1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Điệu hồn trống trận Tây Sơn

Chủ đề trong 'Âm nhạc' bởi yenmusic, 30/07/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. yenmusic

    yenmusic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    3
    Điệu hồn trống trận Tây Sơn

    Từ ngàn xưa trong các trận binh đao chống quân giặc xâm lược nước ta, các tướng chỉ huy đều dùng một nhạc cụ rất thô sơ, đơn giản để "điều binh khiển tướng ba quân" -- TRỐNG -- mà trong đó nổi tiếng nhất có thể kể đến TRỐNG Tây Sơn. Tại sao nổi tiếng và "thành tích" của Trống TS ra sao trong các cuộc chiến???? Mời các bạn đọc bài viết sau được sưu tầm trong website của Đà Nẵng --

    Điệu hồn trống trận Tây Sơn ​



    Tiếng trống vang trên đất Tây Sơn (Bình Định) hoàn toàn không hề giống tiếng trống của bất cứ nơi đâu trên đất nước, và cũng chẳng nơi đâu trên thế giới này có được tiếng trống như vậy...

    Nhạc võ Tây Sơn gắn với lò võ nổi tiếng của người Việt ở Bình Định. Tương truyền loại nhạc này do ba anh em người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đặt ra cho quân khởi nghĩa luyện võ. Với một bộ trống 17 chiếc, người tập võ sẽ dùng hai tay để đánh 12 chiếc, còn lại 5 chiếc đánh bằng đầu, 2 gót chân và 2 khuỷu tay. Người tập võ đánh được 17 trống được xem là "võ thuật như thần".

    Sau khi ba Ngài mất, mỗi dịp tế lễ để tưởng niệm những vị anh hùng đã lãnh đạo quân sĩ quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, nhân dân ở quê các Ngài vẫn đánh trống võ. Nhạc võ Tây Sơn trở thành một loại nhạc lễ trong di sản nghệ thuật của người Việt Nam.

    Như tên gọi, nhạc võ Tây Sơn có hai phần: nhạc và võ. Phần nhạc được phối âm dựa trên tiết tấu chủ đạo của trống chiến trên nền âm cổ truyền (hò, xang, xế,...). Chia thành ba hồi: xuất quân, xung trận - công thành và ca khúc khải hoàn, hoàn toàn không có hồi lui quân hoặc thu quân như trống trận của các triều đại khác cũng như quân đội của nhiều quốc gia khác trên thế giới. Nhiều du khách, kể cả các nhà nghiên cứu đều lấy làm thú vị khi phát hiện ra chi tiết này. Có lẽ do hễ đánh là thắng nên cứ sau mỗi lần công thành là hồi khải hoàn lại có dịp vang lên, về sau những hồi lui quân, thu quân không có dịp được sử dụng (?). Kể cũng không lấy gì làm lạ vì trong đời cầm quân của mình, vị hoàng đế có tên tuổi gắn liền với bài trống độc đáo này là Quang Trung chưa một lần thua trận, đội quân của ông cũng chưa một lần phải lùi bước trước kẻ thù nào.

    Tuy chỉ có 3 hồi, giản đơn là vậy nhưng nhạc võ Tây Sơn không hề lẫn trộn với bất cứ tiếng trống nào trên khắp năm châu, trống trận Tây Sơn là bản giao hưởng hùng tráng hừng hực hào khí Quang Trung và thấm đượm tinh thần thượng võ Tây Sơn.

    Khi tiếng trống cất lên, lập tức không gian như vang vọng hồn thiêng sông núi. Nghe như rầm rập tiếng quân đi, voi thét; tiếng lướt gió, chạm nhau của binh khí; tiếng reo hò vang dội của ba quân. Và cả sự trầm lắng tưởng niệm vong hồn tử sĩ trước khi những thanh âm reo vui, rộn rã trong khúc khải hoàn ca chan hòa muôn phương. Thế trận thần tốc, táo bạo năm nào dường như đang hiện diện, rần rật chuyển lan trong từng mạch nhịp của người nghe. Trống trận Tây Sơn không chỉ là hiệu lệnh, là lời động viên, cổ vũ ba quân mà còn là những đòn thế tâm công xoáy sâu, đánh thẳng vào tâm lý của quân thù, góp phần làm nên thắng lợi.

    Dàn nhạc võ Tây Sơn bao gồm: trống chiến, kèn xona (còn gọi là kèn bóp), chiêng, phèng la. Linh hồn của dàn chiến nhạc là 12 chiếc trống, tượng trưng cho thập nhị địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão...), xếp thành ba bậc trên giá đỡ, ứng với triết lý tam tài (Thiên - Địa - Nhân).

    Phần võ, nét độc đáo tạo thành nhạc võ Tây Sơn, chính là những đòn thế võ thuật hàm chứa trong từng thủ pháp thể hiện nhạc trống. Một lão võ sư đất Bình Định cho biết: "Trống trận Tây Sơn không chỉ là hiệu lệnh hành quân, là cách các tướng chuyển những mệnh lệnh chiến đấu điều binh khiển tướng. Nó hàm chứa nhiều đòn thế võ thuật siêu đẳng. Khi xưa, người đánh trống trận cũng phải tự chiến đấu để vừa bảo vệ mình vừa bảo vệ tiếng trống, tín hiệu giữ nhịp trận đánh không bị ngắt quãng. Chính vì lẽ đó mà đôi dùi trống, động tác đánh trống, bộ pháp di chuyển cũng là một nghệ thuật tự vệ. Khi đánh trống trận, người đánh di chuyển hết sức linh hoạt, bất cứ bộ phận nào của thân thể cũng có thể sử dụng để đối địch. Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ sẽ thấy tính sát phạt của những đòn thế này không cao, nó mang tính răn đe nhiều hơn. Vả lại, người đánh trống cũng được người múa cờ (cũng hàm chứa nghệ thuật tự vệ) hỗ trợ".

    Cho đến nay để thể hiện trọn vẹn được điệu hồn trống trận Tây Sơn không hề giản đơn. Năm 2000, trong lễ hội kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội, người dân Thủ đô đã từng thấy, từng nghe âm vang trống trận Tây Sơn qua sự thể hiện của nữ nghệ nhân Nguyễn Thị Thuận, cũng là người thể hiện thành công nhất nhạc võ Tây Sơn hiện nay. Tiếng trống của chị khi rền vang quyết liệt, cổ vũ ba quân xông lên, nhưng cũng có lúc khoan hòa, thúc giục, đủ sức lay chuyển ý chí chiến đấu của kẻ thù.

    "Ai về Bình Định mà coi
    Con gái Bình Định đánh roi, đi quyền".

    Tiếp bước nghệ nhân Nguyễn Thị Thuận là cô bé Cẩm Mai. Một cô gái có vóc dáng mảnh mai bé nhỏ mà lại có thể khiến dàn trống trận Tây Sơn kiêu hãnh ấy bật tung những thanh âm chuyển rung đất trời. Ngay trên nền nhà cổ xưa của ba anh em nhà Tây Sơn (nay là bảo tàng Quang Trung), dòng thác xoáy âm thanh từ đôi dùi trống của cô như gạch nối đưa chúng tôi thZng hoa về quá khứ hào hùng, như tái hiện khí thế của ngày này 213 năm về trước, khi Quang Trung đại phá quân Thanh giữa Thăng Long thành. Tiếng trống ấy tuy còn non nớt nhưng như lời anh Nguyễn Xuân Hổ, đội trưởng đội nhạc võ bảo tàng Quang Trung, "trong mỗi tiết điệu đã thấm đượm được điệu hồn trống trận Tây Sơn".

    Để thể hiện thành công nhạc võ Tây Sơn không chỉ cần có sự am hiểu cả hai phần võ và nhạc cổ truyền, mà còn đòi hỏi tâm huyết và sự đồng điệu trong từng tiết điệu, hơn thế thăng hoa được sự giao hòa ấy qua mỗi tiết điệu thể hiện, những điều kiện không dễ tìm thấy trong lớp trẻ hiện nay.

    Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất thượng võ Tây Sơn, cô bé đã theo thầy luyện võ từ nhỏ. Hai huy chương vàng trong giải võ cổ truyền tỉnh Bình Định hai năm liên tiếp (2000 và 2001) đã chứng tỏ năng khiếu và bản lĩnh quyền võ của cô bé. Mẹ làm việc trong bảo tàng nên ngay từ nhỏ cô bé đã sớm được tiếp xúc với không gian thiêng. Những âm điệu hào hùng của dàn trống trận Tây Sơn chẳng biết từ khi nào đã trở thành sự đam mê của cô bé. Bởi vậy, tuy được chọn làm cộng tác viên biểu diễn võ cổ truyền nhưng cô bé lại hay lén các cô chú tìm đến với những tiết điệu cổ xưa ấy. Phát hiện cái "duyên nghiệp" của cô bé, ông Trần Đình Ký - giám đốc bảo tàng Quang Trung và anh Nguyễn Xuân Hổ đã truyền thụ những tinh hoa, dìu dắt cô bé vào nghề. Không phụ lòng tin, cô bé đã và đang ngày càng khẳng định những nét điệu tài hoa của mình.

    Về đất Tây Sơn, được nghe tiếng trống trận Tây Sơn, khách xa quê có cảm giác như trăm vạn hùng binh đang lớp lớp xông lên, nhưng trong tiếng trống vang rền đó lại ánh lên một triết lý thấm đẫm chất nhân văn của dân tộc: khoan hòa nhưng kiên quyết.

    Source: http://www.danangpt.vnn.vn/vanhoa/


  2. northernstar_2308

    northernstar_2308 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/02/2003
    Bài viết:
    3.263
    Đã được thích:
    1
    Bài viết có liên quan:

    BÀI BẢN NHẠC VÕ
    Vì mang danh là nhạc võ nên bài bản phần nhiều cũng mang tính chất quân sự như bài: Khai Trường, Xuất Quân, Hành Quân, Hãm Thành, Khải Hoàn.
    Nhạc võ Tây Sơn, muốn biểu diễn đúng theo truyền thống và xem cho đẹp mắt thì trước hết, đi đầu là bộ phận của chiêng, trống, có quân hầu, lọng che; theo sau là hai toán quân (mặc áo cạp nẹp, chân quấn vòng ve, đầu đội nón dấu, tay cầm đao, kiếm, côn...) rồi đến giàn Nhạc Võ đặt trên một chiếc xe đẩy (Nhạc trưởng đứng giữa, hai bên là bốn nhạc công: đờn, kèn, xụp xõa, mõ phụ họa); sau rốt là vị tướng chỉ huy lẫm liệt trên mình voi hoặc ngựa.
    Bắt đầu biểu diễn, vị tướng kêu gọi:
    Ngoài biên thùy quân thù xâm lấn
    Trong nội tình đất nước lâm nguy
    Phận làm trai sinh tử nẹ chi
    Quyết một dạ lên đường cứu quốc!
    Nhạc trưởng tiếp theo
    Anh em ơi!
    (Toàn thể nhạc công) "Dạ"
    Lệnh trên đà ban xuống
    Phận dưới phải thi hành
    Dùng kế mưu kích cổ đa thanh
    Ðịch lầm tưởng hùng binh vạn đội
    Ðằng trước khởi chinh cổ, giàn nhạc võ nổi lên và lần lượt theo các bài bản do vị tướng chỉ huy.
    1.- Bài Khai Trường
    Bài Khai Trường chỉ dùng để luyện tập quân sĩ hay chào mừng các vị tướng chỉ huy khi cần đến diễn võ trường. Ðiệu nhạc khoan thai, hùng dũng.Thuở xưa, mỗi dịp có vị Hoàng đế hay vị Nguyên soái đến diễn võ trường để mở một cuộc diễn võ, tập võ hay là chọn tướng sĩ thì khi vị ấy bước vào võ trường, mỗi xứ có một điệu nhạc riêng để chào mừng nhà lãnh đạo. Riêng đối với quân Tây Sơn, điệu nhạc đó là ba hồi trống khai trường. Nhưng mà nhạc hát bội thường chỉ có hai cái trống căn bản gọi là "trống âm" và "trống dương" hay "trống quân" và "trống chiến". Nếu người ta biết rằng hát bội ngày nay là do cụ Ðào Tấn ở Bình Ðịnh lập thành qui chế, thì phép đánh trống của hát bội cũng đánh nhái theo điệu Khai Trường của Nhạc Võ Tây Sơn.
    Trống Khai Trường của hát bội phải đánh đúng ba sách, mỗi sách tám phách. Khi đánh đúng 24 phách, nhạc sĩ mở ra thành trống chiến và chờ cho trống quân gióng giáp ba hồi lại 9 tiếng thì người trống chiến phải thét theo. Khi thét xong, nghĩa là khai trường xong thì nhạc sĩ mở trống ra cho nghệ sĩ ra sân khấu. Lúc đó thì người hát hát thứ gì, nam, khách hay xuân... thì người đánh trống phải đánh theo thứ ấy. Nhưng thường người đánh trống chỉ được quyền đánh khi người nghệ sĩ trên sân khấu đã "thủ" và "vĩ". Nếu người đánh trống tự ý đánh theo, gọi là đánh nhái.
    Nói về bài bản của nhạc hát bội thì có 8 bài kể từ bài nhịp một đến nhịp tám còn âm thanh hay hoặc dở tùy theo người nhạc sĩ bắt già hay non mà thôi.
    2.- Bài Xuất Quân
    Xuất quân có nghĩa là đem quân đội ra chiến trường, nó có nghĩa là khởi hành và bao giờ khởi hành thì điệu nhạc phải làm sao cho tinh thần chiến sĩ phấn khởi lên, hăng hái lên và cũng phải gây cho được trong lòng mọi người một niềm tin chiến thắng. Do đó, nhạc xuất quân của Nhạc Võ Tây Sơn theo điệu này là một điệu nhạc hùng, nhịp của nó càng nhặt làm cho tim mọi người đập càng lúc càng mau, nghe hăng hái, phấn khởi.
    3.- Bài Hành Quân
    Ta tưởng tượng một đạo quân hùng hậu đã xuất quân trong tình thần tối cao nhưng mà sau một khúc đường dài chắc hẳn cũng đã thấy mệt mỏi. Trong lúc ấy vị tướng chỉ huy chỉ kêu gọi nầng cao tinh thần suông, chúng ta có cảm tưởng rằng lời kêu gọi ấy không được đáp ứng. Trái lại, nếu lời khuyến khích là một lời êm ái, dịu dàng, có vẻ vui vẻ, có vẻ đùa cợt ... thay vì đem lời hùng hồn thì đem lời an ủi êm ái, chắc có lẽ kết quả sẽ hay hơn.
    Ðọc truyện Tàu, chúng ta còn nhớ lúc Quản Di Ngô ngồi trong cũi để được đưa về nước Tề thì thấy các quân khiêng cũi hơi mệt mỏi nên Quản Di Ngô bèn đặt ra những bài ca, bài hát để cho quân sĩ đi theo nhịp bài ca mà quên mệt mỏi. Còn trong dã sử của Tây Sơn, người Bình Khê thường thuật lại rằng: Khi quân Tây Sơn đi ra Thăng Long ngày đêm không nghỉ phải hai người võng một người thì tránh sao khỏi cái việc khiêng liên tiếp mười mấy ngày, quân Tây Sơn cũng có thể mệt mỏi, và huyền thoại truyền rằng vua Quang Trung mới bày ra chuyện thi đua kể chuyện tiếu lâm để cho quân sĩ hào hứng quên sự mệt mỏi và, chúng tôi cũng tin rằng không biết chừng dàn trống của Nhạc Võ Tây Sơn lúc ấy lại trổi khúc hành quân nhằm mục đích giống như mục tiêu của việc thi đua kể chuyện tiếu lâm trên kia.
    Khúc nhạc này của Nhạc Võ Tây Sơn cũng diễn tả được cái ý nghĩ đó. Khúc nhạc này có đoạn nhạc sĩ chỉ đánh thuần bằng tay không, bằng những ngón tay, bàn tay, nắm tay và cùi chỏ nghe rất vui tai và xem đẹp mắt.
    4,- Bài Hãm Thành
    Bây giờ chúng ta lại tưởng tượng tiếp như đoàn quân Tây Sơn đã đến dưới chân thành và vị tướng chỉ huy đã ra lệnh hãm thành thì phận sự của nhạc sĩ sử dụng giàn trống là phải gây cho chiến sĩ một tinh thần nỗ lực tối đa để công phá thành trì hầu cướp được cho mau lẹ. Ðiệu nhạc này nghe thật là sôi nổi, dồn dập, kích động tối đa lòng dũng cảm của mọi người.
    5.- Bài Khải Hoàn
    Và sau cùng là bài Khải Hoàn. Ðiệu nhạc này dĩ nhiên âm thanh phải diễn đạt cho được sự vui mừng, phấn khởi, hò reo của kẻ chiến thắng.
    Ai đã có nghe xem Nhạc Võ Tây Sơn sẽ nhận rõ điều đó. Tôi nói nghe và xem vì Nhạc Võ Tây Sơn xem đã đẹp mắt mà nghe cũng vui tai. Ðiệu bộ và âm thanh hòa nhịp khi khoan, khi nhặt, khi bổng, khi trầm, khi lơi lả, lúc dồn dập thật là khó tả.
    TÂM TÌNH NGƯỜI VIẾT
    Người viết bài này hân hạnh trước đây đã có mặt trong tất cả các buổi trình diễn Nhạc Võ Tây Sơn, nhưng không có lần nào mãn nguyện. Bởi lẽ, theo người viết, bộ môn văn hóa này cần phải được chấn hưng và trình diễn theo đúng truyền thống. Thế nhưng từ trước đến giờ, về mặt chính quyền thì ít để ý đến, mặc dù trên thực tế đã công nhận nó là hay và siêu việt nhưng không đật thành kế hoạch để chấn hưng. Còn nghệ sĩ thì vì thiếu sự để ý, đề cao của chính quyền, nên mặc cảm bị bỏ rơi, phần thì bận rộn sinh kế làm ăn nên cũng không công đâu tập luyện. Cho nên trong tất cả những lần trình diễn, người nghệ sĩ đều ở trong tình trạng bị "bắt cóc", chẳng khác nào bắc nước sôi rồi mới đuổi gà nên không tránh khỏi sự lụp chụp vì thiếu chuẩn bị, thiếu tập dợt; nghệ sĩ nhớ được ngón nào học được của ngày trước thì trổ ra ngón ấy chứ không có thì giờ xét duyệt lại, tập tành thêm cho hay, cho hoàn mỹ và thường chỉ trình diễn thuần việc đánh trống, thiếu phần phụ họa.
    Người viết xin mạn phép ước mơ mà đề nghị với nhà hữu trách Việt Nam sau này, nặng tình với Văn Hoá Dân Tộc, nếu xét thấy bộ môn Nhạc Võ Tây Sơn là một quốc túy và có một giá trị lịch sử huy hoàng thì cần phải đật kế hoạch cụ thể để bảo tồn và phát huy. Tìm kiếm những nghệ sĩ nào còn giữ được chân truyền bộ môn này, truyền lại cho đoàn hậu tấn.
    Ngày xưa, "Người Việt đã nghe tiếng gọi của Trưng Trắc, Trưng Nhị mà chống lại Tô Ðịnh muốn lấy luật pháp mà trói buộc; đã mười năm gian khổ theo Lê Lợi để khỏi phải bím tóc và kết đuôi sam giống người Minh; đã cùng Nguyễn Huệ đánh trống tiến quân vào Thăng Long để đuổi đám tướng binh nhà Thanh nhiễu loạn cuộc sống của dân chúng. Và chắc chắn mãi mãi về sau này, dân tộc Việt Nam còn thì văn hóa dân tộc Việt Nam cũng vẫn có, và vẫn còn cái tinh thần bất khuất để bảo vệ nền văn hóa của dân tộc" (2). Bởi vì tiếng trống Lạc Việt luôn luôn mang nặng tình tự dân tộc và văn hóa Việt Nam không bao giờ thiếu vắng tiếng trống đặc trưng đó.
    THÁI TẨU
    Trích từ: http://news.ttvnol.com/vothuat/302384/trang-2.ttvn

  3. yenmusic

    yenmusic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    3
    Bài viết liên quan:
    TRỐNG TRẬN TÂY SƠN​
    Trong nhạc cụ của loài người, có lẽ trống và sáo là những nhạc cụ xuất hiện đầu tiên. Thời nguyên thủy, con người sống trong thiên nhiên hoang sơ và tiếp xúc với ngoại cảnh của thiên nhiên bằng sự hiểu biết hạn hẹp của mình. Gặp những hiện tượng không giải thích được, người ta nghĩ đến thần linh. Sợ oai trời, người ta sợ những biểu hiện của quyền uy đó, thần Sấm, Thần Sét, Thần Lôi v.v... là những bậc thần linh, có khả năng siêu nhiên, vượt khỏi sự hiểu biết và ảnh hưởng của con người thời đó.
    Trong những âm thanh ngẫu nhiên bắt gặp, hay phát minh ra sau này qua những theo dõi tìm hiểu, tiếng trống là loại âm thanh gần gũi nhất với những biểu hiện của quyền uy sấm sét. Có thể, loài người đã hiểu và khi gõ vào một vật rỗng, ta có nhiều loại âm thanh khác nhau. Cũng như sáo có thể xuất hiện từ tiếng gió vi vu qua bọng cây, cành lá và dạy con người tìm ra những âm thanh gần gũi với lời chim chóc, suối reo, nước chảy. Trống và sáo đã được phát minh từ đó chăng?
    Mình cứ suy nghĩ như vậy để tìm lên cái gốc, cái nguồn của cái trống. Một thân cây rỗng, một thùng gỗ, một mảnh da khô căng cứng v.v... có thể đã là nguồn cảm hứng đầu tiên đưa người nghệ sĩ tiền sử đến loại nhạc cụ này. Như vừa đoán, tiếng trống là âm thanh gần gũi nhất với tiếng sấm. Trống là một vật thờ vì tạo ra âm thanh gây được sự cảm thông của thần linh trên cõi không ai biết. Chỉ nghe mà sợ hãi, kính nể.
    Dân tộc ta, vào thời kỳ đồ đồng, đã nổi danh về kỹ thuật làm trống đồng rất tinh vi. Người ta còn biết là thời thượng cổ, dân tộc còn chôn trống dưới chân thác để gây âm thanh hùng vĩ như tiếng gầm thét của thượng đế.
    Những hình vẽ trên mặt trống đồng cho phép ta nghĩ đến cảnh tế lễ thời thượng cổ, và giả thuyết trống là một nhạc cụ dùng cho việc tế lễ là một giả thuyết hợp lý.
    Khi tâm lý bị khích động, con người ta có thể diễn tả hay biểu lộ bằng tay chân, thân thể. Những điệu vũ, điệu múa đầu tiên xuất phát từ những cảm xúc này, diễn tả bằng thân hình. Âm thanh và điệu bộ kết hợp cho ta vũ và nhạc. Nhạc và vũ thường đi cùng với nhau...
    Tiếng trống trầm hùng, hay buồn bã chậm rãi, theo nhịp đập nhặt khoan, cũng có thể là những thúc giục tâm lý, khiến người nghe muốn vùng lên, đứng dậy, bước tới. Và nhảy múa, hát mừng hay than khóc, hay ca ngợi... trong các âm thanh, tiếng trống nhịp nhàng đều đặn có lẽ cũng gần với nhịp đập của con tim, khi ta còn thơ dại áp đầu bên ngực mẹ, hoặc sớm hơn, khi còn là bào thai mà tiềm thức đã tiếp nhận nhịp tim đều đặn của người mẹ cưu mang, khiến ta bồi hồi xúc động, hay muốn vươn mình nhảy múa. Trống được đưa từ nơi tế tự vào nghệ thuật âm nhạc từ đó.
    Trước khi khoa học hiện đại ra đời, người ta mới chỉ có thể truyền tin bằng tai bằng mắt. Bằng mắt còn có giới hạn, hoặc vì cách trở không gian quá xa, hoặc vì bị che khuất giữa nguồn phát tin và nơi tiếp nhận. Bằng tai, người ta thấy xa hơn, và không bị che khuất. Trống được sử dụng làm vật truyền tin bằng âm thanh. Trống trận được dùng cho nhu cầu thông tin trong chiến trận. Trống trận vì vậy vừa là phương tiện truyền tin, vừa là vật gây tác động tâm lý, cổ võ tinh thần của người ra trận.
    Nghệ thuật dùng trống của chúng ta trong việc tế lễ, ca vũ, hay thông tin và khích động tinh thần trong chiến đấu đã phát triển như thế nào trong quá khứ, chúng ta chỉ còn biết một cách khá lờ mờ. Nếu có, ta nhớ nhiều về trống chầu hơn trống trận.
    Mà có phải là vì chúng ta đã không có "nước thanh bình ba trăm năm cũ" đâu? Cái gì chứ chiến tranh thì ta không thiếu. Có lẽ vì những đổi khác, những tiến bộ của kỹ thuật truyền tin trong trận mạc, ta đã quên mất nhiều điều về trống trận tổ tiên đã từng sử dụng trong mấy ngàn năm qua.
    Ðã vậy, về trống trận Tây Sơn, ta biết, hay nhớ, còn ít hơn nữa. Thời Tây Sơn, có Phan Huy Ích nổi danh văn học, và đứng bên Ngô Thì Nhậm, ông còn nổi danh là một nhà ngoại giao nữa. Nhưng, ít người để ý là Phan Huy Ích cũng đã từng cầm quân. Trước khi Quang Trung ra Thăng Long đại phá quân Mãn Thanh, Phan Huy Ích đã từng cầm quân đi bắt Nguyễn Hữu Chỉnh. Ngày chuẩn bị, ông đem theo một trống trận, đục thủng một đầu. Ðịnh để nhốt Chỉnh vào trống giải về Kinh đô.
    Hoàng Lê Nhất thống chí có chép sự kiện này, nhưng không cho biết chi tiết là cái trống đó lớn chừng nào. Ta lại đành phải đoán là lớn lắm. Ðủ to để giam Chỉnh vào đó. Và sự kiện trên cũng cho ta biết trống trận không phải do Tây Sơn phát minh ra.
    Nhưng trống trận Tây Sơn thì rõ là một nét văn hóa độc đáo của vùng Bình định, điểm xuất phát nghĩa quân, vào năm 1771. Theo lời kể của dân chúng Bình định, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đều là những người giỏi võ. Không chỉ giỏi về công phu và nghệ thuật, mà còn đặc biệt quan tâm đến việc hệ thống hóa kiến thức về võ thuật tại địa phương. Nguyễn Lữ từng tổng kết kinh nghiệm võ thuật cùng việc theo dõi từng thế đá của gà chọi (Hùng Kê quyền), khẩu quyết được phổ thành một bài thơ cho dễ nhớ dễ tập. Cũng tại vùng Tây Sơn, binh lính Tây Sơn còn sử dụng trống trận trình bày nhạc võ (nhạc của võ nghệ, không phải nhạc dùng trong vũ múa) để khích động tinh thần ba quân.
    Võ nhạc Tây Sơn nổi tiếng với bốn bài Luyện Quân, Xuất Quân, Công Thành và Khải Hoàn. Bài luyện Quân đánh trong lúc tập luyện, giữ nhịp chuyển bộ cho đều. Bài Xuất Quân đánh với tiếng thôi thúc dồn dập để tăng khí thế chiến đấu. Bài Công Thành được trổi lên trong biết bao đợt Tây Sơn lâm trận, công phá thành lũy đối phương. Bài Khải Hoàn với những tiếng vui tươi làm phấn khởi quân binh sau khi chiến thắng.
    Võ nhạc Tây Sơn sử dụng trống là nhạc cụ chính. Ngoài ra còn kèn, đàn nhị và thanh la não bạt. Trống trận Tây Sơn gồm một bộ 12 cái, phải chăng để tượng trưng cho 12 giáp hay 12 tháng trong năm? Bộ trống được dựng thành dàn, theo thứ tự ba hàng từ lớn đến nhỏ. Bốn trống lớn, đường kính khoảng 40 phân tây đứng hàng đầu. Sau đó là 4 trống nhỡ, quãng 30 phân, sau cùng là bộ trống nhỏ,cỡ 20 phân, cũng bốn cái. Người cử trống đánh cả hai tay, và cùi chỏ, cùng hai dùi trống (gọi là roi), dài khoảng 30 phân, đánh cả hai đầu. Ðưa hai tay lên múa là có thể đánh cả bốn mặt trống hay tang trống một lúc.
    Vào một bài trống, người thiện nghệ có thể gây cảnh mưa rào thác đổ, khi nhặt khi khoan, khi dồn dập bức tim, khi hào hùng phấn chấn. Xem người múa trống đã là một cái thú. Múa là chữ đúng nhất vì người đánh trống vừa đánh vừa di chuyển chứ không ngồi một chỗ như nhạc công tấu nhạc.
    Trước 1975, tại Sài gòn, mình còn được thấy Trịnh Toàn múa trống, nên còn mường tượng ra được ít nhiều thế nào là một bài múa trống và thế nào là một dàn trống của thời xưa. Nay thì chỉ còn là kỷ niệm... Từ trống Ðông sơn đến trống trận Tây Sơn, ta mất nhiều quá. E là đến kỷ niệm rồi cũng sẽ mất mà thôi.
    Có lẽ vì chỉ là kỷ niệm, nhưng hồi tưởng mơ hồ của một cái gì đó đã mất, nên thời nay, nói đến trống trận hay nhạc võ Tây Sơn, nhiều người không tin là có thật. Có ai xác định được hư thực ra sao không? Hát bội Bình định. Bộ môn này có thực hay không? Chắc chắn có chứ. Liệu có ai phủ nhận môn này nữa không đây?
    Qua bài thơ Long Thành Cầm Giả Ca của Nguyễn Du ta biết là thời đó có các tướng Tây Sơn ra Thăng Long có nghe hát ả đào. Dường như rất ưa thích là khác. Trong Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Ðình Hổ, người ta thấy ông kể trước đây hát bôi bị cấm ở ngoài Bắc Hà. Cho đến năm Quang Trung thứ ba (1790) mới lại thấy bộ môn này xuất hiện. Một du khách người Anh cát lợi có kể chuyến thăm viếng Ðàng Trong thời Quang Trung và để lại một bức họa đầy màu sắc về một cảnh hát bội ông được xem (A Voyage to Cochinchine in the Year 1792 and 1793, của J. Barrow, xuất bản tại Luân đôn năm 1906). Trong Ðại Việt Quốc Thư do dịch giả Ðình Thụ Hoàng Văn Hoè dịch, Trung Tâm Học Liệu của bộ Giáo dục ta ấn hành năm 1967 và tái bản năm 1972, ta được biết Quang Trung Hoàng đế đã mừng thọ 80 tuổi của Thanh Càn Long với một ban ca nhạc gồm 6 nhạc sĩ và một số ca sĩ (không rõ bao nhiêu người) biểu diễn 10 bài trong công văn ghi là "nhạc phủ từ khúc thập điểu" cùng 6 người thợ tấu nhạc đã diễn tập, đặt bài hát nhịp vào tiếng đàn, gảy tiếng phương Nam để vui thêm "tiệc thọ". Bản văn này được kết với câu "kính dâng cả toàn vở hát".
    Mình không còn biết vở hát ra sao, mười bài hát trên là những bài gì, mình cũng không biết. Nhưng, ở con người Quang Trung, khi niềm kiêu hãnh dân tộc đã trở thành một đặc tính, chắc chắn là "phái đoàn nghệ sĩ" đi làm công tác ngoại giao và trao đổi văn hóa này không phải là một phái đoàn kém cỏi về nghệ thuật. Và những bài hát trên chắc chắn phải xuất sắc. Chắc chắn phải rất "Nam âm", không thể là một loại nhạc ta mượn của Tàu. Quang Trung là người chủ trương dùng văn Nôm thay chữ Nho, nên nếu có suy đoán là những ca khúc sứ giả cho nghệ thuật phương Nam phải độc đáo của Nam phương ta cũng ít sai.
    Nói như vậy để làm gì? Ðể nhắc nhở chúng ta là vào cuối thế kỷ 18, văn học nghệ thuật của nước ta đã có những sắc thái phong phú. Và để nhắc đến một truyền thuyết rằng các tướng Tây Sơn rất ưa chuộng nghệ thuật, yêu thích hát bội, rằng trong những năm ra Bắc, binh lính Tây Sơn còn tụ họp đánh trống để hát (một thuyết về nguồn gốc trống quân).
    Một quân đội vào Nam ra Bắc như gió cuộn lốc xoáy, với những người lãnh đạo biết yêu thương quân sĩ như anh em, lại yêu chuộng nghệ thuật, ưa thích âm nhạc, và biết khai thác mọi phương tiện cho việc quân , thì việc dùng nhạc cụ làm phương tiện khích động tinh thần là một việc cũng dễ hiểu, chẳng có gì là mơ hồ cả. Nếu đất Bình định là đất chuộng võ và là nơi đào tạo Ðào Duy Từ từng dạy dân nghệ thuật hát bội, có thấy trống nhạc trong hát bội được đem vào quân ngũ và trở thành một tiết mục quân nhạc, nhạc võ, thì cũng chỉ là điều thường tình, dễ hiểu, chẳng có gì là mơ hồ cả.
    Nếu có một điểm mơ hồ là ngày nay, ta thấy các thanh niên hay thiếu nữ Nhật bản hay Ðại hàn biểu diễn những màn múa trống, màu sắc vui tươi, thanh âm rộn ràng lôi cuốn, tại sao ta không nghĩ là thời xưa mình cũng từng có những bộ môn nghệ thuật như vậy. Dùng ở nơi tôn nghiêm thờ phụng hay trên sân khấu giải trí, hoặc trong quân ngũ để gây phấn chấn tinh thần binh sĩ thì cũng chỉ là mỗi nơi một cách.
    Tự nó, cái trống không có riêng một ý nghĩa linh thiêng ở nơi tế tự, hay ca vũ nhạc tiêu khiển trên sân khấu, hay lắc cắc diễu cợt như trong một vở chèo cổ, hoặc sầm sập uy vũ nhụ trong dàn quân nhạc. Ăn thua ở người đánh, nơi đánh, và đánh để làm gì thôi.
    Kỷ niệm 205 năm trận Ðống Ða, nếu ta có muốn nhắc đến một vài giả thuyết đã qua để tìm cách trả lại cho Bình định nhạc võ Tây Sơn, với vật tiêu biểu là dàn trống trận, thì chắc cũng không phạm tội là "đánh trống qua cửa nhà sấm".
    Người viết chẳng phải dân Bình định, nhưng thấy hát bội Bình định, võ thuật Bình định, bánh tráng Bình định như bị lãng quên dần, hay bị phủ nhận, thì cũng tiếc. Người Bình định có mất cái trống thì cũng chẳng ai được hưởng cả. Chỉ có dân ta mất mà thôi...
    Dư Hồng Phương- Ðặc san QUANG TRUNG - TÂY SƠN Xuân Giáp Tuất1994
  4. yenmusic

    yenmusic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    3
    Bài viết liên quan:
    Võ Bình Định là môn võ cổ truyền của dân tộc, được lưu truyền. Võ Bình Định là một môn võ luyện tập cho thân thể được khoẻ mạnh, để tự vệ nhưng đã đóng góp đáng kể trong việc cứu nước của tiền nhân. Qua dòng sử đấu tranh không ngừng để tự tồn và phát triển cũa dân Việt. Với những đặc thù độc đáo và tinh hoa của Võ cổ truyền Bình Định hay Võ Tây Sơn đã có từ ngàn xưa và được cải tiến, phát triển trong suốt tiến trình đấu tranh chống ngoại xâm và đánh đổ bạo quyền. Võ Bình Định còn là môn Võ tinh thần, luyện tập ý chí thêm kiên cường, tâm hồn cao thượng, thương dân, yêu nước.
    Về kỹ thuật gồm có quyền thuật và mười tám môn binh khí, nhưng sỡ trường nhất là quyền, côn, kiếm, đao, thương.
    Võ thuật đời Tây Sơn là đỉnh cao của võ thuật Bình Định. Nhiều lúc ba chữ võ Bình Định hòa lẫn với võ Tây Sơn. Nói đến võ Bình Định, người ta nghĩ ngay đến võ Tây Sơn. Nói đến võ Tây Sơn thì ta lại biết ngay là nói về võ Bình Định.
    Vậy đặc điểm của thời võ Tây Sơn là gì?
    Về võ thuật có 4 môn: Côn, Quyền, Kiếm, Cổ.
    Về binh khí thì có: Tây Sơn thập thần vũ khí.
    Về ngựa thì có: Tây Sơn ngũ thần mã.
    Về nhân vật thì có: Tây Sơn Tam Kiệt, Tây Sơn Thất Hổ tướng, Tây Sơn Ngũ Phụng Thư. Tây Sơn Lục Kỳ sĩ, Tây Sơn Tứ danh sư.
    * Võ thuật thời Tây Sơn
    1. Côn:
    Về côn thì ở nơi nào cũng có, gồm có hai thứ: Trường côn tục gọi là roi, đoản côn tục gọi là thước.
    - Trường côn cũng có hai loại: roi trường (roi đấu) và roi chiến. Roi trường cao hơn đầu người, thường gọi là trường tiên dùng trong chiến trận. Có khi dùng trên ngựa thì sống như ngọn thương. Roi chiến hay gọi là trung bình tiên thường cao hơn đầu người một chút hoặc ngang bằng đầu người. Thường dùng để đánh với đám đông người.
    - Đoản côn có tên gọi là thước, dài tới vai người sử dụng là một vũ khí cá nhân gọn gàng trong việc sử dụng và di chuyển. Tại Bình Định có nhiều võ sĩ dùng đoản côn dài hơn kích thước thường hoặc ngắn chỉ bằng 1 sải tay có thể dắt gọn vào lưng. Côn làm bằng gỗ dẻo và chắc như gỗ kiền kiền. Sớ của gỗ phải là sớ dọc. Nếu gỗ có sớ ngang thì sẽ dễ gãy. Đôi khi côn cũng làm bằng thép.
    2. Quyền
    Đặc điểm của quyền Bình Định là môn quyền hòa hợp giữa ngạnh quyền và miên quyền.
    Ngạnh quyền là quyền dùng sức mạnh bên ngoài mà cốt ở sự uyển chuyển hòa hợp. Lấy nội công làm chính.
    Ở Bình Định, các võ sư thường dạy cho các môn đệ cả hai thứ. Người giỏi bên ngạnh quyền, nội công vẫn có. Người chuyên về nội công, ngạnh quyền không đến nỗi tầm thường.
    3. Kiếm:
    Là một loại binh khí bằng kim loại sắc bén. Kiếm gồm hai loại kiếm và đao.
    Kiếm thì có trường kiếm và song kiếm. Thường trường kiếm thì đàn ông dùng, song kiếm thì đàn bà dùng. Trường kiếm phát huy sức mạnh. Song kiếm thích hợp uyển chuyển, lẹ làng.
    Đao thì có đại đao, tục gọi là siêu và đoản đao gọi tắt là đao. Bình Định thường sử dụng loại đao ngắn gọi là mã tấu thường để đánh giáp lá cà với địch. Rựa và dao bảy cũng được liệt vào loại đao.
    4. Cổ
    Là môn võ trống.
    Đây là một bộ môn võ thuật đặc biệt của thời Tây Sơn. Cho nên còn gọi là trống võ Tây Sơn.
    Trống võ dùng để luyện tập võ và điều binh khiển trận.
    Bộ võ trống gồm 16 cái lớn nhỏ được bố trí thành một giàn trống như sau:
    Đứng ngay chính giữa là võ công. Hai giàn trống nằm ở vị trí trước và sau võ công.
    - Phía sau gồm 4 trống lớn, đường kính hơn một thước tây, được treo trên một kệ gỗ gồm từng đôi một. Hai cái gần sát đất, hai cái ngang đầu người. Bốn trống này được võ công đánh bằng gót chân, cùi chỏ và đầu.
    Tùy theo tầm vóc của võ nhân mà khoảng cách treo trống cũng tăng giảm theo. Tuy nhiên, khi luyện võ đã khá thuần thục thì khoảng cách càng chênh lệch càng phân biệt được tài nghệ cao thấp. Ban đầu thì khoảng cách thuận vị trí của gót chân, cùi chỏ, sau này trống treo ở bất cứ nơi nào võ nhân cũng dùng gót và cùi chỏ chân đánh trúng. Khán giả chỉ nhìn theo gót chân, cùi chỏ người có võ thuật hay chỉ nghe tiếng trống vang lên dòn dã, âm điệu nhịp nhàng và âm sắc như nhau thì biết được sự điêu luyện của võ nhân. Còn khi nghe tiếng trống khi to khi nhỏ, khi kêu khi tắc, thì biết ngay tay học trò võ mới vào nghề.
    - Phía trước võ nhân là một giàn trống gồm 12 cái, nơi trung tâm là hai trống lớn bằng một nửa trống phía sau. Hai trống này làm chủ cả giàn trống trầm hùng luôn luôn rền vang liên tục, âm dương hòa lẫn cùng nhau. Khi người sử dụng có nội công thâm hậu thì tiếng trống vang xa gây thành tiếng sấm rền vang. Khi tiếng trống âm dương thay đổi nhịp điệu, người nghe biết rằng thế trận đang đổi thay, khi hùng hồn dòn giã là khí thế tấn công. Khi trầm trầm chậm rãi là lúc đoàn quân di chuyển?
    Phía trước hai trống âm dương có 4 trống chiến, mặt trống lớn bằng hai phần ba trống âm dương. 2 cái nằm trước trống âm, 2 cái nằm trước trống dương, được phối khí theo trống mẹ: 2 âm, 2 dương. Âm nằm bên trái, dương nằm bên phải. Tiếng trống âm nghe trong và cao. Tiếng trống dương nghe trầm và đục. Bốn trống của hai loại này dùng để điều khiển binh sĩ, hợp với trống mẹ. Khi tiếng trống âm vang rền thánh thót thì trận thế cần thủ nhiều hơn công. Khí tiếng trống dương rền vang là lúc xung phong kết thúc trận tiền. Phối hợp nhịp nhàng, bốn trống đại phía sau vẫn điểm nhịp khi khoan thai, khi dồn dập.
    Sau hai trống âm dương một dãy gồm 6 trống nhỏ chỉ bằng nửa hai trống âm dương. Đây là một dãy trống dùng trong việc điều hành, phối hợp. Nó chỉ dùng trong việc luyện tập, hiệu lệnh, từ trái sang phải 6 trống này có độ căng của mặt trống khác nhau nên khi đánh lên có 6 âm độ khác nhau. Khi được đánh lên, âm thanh của 6 trống sẽ tạo nên những nhịp điệu khoan thai, dồn dập ? điều khiển ba quân làm theo tiếng trống: hội quân, xuất quân, hành quân ? Trong các cuộc thao diễn, 6 trống này hòa nhịp với 2 trống âm dương làm thành một giàn nhạc võ. Hai trống âm dương đánh nhịp thùng, thùng, 6 trống hòa reo làm nhịp nhàng thế võ. Giàn trống thay thế cho giàn trống kèn của các nước Tây phương. Tuy nhiên có nhiều cái khác biệt là giàn trống chỉ một người đánh, phải là một vị tướng vừa đánh vừa chỉ huy hoặc điều khiển hành quân, tác chiến bằng âm thanh trống.

    Source: http://www.geocities.com/huynhth00/vietvo.htm

Chia sẻ trang này