tròn chữ hiếu, dẫu cho công hầu khanh tướng cũng không thể đổi được một ngày báo hiếu của tại hạ
    Tử Kỳ hai mươi bảy tuổị Bá Nha trân trọng nói:
    - Tiện chức hơn tiên sinh những mười tuổị Nếu tiên sinh không chê tôi đức mọn tài hèn thì xin kết làm anh em để khỏi phụ duyên tri âm.
    Chung Tử Kỳ khiêm nhượng đáp:
    - Đại nhân là bậc công khanh nơi triều đình, tại hạ là kẻ áo vải chốn sơn lâm thì làm sao kết bạn với nhau được, xin đại nhân miễn cho.
    - Giá trị con người đâu ở chỗ giàu sang phú quý, mà ở đức hạnh tài năng. Nay nếu tiện sinh chịu nhận làm anh em thì thật là vạn hạnh cho tiện chức.
    Bá Nha đã có thành tâm, Tử Kỳ không từ chối nữa.. Bá Nhà sai người hầu đốt lò hương mới, lập hương án trước thuyền, cùng Tử Kỳ lạy trời đất tám lạy, nhận nhau làm anh em khác họ Rồi hai bạn cùng đối ẩm chuyện trò với nhau rất chi là tương đắc.
    Đến lúc ánh trăng nhạt nhòa, tiếng gà eo óc gọi ánh nắng mai, đoi bạn đành phải chia taỵ Bá Nhà giọng run run, nhìn Tử Kỳ:
    - Lòng huynh quá cảm mộ, chưa nỡ rỡi hiền đệ Hiền đệ có thể cùng huynh đi thêm một đoạn đường để thêm đước một khúc chuyện trò cho thỏa mối tâm tình.
    Chung Tử Kỳ cũng không dấu được xúc động:
    - Theo lễ, tiểu đệ phải tiễn hiền huynh vài dặm đường mới phải, ngặt vì song thân của tiểu đệ đang trông ngóng ở nhà, xin hiền huynh thứ lỗi.
    - Vậy thì hiền đệ về nhà xin với song đường qua nước Tấn thăm chơi, chắc là sẽ được nhận lời.
    "Phụ mẫu tồn , bất khả viễn du", làm sao Tử Kỳ có thể rời cha mẹ để vui chơi cùng bạn đươ+.c. Cuối cùng, Bá Nha nắm tay Tử kỳ, giọng khẩn thiết:
    - Sang năm, cũng vào giờ này, xin hẹn hiền đệ tại đây.
    Rồi lấy ra hai nén vàng, hai tay dâng cao lên trước mặt:
    - Đây là món lễ vật mọn của ngu huynh làm quà cho bá phụ, bá mẫu, đã xem nhau là cốt nhục xin hiền đệ chớ từ chối.
    Cảm tình tri ngộ, Tử Kỳ không từ chốị Lưu luyến chia tay, đôi bạn bịn rịn không thốt lên nỗi lời tạm biệt.
    Thấm thoắt một năm qua, ngọn gió heo may từ phương Bắc về đem mùa thu đến. Bá Nha vào triều kiến vua Tấn xin được phép về Sở thăm quê nhà. Thuyền đến bến Hàm Dương, Bá Nha cho dừng lại dưới núi Mã Yên. Lòng bồn chồn trông ngóng. Vừng kim ô đã ngả bóng xuống lòng sông, khói sóng dâng lên nghi ngút, sao mãi vẫn không thấy bạn tri âm. Bá Nha cho đồng tử đốt lò hương, rồi lấy Dao cầm đàn một khúc. Trong cơn gió nhẹ đầu thu, Bá Nha bỗng nghe tiếng đàn của mình sao mà ai oán, não nùng. Bá Nha thất kinh, ngừng tay đàn, tâm thần rối bời ; cung thương bỗng nghe sầu thảm như thế này thì chắc là Chung Tử Kỳ gặp nạn lớn rồị Cả đêm, Bá Nha trăn trở, nhớ thương và âu lo cho bạn. Trời chưa sáng, Bá Nha đã khoác cây Dao cầm lên lưng, bỏ vào túi mười nén vàng ròng rồi cùng vài tên hầu tìm đến chân núi Mã Yên . Dọc đường. gặp một ông lão, tay xách giỏ mây, tay cầm gậy trúc. Bá Nha lễ phép thưa:
    - Xin lão trượng chỉ đường đi đến Tập Hiền thôn.
    - Có Tập Hiền thông thượng, Tập Hiền thôn hạ. Tiên sinh cần đến thôn nào ?
    - Thưa lão trượng, ngư+ời Tử Kỳ họ Chung ở thôn nào?
    Vừa nghe nhắc đến tên Chung Tử Kỳ, lão ông sa sầm nét mặt, đôi mắt trũng sâu chảy dài hai hàng lệ. Lão ông sụt sùi, giọng ngắt đoạn:
    - Chung Tử Kỳ là con lão. Năm ngoái cũng vào ngày này, nó đi củi về, gặp một vị quan nước Tấn tên là Bá Nha và kết nghĩa huynh đệ vì chỗ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Lúc chia tay, vị quan có tặng cho vợ chồng lão hai nén vàng. Ở nơi núi non heo hút thế này, vợ chồng lão chưa cần đến số vàng đó, nên con lão đã dùng đổi lấy sách, đọc bất kể ngày đêm, giờ giấc , ngoài việc đốn củi mưu sinh. Có thể vì quá lao nhọc, con lão đã lâm bệnh mà qua đời...
    Chưa kịp nghe hết lời, Bá Nha đã bật òa khóc, ôm chầm lấy ông lão, hậu sinh này chính là người bạn kết giao của Chung Tử Kỳ đây. Ông lão thảng thốt, trời ơi:
    - Mang ơn đại nhân không chê trách cảnh bần cùng, đã cùng con lão kết nghĩa tâm giao. Lúc lâm chung, con lão đã trối trăn lại: " Sống không trọn đạo làm con, chết xin được chôn dưới chân núi Mã Yên để trọn đạo nghĩa với bạn, nằm bên triền dốc chờ đúng lời hẹn mùa thu này" Con đường mà đại nhân vừa đi quạ phía bên phải có nấm đất nhỏ là ngôi mộ của Tử Kỳ. Hôm nay đúng một trăm ngày mất, lão vừa đi viếng mộ con về thì gặp đại nhân.
    Trước mộ Tử Kỳ, Bá Nha vừa lạy bạn xong, truyền đem đàn đến, ngồi trên tảng đá tấu khúc "Thiên thu trương hận". Tiếng đàn đang réo rắt bỗng trầm hẳn xuống. Tiếng gió ngàn rít mạnh, bầu trời trở màu tối sẩ?m và tiếng tiếng chim từ xa vọng vềnghe u uất não nùng. Bá Nha ngưng đàn. Gió ngừng rít, trời trong sáng trở lại, chim ai oán lặng tiếng. Bá Nha nhìn Chung lão thưa:
    - Tử Kỳ đã về đây chứng giám cho lòng thành của tiểu sinh. Cháu vừa đàn khúc đoản ca để viếng người tri âm tài hoa mệnh yểu, và xin đọc thành thơ đoản ca này:
    Ức tính khi niên xuân
    Giang thượng tằng hội quân
    Kim nhật trùng lai phỏng
    Bất kiến tri ân nhân
    Đản kiến nhất phân thổ
    An nhiên thương ngã tâm
    Bất giác lệ phân phân
    Lai hoan khứ hà khổ
    Giang ban khởi sầu vân.
    Tử Ky, Tử kỳ hề !
    Nhĩ, ngã thiên kim nghĩa
    Lịch tận thiên nhai vô túc ngữ
    Thử khúc chung hề bất phụ đàn
    Tam xích Dao cầm vị quân tử
    Từ nhớ đến muà thu năm trước
    Bến trường giang gặp bạn cố nhân
    Năm nay lại đến Giang Tân
    Giòng sông lạnh ngắt cố nhân đâu rồi
    Buồn chỉ thấy nấm mồ bên núi
    Cõi ngàn năm chia cắt đau lòng
    Ôi thương tâm, ôi thương tâm
    Sụt sùi lai láng bao hàng lệ rơi
    Mây sầu thấp thoáng chân trời
    Đêm vui đổi lấy một đời khổ đaụ
    Tử Kỳ ơi, Tử Kỳ ơi
    Ngàn vàng khôn chuộc được bầu tâm can
    Thôi từ nay, thôi phi'm đàn
    Ngàn thu thôi hết mơ màng cố nhân

    Lời thơ vừa dứt, Bá Nha nâng Dao cầm lên cao, đập mạnh xuống tảng đá. Dao cầm vỡ tung từng mãnh, trụ ngọc, phi'm đồng rơi lả tả. Lão ông hoảng kinh, sao đại nhân lại đập vỡ đàn quí. Bá Nha đáp lời bằng bài thơ tứ tuyệt:
    Thốt đoái Dao cầm phượng vĩ hàn
    Tử Kỳ bất tại, hướng thùy đàn ?
    Xuân phong mãn diện giai bằng hữu
    Dục mịch tri âm, nan thượng nan
    Dao cầm đập nát đau lòng phượng
    Đã vắng Tử Kỳ đàn với ai
    Gió xuân bốn phía bao bè bạn
    Khó thay tìm được bạn tri âm

    Bốn câu thơ là bài văn tế cho bạn. Bá Nha quay lại phía lão ông, sụp quỳ xuống:
    - Bá Kỳ Tử Nha đã y lời hẹn đến đây rồị Nay tiểu sinh có đem theo ít nén vàng, xin thành tâm dâng lên bá phụ cùng bá mẫu để cung dưỡng tuổi già và tạo mươi mẫu ruộng làm tự cho Tử Kỳ. Bốn năm nữa hạ quan sẽ dâng biểu từ quan, về đây chung sống với bá phụ bá mẫu, với người bạn tri âm.
    Chung lão không từ chốị Bá Nha lạy Chung lão, lạy tạ từ bạn rồi quay xuống cho thuyền nhổ sào, trở về nước Tấn.
    (st)
    FR
    Được falling-rain sửa chữa / chuyển vào 05:03 ngày 13/01/2003
  2. HTYCG

    HTYCG Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    18/03/2002
    Bài viết:
    557
    Đã được thích:
    0
    Minh phi khúc
    Minh phi sơ xuất Hán cung thì
    Lệ thấp xuân phong tấn cước thùy
    Đê hồi tụ ảnh vô nhan sắc
    Thượng đắc quân vương bất tự trì
    Quy lai khước quái đan thanh thủ
    Nhập nhãn bình sinh kỷ tằng hữu
    Ý thái do lai họa bất thành
    Đương thời uổng sát Mao Diên Thọ
    Nhất khứ tâm tri cánh bất quy
    Khả liên chước tận Hán cung y
    Ký thanh dục vấn tái nam sự
    Chỉ hữu niên niên hồng nhạn phi
    Gia nhân vạn lý truyền tiêu tức
    Hảo tại chiên thành mạc tương ức
    Quân bất kiến:
    Chỉ xích Trường Môn bế A Kiều
    Nhân sinh thất ý vô nam bắc.
    Vương An Thạch
    ----------------
    Đây là bản Hán văn:
    ~Zf^?漢宮T,
    s.~風鬢.z,
    ZS顧影"顏?
    s->Zo?
    ".延壽
    ?ZfY>不歸
    可?o'->漢宮衣
    "聲欲.z->
    家人??O,^息
    好o^YZZ>?
    >不Minh Phi từ thuở lìa cung
    tóc mai ủ rủ, lệ rưng ngấn dài
    ngẫn ngơ dung mạo nhạt phai
    bề trên như chẳng đoái hoài xót thương
    đem lòng oán trách hoá công (con tạo)
    khi xưa bên thiếp bên quân .. vui vầy
    tự tay vẽ cảnh không hay !
    Diên Thọ giết hại .. uổng thay công thần
    biết rằng từ biệt 1 lần
    "áo ban" mặc đã vai sờn cúc (nút áo) tan!
    phương nam muốn nhắn đôi dòng
    chỉ đành nương (nhờ) cánh nhạn hồng đưa tin
    HTy - tạm dịch
    Dao, Hồ đập vỡ còn chi
    Bá Nha Chung tử, Minh phi Hán tình
    -------- Note: Minh Phi là Tây Phi Vương Chiêu Quân
    XPH - trong MHT
    ST
    HTy
    ..hoa gạo rưng rưng dòng sữa
    buổi trưa hè nghe chó sủa cuối thôn
  3. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0

    Trong 31 dạng thơ Đường Luật do Bồ Tùng Linh tổng hợp có một dạng gọi là Tính Danh, có nghĩa là câu nào cũng có từ chỉ nhân danh hay địa danh. Giống như Điển Thi, câu nào cũng dẫn 1 điển ở bên Tàu.Xưa kia các cụ đồ nho chuộng lắm vì như thế các cụ mới chịu cho là có học, rộng kiến thức.

    Lỗi Thề

    Vùi oan bạc mệnh sóng Tiền Đường (1)
    Ngọn đuốc Chiêm Thành(2) rở nhớ thương.
    Chắp cánh đẹp gì câu Thất Tịch (3)
    Ôm cầm say mãi gái Tầm Dương(4)
    Lỗi thề Chung Tử (5) sầu tri kỷ
    Hoen mái Tây hiên (6) lệ đoạn trường
    Hồ Hán (7) ngậm ngùi mây cách biệt
    Ngân Hà (8) mưa gió nẻo cầu sương.
    Toại Khang
    Chú thích :
    1: Kiều trầm mình ở sông Tiền Đường.
    2- Công chúa Huyền Trân phải sang lấy vua Chiêm Thành.
    3- Đường Minh Hoàng -Dương Quý Phi đêm 7 tháng 7 âm lịch thề cùng nhau "sống làm vợ chồng chết là chim liền cánh cây liền cành".
    4-Bạch Cư Dị,văn hào đời Đường, đêm đậu thuyền ở bến sông Tầm Dương làm bài Tỳ Bà Hành cho ca nữ hát.
    5-Chung Tử Kỳ -Bá Nha là 2 bạn tri âm. Bá Nha gảy đàn,T ử Kỳ biết Bá Nha nghĩ gì. Tử Kỳ chết, Bá Nha đập đàn đi, không gảy nữa.
    6-Trương Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh tình tự dưới mái Tây hiên.
    7-Chiêu Quân nhà Hán sang cống Hồ.
    8-Ngưu Lang và Chức nữ đứng 2 bên sông Ngân Hà nhớ nhau khóc thành mưa ngâu trong tháng 7 Âm lịch.
    6- Chính là điển tích của câu
    Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,
    Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi Trương.


    FR
  4. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    MỘT ĐÊM ĐÀN LẠNH TRÊN SÔNG HUẾ - VĂN CAO
    Nẩy nẩy tơ đồng nhịp nhịp đôi
    Lòng nâng ngòn ngọt lại đầu môi
    Này em hát khúc tương tư nhé
    Ngâm khẽ em ơi nhẹ nhẹ lời
    Sao đàn u hoài gì mùa thu?
    Sao đàn u hoài gì mùa thu?
    Tri âm nghe thử dây đồng vọng
    Lạc lõng đêm vàng khi nhạc ru
    Như Tử Kỳ nghe nhạc Bá Nha
    Em nghe anh dạo khúc thu xa
    Thuyền xuôi về bến mô thuyền bỉ
    Sông trắng bờ xa lộ bóng nhà
    Giọng hát sầu chi phấn nữ ơi
    Từng canh trời điểm một sao rơi
    Tà tà trăng lặn hiu hiu gió
    ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi
    Tay nhấn tơ chùng đã ngấm sương
    Hò ngân cung Bắc lướt cung Thương
    Dòng Tiêu Kim Thuỷ gà xao xác
    Ngẩng thấy kinh kỳ khói vấn vương
    Em cạn lời thôi anh dứt nhạc
    Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh
    Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
    Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh

    FR
  5. annonymous

    annonymous Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/03/2002
    Bài viết:
    2.070
    Đã được thích:
    0
    Giường kia treo những hững hờ
    Đàn kia gảy những ngẩn ngơ tiếng đàn
    Gót danh lợi bùn pha sắc xám
    Mặt phong trần nắng rám mùi dâu
    Nghĩ thân phù thế mà đau
    Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê
  6. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Hì hì, cám ơn Anno nha, nhưng sao tiết kiệm lời thế
    Giường kia treo những hững hờ
    Đàn kia gảy những ngẩn ngơ tiếng đàn

    là hai câu thơ trong bài Khóc bạn của Nguyễn Khuyến:
    Bác Dương thôi đã thôi rồi,
    Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
    .........
    Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
    Viết đưa ai, ai biết mà đưa.
    Giường kia treo những hững hờ (1)
    Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn ! (2)
    (1) từ điển tích Trần Phồn, người đời Hậu Hán, có một cái giường để dành tiếp người bạn quí là Từ Trĩ, hễ bạn đi lại treo lên. Ý câu này nói: nay bạn đã chết, cái giường để dành tiếp bạn cứ treo mãi không bao giờ đặt xuống cả.
    (2) chính là tích Bá Nha - Tử Kỳ
    FR
  7. annonymous

    annonymous Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/03/2002
    Bài viết:
    2.070
    Đã được thích:
    0
    Chị Rain ạ, em thấy chủ đề này rất hay và bỏ ra khá nhiều công sức, em nghĩ những bài viết này nên lưu lại ở đâu đó, về sau lại cần, chứ nếu không đến lúc nó lại chìm nghỉm xuống đáy diễn đàn thì tiếc biết mấy!
    Gót danh lợi bùn pha sắc xám
    Mặt phong trần nắng rám mùi dâu
    Nghĩ thân phù thế mà đau
    Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê
  8. HTYCG

    HTYCG Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    18/03/2002
    Bài viết:
    557
    Đã được thích:
    0
    Ở đây hạnh thắm nên mai nhạt,Về đấy sen tàn trổi cỏ hương..Ý hai câu thơ trên có thể được hiểu là: "...Ở đây nhiều người đẹp quá nên nhan sắc của nàng không nổi đình đám được bao nhiêu. Về đấy ít người đẹp nên nàng sẽ là người đẹp nhất.." Chắc chẳng có người phụ nữ nào trên cõi đời này ấm lòng, được an ủi khi phải nghe một câu khuyên như thế. Trước khi tả tiếng đàn nguyệt của Vương Thúy Kiều ai oán như tiếng đàn tì bà của Vương Chiêu Quân, Nguyễn Du đã nhắc đến Vương Chiêu Quân trong bài thơ "Dao vọng Càn Hải Từ." ; bài thơ cho ta biết tấn thảm kịch cuối cùng của nhà Tống Trung Hoa. Quân Nguyên do Hốt Tất Liệt chỉ huy đánh chiếm Trung Hoa. Các tướng Tống đưa Vua Tống Đế Bính và bà Dương Thái Hậu -- bà mẹ Vua Đế Bính -- bỏ nước chạy ra đảo Hải Nam. Quân Nguyên theo đến đảo Hải Nam. Các tướng Tống đưa Vua và Thái Hậu xuống thuyền chạy xuống miền nam. Nhưng không kịp. Vua Tôi nhà Tống ôm nhau nhẩy xuống biển tự tử. Tục truyền Vua Tống Đế Bính còn ít tuổi, sợ không dám nhẩy xuống biển, một vị quan ôm Vua nhẩy ra khỏi thuyền. Tống Thái Hậu, bà mẹ Vua, cùng hai công chúa, cũng nhẩy xuống biển. Xác Dương Thái Hậu trôi vào cửa biển gọi là Cửa Cờn ở huyện Quỳnh Lưu nước ta. Dân ta vớt xác Dương Thái Hậu lên và lập đền thờ bà ở Cửa Cờn. Vào một chiều thu muộn, Nguyễn Du đi thuyền qua biển ngang Cửa Cờn, nhìn thấy ngôi miếu ở xa xa và làm bài thơ: DAO VỌNG CÀN HẢI TỪ Nhìn Đền Cờn từ xa Mang mang hải thủy tiếp thiên khu, Ẩn ước cô từ xuất tiểu chu. Cổ mộc hàn liên phù chử mộ, Tình yên thanh dẫn hải môn thu. Hào thiên tướng tướng đan tâm tận, Phủ địa Quỳnh Nhai khối nhục vô. Tiếu nhĩ Minh Phi trườøng xuất tái, Tỳ-bà, bôi tửu khuyến Thuyền Vu. Dịch nghĩa: Xa trông Đền Cờn Mênh mông nước biển tiếp trục trời, Thấp thoáng ngôi đền lẻ loi ló ra trên bãi biển nhỏ. Hơi lạnh của cây cổ thụ liền với sắc chiều trên bãi chim le le, Màu xanh của khói lam tỏa ra đưa hơi thu đến cửa biển. Tướng văn, tướng võ kêu trời đến hết lòng son, Vỗ đất ở Quỳnh Nhai (Hải Nam) khóc vì hòn máu độc nhất (của Nhà Tống) không còn nữa. Đáng cười thay nàng Minh Phi khi đi ra cửa ải Gẩy đàn tỳ-bà và mời rượu Chúa Thuyền Vu. Ý thơ trong bài " Dao vọng Càn Hải Từ "ca tụng những người chịu chết, dù là chết thảm, chứ không chịu sống nhục, và chê Chiêu Quân Minh Phi đã không dám chết khi phải sang Hồ, vẫn sống ở đất Hồ để phục vụ cha con Chuá Thuyền Vu. Như vậy, với lời chỉ trích ấy, Nguyễn Du đã đánh nhẹ vào cái gọi là "Huyền thoại Vương Chiêu Quân": Chiêu Quân sang đất Hồ nhưng thương nhớ đất Hán và chết, riêng mộ nàng có cỏ xanh trong khi cỏ trên tất cả những nấm mồ đất Hồ đều là cỏ trắng Và đây là bài Văn Tế Chiêu Quân của Tản Đà. Nhà thơ Núi Tản, Sông Đà viết về bài thơ: " Bài này khi tôi ở chơi Chùa Tiên viết bằng chữ Nho để tế nàng Chiêu Quân giữa đêm hôm 13 Tháng Ba năm Duy Tân thứ bẩy. Sau về đến Nam Định, quan Huyện Nẻ mới dịch ra nôm cho. Tản Đà." VĂN TẾ CHIÊU QUÂN Sắc diễm tuyệt thế Mệnh bạc vô thiên Hán cung nhất biệt Hồ điạ thiên niên Thanh trủng lưu hận Hoàng tuyền cô miên Thương tai hồng nhan Y hồ nãi nhiên Ô hô Chiêu Quân..! Phương cốt hữu tận U hám vô kỳ Minh nguyệt độc cử Ám vân không thùy Tinh chiên phỉ loại Điếu tế y thùy Thương tai hồng nhan Linh hồn hà t ? Hiếu Thiên Nam cùng sĩ Sơn Tây tiên sinh Cách đại, dị quốc Cộng bi đồng tình Viên trân phỉ lễ Vọng bái trung đình Hồn lễ dư tá Giá dĩ dư hành.
    ************************(Trích Hoàng Hải Thủy)
    HTy st .. [​IMG]
    Được HTyCG sửa chữa / chuyển vào 10:44 ngày 16/01/2003
  9. annonymous

    annonymous Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/03/2002
    Bài viết:
    2.070
    Đã được thích:
    0
    Nghe đâu đó nói Chiêu Quân sinh cho Thiền Vu 6 đứa kháu khỉnh thì phải! Có lẽ nàng có vai trò rất lớn trong việc đồng hoá các dân tộc man di thành người Trung Quốc.
    Nhưng mình nghĩ nếu nàng sang Hồ rồi tự vẫn thì sẽ mang tội với nước nhà, tương tự như câu hỏi sao Tây Thi không tự vẫn khi sang nước Ngô.
    Tuyết lạnh che mờ trời Hán quốc,
    Tỳ bà lanh lảnh buốt cung thương,
    Tang tình năm ngón sầu dâng lệ,
    Chiêu Quân sang Hồ, xừ hồ xang.
    Đây Nhạn Môn quan đường ải vắng,
    Trường Thành xa lắm Hán Vương ơi!
    Chiêu Quân che khép mền chiên bạch,
    Gió bấc trời Phiên thấm lạnh rồi!
    Ngó lại xanh xanh triều Hán đế,
    Từng hàng châu lệ thấm chiên nhung,
    Quân vương chắc cũng say và khóc,
    Ái khanh, ái khanh! Lời nghẹn ngùng!
    Hồ xang Hồ xang xừ Hồ xang
    Chiêu Quân nàng ơi lệ dâng hàng
    Lã chã trời Phiên mưa tuyết xuống
    Chiêu Quân sang Hồ, xừ hồ xang.
    Quang Dũng
    Gót danh lợi bùn pha sắc xám
    Mặt phong trần nắng rám mùi dâu
    Nghĩ thân phù thế mà đau
    Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê
  10. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Trích bài của HTy:
    Và đây là bài Văn Tế Chiêu Quân của Tản Đà. Nhà thơ Núi Tản, Sông Đà viết về bài thơ:
    " Bài này khi tôi ở chơi Chùa Tiên viết bằng chữ Nho để tế nàng Chiêu Quân giữa đêm hôm 13 Tháng Ba năm Duy Tân thứ bẩy. Sau về đến Nam Định, quan Huyện Nẻ mới dịch ra nôm cho. Tản Đà."
    VĂN TẾ CHIÊU QUÂN
    Sắc diễm tuyệt thế
    Mệnh bạc vô thiên
    Hán cung nhất biệt
    Hồ điạ thiên niên
    Thanh trủng lưu hận
    Hoàng tuyền cô miên
    Thương tai hồng nhan
    Y hồ nãi nhiên
    Ô hô Chiêu Quân..!
    Phương cốt hữu tận
    U hám vô kỳ
    Minh nguyệt độc cử
    Ám vân không thùy
    Tinh chiên phỉ loại
    Điếu tế y thùy
    Thương tai hồng nhan
    Linh hồn hà t ?
    Hiếu
    Thiên Nam cùng sĩ
    Sơn Tây tiên sinh
    Cách đại, dị quốc
    Cộng bi đồng tình
    Viên trân phỉ lễ
    Vọng bái trung đình
    Hồn lễ dư tá
    Giá dĩ dư hành.
    ************************
    (Trích Hoàng Hải Thủy)
    HTy st ..
    -------------------------------------------------------
    Đây là bản dịch nôm của Nguyễn Thiện Kế
    Cô ơi cô đẹp nhất đời,
    Mà cô mệnh bạc, thợ trời cũng thua!
    Một đi từ biệt cung vua,
    Có về đâu nữa! Đất Hồ nghìn năm!
    Mả xanh còn dấu còn căm,
    Suối vàng lạnh lẽo, cô nằm với ai?
    Má hồng để tiếc cho ai,
    Đời người như thế có hoài mất không?
    Khóc than nước mắt ròng ròng,
    Xương không còn vết, giận không có kì!
    Mây mờ trăng bạc chi chi,
    Hôi tanh thôi có mong gì khói nhang!
    ới hồng nhan, hỡi hồng nhan!
    Khôn thiêng cũng chẳng ai van ai mời.
    Trời Nam thằng kiết là tôi
    Chùa Tiên, đất khách, khóc người bên Ngô.
    Cô với tôi, tôi với cô
    Trước sân lễ bạc có mồ nào đây.
    Hồn cô ví có ở đây
    Đem nhau đi với, lên mây cũng đành!
    FR

Chia sẻ trang này