1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

ĐIỂN TÍCH TRUYỆN KIỀU

Chủ đề trong 'Văn học' bởi falling-rain, 04/12/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu
    Kiều, vì mình nghĩ đã 15 năm lưu lạc, phấn thải hương thừa không xứng đáng với người yêu nữa, nên quyết liệt từ chối sự tái hợp thành duyên chồng vợ với Kim Trọng, nhưng Kim Trọng vẫn quyết liệt, tha thiết... có câu:
    Xưa nay trong đạo đàn bà
    Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường
    Có khi biến có khi thường
    Có quyền nào phải một đường chấp kinh
    Như nàng lấy hiếu làm trinh
    Bụi nào cho đục được mình ấy vay?
    Trời còn để có hôm nay
    Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
    Hoa tàn mà lại thêm tươi
    Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa
    Có điều chi nữa mà ngờ

    Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu?
    (câu 3115 đến 3126)
    Chàng Tiêu (Tiêu Lang), người đời nhà Ðường, có người vợ rất đẹp tên Lục Châu. Nhà nghèo nên Lục Châu bị người bắt đem dâng cho Quách Tử Nghi, một trọng thần đương triều. Lục Châu trở thành một nàng hầu sủng ái của Quách Tử Nghi. Lòng thương nhớ vợ không nguôi, nhưng từ đó, chàng Tiêu trông thấy vợ lấy làm tủi thẹn cho phận mình rồi, cứ dửng dưng như khách qua đường.
    Có chàng tên Thôi Giao học giỏi, thơ phú rất hay. Nhà nghèo nhưng Thôi cũng hào phóng phong lưu rất mực. Trong vùng có nàng họ Lương tên Bích Nga, sắc đẹp lộng lẫy, duyên dáng mặn mà. Cha mẹ mất sớm, nàng ở với người cô ruột. Trai tài gái sắc, Thôi Giao và Bích Nga gặp nhau rồi tha thiết yêu nhau, nhưng vì nghèo nên định một thời gian sẽ lo lắng xây dựng gia đình.
    Nhưng thảm thay, mộng đẹp với một cuộc hôn nhân đơn giản chưa thành, mà nhà cô ngày càng sa sút. Cuối cùng, người cô phải bán Bích Nga làm nàng hầu cho một quan Liên soái là Vu Ðịch. Ðược một giai nhân trong vòng tay họ Vu rất mực yêu thương. Vu xuất 40 vạn đồng tiền và xây dựng một lầu đài cho người cô ở.
    Thế lực và tiền tài đã chiếm mất người yêu, Thôi đau xót, từ đó như kẻ mất hồn. Suốt ngày, chàng ngơ ngẩn, đứng tựa bên cội cây ngoài dinh quan Liên soái, ngóng trông hình bóng người yêu xưa cho đỡ nhớ thương. Trên lầu, nàng họ Lương nhìn qua cửa sổ, thấy chàng Thôi buồn bã thẫn thờ mà ruột lòng như đứt đoạn.
    Gặp tiết Hàn thực, nàng Lương có dịp ra ngoài dinh. Thấy chàng Thôi đứng bên cội liễu, hình vóc võ gầy, nàng Lương càng cảm động, ngồi trên kiệu mà khóc nức nở. Gặp nhau, nhìn nhau nhưng cả hai không dám mở lời, bốn mắt lã chã dòng châu. Thôi đau đớn làm 4 câu thơ:
    Theo chân bao kẻ ngóp mùi hương
    Tầm tã khăn the lệ mấy hàng
    Một tới cửa hầu sâu tựa biển
    Chàng Tiêu từ đó khách qua đường
    Có kẻ ghét Thôi bắt được bài thơ ấy, muốn hại Thôi nên lòn bài thơ đặt trên bàn quan Liên soái. Họ Vu xem thấy lời đã hay ý lại nhã, đẫm vẻ ai oán não nùng, nên điều tra biết được, có chiều cảm động, liền cho lính tìm đòi chàng Thôi đến. Thôi hoảng sợ quá. Có người thương, xúi chàng đi trốn kẻo bị tai vạ. Nhưng Thôi không biết trốn đâu, đành phải đánh liều vào hầu, có chết đi âu cũng cam phận số.
    Vừa gặp Thôi vào, Vu Ðịch liền cầm lấy tay chàng, nói:
    - Câu "Một tới cửa hầu sâu tựa biển; chàng Tiêu từ đó khách qua đường", hẳn tiên sinh đau khổ lắm. Bốn mươi vạn đồng với một ngôi lầu kia có là bao mà tiên sinh nỡ tiếc lời thơ không sớm viết cho tôi biết. Kẻ này có hẹp hòi gì mà chẳng cho châu về Hợp phố.
    Ðoạn, Vu Ðịch cho người đánh xe đưa nàng Bích Nga về với Thôi Giao để cùng vợ chồng sum họp. Vu Ðịch còn đem tặng nàng Lương tất cả những nữ trang đắt tiền đã sắm trước kia cho nàng.
    Câu:
    Một tới cửa hầu sâu tựa biển
    Chàng Tiêu từ đó khách qua đường
    nguyên Hán văn:
    Hầu môn nhứt thập thâm như hải
    Tùng thử Tiêu lang thị lộ nhân
    Thôi Giao đã dùng điển Tiêu Lang (chàng Tiêu) trong bài thơ của mình.. khiến quan Liên soái Vu Ðịch động lòng.
    Tchya (bút hiệu của Ðái Ðức Tuấn), một nhà thơ trữ tình của ta cũng có câu:
    Ðỡ ly ân ái qua môi thắm
    Uống chẳng vơi cho mới bẽ bàng
    Khổ nhục mạnh thân vì bát gạo
    Ðường tình kìa lại số Tiêu Lang
    "Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu", ý của Kim Trọng muốn nói Kiều từ chối kết thành chồng vợ với chàng, tức Kiều cố ý bắt buộc chàng phải hờ hững không nhận nàng nữa. Hay nói một cách khác, tại sao Kiều lại cố ý làm cho chàng phải coi nàng như chàng Tiêu nhìn vợ cũ quá hững hờ. Phải chăng như một nhà thơ đã nói:
    Yêu ai lại phải hững hờ vì ai?
    Xuất phát từ điển tích chàng Tiêu với nàng Lục Châu, lại tiếp qua truyện nàng Bích Nga với câu thơ của Thôi Giao "Tùng thử Tiêu lang thị lộ nhân" để chuyển thành câu "khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu", tác giả Truyện Kiều kết hai (tích và thơ) làm một để ý thêm mạnh bằng một câu thơ Nôm súc tích, ý nhị.
    (THEO ĐIỂN TÍCH TRUYỆN KIỀU, NXB Ðồng Tháp)
    FR
  2. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Màu thời gian (thơ Đoàn Phú Tứ)
    Sớm nay tiếng chim thanh
    Trong gió xanh
    Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình
    Ngàn xưa không lạnh nữa
    Tần phi (1)
    Ta lặng dâng nàng
    Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
    Màu thời gian không xanh
    Màu thời gian tím ngát
    Hương thời gian không nồng
    Hương thời gian thanh thanh
    Tóc mây một món chiếc dao vàng (2)
    Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
    Trăm năm tình cũ lìa không hận
    Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
    Duyên trăm năm đứt đoạn
    Tình một thuở còn hương
    Hương thời gian thanh thanh
    Màu thời gian tím ngát.

    (1) Xưa có ngưòi cung phi, nàng Lý phu nhân, lúc gần mất, nhất định không cho vua Hán Võ Đế xem mặt, sợ trông thấy nét mặt tiều tụy vua sẽ hết yêu. Cái tên Tần phi, thi nhân đặt ra vì một lẽ riêng.
    (2) Nàng Dương Quý Phi lúc mới vào cung, tính hay ghen, bị Đường Minh Hoàng đưa giam một nơi. Nhưng nhà vua nhớ quá, sai Cao Lực Sĩ ra thăm. Dương Quý Phi cắt tóc gửi vào dâng vua. Vua trông thấy tóc thương quá, lại vời nàng vào cung.
    Đoàn Phú Tứ hợp chuyện này và chuyện Lý phu nhân làm một và tưởng tượng một người cung phi lúc gần mất không để vua xem mặt chỉ cắt tóc dâng, gọi là đáp lại trong muôn một mối tình trìu mến của đấng quân vương.
    "Tóc mây một món chiếc dao vàng" là lấy ở câu Kiều "Tóc mây một món dao vàng chia đôi"
    Sinh vừa tựa án thiu thiu,
    Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê.
    Tiếng sen sẽ động giấc hoè,
    Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
    Bâng khuâng đỉnh Giáp, non thần,
    440- Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
    Nàng rằng:" Khoảng vắng đêm trường,
    " Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa.
    " Bây giờ rõ mặt đôi ta,
    " Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?"
    445- Vội mừng làm lễ rước vào,
    Ðài sen nối sáp, lò đào thêm hương.
    Tiên thề cùng thảo một chương,

    Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
    [​IMG]
    Bút tự của Ðoàn Phú Tứ
    FR
  3. Wandering

    Wandering Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/01/2003
    Bài viết:
    174
    Đã được thích:
    0
    Cảm ơn các bạn, đặc biệt là FR và HTY đã cho tôi hiểu kiều nhiều hơn. Qua đó càng thấy cái hay của Kiều và cái tài hoa của Nguyễn Du. Thế mà đâu đó tôi thấy có người nói là học kiều là vô ích. Thật là không hiểu gì cả.
    Lâu rồi không đọc lại bài này của Đoàn Phú Tứ. Bây giờ đọc lại thấy còn hay hơn ngày xưa, chả biêt bình làm sao, chỉ thấy tâm hồn thanh thản nhưng vẫn mang một nỗi buồn nhẹ nhàng mà sâu lắng. Đoàn Phú Tứ chỉ cần một bài thơ này đã đủ để lại danh tiếng cho đời sau.
    Định vote cho FR nhưng thấy đã có 40 người vote rồi, vậy để dành sau này vote sau nhé
  4. HTYCG

    HTYCG Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    18/03/2002
    Bài viết:
    557
    Đã được thích:
    0
    cám ơn Wandering
    Minh Phi từ thuở lìa cung
    tóc mai ủ rủ, lệ rưng ngấn dài
    ngẫn ngơ dung mạo nhạt phai
    bề trên như chẳng đoái hoài xót thương
    còn đem lòng trách hoá công (con tạo)
    khi xưa bên thiếp bên quân .. vui vầy
    tự tay vẽ cảnh không hay
    Diên Thọ giết hại .. uổng thay! công thần
    biết rằng từ biệt 1 lần
    "áo ban" mặc đã vai sờn cúc (nút) rơi!
    phương nam muốn nhắn đôi lời
    đành nương cánh nhạn đường dài đưa tin
    người đi vạn dậm sầu rơi lệ
    xin hãy cầm lòng " thôi nhớ nhung "
    A Kiều khoá cửa Trường Môn
    toại lòng phân bắc hay nam ... bao giờ ?
    ..o'f
    誰Y~^^^誰
    幾度~?幾此oY
    .S夢中人..?O
    xin phép đọc theo 1 nghĩa khác nhé HC
    diễn nghĩa
    ai biết xuân đến đến làm chi?(đến vì ai) (tôi có chờ đâu có đợi đâu -CLV)
    bao độ xuân về bấy nhiêu năm ( ky = 1 năm)
    hỏi thăm trong mộng người làng, quê cũ ~":Cổ tự vô danh nan vấn tấn 古寺">.S
    thấy không hoa đào rụng đỏ khắp giậu, bờ rào ( li = giậu, bờ rào)
    ai biết xuân sang để vì ai?
    mỗi độ xuân về một năm trôi
    hỏi thăm trong mộng người thôn cũ
    có thấy đào rơi đỏ giậu ai?
    FR & Wandering
    ..hoa gạo rưng rưng dòng sữa
    buổi trưa hè nghe chó sủa cuối thôn
  5. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn Wandering và rất vui vì đã chia sẻ được với bạn những điều mình thấy thú vị.
    ậy...HTy, FR đã định bái biệt cái topic này rùi đó HTy à, bữa nay nghe hoa gạo rơi nên lại về chơi

    Lao động số 19 Ngày 19.01.2003
    Lên mạng lúc 11:40:27 ngày 19.01.2003
    "Cái gì của Nguyễn Du xin trả cho Nguyễn Du"
    Cũng là có duyên với nguồn cội, một ông giáo dạy toán bỗng bỏ cả trường lớp, biên chế, tìm về nghề cũ gia truyền: Thầy lang, để làm "một vòng trường sinh" mới. Vốn liếng đã chả có gì, trời xui đất khiến thế nào, muốn gom ít chữ lại bắt đầu từ những bản nôm truyện Kiều cho dễ nhập. Và thế là "nhập" sang một cõi khác, cõi nhân gian của cụ Tiên Điền xưa. Quả là "vòng trường sinh" mới của ông Nguyễn Khắc Bảo đã mang lại cho ông, cũng như cho nhiều người những điều thật thú vị và tâm đắc.
    Ông Bảo đang độ "quá niên trạc ngoại ngũ tuần" thôi, vốn xuất thân giáo học, rồi bỏ dạy theo nghề thầy lang. Nay hành nghề ở thị xã Bắc Ninh. Người đời gọi ông Bảo là nhà lang Chọi, lý do đơn giản bởi cái nghề thuốc gia truyền nhà ông phát tích đã mấy đời từ cái làng có tên nôm cổ là Chọi. Ông mắc vào nho nhe, lúc đầu là bất đắc dĩ, bởi thói thường, đã là "lang vườn" thì nhất thiết phải biết tí chữ vuông cho nó ra kẻ "trên thông thiên văn dưới tường địa lý". Chả thầy thợ gì, ông lang Chọi quyết định mua quyển Kiều bằng chữ Nôm về mà "tự học". Ban đầu ông học thuộc lòng Truyện Kiều bằng chữ quốc ngữ rồi đè nghiến quyển Kiều Nôm ra mà đọc. Ông tỉ mẩn nhớ mặt từng con chữ, thấy chữ nào giống mặt chữ đã thuộc là ông đọc vanh vách, rồi tình cờ ông phát hiện ra các bản Kiều Nôm luôn có những dị bản, có chỗ giống nhau, có chỗ khác nhau. Rồi ông đặt câu hỏi, trong số những bản Kiều đó, bản nào là của cụ Nguyễn Du, bản nào là của các nhà "chữa Kiều", "giết Kiều"? Cứ "tiếc lục tham hồng" mãi với các bản Kiều cổ, đến một ngày, ông mạnh dạn gửi các bản "chữa Kiều" của mình lên Tạp chí Ngôn ngữ học, lên Viện Nghiên cứu Hán Nôm, lên các tờ báo ưa chữ nghĩa, thích tranh luận... Điều bất ngờ đã đến, người ta thấy ông lão "lang vườn" xứ Bắc này "biên tập Truyện Kiều Nguyễn Du" chữ nào ra chữ ấy. Người ta công kênh ông lang Chọi lên, gọi ông là người có nhiều bản Kiều Nôm cổ (thời bấy giờ công nghệ in khắc gỗ) khác nhau nhất... nước Việt Nam.
    Tôi hỏi ông:
    Cụ Nguyễn Du thì tịch từ lâu, bản thảo cụ chả để lại chữ nào, người đời nay căn cứ vào đâu để biết câu nào là của nguyên tác Truyện Kiều, câu nào là "môliphê"? "Văn chương nào phải là đơn thuốc", có khi chính ông lang Chọi xăng xái nhất lại là kẻ có tội lớn nhất với nàng Kiều cũng nên?
    - Vấn đề rất là khó. Bây giờ, theo tôi là phải dựa vào những bản truyện Kiều cổ nhất. Lâu nay, có thể hiểu nôm na là nước ta đang tồn tại 3 dòng Truyện Kiều (TK): một, dòng các bản khắc ở các phường khắc ngoài Hà Nội; một dòng vào Nam; một dòng lưu truyền ở Huế. Nếu ba dòng này, ta dùng phép "mờ chồng", tìm được đúng cái điểm giống nhau về câu và chữ, thì chỗ ấy là của Nguyễn Du (ND). Một điều nữa, quan điểm ND viết TK khi nào, điều đó liên quan trực tiếp đến việc chọn từ ngữ ở trong TK, nếu lấy mốc sau năm 1813-1814 thì lúc đó ngôn ngữ nó tân thời rồi; còn nếu xác định chuẩn là ND viết TK trước năm 1802, khi còn là thời Tây Sơn thì ngôn ngữ nó cổ hơn. Ví dụ, trong quá trình tìm tòi, tôi đã tìm thấy những câu rất cổ, kiểu như câu chữ dùng trong "Lâm tuyền kỳ ngộ", "Thiên Nam ngữ lục", tức là nó còn có dấu vết của ngôn ngữ thế kỷ 18. Chứ đến cụ Kiều Oánh Mậu, cụ đã mông ngôn ngữ TK lên thành ngôn ngữ thế kỷ 20 rồi. Cụ Kiều Oánh Mậu được xem là người đầu tiên ở nước ta có công khắc in TK, nhưng mà cụ lại sửa nhiều quá.
    Vậy thì theo ông, bản in khắc gỗ Truyện Kiều đầu tiên của nước ta ra đời từ khi nào?
    - Bây giờ, ngay cả cụ Nguyễn Tài Cẩn cũng cứ cố gắng suy luận là có bản in thời Minh Mệnh, nhưng theo tôi, bản in đó không có. Bởi, thứ nhất, Minh Mệnh là ông vua rất hà khắc, đến đời Tự Đức là ông vua phóng khoáng thì người ta mới cho in TK. Thứ hai là bởi, theo cá nhân tôi, khi người Pháp đến Việt Nam, các chuyên gia của Viện Viễn đông Bác Cổ họ sục sạo, tìm tòi "ác" lắm, thế mà chính họ cũng không tìm được (bản nào thời Minh Mệnh, thì chắc là không có-TG). Bằng chứng là, bản TK in sớm nhất được tìm thấy hiện nay (năm 1871), cũng là do người Pháp họ sưu tầm được và lưu giữ được.
    Nói khác đi, về mặt bằng chứng vật chất thì bản TK sớm nhất tìm được là bản in khắc gỗ trong thời gian từ 1871-1872.
    Thế nên có thể kết luận, những bản TK có trước bản in năm 1871 chỉ có thể là bản chép tay thôi. Và phải mãi đến năm 1965, một số học giả của Việt Nam mới được tiếp xúc với bản "vi phim" của bản TK 1871 này. Bản vi phim này, muốn đọc được, phải đem chiếu lên bờ tường mà ngó, vì công nghệ kém nên nó cứ nhập nhèm nhập nhèm, thành thử ra các cụ đọc nó bị sai nhiều. Lỗi này là do khách quan chứ không phải là do các bậc tiền bối kém cỏi.

    Vậy, ông cho rằng, cứ nhìn vào niên đại, bản Kiều Nôm nào càng cổ thì càng quý?
    - Chưa hẳn thế. Bản tôi có - bản quý nhất - là bản TK in khắc gỗ vào năm 1879, chứ không phải bản cổ hơn là bản in năm 1871! Lý do là bản in năm 1871 được "biên tập" và "in" kém hơn, sai rất nhiều trong khi bản in năm 1879 thì tuy có ra đời sau, nhưng điều đó không có nghĩa là bản nguồn (tức là bản mà tác giả khắc gỗ nhìn vào đó để khắc ra một bản mới-TG) của nó ra đời sau bản 1871. Rõ ràng, câu chữ của bản 1879 cho thấy, trình độ của người đứng ra khắc (hoặc cố vấn) là có trình độ hơn bản ra đời năm 1871.

    Tóm lại thì những tìm tòi, tranh luận, nghiên cứu của ông và các học giả giống như ông đã đem lại cái được gì cho bản thân TK?
    - Cái được thứ nhất là những câu chữ nào của cụ ND phải trả lại cho cụ ấy. Ví dụ, tôi đã chữa được ngót chục câu mà bất cứ ai cũng vẫn "quen miệng đọc thế", nay tôi đưa ra kiến giải khác hay hơn, có tình có lý hơn. Ví dụ như câu "Dường như bên nóc bên thềm" là không đúng, mà phải là "Dường như bên chái bên thềm". Tức là cái cô con dâu chết (Thuý Kiều) rồi giờ hiện hồn về mà leo trên nóc nhà nhà chồng là cái cô con dâu hư, đàn bà con gái nền nếp gia phong như cô Kiều ai lại làm thế? Cho nên phải là "bên chái bên thềm", chỉ là loanh quanh ở ngoài thế thôi.
    Câu nữa, lời của Thuý Kiều dặn Thúc Sinh về nói với vợ cả Hoạn Thư: "Đôi ta chút nghĩa đèo bòng/Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh". Đọc thế là không đúng, bây giờ tôi sửa là "Đôi ta chút nghĩa bèo bồng", tức là tôi với anh chỉ là "lềnh bềnh như bèo trôi, tạm bợ như cỏ bồng dễ bị gió cuốn bay tung" thôi. Mà thực tế mối quan hệ của chàng Thúc và Kiều không thể là "đèo bòng" (theo từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh, đèo bòng tức là có quan hệ tình duyên mật thiết, dan díu) được. Thuý Kiều thông minh sắc sảo có gì mà không hiểu: tình nghĩa giữa cô và Thúc Sinh chỉ đến thế thôi, chỉ là khách chơi với cô "****", văn nghệ tý thôi, chứ có gì là đèo bòng đâu. Mà nói toạc móng heo ra, đèo bòng là khăng khít lắm, khi Thuý Kiều bỏ trốn, anh Thúc Sinh cũng phải cùng đi trốn thì mới là đèo bòng, đằng này anh Thúc Sinh lại vuỗi ra thế này: "Liệu mà cao chạy xa bay/ái ân ta có ngần này mà thôi". Cô trốn mình cô, còn tôi, tôi ở lại với vợ cả, không đèo bòng được. Cũng nhân chuyện với Thúc Sinh,còn có câu 1951-1952, các bản TK quốc ngữ đều chép: "Quản chi lên thác xuống ghềnh/Cũng toan sống thác với tình cho xong". Tôi đã chữa lại câu thơ này, dựa vào bằng chứng là gần 20 bản TK bằng chữ Nôm cổ đều chép như sau: "Quản chi trên các, dưới duềnh/Cũng toan sống thác với tình cho xong". Ngoài bằng chứng về mặt chữ trong các bản Kiều cổ, cứ suy theo lôgíc nội tâm nhân vật cũng thấy: nếu để Thúc Sinh nói quản chi nguy hiểm như lên thác cao xuống ghềnh sâu, nguy hiểm thế nào tôi cũng đưa Kiều bỏ trốn; thì tại sao thực tế hành động của anh ta lại hèn hạ đến mức phó mặc thân đàn bà của Kiều, bắt cô phải: "Liệu mà cao chạy xa bay..."? Sau khi theo mặt chữ của các bản Kiều cổ (và viện dẫn nhiều nguồn tài liệu thuyết phục khác - TG), có thể hiểu thi hào Nguyễn Du đã dùng điển tích "trên các, dưới duềnh" để diễn tả tâm tư của Thúc Sinh là: ta không quản ngại chi việc học theo cái chết của Dương Hùng (một nhà thơ đời Hán) bằng cách đâm đầu từ gác cao xuống đất chết; ta cũng không ngại việc ôm đá gieo mình xuống dòng Mịch La tự vẫn như Khuất Nguyên quan Tả đô nước Sở để khỏi phải nhìn thấy cái cảnh đau đớn ê chề khi Kiều bị Hoạn Thư hành hạ...

    Có ý kiến cho rằng: một mặt cứ theo nếp nệ cổ: cái gì của ND trả lại cho ND. Một mặt, các nhà hiệu đính có quyền đưa ra các dị bản. Cốt là nó hay, nó có cảm xúc thẩm mỹ, có các giá trị quý báu giống như (thậm chí hơn) các giá trị mà TK đang có...
    - Không được thế. Nếu mà thế thì ông cứ tài giỏi đem làm hẳn quyển Truyện Kiều "phẩy" đi, anh đứng tên anh là người sáng tác đi có được không? Cổ vật nó có giá trị của cổ vật, nếu anh thích thì anh cứ đi nặn gốm mà chơi!
    Giọng ông Bảo đay nghiến, có cái gì đó nệ cổ đến khắc nghiệt. Kể từ cái ngày cụ Nguyễn Tiên Điền lo lắng "bất tri tam bách dư niên hậu" tính đến giờ, có lẽ ông Bảo là một trong những người nặng lòng với từng câu chữ của đời Kiều nhất, ông "khốc Tố Như" ác nhất?

    FR
  6. HTYCG

    HTYCG Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    18/03/2002
    Bài viết:
    557
    Đã được thích:
    0
    Tuệ Chương ​
    Tỳ bà hay nguyệt cầm?
    Đàn tỳ bà có hai dây, hình dạng như trái lê, đầu dưới to, đầu trên nhỏ. Đầu nhỏ cũng là cần đàn. Đàn nguyệt (hay nguyệt cầm) như tên gọi của nó cho thấy có bầu đàn hình tròn như mặt trăng (nguyệt) và cần đàn nhỏ và dài. Đàn nguyệt có bốn dây. Về hình dạng, đàn tỳ bà đẹp hơn đàn nguyệt và cũng là đề tài cho các họa sĩ khi vẽ người đàn bà ôm đàn, một nửa cần đàn che một phần hay nửa khuôn mặt người nữ nghệ sĩ. Có lẽ họ lấy ý ở câu thơ trong Tỳ Bà Hành: ?oTay ôm đàn che nửa mặt hoa.?
    Trong văn học nước ta, Tỳ Bà Hành là một tác phẩm văn chương rất nổi tiếng. Tỳ Bà Hành là một bài hành, nguyên tác bằng Hán văn của Bạch Cư Dị, được Phan Huy Vịnh dịch ra thơ Nôm. Từ khi có chương trình giáo dục Hoàng Xuân Hãn (chính phủ Trần Trọng Kim, thời Nhật) đến năm 1956, Tỳ Bà Hành được đưa vào chương trình Việt Văn lớp Đệ Tứ. Khi đi học, tôi may mắn được học tác phẩm nầy. Tuy Tỳ Bà Hành không sánh được với truyện Kiều nhưng rất nhiều người say mê Tỳ Bà Hành còn hơn truyện Kiều. Sách Văn Đàn Bảo Giám viết:
    Tỳ Bà Hành là một bài hành của Bạch Cư Dị đời Đường, gồm có một bài tự và tám mươi tám câu hát. Dưới đây là nguyên văn bài tự và bài dịch của Phan Huy Vịnh (xem phụ lục)
    Bản dịch bài tự:
    Niên hiệu Nguyên Hòa thứ mười, ta phải đổi ra làm tư-mã quận Cửu Giang. Mùa Thu năm sau, đi tiễn khách ở bến Bồn. Đêm nghe thấy người gảy đàn tỳ-bà ở trong một chiếc thuyền kia, những giọng đàn lanh lảnh có tiếng ở kinh kỳ. Hỏi ra mới biết là một người xướng nữ ở Trường An thường học đàn ở hai nhà thiện tài họ Mục và họ Tào, đến khi tuổi cả sắc suy mới gởi thân làm vợ một anh lái buôn. Liền bảo đặt rượu và gảy mấy khúc đàn chơi. Gảy xong, người ấy buồn bã, tự kể khi trẻ trung thì vui thú chừng nào, nay phải lưu lạc tiều tụy ở nơi giang hồ. Ta ra làm quan ở ngoài đã hai năm, vẫn thường lẵng lặng tự dưng, đêm ấy cảm mấy lời nàng nói mới để ý đến nỗi mình bị giáng trích, nhân làm bài ca trường thiên để tặng. Cả bài có sáu trăm mười sáu lời, đặt tên là ?oTỳ-bà hành?.
    Ngay bài tự, Bạch Cư Dị cũng không nói thật. Ông vì lòng ngay thẳng, lời nói thật mà bị bọn nịnh thần xàm tấu với vua nên ông bị biếm ra đất Giang Châu. Điều đó không làm cho Bạch buồn sao? Vậy mà Bạch viết: Ta ra làm quan ở ngoài đã hai năm, vẫn thường lẵng lặng tự dưng. Không, ông thể ?olẵng lặng tự dưng? được, mà chính lòng ông ôm một mối u hoài vì lòng ngay thẳng của ông không được vua thấu rõ, lại còn đày ông ra nơi nầy. Ông không thể ?ođêm ấy cảm mấy lời nàng nói mới để ý đến nỗi mình bị giáng trích.?
    Câu thơ sau đây mới là nỗi lòng thật của ông:
    Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai
    Và:
    Chốn cùng tịch lấy ai vui thích
    Tai chẳng nghe đàn địch suốt năm
    Sông Bồn gần chốn cát lầm
    Lau vàng trúc võ âm thầm quanh hiên
    Tiếng chi đó nghe liền sớm tối
    Quốc kêu sầu vượn nói véo von
    Hoa xuân nở nguyệt thu tròn
    Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng
    Há chẳng có ca rừng địch nội
    Giọng líu lo nhiều nỗi khó nghe
    Trong chế độ phong kiến độc đoán Tống Nho, một lời oán trách, buồn phiền nhà vua cũng là một trọng tội, ?okhi quân? thành ra chữ ?olẵng lặng tự dưng? ông nói ở trên chỉ là lời nói khéo để khỏi bị triều đình bắt tội mà thôi.
    Các nhà phê bình văn học cổ cho rằng bản dịch chữ Nôm của Phan Huy Vịnh còn hay hơn cả bản chính chữ Nho của Bạch Cư Dị, chứng tỏ cái tài của hàng nghệ sĩ nước ta.
    Câu chuyện người kỹ nữ ôm đàn sang thuyền của Bạch đàn ca bị người đời sau chê nàng là người thiếu thủy chung với người chồng đi vắng. Trong truyện Kiều, Thúy Kiều thề ước với Kim Trọng ?oTrăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai? cũng là muốn nói lòng thủy chung của cô với chàng Kim vậy. Vậy mà cuối cùng, vì gia biến, Kiều phải bán mình chuộc cha. Than ôi! Xưa cũng như nay, vì hoàn cảnh hay tự lòng mình không vững bền, mấy ai giữ được một tấm lòng chung thủy!
    Bài thơ Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị do Phan Huy Vịch dịch, có ảnh hưởng rất lớn trong văn học Việt Nam, không chỉ trong cổ thi mà còn cả trong thi ca lãng mạn tiền chiến. Rõ nhất là ở bài thơ ?oNguyệt Cầm? của Xuân Diệu:
    Nguyệt Cầm
    Xuân Diệu
    Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh
    Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
    Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
    Mỗi giọt rơi tràn như lệ ngân.
    Mây trắng trời trong đêm thủy tinh
    Lung linh bóng sáng bỗng run mình
    Vì nghe nương tử trong câu hát
    Đã chết đêm rằm thu nước xanh
    Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
    Đàn ghê như nước, lạnh trời ơi...
    Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
    Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người
    Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê
    Chiếc đảo hồn tôi rộn bốn bề...
    Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
    Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
    HTy ST
    ____________________________________________
    Bé Rain đâu ?
    Hôm nay trở lại vườn thơ cũ
    nhìn dáng nguyên xưa bỗng ngậm ngùi
    Mai kia thì ngày Đoan Ngọ rồi đem bánh cho HTy chưa ? Và đem bài Trùng 5 bên VietEquation qua đây post đi ... Hôm Trùng 3 cũng không đi thăm Kiều hay viếng mộ Đạm Tiên ới à FR ?
    ..hoa gạo rưng rưng dòng sữa
    buổi trưa hè nghe chó sủa cuối thôn
    Được HTyCG sửa chữa / chuyển vào 21:38 ngày 02/06/2003
  7. hoanghoatientuu

    hoanghoatientuu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/08/2003
    Bài viết:
    327
    Đã được thích:
    0
    Một chủ đề hay như vậy mà không có người tiếp thì kể cũng quá phí cho cái công người dựng topic .
    Cho Hoàng Hoa Tiên Tửu đi từ dưới đi lên nhé ! Các bác duyệt lại xem còn thiếu tích nào không để Hoàng Hoa post lên cho mọi người coi cùng .
    Xin cảm ơn !
    Ấy là Hồ điệp hay là Trang sinh
    Ấy hồng Thục Đế hay mình Đỗ Quyên
    Bâng khuâng đỉnh giáp non thần
    Bây giờ gương vỡ lại lành
    Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh
    Cầm đường ngày tháng thanh nhàn
    Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau
    Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài
    Cũng thần mày trắng cũng phường lầu xanh
    Dập dìu lá gió cành chim
    Duyên đằng thuận nẻo gió đưa
    Ðã cho vào bực bố Kinh
    Ðã nên quốc sắc thiên hương
    Ðã thẹn nàng Oanh, đâu thua ả Lý
    Ðào nguyên lạc lối đâu mà đến đây
    Ðầm đầm châu sa - làm ma không chồng
    Ðem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ
    Ðêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu
    Ðêm thu khắc lậu canh tàn
    Ðuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ
    Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo
    Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
    Hoạ là người dưới suối vàng biết cho
    Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
    Kê Khang nầy khúc Quảng Lăng
    Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu
    Khen rằng "đáng giá thịnh đường"
    Khi về hỏi Liễu Chương Ðài
    Khiến người lại nhớ câu bình nguyên quân
    Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan
    Khúc đâu hán sở chiến trường
    Khúc đâu Tư Mã phượng cầu
    Kiều cam bề tiểu tinh, Tú Bà nổi tma bành
    Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai
    Lòng còn gởi áng mây vàng
    Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương
    Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân
    Mà xem trong sổ Ðoạn trường có tên
    Mặn tình cát luỹ nhặt tình tao khang
    Mắt xanh chẳng để ai vào có không
    Một hai nghiêng nước nghiêng thành
    Một nền đồng tước khoá xuân hai Kiều
    Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này
    Nàng rằng "Hồng diệp xích thằng..."
    Nào hồn Tinh vệ biết theo chốn nào
    Nghề riêng ăn đứt Hồ Cầm một trương
    Nhà Huyên - Mạch Tương
    Nụ cười này hẳn nghìn vàng
    Nước non luống những lắng tai chung kỳ
    Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai
    Phỉ nguyền bói phượng, đẹp duyên cưỡi rồng
    Quá quan này khúc chiêu quân
    Quả mai ba bảy đường vừa
    So vào với thiếp lan đình nào thua
    Số còn nặng nghiệp má đào (1)
    Số còn nặng nghiệp má đào (2)
    Sông Tương một dãi nông sờ
    Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm
    Thì vin cành quýt cho cam sự đời
    Tiếng sen sẽ động giấc hè
    Tin nhạn vẩn, lá thư bời
    Tống Ngọc, Trường Khanh, mưa Sở mây Tần
    Tơ lòng đã dứt dây đàn tiểu lân
    Trao tơ phải lứa gieo cầu đáng nơi
    Trần trần một phận ấp cây đã liều
    Tri kỷ trước sau mấy người
    Trong khi chắp cánh liền cành
    Trước hàm sư tử gởi người đằng la
    Vả trong thềm quế cung trăng
    Vành ngoài bảy chữ vàng trong tám nghề
    Vẻ chi một đoá yêu đào
    Ví chăng duyên nợ Ba sinh
    Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang
    Xót người tựa cửa hôm mai
    Xuân đình thoát đã đổi ra cao đình
  8. HTYCG

    HTYCG Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    18/03/2002
    Bài viết:
    557
    Đã được thích:
    0
    mong manh vạc nắng chơ vơ lầu
    ''người xưa cởi hạc '' ,, bỏ đi đâu ???
    thềm xuân ,, pháo nổ canh đầu
    gió xuân lay động trúc lầu bay bay
    Phong Lan rượu ẩm bình đầy
    mỹ nhân Viễn khách ,,, vui say bên lầu
    chuông xa chợt tĩnh canh thâu
    thuyền Xuân tách bến vườn dâu vắng người
    Hạc vàng bay đã bao năm ???
    Mai xuân nở rộ có lầm ''bến trong'' !
    Trúc nêu vẫn thủy chung lòng
    Cúc vàng bên bóng xuân nồng kiêu sa
    Nàng Xuân khuất bóng chiều tà
    Lệ Xuân đoản khúc tình ca túy sầu
    HTyCG
    ..hoa gạo rưng rưng dòng sữa buổi trưa hè nghe chó sủa cuối thôn
  9. Hoabaoxuan

    Hoabaoxuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/10/2002
    Bài viết:
    1.232
    Đã được thích:
    0
    Hương thơm - thơm không dứt
    Người đi - đi không về
    Nhớ nhau lá vàng rụng
    Rêu biếc sương dầm dề...
    * Chị Rain và bác HTy, lâu lắm rồi em không có thấy!! Bác HTy vào sao không gọi em?
    Chị Rain ơi!!
    Lòng như đất lặng thầm mơ dấu guốc
    Cỏ thanh thiên hoa trắng đợi em về!

    *********
    Có chiếc lá bay ngược chiều gió thổi
    Mềm như em và xao xác như em!...

Chia sẻ trang này