Đỉnh trời tròn Nguyễn Thị Thảo An Đầu năm 89, anh quen James trong buổi tiệc tân niên của hãng. Hắn là dân Alaska, nhân nghỉ đông xuống miền nam thăm bạn. Hồi mới gặp anh cứ ngờ ngợ, thằng cha trông quen mà nghĩ mãi không ra từng gặp hắn ở đâu. Hai tuần sau, đem những tấm hình chụp chung trong buổi tiệc về. Vợ chỉ James xuýt xoa, ông nào giống Harrison kinh khủng. Anh giật tấm hình ngó kỹ. Ánh mắt thẳng, tự tin và thành thật, cộng thêm nụ cười nửa miệng ngượng ngập. Quả, hắn y hệt Harrison Ford trong phim Kẻ Trốn Chạy. Hai tháng sau, anh thất nghiệp. Hãng máy bay sa thải hàng ngàn công nhân vì hết hợp đồng. Đám thợ mất việc túa ra đi thử thời vận khắp nơi. Anh cũng gởi đơn qua các hãng Lockheed, McDonnell-Douglas, Boeing ở Florida, Texas, St. Louis, Cali? Thư có đi mà chẳng thấy về. Vợ than, thợ ráp máy bay sao giống dân Mông Cổ, rày đây mai đó. Anh bối rối, chỉ đáp bằng tiếng thở dài. Cuối tháng ba, một chiếc tàu chở dầu hãng Exxon trong vịnh Prince William Sound đụng băng sơn bị bể. Mười một triệu tấn dầu tràn lan trên mặt biển. Mỗi ngày người ta nhặt được hàng ngàn xác sinh vật trôi dạt vào bờ. Ngành đánh cá bị thiệt hại nặng. Trong lúc ai nấy đang hướng lên Alaska để nghe ngóng thì James trở về. Hắn rủ anh lên đó. Họ trả lương cao và đang cần rất nhiều công nhân làm sạch bờ biển trước khi đông đến. Anh nhìn lên ti vi, chăm chú xem những người mặc đồng phục vàng, đứng trên bãi biển chùi từng cục đá. Ngoài xa, băng sơn trôi lềnh bềnh giống những mỏm núi ngoi đầu lên mặt nước. Bỗng dưng, anh bắt rùng mình, co ro như người đi trên tuyết. James thuyết phục, trời sắp sang xuân không lạnh lắm đâu, hay cứ lên đó làm để dành một thời gian lại trở về, còn hơn nằm đây ngóng việc. Chợt hắn hạ giọng, giống như năn nỉ. ?oTin tao đi, khi người ta chịu đựng được bất cứ cái gì giỏi hơn người khác, họ sẽ thành công hơn thiên hạ.? Thấy anh ngần ngừ, hắn bồi thêm cú chót. ?oÊ, bộ mày tưởng Mike Tyson trở thành vô địch nhờ vào quả đấm ư? Không lẽ quả đấm của những thằng thua không làm người ta chết được à?? Rồi hắn rên rỉ, ?oTrời đất ơi, thằng vô địch thực chất chỉ là cái thằng chịu đòn giỏi nhất thôi.? Cuối cùng vị nể anh gật, nhưng hứa thòng một câu, ?oĐể tao hỏi vợ đã.? Tối đó, lựa lúc vui anh dợm ý. Chưa nghe hết chuyện, vợ đã gào, ?oCó việc, sao không nhận? Đi, cùng trời cuối đất, chỗ nào cũng đi, còn hơn ở lại có ngày? đi ra đường.? James đón anh đến Valdez, thành phố nhỏ quay mặt ra biển, sau lưng núi tuyết chập chùng. Sinh hoạt chính của Valdez là vận chuyển dầu hỏa. Nhìn từ trên cao, những thùng sắt khổng lồ sơn màu nổi bật nối những đường ống dẫn dầu từ miền bắc, rồi chia ra thành nhiều nhánh trong vịnh. Đường phố Valdez đơn giản. Giao thông chính tập trung ở các cảng. Canoes, và các loại thủy phi cơ nhiều như trong các bãi đậu xe. Riêng các tàu dầu lớn nằm ngoài cửa vịnh. James là người bặt thiệp. Hắn cư xử với kẻ mới quen rất thân tình. Mấy ngày sau, anh bắt đầu nhận việc. Chỗ làm chính là cái bãi biển anh đã từng xem trong ti vi. Trong lúc nhiều người kéo những đường ống to tướng hút dầu loang trên biển vào những tankers lớn, nhóm anh đi dọc bờ, nhặt xác các loài chim, cá? Con chết, đánh số rồi cho vào túi nylon. Con sống dính đầy dầu, được mang đi tắm rửa cẩn thận, xong chuyển qua trung tâm cấp cứu điều trị. Hình như chưa có con nào được xuất viện từ cái trung tâm này. Chỉ vài ngày, anh quen việc. Cái khó là khi tắm con vật trước mấy chục ống kính thu hình của nhóm phóng viên. Một tay lanh lợi nhất bọn cũng đâm ra lọng cọng. James không làm việc ở đó, nhưng thỉnh thoảng hay ghé thăm. Giờ nghỉ, thấy anh còn đi lượm xác mấy con chim liệng vô thùng, hắn la làng, đừng xách cổ, nắm chân và quăng xác chim. Người ta không cần anh siêng, chỉ cần anh tỏ ra biết thương yêu loài vật. Cốt sao cho mọi người thấy hãng dầu cũng biết bảo vệ môi sinh không thua cơ quan Greenpeace. James tiết lộ, cơ quan này, ngành đánh cá, và thổ dân đang xúm nhau kiện Exxon. Nếu hãng thua, chính hắn cũng bị thất nghiệp. Cuối cùng, Exxon thắng kiện. James báo tin mừng lúc anh sắp mãn hợp đồng. Hắn níu kéo, đừng về, ở đây khối việc. Alaska là chỗ vàng trôi trên sông. Những ngày nghỉ, anh theo James đến Anchorage, thành phố lớn nhất tiểu bang. Mùa hè, trời xanh mát. Người địa phương đua nhau mặc quần short, chạy bộ dọc vỉa hè. Chỉ đám du khách ru rú trong chiếc áo ấm dài tay. Anh ngạc nhiên thấy, có rất nhiều người Á Châu sống ở đây. James bảo, đừng lầm, họ là người bộ tộc Aleuts, thuộc giống Eskimos sống rải rác ở Bắc Cực và ven biển Alaska. Giữa thế kỷ 18, người Nga chiếm đất và giết gần hết bộ tộc Aleuts. Sau này, thấy đất toàn băng giá, họ bán lại cho Mỹ với giá gần 2 cents một mẫu. Anchorage nằm sâu trong vịnh Cook Inlet. Đầu mũi cảng có tượng James Cook, một captain Anh tìm thấy dãy đất này vào năm 1778, trước Nga. Ven vịnh, có nhiều hãng xưởng, nhất là hãng cá hộp. Ngoài xa, tàu bè tấp nập nối đuôi nhau vào bến. James bảo, đó là những tàu mang cá về bán lại cho hãng. Đa số người Aleuts sống bằng nghề chài, họ không ưa những người tạm cư từ nơi khác tới. Khi lên phía bắc thành phố, anh thấy một nhà thờ cổ kiểu Nga. Nóc hình củ hành, vòm gác treo ba quả chuông lớn. Đằng sau là nghĩa địa của người Athabaskan. Những ngôi mộ vuông vắn như chuồng bồ câu, bên ngoài sơn phết rực rỡ trông rất vui mắt. Quanh đó là nông trại. Anh kinh ngạc nhìn những bông cải to hơn quả dưa hấu. Hình như những hạt giống qua được mùa tuyết ủ đều lớn hơn mức bình thường. Cuối tháng sáu, ngày rất dài. Mặt trời thoáng chốc lặn, rồi hiện ra sau ngọn Denali. Thổ dân gọi, đó là ?ocăn nhà của thái dương?. Đỉnh núi trắng xóa, sáng lòe trong mây. Phía trước, tuyết vẫn còn dầy đặc. Nhiều người thích lên đây trượt băng vào mùa hè. Sau cùng, James ghé vào Portage Glacier xem băng sơn. Hơi ấm làm từng mảng băng nứt kêu răng rắc, rồi sụp xuống tan tành. Khói và bụi băng tung tóe văng cả bên này bờ. Anh ngạc nhiên, cứ đổ hết lớp này tới lớp khác, sao băng vẫn chưa hết. James nói, mỗi lớp băng đóng theo độ lạnh khác nhau, nên khi tan cũng theo từng lớp. Núi nhỏ nhưng băng dầy, chưa tới lớp cuối thì mùa đông lại đến. Thật ra, những người xứ này cũng chưa thấy được cái núi thật. Khi về, thấy hoa Forget-Me-Not mầu tím nhạt mọc tràn đồng, anh dừng lại trầm trồ. ?oMùa hè ở đây thật tuyệt.? Nghe vậy, vợ phán, ?oTuyệt cái gì? Ở đây chỉ có hai mùa: tuyết rơi và tuyết không rơi.? Người địa phương quen gọi Prudhoe là thành phố. Thật ra, nó là cái vịnh cực bắc Alaska nối với Bắc Băng Dương. Năm 1968, người ta khám phá dưới lớp tuyết trắng một thứ vàng đen. Gần mười năm sau, James là một trong những nhân viên đầu tiên dự lễ khánh thành giếng dầu số một. Sau vài năm, hắn trở thành trưởng ban điều hành công nhân. Khi mãn hợp đồng, James kéo anh lên chỗ hắn làm việc. Prudhoe, nơi mùa đông độ lạnh thường ở tám mươi độ âm, nửa năm không có mặt trời, vừa nghe đã khiến anh rút chân lên ghế. Hắn gật gù nói, nhưng bù lại điều kiện làm việc rất tốt. Lương gấp ba hiện tại, tuần làm tuần nghỉ, nhà ở, điện nước sưởi đều do hãng đài thọ. Lát sau, thấy anh vẫn làm thinh, hắn đâm giận. ?oÊ, lúc trước, mày có biết cuộc sống xứ này ra sao đâu, mà dám lội nửa vòng trái đất tới đây? Giờ, từ đây đến đó chỉ mấy trăm dặm, lại chịu nằm bẹp dí một chỗ?? Hắn lắc đầu, chê, ?oĐúng là đồ gà chết.? Xong, phủi đít đứng dậy. Cũng may, khi anh chạy ra gọi, xe James chưa nổ máy. Mới tháng chín, trời mù, ẩm và thấp. Mây đục, ngậm hơi sương. Buổi sớm, tuyết lác đác rơi, đến trưa tan chỉ vừa ướt mặt đường. James đến đón anh bằng chiếc máy bay nhỏ, loại bốn chỗ ngồi. Hắn vui vẻ bảo, Alaska giàu có nhưng đường sá nghèo nàn, chỉ chạy trong mấy tháng hè. Nhiều phố, huyện hoang vu nên giao thông chính nhờ máy bay. Chưa có nơi nào nhiều phi trường như ở đây. Đặc biệt, có thể gọi máy bay như gọi taxi trong thành phố. Những người lái air taxi, họ gọi là bush pilot. Ngược hướng bắc, máy bay lên không cao lắm. Dường như hắn thích lạng qua lại giữa những vách đá mầu lam. Đỉnh núi trắng xóa, mầu tuyết nhòe trong mây. Lưng chừng giữa triền dốc, thỉnh thoảng có bầy sơn dương nằm nghỉ. James bảo, loại dê núi khôn lắm, chúng thường ăn rêu ở những hốc đá cheo leo, nơi sói không bao giờ theo được. Qua khỏi Fairbanks một đỗi, bên dưới là sông Yukon. Lòng sông rộng, trắng và thoáng. Xa xa, vài căn nhà trơ trọi ven bờ. Anh ngạc nhiên, sao có người lại chịu sống nơi hoang dã, biệt lập với đời. James dặn, giao thiệp với họ phải cẩn thận. Đó là những tội phạm, sau khi mãn tù không kiếm sống được trong thành phố. Họ bắt cá, săn thú? đời sống đơn giản. James bay sà xuống thấp, chỉ anh xem một cái quay gió đặt mé sông. Và nói, với thứ lờ này họ cũng có thể kiếm năm, sáu chục cân cá một ngày. Lên phía thượng nguồn, cứ mỗi đầu xuân, cá hồi đua nhau bơi ngược dòng đẻ trứng, lũ gấu kéo bầy lên gềnh há miệng chờ những con cá nhảy sóng, hệt như mấy thằng nằm chờ sung rụng. Anh chợt hiểu, thì ra hắn nói vàng trôi trên sông là vậy. James lên cao khi bay qua một khu rừng rậm. Khí hậu đột nhiên xuống thấp. Nhìn bản đồ, chính là rừng taiga. Thật ra, đây là loại rừng tùng bách, lá nhỏ và trơn như cây kim, dễ giủ tuyết. Cánh rừng dầy, băng qua nhiều nước, làm thành vòng đai Bắc Cực. Nó ví như cánh cửa, chắn hơi lạnh tràn xuống miền nam. Ven rừng, có vài làng nhỏ, nhà chỉ dăm căn. Mùa lạnh không người. Chủ nhân chỉ đến vào dịp hè để bán đồ kỷ niệm cho các tay đi săn và dân thám hiểm. Vừa qua khỏi rừng, mới xế trưa trời đã chạng vạng. Dưới đất, tuyết tráng một lớp mỏng, ló những cọng cỏ lơ thơ cao chưa quá gối. Đằøng xa, thấp thoáng trên giàn khoan một ngọn đuốc to cỡ đuốc thế vận cháy bập bùng trên cao. Bên dưới những ánh đèn điện giăng đầy nhấp nháy. Prudhoe, thành phố không có đường sá, cây cối, không có ai ngoài đám công nhân hãng dầu. Nhà ở là năm dãy lớn như năm cánh sao ăn thông với giàn giếng chính. Những người công nhân cư ngụ và đi làm cùng trong những dãy nhà này. James hạ cánh. Hắn chạy quanh để hãm thắng, rồi vòng ra mé sau. Trên bãi tuyết, rải rác vài căn nhà lưu động như loại mobile homes cất trên những sàn gỗ. Có nhiều sàn trống, trông như sân khấu lộ thiên. Đây cũng là khu nhà của hãng, ưu tiên cho những cặp vợ chồng và người muốn sống biệt lập. James mở cửa, giúp anh khuân đồ. Xong, hắn chỉ vẻ mọi thứ tận tình, rồi kiếu về. Sắp xếp hồi lâu, anh bắt đầu thấm mệt. Vợ từ phòng trong chạy ra la, nửa đêm sao chưa ngủ. Anh nhìn ra cửa sổ, trời trông như mới chiều. Đêm qua có mưa tuyết. Vừa thức dậy, vợ ghé mắt sát cửa sổ xem trời đất. Chưa nhìn được gì, đã kinh hoảng hét to. Bên ngoài, một con gấu trắng cũng đang dí mặt sát khung kính để xem bên trong có gì. Anh vớ cây súng, lúng túng chỉa tứ phía chờ đợi. Được một lúc, James đến. Nghe kể lại chuyện, hắn cười như không. Rồi dặn, ra vào nhớ khóa cửa. Loại gấu trắng không phá nhà, và ít tấn công người. Chỉ bắn trong trường hợp tự vệ. Loại này quý và hiếm nên được chính phủ bảo vệ nghiêm ngặt. Ngày đầu vào hãng, sau khi làm thủ tục và nhận đồng phục, James dẫn anh đi xem khắp nơi. Trung tâm là giếng dầu. Miệng giếng được đậy kín, không ai thấy bên dưới. Dầu được hút lên bằng những ống bơm sắt to và dầy, thông tận đáy, trên có giàn đồng hồ đo nhiệt kế, áp suất và dung lượng. Chung quanh là một hệ thống ống dẫn chằng chịt, bắt từ khu trung tâm để dẫn ra ngoài. Đây là loại dầu thô, sau khi chuyển xuống Valdez được chở bằng tầu để đưa về nhà máy lọc dầu trong nội địa. Ngoài những văn phòng hành chánh ở khu trung tâm, James đưa anh đi xem năm đãy nhà lớn ăn thông với khu chính bằng những hành lang dài. Giếng Một có bốn ca, mỗi ca một dãy gồm nhiều phòng nhỏ. James dẫn anh tới dãy năm đúng vào giờ ăn. Nơi này giống một câu lạc bộ, có phòng thể dục, hồ bơi, khu giải trí, thư viện, nhà ăn. Giờ nghỉ, phòng đông người. James lựa chỗ và chọn thức ăn. Anh liếc quanh, bối rối nhận ra nhiều người nhìn mình với vẻ tinh nghịch. Anh đưa mắt kiếm James, gặp ai hắn cũng vỗ vai chào. Họ thân mật đến độ gần như suồng sả. Một người có râu mép hất hàm về phía anh hỏi. ?oÊ, tay mơ nào vậy?? Chưa kịp nói gì, một ông già kéo James rỉ tai, ?oKhai thật đi, mày làm thế nào dụ nó lên đây?? Nghe vậy, cả bọn phá ra cười. Một tên ốm nhom, ngồi trong góc phòng mai mỉa. ?oCần gì hỏi, hắn chỉ giỏi rù quến kẻ thất nghiệp thôi.? James đỏ mặt, đưa hai tay lên trời, cười gượng. Xong, hắn kéo anh tới, giới thiệu từng người. ?oĐây là Bill, Bob, John, Tom, Tommy?? Một người bưng đĩa tới gần, làm quen. ?oĐêm qua ngủ ngon không?? Anh gật. Hắn kể, hồi mới lên, mấy đêm đầu chỉ nằm nghe sói tru. Anh nhìn ra ngoài khung kính than, ?oỞ đây vắng tanh.? Hắn trỏ hướng đông bắc nói, cách đây mấy chục dặm có làng Eskimo. Khi buồn, tới đó chơi. Nhưng nhớ, đừng chăm chăm nhìn đàn bà của họ. Tụi đó ghen kinh khủng. Anh ngạc nhiên. Một người phía sau cười cợt. ?oCứ ở lâu rồi biết, một đàn bà quý hơn mười lò sưởi.? Cả bọn nhao nhao, ?oLuật xứ này, tội cướp vợ nặng hơn tội giết người.? Cả đám xúm cười hô hố. Ông già bước tới vỗ vai, ?oAnh mang vợ, là mang cả gia tài theo đó, biết không?? Sau này mới thấy, đa số để gia đình ở miền nam, phần còn lại đều độc thân. Riêng James, từ ngày vợ bỏ đi, hắn vẫn ở chờ trong căn nhà cũ. Buổi chiều trên đường về, James dặn. Đừng để ý những lời đùa, coi họ vậy nhưng tốt lắm. Mỗi lần bão, thường kéo tới giúp mình xúc tuyết. Thấy anh rùng mình, hắt hơi liên tiếp mấy cái, hắn an ủi. Ráng chịu khó, dành dụm ít lâu, sau này lại trở về. Đột nhiên giọng hắn chắc nịch. ?oĐàn ông cần phải có tiền. Khi có tiền, đàn bà dù không yêu, họ cũng không nỡ xa mày.? Hắn bật cười khan, ?oChân tụi nó cứ như đạp trúng kẹo cao su, dứt không đành.? Anh làm thinh, tâm trí lan man nghĩ tới vợ James và căn nhà trống không của hắn. Tối về, vợ ngồi trước lò sưởi chờ cơm. Anh hỏi, suốt ngày ở nhà làm gì? Chằm chặp nhìn ngọn lửa hồi lâu, vợ nói, ?oNgồi xem sao rụng.? Ngó vào trong, củi nổ tí tách, những hạt bụi lửa, bắn vọt lên cao rồi rớt xuống. Anh quay sang, nhìn sâu vào đôi mắt to, ngời bóng lửa. Đưa tay quẹt má, vợ ngạc nhiên hỏi. ?oGì vậy? Mặt dính lọ à?? Anh đưa tay giữ chặt mặt vợ, vờ la, ?oKhéo, ngồi im. Sao đang rụng kia kìa.? Quá khuya, ngọn lửa tàn. Anh vùi đầu vào ngực vợ ngủ quên. Mãi gần sáng, chiêm bao thấy toàn những dấu giày cao gót. Dưới đế sạch trơn, không dính một miếng kẹo cao su nào. Sáng sớm, James gỏ cửa. Hồi lâu, anh mới mở rồi xin lỗi. Vợ bắt xem kỹ, sợ mở lầm cho gấu. James cười, tặng một cái gối kê tay, có thêu hình người và thú. Hắn nói, đây là Okpik, bùa may mắn của người Eskimos. Vợ chồng chuyền tay xem. Mũi thêu vụng về. Nhìn mãi mới ra là con chim cú, bộ cánh và đuôi tua tủa giống mấy nhánh xương rồng. James giải thích, đây là loại chim báo động khi thấy gấu. Xưa, được thổ dân thờ như một vị thần. Thấy vợ cứ cầm gối xăm soi, anh định trỏ tay chỉ, nhưng vợ cản, ?oThôi, cứ để nhìn thành cây xương rồng cho nó ấm.? Cuối tháng mười, mặt trời thấp, to và nhạt. Ánh sáng yếu, không đủ sức xuyên mây. Qua giữa tháng mười một, trời tối sầm. Ngày và đêm lẫn lộn. Nhiệt độ xuống gần trăm độ âm. Tối, nằm nghe gió rớt ngọn trên mái nhà. Sáng dậy, thấy đất thở ra hơi khói. Ngoài trời, tuyết rơi lả tả. Tứ bề trắng xóa. Cảnh vật tiêu sơ. Sự sống chỉ còn cô đọng quanh lò sưởi. Vợ chồng hết nhìn nhau, lại ngắm trời. Cách mấy tuần, bão ập tới. Những cơn lốc như khởi từ nơi nào trong vũ trụ, phăng phăng muốn xoay ngược địa cầu. Vợ lo, cứ liên tưởng cảnh bị thổi tốc ra không gian như con kiến văng khỏi quả cam. Anh ôm vợ trấn an, nhưng trong lòng nghĩ tới James. Đứt liên lạc. Rất có thể cái máy gọi và hắn đã bị vùi trong tuyết. Mấy hôm sau bão dứt. Vợ chồng dùng búa phá băng tung cửa ra ngoài. Bên nhà James, tuyết ùn thành đống. Trên mái, ngọn khói lảng đãng không bay. Anh bắt tay thành loa gọi. Không có ai trả lời. Được một lúc, bọn thằng Bill, thằng Bob lái xe cần trục tới. Sau cả buổi vật vã, căn nhà được kéo ra khỏi đống tuyết để đặt vào một sàn trống kế. Đâu đó xong, mới thấy James đục cửa bước ra. Căn nhà hắn thấp và nhỏ. Mới bị kéo nên bên trong đồ đạc lộn xộn. Hai người bắt tay giúp James thu dọn. Chỗ ăn và ngủ đặt ngay lò sưởi. Cuối phòng có kệ sách. Anh lượm dưới đất khung hình bán thân một người đàn bà rất đẹp, chừng là vợ James. Hèn chi, hắn chung tình vậy. Sách rất nhiều. Anh ngạc nhiên thấy toàn loại chiến tranh và cao-bồi. Hắn cười phân trần, đâu có ai ưa cảnh bắn giết. Hắn thích loại này chỉ vì truyện nào cũng đông người, đọc bớt lẻ loi. Anh kêu vợ lựa mượn mấy quyển, xem cho vui. Sau cơn bão, khí hậu đột nhiên ấm lại. Vài ngọn gió Chinook mang hơi nóng từ miền nam tới thổi tan bớt tuyết. James mừng rỡ, ngồi trước nhà ngắm trăng. Trăng mọc thấp và to, ánh sáng lạnh, vừa nhô lên đã chực rơi xuống chân trời. James ngửa cổ, bắt chước sói tru. Awhoo? whoo.. whoo? Âm thanh khàn đục, là đà lan trên tuyết. Anh cười rộ, hắn tru không giống sói. Nhưng cười chưa dứt, đã nghe từ xa, những con sói ở đâu tru lại từng hồi. Bóng trăng nhạt, tiếng sói thê lương, nghe như rót tận đỉnh trời. Vợ anh rùng mình, hình như chúng ở rất gần. James trấn an, sói chỉ đáng sợ trong truyện cổ thôi. Thật ra, chúng là giống chó hoang, thường đói nên hung hãn, ban ngày lang thang tìm mồi. Tiếng tru chỉ là tiếng bầy gọi nhau. http://www.doonesbury.com/strip/dailydose/index.htm
Những ngày nghỉ, James rủ đi săn. Đây là mùa lý tưởng. Sau cơn bão, những con thú đói bắt đầu ra kiếm mồi. Hắn lấy máy bay nhỏ, đưa đi thám trước. Mặt đất hoang và lạnh lắm. Chân trời là một đường cong nằm ngay dưới đất. James bay thẳng lên cao, nhưng anh cứ cảm tưởng hắn đang nhào xuống đất. Theo hướng đông một đỗi, đã thấy vịnh Hudson, băng trôi trắng như bọt xà phòng. Dọc bờ, bãi đá đen lổm chổm. Anh ngạc nhiên dụi mắt, những cục đá hình như biết di động. Máy bay sà xuống thấp, hóa ra là bầy hải cẩu đông cả ngàn con. Trên cạn, chúng lê lết như người tàn phế xin ăn. James chỉ anh phân biệt, loại hải cẩu vùng này có lổ mũi tròn như hai nút khoén. Giống hải sư có hai tai và chiếc mào nhỏ xíu trên đầu. Còn hải mã có nanh, mồm như ngậm dao găm. Giữa đông, tháng chạp và tháng giêng, chúng rủ nhau vào vịnh Hudson trú gió và sanh nở trên các tảng băng trôi. Hải cẩu con rất đẹp, lông ngà, trông như một nùi bông sữa. Thợ săn, và lũ gấu trắng cũng tranh nhau tới kiếm loại này. Xế chiều, James hạ cánh thăm làng Eskimos. Chưa xuống, hắn đã dặn, phải gọi họ là người Inuit. Eskimos là danh từ cổ, có nghĩa giống dân man di, ăn thịt sống. Làng nghèo và thưa. Đa số nhà bằng gỗ mỏng manh. Anh nhìn quanh tìm, nghe nói giống người này ở trong nhà igloo bằng nước đá. James đập vai anh, cười rộ. Đó là thời xưa. Và họ cũng chỉ dùng tạm trong khi săn hay chờ lúc cất nhà chính. Bây giờ, để cho các tay thám hiểm dùng chụp hình. Khi về anh bảo, đi hết làng không có một người nào coi đẹp. Hắn cười sằng sặc, đàn ông xứ đó chỉ ưa con gái đảm đang, nhan sắc là đồ xa xỉ. James mở một cuộc thám thính xa vậy, nhưng lại đi săn gần nhà. Hắn vác nùi chỉ, lưỡi câu, một lều xếp, cái búa, chiếc đèn bão, tấm mền, và lon thịt gà làm mồi. Từ cửa, đi thẳng hướng bắc được trăm thước rồi dựng lều. Hắn câu cá bằng cách đục lổ trên băng, mắc mồi rồi thả câu. Chỉ chốc sau thấy giây không động đậy, hắn lại đục lổ khác. Chưa đầy nửa buổi, chiếc lều bị dời cả chục lần. Thấy hắn nóng tính, anh phát bực la. "Câu cá giống như chờ vợ, phải kiên nhẫn mới được." Nghe vậy, hắn quay phắt lại, trợn mắt. "Ai chờ vợ?" Rồi phân bua, "Nó đang chờ tao, đâu phải tao chờ nó." Thấy anh kinh ngạc, hắn kể. Hồi mới lên, ở đây vắng tanh. Hãng mới lập, chưa hoạt động đều trong năm đầu nên ít nhân công. Buồn tới nỗi thấy kẻ thù cũng phát mừng. Vào lúc đó, hai vợ chồng tình cờ quen với một nhóm thám hiểm thuộc Nha Địa Dư. Tình bạn giữa họ rất đậm. Mấy tháng sau hết công tác, họ ra về. Được vài tuần, thằng Bryan trong bọn lấy trực thăng trở lại, đổ trước nhà. Anh cướp lời, "Bộ hắn muốn cứu vợ mày à?" James thở dài, "Không. Nó lại kêu vợ tao cứu nó." Hắn nhún vai, cười khẩy, "Thằng độc thật!" Rồi châm thuốc, rít một hơi dài. "Đàn bà, thảy đều thích nghe những lời nhảm nhí." Anh thắc mắc, "Sau này họ hạnh phúc không?". Hắn cười khì, "Ừ, cũng được mấy tháng." Xong, trở giọng vui vẻ, "Giờ, con vợ tao cũng đang chờ người ta cứu nó." Anh thở dài, khuyên. "Vậy, mày cưới vợ khác đi. Sống một mình buồn lắm." Hắn cười nửa miệng, "Đàn bà xấu, tao không muốn nhìn. Còn đứa đẹp, lại không muốn chỉ mình tao nhìn nó." Anh nghe vậy, khoe. "Đàn bà xứ tao tốt hơn nhiều." Rồi hứng chí kể một hơi truyện Nàng Tô Thị, Thiếu Phụ Nam Xương. Hắn lắùng tai nghe, mồm há hốc như con cá mắc phải lưỡi câu. Sáng, vợ đem cá ra xẻ để phơi, cằn nhằn, nắng đâu mà khô. James nói, ở đây người ta phơi gió. Xong dặn, phải để ý, hể nghe tiếng cú thì đem cất, kẻo gấu ăn hết cá. Chiều về, ngoài sân không còn một con. Vợ bảo, thấy sói tới lại không dám đuổi. Anh tức, công câu cả ngày mất sạch. James cười lăn, chưa bao giờ hắn thấy ai như vậy. Chuyện thế làm hắn vui. Ngày hôm sau gom mớ cây đi đóng ngay mấy hàng sào treo cá. Vợ trông thấy khen, "Thằng cũng tốt. Trước, tôi chỉ ghét anh hay nghe lời hắn." Đi câu hoài đâm chán. Có hôm mới vác về, vợ cự. "Ngày nào cũng ăn cá, riết rồi tôi cũng biết bơi." Nghe vậy, James rủ đi xa săn cáo. Hắn tán, lông cáo đẹp, ấm và quý nhất. Da cáo có hai lớp: lớp ngoài phủ lông trắng dài, xốp và đẹp, không thấm nước; lớp trong dầy và chặt như loại áo lót, đắt hơn loại hải cẩu và gấu. Hắn đem ra mớ bẫy sắt cũ. Bẫy cáo giống cái kẻng, trên có hàn hai nẹp sắt có răng cưa và một vòng tròn. Móc thịt gà, rồi treo đâu đó, nơi cáo thường đến. Cách mỗi tuần thăm, chỉ việc gỡ xác cáo chết cứng ngoài trời. Anh lấy xe trượt tuyết, theo hắn đi khắp nơi. Cáo dáng thon, đầu nhỏ. Mũi và tai nhọn, mắt xéo, đuôi xù. Lông trắng lẫn trên tuyết, rất khó thấy. Xem việc dễ, nhưng không đơn giản. Cáo tinh lắm, muốn bắt, phải ngụy trang mồi thật tự nhiên. Bẫy cáo, nhưng bắt được sói, chim chóc như ptarmigan là sự thường. Dần dà, anh hứng thú, xem trò dụ cáo vào bẫy như cuộc đấu trí. Thật ra, đi săn chỉ sợ bị lạc đường. Ở nơi không trời trăng cây cỏ, con người mất điểm tựa, đi càng xa mà cứ tưởng về gần. Cuối đông, lạnh dưới trăm độ âm. Trời trắng nhạt, mây xuống thấp như tan vào đất. Bên ngoài, tuyết lắc rắc rơi. Mặt đất trơ, đông cứng thành loại nham thạch trắng ngần. Xa xa, tiếng gió gào thê thiết trên không. Tới gần, nghe như tiếng kêu rên cùng đất. Quanh nhà, tuyết ùn thành đống, giống cảnh núi non hiểm trở. Mấy tháng cuối, bão tới tấp. Những ngọn gió Williwaws trên cao phà xuống từng hơi lạnh cóng. Tuần nghỉ, gặp thời tiết xấu, anh nằm nhàxem phim. Những câu truyện hài khiến anh cười bò, quay sang thấy mặt vợ dàu dàu. Hỏi, bị vợ gắt. "Cười gì nữa? Tôi đã xem cả trăm lần rồi." Anh ngưng bặt hứa, đợi ngớt bão sẽ đi Fairbanks chơi. James rủ, nên xem hội Yukon Quest. Đó là cuộc thi chó kéo xe từ Fairbanks dọc theo sông Yukon đến thành phố Whitehorse. Đoạn đường dài một ngàn dặm. Giải thưởng là năm mươi ngàn dollars. Chính quyền địa phương và giới chủ nhân cũng tổ chức nhiều trò vui để giữ chân mọi người. Khi tới Fairbanks, cuộc thi đã bắt đầu từ sớm. Đám đông tản dần, chỉ còn tiếng nhạc om sòm, rời rạc. James chạy dọc theo sông Yukon. Lòng sông nhiều khúc đóng băng, liền như mặt đất . http://www.doonesbury.com/strip/dailydose/index.htm
Khi tới Fairbanks, cuộc thi đã bắt đầu từ sớm. Ðám đông tản dần, chỉ còn tiếng nhạc om sòm, rời rạc. James chạy dọc theo sông Yukon. Lòng sông nhiều khúc đóng băng, liền như mặt đất. Cách sông không xa, thấy có làng North Pole. Giữa làng là tượng ông già Noel mặt mày tróc sơn, lưng dài chân ngắn, vác cái túi rỗng bị gió đánh phần phật sau lưng. Vợ ngắm ngía hồi lâu thở dài, "Hồi nhỏ tôi cứ trông Santa Clause tốt bụng đem quà tới tặng. Giờ mới thấy, ông còn tội hơn mấy trẻ nghèo. Tháng tư dứt bão. Sang tháng năm mặt trời mới mọc nhưng trông như sắp lặn. Nắng vàng nhạt, héo úa, nhẹ và loãng trong mây. Ðêm ngắn dần. Nhiều nơi tuyết bắt đầu tan. Ðất loáng nước nhìn xa như mặt hồ cạn. Vài nơi đất xốp, nhão như lớp bùn, bên dưới va! ^~n chưa tan hết đá. Tới tháng sáu, mặt trời rực rỡ chiếu xiên. Nắng có mầu hoàng hỏa, buồn như buổi chiều tà. Nhiều loại cây cỏ bắt đầu mọc. Nhanh nhất là loại rêu Caribou, trắng ngà, xốp và nhẹ như miếng xà phòng. Xen giữa là loại cỏ tai hùm, lá tròn như tai gấu. Tháng bảy là mùa hoa nở. Toàn loại hoa thân lùn, nhiều nhất là Tundra, cánh mỏng và nhăn, mầu đỏ chóe. Có loại vàng tươi như Poppy, hồng tím như Dwarf Rhododendron. Mùa xuân, mùa đi săn. Những đàn bò rừng, hươu, nai, nhím, thỏẨ từ rừng taiga kéo ra kiếm mồi. Trên trời, từng đàn ngỗng, le le, chim biển cũng kéo về xây tổ, đẻ con. Anh chợt nhớ, phải săn thêm cáo để đủ may áo ấm cho vợ. Rủ James, hắn cười ngạo. Muộn rồi, mùa xuân tuyết tan. Cáo rụng lông, thay bằng lớp mầu xám. Hắn lấy xe truck chở anh đi khắp cánh đồng. Có những miệng hang phủ cỏ, trên dính nhiều sợi lông trắng như bông. James an ủi, hãy đợi mùa tới. Vả, giờ đang mùa sanh sản. Ðám cáo mới đẻ vừa mù vừa điếc, nên cáo lớn cũng ít ra ngoài. Xe dừng trên ngọn đồi cao. Bên dưới, một đàn bò rừng đông cả ngàn con thản nhiên gặm rêu. Thân nâu sẫm, đầu to đít teo, lưng rậm lông như khoác một chiếc áo tời, chúng đứng lẫn trong mầu của đất. James nói, ăn cá hoài ngán, chừng về sẽ hạ một con. Vừa dứt lời, đột nhiên cả đàn rùng rùng bỏ chạy. Anh đứng dậy, che mắt nhìn. Một lũ sói dăm bảy con, đang hung hăng xông xáo giữa bầy bò. Chúng kéo đến đâu, lũ bò giạt ra đến đấy. Mắt bò rừng mờ, mới chạy vài bước không thấy bóng sói thì đã đứng lại. Chừng chút sau, chúng dí một con chậm chân tách khỏi bầy. Một con sói đầu đàn hung hãn phóng thật nhanh, vừa vượt qua đầu, nhanh như cắt, chồm lên ngoạm cứng mũi bò. Con bò rống lên, giọng khản đục thảm thiết. Nó vừa chạy, vừa lắc mạnh đầu để vất sói ra. Nhưng sói bấu chặt lắm. Phút chốc, mũi bò tứa máu, đuối sức chạy chậm lại. Một con khác phóng theo, nhe răng nhọn hoắc táp phập vào cẳng sau. Con bò lết thêm vài bước rồi quỵ hẳn, đàn sói xông vào cắn xé. Sức bò chống trả yếu dần. Anh bất nhẫn, giơ súng nhắm ngay lũ sói. Tức thì, James đưa tay đè mũi súng. Hắn nói, "Con người chết vì bệnh, con bò chết vì sói. Ðó là số phận của mỗi loài. Cứu ngày nay, không cứu được ngày mai, phải không?"? Anh hạ súng, không bắn. Nhưng suốt buổi cũng không cho hắn nổ một phát súng nào. Chiều về, bắt gặp trên vạt cỏ non, một con reindeer, sừng bị sơn đỏ hoét. James giải thích, đó là thú hoang đã bị thuộc đàn, có người chăn giữ. Hắn cười nhạo, "Mày muốn cứu bò, thì đi chăn bò là tốt nhất."? Ngưng một chút, hắn nheo mắt, "Thật ra, chính thằng chăn ăn thịt nhiều hơn số sói và thợ săn cộng lại."? Anh làm thinh, trong lòng bỗng đâm ghét nụ cườùi của hắn. Tối về, kể mọi chuyện. Vợ nghe xong bảo, anh chỉ ghét những gì trái ý thôi, không phải hắn. Rồi xoay sang chuyện khác. "Ðốt sưởi quanh năm, đến nỗi giờ thấy ngọn lửa là tôi nổi nóng."? Xong lại hỏi, "Bao giờ mình về nhà?"? Anh ngạc nhiên, "Ðây không phải nhà mình sao?"? Vợ tức tối, đấm thùm thụp vào lưng anh, khóc. "Thì ra, anh không tính trở về."? Anh kéo vợ vào lòng, dỗ. "Ráng một thời gian. Ai chịu đựng giỏi một thứ gì, thì sẽ khá hơn người khác."? Nghe vậy, vợ im bặt, rồi lôi anh chạy băng ra sân, chỉ về hướng làng "kimos. "Coi, tới đó coi. Họ chịu đựng cả mấy ngàn năm, mà có ai khá đâu."? Anh chưng hửng, đi một hơi qua nhà James. Sáng dậy, thấy còn buồn, anh khoác áo lửng thững dạo đồng. Dải đất mênh mông, cỏ lưa thưa, trông xa chân trời vắt cong và nghiêng một mé. Anh bỏ chỗ bằng nhảy lên mỏm đất. Tiếng chuột bọ, thỏ rừng kêu sột soạt dưới chân. Rồi ngồi xổm, ngóng mình vào vũng nước, suy nghĩ. Tới xế, trời trở lạnh, anh đứng dậy. Băng ngõ tắt, thấy xác một con sói cứng đơ giữa đồng, bụng lép kẹp. Lật lên xem, không thấy thương tích. Anh chột dạ, không lẽ sói Bắc Cực cũng chết vì lạnh. Mãi vẩn vơ, về tới nhà cũng chưa nghĩ ra một câu nào nghe ngọt. Thấy anh về, vợ vất cuốn sách, vụt ôm chầm rồi rơi nước mắt. Vợ nói, hỏi James, hắn bảo anh ra ngoài cả ngày lại không mang súng, đâm sốt ruột. Cảm động, nhưng lúng túng không nói được gì, anh ngượng ngịu vuốt từng lọn tóc mềm của vợ. Hồi lâu, chợt thấy cuốn sách bị quăng góc nhà, anh hỏi cầu hòa. "Ðang xem cuốn gì vậy?"? Vợ đáp, "Normandy, ngày dài nhất."? Rồi lượm sách cất, "Mượn bên James lâu rồi. Mở ra, nhưng có đọc được chữ nào đâu."? Anh cười, "Ðọc đi, truyện này hay lắm."? Vợ nhăn mũi, vờ chê. "Chỉ cái tựa, cũng biết tác giả nói xàm."? Xong, đùa như thật. "Ngày hôm nay mới là ngày dài nhất đó."? Anh cụng trán vợ, gương mặt trắng mịn chợt tối sầm. Nhìn trong mắt, hình như trăng sao cũng tắt. Thoáng đó, mùa xuân qua rất mau. Mới hôm trước cỏ còn xanh, hôm sau đã ngả mầu đồng lục. Có những nụ hoa chưa nở đã tàn vì sương giá. Buổi chiều, trời không một vẩn mây, xanh và cao vòi vọi. Ba người ngồi ngắm từng đàn chim vỗ cánh xuôi nam. Thấy một loại lông trắng, mỏ dài, mình thon như hạc, duỗi bay rất đẹp. James chỉ, đó là chim Arctic terns, loài bay xa nhất. Chúng di chuyển giữa hai đầu quả đất. Mùa xuân lên bắc, đông về lại xuôi nam. Anh ngạc nhiên, "Bay xa vậy chẳng lẽ chúng không tìm ra nơi nào khác để sống ư?"? James lắc đầu. Vợ ngắm chim bùi ngùi, "Chúng tôi cũng giống loài di điểu, đi khắp nơi vẫnụ chưa thấy đâu là nhà." Suốt ngày James cứ chậc lưỡi than, sao đông năm nay đến sớm. Nhưng tuyết mới vài bữa, đã thấy hắn huýt sáo ngoài sân đắp hình người tuyết. Vợ anh ra xem, nhìn hoài cũng không thấy giống snowman. Hắn đắc chí khoe, đây chính là người đàn bà chờ chồng trong truyện cổ Việt Nam. Thì ra, hắn thích Nàng Tô Thị. Chị cười, phụ hắn cào thêm tuyết. Lúc gần xong, như sực nhớ ra, hắn ngẩng đầu. "Ừ, tôi quên hỏi, sau đó người chồng ra sao?"? Chị ngớ người hồi lâu, "Không biết nữa. Có thể người chồng lại lấy vợ sinh con. Chuyện thường tình, nên không ai nhắc tới."? Nghe vậy, tự nhiên James đứng lên, lượm xẻng bỏ vào nhà. Một tuần sau, có máy bay bỏ thư. Cả hãng mừng như ong vỡ tổ. Thư mấy tháng dồn đọc một ngày. Anh cũng chui một góc, cẩn thận gỡ những bì thư bốn cạnh có những dấu gạch xiên mầu xanh đỏ. Những lá thư kêu cứu từ bên nhà giờ mới tới. Nhìn nét chữ nguệch ngoạc, anh thấy ra cả chốn quê xưa. Thư viết, mùa lũ về ngập trắng cánh đồng. Bao ruộng vườn nhà cửa đều trôi theo dòng nước. Gấp giấy lại, anh nghe như có tiếng người lạc giọng gọi nhau. Anh bỏ việc ra về. Ðôi chân nặng như ai chôn vào đất. Vừa về tới liền kêu vợ ra bàn. Chưa nghe hết vợ đã giật mình giẫy nẩy. Ðem tiền cho nhiều như vậy, biết bao giờ mình trở về được. Lại phải đợi năm sau. Mà chắc gì năm sau yên ổn? Cả đêm vợ trùm mền, vừa khóc, vừa kể. "Bão lụt xứ nào cũng ập vào tôi." Một buổi trưa, vợ anh ngồi ngắm mấy dãy sào treo cá trống trơn, vẻ buồn xo. James đi ngang, thấy vậy dừng lại hỏi. Không biết giải thích sao cho hắn hiểu, hồi lâu mới than. "Bắc Băng Dương không có nước, vậy mà tôi cứ thấy tròng trành như người đi biển."? Nói xong, lại ngó lên trời. "Bây giờ, chỉ ước được thấy mặt trời ở ngay đỉnh đầu, và thèm nhìn mầu xanh cây cỏ?"? James thở dài. Lần đầu tiên nghe hắn than, "Còn tôi ngược lại, bị mất thăng bằng đã quen. Giống như người đi biển lâu ngày, giờ lên bờ chỉ e say đất"? Và, cười rất hiền, "Có thể khi thấy mọi người đứng vững thì tôi lại té."? Rồi ngập ngừng hỏi, "Nếu trở về, không biết bà chịu giúp tôi không?" Sau mấy tuần tuyết rơi, mặt đất trắng mầu băng giá. Anh gom mớ bẫy cũ ra ngoài. Theo kinh nghiệm, giờ là lúc lũ cáo xông ra kiếm mồi. Chợt nhớ lại lần đầu theo James đi săn, trong bụng hồi hộp lạ. Cứ tưởng sau mỗi ụ tuyết, những con thú đang ghìm mắt rình mình. Cái khó bây giờ không phải việc săn bắt mà là thuyết phục sao cho vợ chịu ở xứ này. Anh nhíu mày, thở ra. Ðàn bà thích ngọt, lại dễ xiêu lòng. Gắng ít lâu, anh sẽ may cho vợ một bộ áo quý, đẹp, và ấm nhất. Chắc vợ cảm động lắm. Tuần sau, anh ngạc nhiên khi thăm bẫy. Hầu như cái nào cũng có cáo. Lông chúng óng ánh, đẹp hơn mầu của tuyết. Anh mừng rơn, chất xác cáo lên sled rồi vội về nhà. Không may, xe trượt qua lớp băng mỏng, một càng sled bị sụp xuống cái hố đất. Anh bỏ chiếc skimobiles, xuống khiêng chiếc sled lên. Khi đẩy xe qua, anh trông rõ bên dưới. Ðó là một cái hang nhỏ. Anh lom lom nhìn vào. Một đám cáo con cũng đang lăng xăng muốn xông ra cửa. Có con vừa thấy anh đã vụt trở vào. Hình như không có cáo lớn trong hang. Trên đường về, anh cố gắng xua hình ảnh bầy cáo nhỏ đang chờ đợi. Và tự trấn an, chắc chắn cha mẹ chúng không có trong đám ở trên xe. Cái hang cáo hơi xa chỗ anh đặt bẫy. Về tới nhà, không thấy vợ. Chạy qua bên James, cửa đóng kín. Trên có gắn một miếng giấy đề tên anh. Ngạc nhiên, mở ra xem, trong vỏn vẹn có mấy chữ. "Chúng tôi chân thành xin lỗi. Phía dưới đề: James Barrett và Di Nguyen."? Khi anh trở về, cái nhà hôm nay lạ hoắc. Trong lò, củi vẫn còn âm ĩ. Ðầu choáng váng như bị va vào đá, anh ngồi bệt xuống thảm, chân tay rã rời. Lát sau, mới vói dậy cời tro. Ngọn lửa bùng sáng. Anh nhìn củi cháy, tâm trí hoang mang. Những hình ảnh rời rạc của quá khứ chợt quay về. Nhiều đoạn chập vào nhau, có đoạn vừa thoáng qua đã tắt ngúm. Tim nhói từng cơn, mắt cay sè. Anh vói tay lấy chai rượu, nốc từng ngụm. Có rượu, mọi ý nghĩ bắt đầu trơn tuột. Những kỷ niệm nằm sâu trong tiềm thức vụt sống dậy. Trong đó Di vui tươi, hoạt bát và sống động giữa đám bạn bè. Chỉ khi lên đây Di thụ động và ưa bẳn gắt. Quá nửa khuya, rượu cạn, lửa cũng tàn. Anh ném bừa chiếc vỏ chai, rồi nhoài người xuống thảm. Trong cơn say, anh thấy mình nhẹ hẫng, bồng bềnh lơ lửng trên mây. Khi nhìn xuống, mọi vật bên dưới đã chìm trong tuyết. Ðang chăm chú tìm, thình lình tuyết bỗng tan. Rồi nước dâng, nhà cửa, người vật đều trôi theo cơn lũ. Chợt nghe văng vẳng có tiếng người ơi ới gọi nhau. Anh ngoái đầu nhìn lại. Một con hải âu dính đầy dầu đang lốp ngốp lội theo, đôi mắt nó buồn thiu, như thể không bao giờ còn quay về biển. Nguyễn Thị Thảo An VNNP 13 N Ó I C H U Y ỆN V Ớ I T Á C G I Ả -------------------------------------------------------------------------------- Nhà Văn Nguyễn Thị Thảo An 1. VNNP: Thưa chị, VNNP vừa nhận được tập truyện "Bức Phù Ðiêu Khắc Cạn" của chị do nhà xuất bản Văn Mới phát hành vào đầu tháng tư năm nay. Xin chị giới thiệu tập truyện với độc giả VNNP NTTA: Tập truyện Bức Phù Ðiêu Khắc Cạn là tác phẩm đầu tiên của tôi, gồm một số truyện ngắn đã được đăng rải rác trên các báo Văn, Văn Học, Chủ Ðề, Phố Văn,... do nhà xuất bản Văn Mới in ấn và phát hành. 2. VNNP: Trong tập truyện Bức Phù Ðiêu Khắc Cạn, chị vẽ lên đời sống của rất nhiều nhân vật khác nhau trong những mảnh đời khác nhau: Một người da đỏ với niềm tự hào dân tộc có từ lâu đời; một họa sĩ có tài nhưng không gặp thời; chuyện tình buồn trong làng Thượng, người đàn bà Mỹ cô đơn sống trong mộng ảo; người nông dân nghèo nàn thất thế bị ức hiếp, tuổi già khi cận kề cái chết,... Không gian cũng được dàn trải rất rộng từ làng quê nghèo miền Nam Việt Nam, một buôn Thượng, cung điện nhà vua, đến làng da đỏ tại Idaho, tiểu bang Alaska quanh năm tuyết trắng lạnh lẽo,... Phải nói là Vi biết được nhiều điều mới lạ từ thế giới xa gần qua những câu truyện của chị. Chị khiến cho người đọc nghĩ rằng tác giả phải là một người lịch lãm và có kiến thức sâu rộng, chẳng những đã giao thiệp rất nhiều và rất sâu với nhiều loại người nên mới có thể viết được những truyện ngắn gần gũi với sinh hoạt tập quán của từng nhân vật trong truyện như vậy. Ðiều này có đúng không, hay sách vỡ có góp phần trong ấy? NTTA: Xin cảm ơn Tường Vi. Thật ra, tôi không phải là người lịch lãm hay có kiến thức sâu rộng gì đâu. Mà chỉ là một người nhạy cảm, yêu thiên nhiên, cây cỏ, yêu cuộc sống và thân phận con người. Ðôi khi những sự việc nhỏ chung quanh cũng làm tôi xúc động, như khi chứng kiến cái chết của một người Mỹ già cô độc cạnh nhà, hoặc lúc tình cờ gặp người da đỏ ngồi gõ trống một mình trong góc phố buồn thiu,... Tôi nghĩ, chính những cảm xúc ở lại trong lòng lâu dài đã tạo nên những thôi thúc khiến mình phải viết. Và, cũng không thể phủ nhận vai trò của sách vở. Thuở bé, tôi chỉ có một thú vui duy nhất là đọc sách, sau này lại trở thành thói quen. Trước khi viết, tôi thường tra cứu lại những sự hiểu biết của mình. Tôi không muốn đưa đến cho độc giả những sự nhầm lẫn của chính mình. 3. VNNP: Khi viết một câu truyện, tựa đề rất quan trọng. Có tựa đề mượn từ bài thơ, có tựa đề đọc lên như câu hát, có tựa đề dung dị đi thẳng ngay vào đề. Vi thấy tựa đề của chị rất được chọn lọc, thí dụ như "Chim Bỏ Trời Xanh" ám chỉ con người dù tài hoa cũng không qua khỏi số mệnh phải bỏ nghề giống như những con nhạn thôi lao đầu xuống hồ tìm cái đẹp trong trăng; hay "Tình Ca Con Dúi", là sự phân chia chưa thể xóa nhòa trong cùng một đất nước,... Thường thì chị đặt tựa đề trước khi viết, giống như chọn một chủ đề cho truyện rồi chị mới đặt tựa đề? Và chị chọn tựa đề cho câu truyện như thế nào? NTTA: Ðồng ý với Tường Vi. Nếu tựa đề hay, lạ, thường gợi sự chú ý cho người ta tìm đọc tác phẩm đó. Nó ví như cánh cửa mời khách vào thăm căn nhà của mình. Vì vậy, khi sáng tác, tôi nghĩ ai cũng có sự lựa chọn cẩn thận trong việc đề tựa cho tác phẩm của mình. Thường, khi bắt đầu viết, tôi chú ý đến nội dung, chủ đề trước. Thí dụ khi viết "Tình Ca Con Dúi", tôi muốn nói lên sự mâu thuẫn trong chính sách sắc tộc của người Việt. Chính quyền thời nào cũng đưa ra khẩu hiệu "Kinh Thượng Một Nhà", nhưng thực tế thì khác. Chứng ta tự hào đang sống ở thế giới hiện đại, đang tiến lên thế kỷ Hai Mươi Mốt, nhưng khi lên các buôn Thượng mới thấy có một giống người chưa qua khỏi thời ăn lông ở lỗ. Một năm họ ăn độn chín tháng. Cho nên, khi dược nghe câu truyện cổ Con Dúi, tôi cảm động lắm. Tôi nghĩ, cái khẩu hiệu "Kinh Thượng Một Nhà" chỉ là lời nói dối. 4. VNNP: Một nhà văn đã hỏi Tường Vi, "Nguyễn Thị Thảo An là ai? Tại sao trong các truyện của Thảo An ít có sự bộc lộ nào về chính mình?" Chị nghĩ sao về câu hỏi này, và tùy chị có muốn trả lời cho người hỏi hay không? NTTA: Tôi nghĩ, đọc một tác phẩm để tìm hiểu tác giả là một sự lầm lẫn. 5. VNNP: Mỗi nhà văn có cách diễn đạt khác nhau. Chị mô tả cảnh vật, tình cảm cũng như sinh hoạt con người rất chi tiết. Thử đọc vài đoạn trong Bức Phù Ðiêu Khắc Cạn: "Ðám con nít gùi những giò lan to tướng, ỳ ạch đuổi theo du khách." (trích Tình Ca Con Dúi) "Dưới đất, tuyết tráng một lớp mỏng, ló những cọng cỏ lơ thơ cao chưa quá gối. Ðằng xa, thấp thoáng trên giàn khoan một ngọn đuốc to cỡ đuốc thế vận cháy bập bùng trên cao. Bên dưới những ánh đèn điện giăng đầy nhấp nháy." (trích Ðỉnh Trời Tròn) "Mặt trời đã ngả về tây. Mây kết từng tảng vàng hực, sáng chóe một góc trời. Ðồi không cao, phía trước thoải dần tận mé sông. Lòng sông rộng và thoáng. Mặt nước xanh, lặng như gương, lơ lửng vài cụm mây nằm im dưới đáy." (trích Tên Thị Nữ Xứ Ðàng Trong) Cách dùng chữ của chị rất tượng hình (to tướng, lơ thơ, ỳ ạch, vàng hực, sáng chóe, lơ lững cụm mây, tráng một lớp mỏng,...) làm cho cảnh vật trong tác phẩm của chị như đang bày ra trước mắt. Có cần phải là một người có óc nhận xét tinh tế, nhạy cảm với ngoại cảnh và chú ý đến chi tiết (detail - oriented) để có thể mô tả cảnh sống động và đẹp như vậy không? NTTA: Tôi yêu thiên nhiên lắm. Thuở bé, hình như chiều nào tôi cũng thường thơ thẩn ngắm mặt trời lặn; đón nghe tiếng chuông nhà thờ thong thả đổ. Thiên nhiên, dù là cảnh thật hay trong tranh vẽ cũng thu hút tôi. Tôi cảm thấy bình yên và nhỏ bé trong những khoảnh khắc đó. Lúc viết, tôi thường dùng ký ức hơn là sự tưởng tượng để mô tả. 6. VNNP: Truyện chị viết không phải là những truyện tình ướt át, mà cũng không phải tùy bút hay tự thuật. Mỗi câu truyện đều có một nội dung, như tác giả muốn chuyên chở một vấn đề gì đến người đọc. Có phải đó là chủ ý của chị khi viết một truyện ngắn, hay chỉ viết theo cảm hứng? Và tại sao chị không viết nhiều loại tự thuật hay tùy bút? NTTA: Ða số những truyện ngắn tôi viết là truyện thật. Phần hư cấu là những tiểu tiết nhằm làm đầy câu truyện. Tôi muốn qua đó người đọc nhìn thấy đời sống với những cái nhìn khác. Khi viết, tôi chỉ chú ý tới những đề tài mình thích. Ðời sống của tôi nhạt, đơn giản, hơn nữa tôi không có những kinh nghiệm hay ho nào để truyền cho bạn đọc cả. Không viết tùy bút hay tự thuật là vì vậy. 7. VNNP: Chị xuất hiện rất thường trên Văn, Văn Học, Phố Văn, Chủ Ðề,... chứng tò chị có khả năng sáng tác rất mạnh. Thêm vào đó, những câu truyện của chị rất có chiều sâu chứng tỏ có sự nghiên cứu hiểu biết thật sự chứ không phải viết để mà viết, hay viết để có tác phẩm gửi báo. Ðời sống bên này rất bận rộn, chị tìm đâu ra thời gian để viết nhiều và viết hay như thế? Trung bình chị mất bao lâu để hoàn thành xong một truyện ngắn? NTTA: Ngoài giờ đi làm và chăm sóc gia đình, thời gian còn lại tôi dành cho viết và đọc. Những ngày cuối tuần tôi viết nhiều hơn. Có truyện phải viết cả tháng mới xong, nhưng cũng có truyện viết trong một tuần. Nhanh, chậm tùy theo cảm hứng sáng tác. 8. VNNP: Khi trả lời cho tạp chí Phố Văn, chị có nói, "Bây giờ có nhiều người viết truyện dài nhưng không phải là nhà văn. Và có nhiều nhà văn lại không viết truyện dài." Theo chị, như thế nào mới được gọi là nhà văn ? NTTA: Tường Vi ơi, tôi mới đọc được câu này trong sách, "Người ta dẫu có năm mươi người bạn cũng chưa cho là đủ, nhưng trong đời chỉ cần có một kẻ thù thôi thì đã là quá đủ rồi." Cô bạn ơi, sao cô nỡ du tôi vào cái thế có năm mươi kẻ thù vậy hở ? Nhà văn, theo tôi định nghĩa, là người viết văn. Ðơn giản lắm. 9. VNNP: Nếu chị là độc giả, khi đọc một tác phẩm, truyện ngắn hay truyện dài, chị chú ý đến phần nào của tác phẩm nhất - nội dung, tựa đề, cách dựng truyện, văn phong của tác giả hay điều gì khác? Tác phẩm như thế nào được chị đánh giá là đạt? NTTA: Cách đọc mỗi người mỗi khác. Khi đọc một tác phẩm, trước tiên tôi chú ý đến nội dung, ý nghĩa của tác phẩm. Những phần khác là phần phụ. Tôi nghĩ, tác phẩm đạt là tác phẩm được cả các phần trên. 10. VNNP: Là nhà văn, người vẽ lại đời sống trên từng trang sách, chị mong mỏi gì ở độc giả khi đọc xong một tác phẩm của chị? NTTA: Tôi chẳng mong mỏi gì nhiều, chỉ hy vọng sau khi đọc xong ít nhất người đọc cũng chia xẻ tí ti những điều mình viết. Thí dụ, khi đọc xong truyện "Những Dòng Sông Không Chảy" người đọc đừng kêu người da đỏ là "mọi da đỏ" là tôi mừng quá rồi. 11. VNNP: Tương lai, dự định của chị trong chuyện viết lách của mình là gì? Tiếp tục sáng tác truyện ngắn, khởi đăng truyện dài (như nhà văn Lâm Chương trên Văn), xuất bản thêm tác phẩm thứ hai, thành lập một tạp chí văn học, hay chị có dự định nào khác không? NTTA: Tôi không có dự định lớn lao nào cả. Tôi thích truyện ngắn và vẫn đang dành thời giờ để viết cho thể loại này. Ðồng thời cũng đang viết truyện dài, và không có ý định đăng nhiều kỳ trên báo. 12. VNNP: Vi xin cám ơn chị đã dành thời gian để trả lời những câu hỏi trên đây cho VNNP. Rất mong được đọc những tác phẩm của chị trên VNNP cũng như trên các tạp chí văn học khác. NTTA: Cảm ơn Tường Vi. Và cảm ơn độc giả của VNNP đã chịu khó theo dõi câu chuyện. Thư Từ Liên Lạc: Nhà Xuất Bản Văn Mới 1258 S. La Cienega B1 - Los Angeles, CA 90035 - USA Tel: (310) 559-0413 / Fax: (310) 659-2627
Những giòng sông không chảy Nguyễn thị Thảo An Sequois là người da đỏ. Lần đầu, tôi gặp hắn trong nhóm bán dạo ở khu thương xá Portland, Oregon. Hắn mặc quần jeans bạc mầu, lủng nhiều lỗ. Tóc dài, cột bằng sợi thun có kim tuyến. Họ trình diễn nhạc cổ truyền da đỏ trong một góc phố. Hắn thổi sáọ ống sáo làm bằng nhánh cây hollow, đục sáu lỗ, có quấn dây dạ Những người khác đánh trống. Loại trống tay, tròn dẹt có quai xách, hai mặt bịt bằng da trâu rừng. Bên cạnh, một túi xách đựng toàn băng và dĩạ Tôi chăm chú nghe hồi lâụ Nhạc không haỵ Âm thanh trầm và rền như bị dồn trong lòng núị Vài người thấy lạ đứng lại xem, rồi bỏ đị Không ai mua dù giá rẻ. Họ vẫn kiên nhẫn trình diễn. Động lòng, còn năm chục tôi đưa hết cho họ và lấy một băng nhạc. Đi được mươi bước Sequois chạy theo, dúi cho mớ nữạ Tôi cười, lấy thêm một băng, rồi đi thẳng. Đầu hè, sinh viên túa ra kiếm việc chờ khóa mớị Một thằng bạn Tầu tên Lee rủ tôi về Boise, phụ việc nhà hàng của cha nó. Nó hứa, lương cao việc nhàn, bao ăn ở, hai đứa có thời gian học thêm. Nghe bùi tai, tôi theo nó về Boisẹ Mới hai hôm, nó lặn mất. Thường nhật, nhà hàng bán hai bữa chính: trưa và tốị Nhưng công việc dưới bếp quần quật suốt mười hai tiếng mỗi ngàỵ Hết làm cá, nhồi bột lại bầm hành, cay xé mắt. Chốc chốc, cha nó cứ chạy xuống ngó chừng như canh kẻ trộm. Tôi hỏi, Lee đâụ Ông xua tay cự, làm việc đi, nó mắc học, không rảnh chơi với màỵ Tôi cáu tiết, vung con dao to bản chặt phập vào thớt. Củ hành tây bị bửa đôi, lăn lông lốc. Quăng tạp dề, tôi đi một mạch ra cửạ Đằng sau, lão chủ xỉa xói theo bằng tiếng Tàụ Trên đường về phòng trọ, tôi tạt ngang thư viện. Trước sân, giữa lạch suối giả là pho tượng bán thân của đại văn hào Ernest Hemingwaỵ Đầu tượng phủ đầy rêu, mặt xanh lè. Lạch suối giả ngập lá khô, váng bợn. Tôi dừng lại ngắm ông. Đang ngẫm nghĩ, không hiểu một người thành công và nổi tiếng vậy, sao lại tự tử? Bỗng phía sau, có người cất giọng chê bai, ?oHm, ông ta viết Old Man and the Sea ca ngợi sự tranh đấu của con người trước thiên nhiên để sống còn hay lắm, nhưng chính mình thì lại tự tử.? Tôi quay lại, thì ra Sequois. Hắn cũng nhận ra tôị Chúng tôi chào lấy lệ rồi ra bãi đậu xẹ Đó là lần thứ hai, tôi gặp hắn. Hai tuần sau, ra bưu điện nhận thư Ngạ Cô bạn gái báo tin lấy chồng. Thư có kèm thiệp cướị Chú rể là thằng bạn ra trường trước đây một năm. Trên đường về, xe bị xẹp bánh. Tôi điên tiết nhảy xuống chửi ỏm tỏị Và, đá chiếc xe tơi bờị Cái mâm bánh văng ra, lăn vùn vụt xuống dốc. Từ lề đường, một người chạy ra chụp lạị Đó là Sequois. Tôi không buồn chào, nhưng hắn tỏ vẻ hăm hở giúp. Chúng tôi đẩy xe lên lề, rồi thay bánh. Vừa làm vừa trò chuyện, nó rủ tôi lên nông trại làm việc. Buồn tình, tôi ừ đạị Hắn gửi chiếc xe cà tàng của tôi cho tiệm quen gần đó, rồi chạy đị Lát sau, trở lại đón tôi trên chiếc xe Jeep đời mới, cáu cạnh. Thật không ngờ, hắn khá vậỵ Tôi chợt tiếc đã cho hắn năm chục đồng hôm trước. Boise là thủ phủ Idahọ Tiểu bang xứ lạnh, ít dân nên thành phố không lớn. Sequois ra xa lộ 95 lên hướng bắc. Ra khỏi thành phố, hai bên là nông trạị Vào hè, cây cỏ xanh um. Một vài căn nhà kho bằng gỗ đỏ, mái dốc như kiểu nhà nguyện nằm trơ trọi giữa đồng. Xe chạy nhanh. Gió tạt hai má rát buốt. Những luống rau xanh vụt chạy giật lùị Được một đỗi, nông trại thưa dần. Xe lọt vào hẻm núị Hai bên vách đá dựng đứng. Mặt trời chỉ rọi sáng lưng chừng đỉnh. Bên dưới, trời tối sầm. Phát hoảng, tôi hỏi còn bao xạ Hắn bảo, độ bốn tiếng nữạ Bấy giờ, tôi đâm lọ Hắn tự xưng là người da đỏ, nhưng trông mầu nâu sậm. Thân hình vạm vỡ, rắn như một thỏi đồng. Mũi cao, cằm bạnh, mắt nhìn mạnh và sáng. Tóc dài, vẫn cột bằng sợi thun như lần trước. Kiểu tóc hệt như mấy tay anh chị trong phim làm tôi chột dạ. Muốn đổi ý quay về. nhưng sợ hắn chê, tôi gạ chuyện. ?oHey, làm nông trại không khá đâụ Hay mình trở lại Boise kiếm việc khác?? Hắn lắc đầu, ?oMày đừng lọ Đây là nông trại nhà.? Tôi ngạc nhiên, ?oMày khá vậy, sao còn đi bán dạỏ? ?oBán dạỏ? Hắn trố mắt ngó tôị Rồi gằn giọng giải thích, ?oĐó là trình diễn.? Hắn hất hàm, kiêu hãnh, ?oTụi tao đi chứng minh cho thiên hạ thấy, văn hóa da đỏ vẫn còn.? Không đợi tôi trả lời, hắn nói một lèo, ?oĐất này là của tụi taọ Tổ tiên người da đỏ đã sống ở dây mười hai ngàn năm trước Tây lịch. Và, tụi tao sẽ có mặt cho tới ngày tận thế.? Bất ngờ, hắn hỏi, ?oMày thấy có thằng da trắng nào dám đứng nghe không?? Tôi chưa kịp nói gì, hắn đắc chí tiếp, ?oTao đi nhiều nơi, chưa thấy thằng nào dám đứng coi, chứ đừng nói muạ Mầy là thằng ngoại quốc đầu tiên mua nhạc da đỏ, nên tao thích mầỵ? Hú hồn, tôi không dám giải thích, hôm đó tôi mua vì thương hại họ bán ế. Sợ hắn nổi sùng, tôi cười nịnh. ?oTao xem Poncahontas cả chục lần, vẫn thấy thích. Phim haỵ Truyện tình ngang trái vì màu da, cảm động lắm.? Trong trí tôi hình dung cảnh họ vẽ cô gái da đỏ chân trần xõa tóc, phóng như sóc lên mỏm đá cheo leo, cất tiếng hát lay động núi rừng. Không ngờ, hắn sầm mặt. ?oTổ tiên chúng tôi là những người thật thà lắm. Chất phác đến mức khờ dạị? Bỗng hắn hạ giọng, ?oNgười da đỏ không ai muốn xem Poncahontas. Đó là một dấu ấn buồn.? Tôi thắc mắc, ?oHọ không thích cô ta saỏ Tao thấy, cô dễ thương lắm.? Hắn lắc đầu, ?oNgười trong phim là cô gái Phị Poncahontas thật đẹp hơn nhiềụ Nhưng truyện tình đơn giản.? Hắn kể, ?oNăm 1606, chiếc thuyền John Smith gặp bão nên đổ bộ vào Virginiạ Họ bị người da đỏ bắt. Lúc đó, Poncahontas mới mười hai tuổi, là con gái tù trưởng Powhatan, đã xin ân xá cho John Smith. Tám năm sau, cô lập gia đình với thuyền trưởng khác là John Rolfẹ Họ sang Anh, và có một con. ở London, người ta gọi cô là Lady Rebeccạ Poncahontas chết lúc mới hai mươi mốt tuổi, vì bệnh dịch.? Xúc động, tôi chậc lưỡi, ?oThật tội nghiệp.? Sequois ?ohừ? bằng giọng mũi, ?oChưa tội nghiệp bằng Powhatan. Mày có biết, sau khi kết thân với John Rolfe, họ đã giúp nhiều chiếc thuyền Châu Âu thực phẩm, thuốc lá. Về sau, đám di dân cậy có súng, bắt người da đỏ có nhiệm vụ cống nạp thực phẩm. Sự phẩn uất bùng nổ vào năm 1622. Những người da trắng bị giết cùng một kiểu: mồm nhét đầy thực phẩm trộn đất. Ý nói, người da trắng tham lam muốn nuốt chửng đất đai của họ. Chiến tranh bắt đầu từ đó. Bộ lạc của họ chết gần hết.? Tôi hỏi, ?oBây giờ, người của Powhatan còn không?? ?oCòn, nhưng ít lắm.? Hắn đáp. ?oHọ sống ở đặc khu Rancocas ở New Jerseỵ? Tôi bùi ngùi, an ủị ?oChính quyền giờ khác xưạ Họ cũng dành cho người da đỏ nhiều đặc quyền hơn những giống dân khác.? Hắn chép miệng, thở dàị ?oMày chỉ là khán giả, nên không thấy như kẻ đứng sau hậu trường.? Tôi làm thinh. Mải chuyện, xe vượt qua đường núi lúc nào không rõ. Bây giờ, trời quang hẳn. Xa lộ nằm dọc trên cao nguyên chạy về hướng bắc. Bên phải, thỉnh thoảng có nhiều hồ hoang đầy lau sậỵ Xa xa đồi núi chập chùng. Một rặng rừng thông xanh rì che mờ chân núị Bên trái, trên xa lộ nhìn xuống, một con sông hẹp, mầu nước sáng như bạc. Bên kia bờ, nhiều dãy đồi trọc, trên váng lớp cỏ thưạ Càng lên bắc, đồi thoãi dần rồi trở thành thung lũng. Xế chiều, chúng tôi dừng lại đổ xăng. Tôi chạy qua quán kế mua hai phần ăn. Sequois chỉ uống nước, rồi ra ngoàị Ăn xong, tôi đi kiếm hắn. Tôi thấy Sequois ngồi nghiêm trên phiến đá sau quán. Mặt tư lự ngắm mặt trời dần ngã về tâỵ Vạn vật chìm ngập trong mầu nắng vàng hực tỏa khắp núi đồị Hồi lâu, tôi ngạc nhiên nhận ra, dường như nắng ở đây vàng hơn nơi khác. Hỏi Sequois, hắn trỏ tay xuống thung lũng: bên dưới một biển lúa rập rờn như sóng. ?oMầu vàng từ lúa hắt lên, không phải trên trời dọi xuống.? Tôi nhìn xuống. Đất trũng như lòng chảọ Chắc phải qua cả triệu năm, mưa bão mới cuốn trôi đất từ những rặng núi đá bên kia để hình thành thung lũng nàỵ Tôi hỏi, ?oNông trại mày đất tốt như vầy không??. Mắt nhìn xuống cánh đồng lúa, hắn đáp bâng quợ ?oKhông, cằn lắm.? Tôi tài lanh, chỉ vẽ: ?oHey, sao mày không bán đất xấu, xuống kia mua tốt hơn?? Hắn lừ mắt nhìn tôi một hồị Rồi phủi đít đứng dậy, bảọ ?oHơn trăm năm trước, lãnh địa này là của tụi taọ Thung lũng Wallowa là căn nhà của người da đỏ. Bộ lạc mười mấy ngàn người, trải sống khắp thung lũng và vùng giữa lưu vực hai sông Salmon và Snakẹ Đánh cá và chăn nuôi là nghề chính. Đến năm 1877, người da trắng lùa chúng tôi lên ở Lapwaị Giờ là khu tự trị Nez Percé.? Hắn đăm chiêu nhìn xuống bên dướị ?oMười mấy ngàn năm, bao nhiêu hài cốt tổ tiên, di sản thiêng liêng chôn dưới cánh đồng nàỵ? Rồi thở dài, ?oBây giờ là nơi người ta đào xớị? Tôi chợt nhớ trong sử viết, người Pháp đầu tiên gặp bộ lạc Numipu, thấy nhiều người xỏ mũi bằng răng cá hay đeo khoen vỏ sò nên gọi họ là Nez Percé. Tôi lom lom nhìn mũi hắn. Chắc đoán được, hắn đập vai tôi đau điếng. ?oBây giờ đố mày kiếm ra người Nez nào xỏ mũị? Chúng tôi về tới đặc khu Nez Percé lúc trời chập tốị Khu nằm trên cao nguyên, lọt giữa vùng rừng già và núi cổ. Phía đông, giòng Clearwater trên ngàn chảy ngang. Qua chiếc cầu gỗ, xe chui dưới nhiều lớp cổng chào khắc những hình thù quái dị. Nhà cửa cất dọc ven sông. Kiểu đơn giản. Đa số ghép bằng cây lodgepines, loại thông thân thẳng và nhẵn. Có căn vách tô đất, mái lợp bằng cỏ đuôi chồn. Đó đây vài chiếc lều vải bạc dựng trước nhà. Sequois lái chậm lại khi rẽ vào trong. Nhiều người chạy ra, vẫy chàọ Hình như hắn quen với tất cả mọi ngườị Xe ngừng lại trước một căn nhà gỗ hai gian, sau hè có cầu thang lên tầng trên. Trước nhà treo nhiều bộ sừng thú. Lớn nhất là đầu con nai già, sừng cao cả thước, có nhiều nhánh chẻ. Cạnh bên, bộ sừng moose, thấp và bè. Kế là đầu trâu rừng có sừng cong vút, sừng sơn dương úp ngược như lọn tóc con gáị Tôi ngạc nhiên sao họ trưng đồ quý ở ngoài, không sợ mất. Sau này mới hiểu, đó là cách người da đỏ khoe chiến công. Không ai thấy vinh dự khi lấy cắp thành tích người khác. Bên trong, nhà sạch và đơn giản. Một chiếc bàn viết kê sát vách, kế kệ sách. Chính giữa trải một tấm da gấu đen mượt. Chung quanh, những chiếc gối mầu mè dựng ngay ngắn. ống điếu, tẩu thuốc xếp gọn trong góc nhà. Trên vách treo một tấm tranh, cảnh một gia đình da đỏ quây quần bên bếp lửạ Tôi để ý không thấy điện thoại, ti vi hay máy điện toán. Nghe đồn, người da đỏ từ chối những tiện nghi văn minh. Họ sống biệt lập, quay lưng với thế giới bên ngoàị Nhà vắng. Sequois bảo tôi ngồi chờ, hắn đi kiếm ông Chief xin phép. Tôi lo lắng, lỡ ông không đồng ý thì saọ Hắn nhếch môi cười, ông Chief tức Tù Trưởng, là bác ruột, cha nuôi, và cũng là chủ nhà nàỵ Hắn quẳng túi đồ của tôi xuống đất, chỉ tay lên trần nhà, nóị ?oPhòng mày trên lầụ Lên coi đị? Tôi chưa kịp hỏi thêm, hắn đã phóng ra xe, dông mất. Căn phòng hắn chỉ bề bộn như một cái khọ Sàn nhà chất đầy những đồ vật đan thêu bằng những hạt chuỗi sặc sỡ như rổ, rá, túi xách và chăn. Trên vách treo nhiều mặt nạ gớm ghiếc. Tôi tò mò ngắm kỹ từng cái hồi lâụ Thật kỳ lạ, tôi phát giác. Trông mặt nạ mỗi chiếc mỗi khác, nhưng nét mặt đều chung một vẻ. Miệng méo lệch, mắt đứng tròng như trông thấy điều gì kinh hãị Rõ ràng nó đang sợ người, không phải làm người sợ nó. Ngắm chán, tôi mở cửa phòng bên xem thử. Mùi nhựa gỗ hăng hắc. Bên trong có nhiều kệ, kê sát tường. Trên, trưng la liệt những vật dụng cổ xưạ Từ hài, ủng bằng da thỏ, túi đựng cung nỏ, gậy, nón của tù trưởng, nhiều hình nộm nhỏ và nhạc khí cổ. Lưng vách treo nhiều khung hình đen trắng. Đa số chụp từ thế kỷ mười tám. Hình một gia đình trong chiếc lều cỏ, đôi vợ chồng lem luốc đang ôm mấy đứa nhỏ trần truồng. Kế, ảnh chụp những người đàn bà da đỏ quấn khăn, chùm váy đứng chùm nhum ngó thợ chụp hình ngơ ngác. Hình khác, những người đàn ông thô kệch vận âu phục, trông ai nấy như Tarzan ra thành phố. Không có tấm nào thấy họ cườị Tôi dừng lại trước khung ảnh lớn, trang trọng đặt cuối phòng. Một người đàn ông tóc mái phất phơ như bờm ngựa, hai bên thả hai bím tóc maị Gương mặt rắn rỏi, quả cảm. Mũi thẳng. Đôi mắt là hai vì sao không phát sáng. Một nỗi buồn như dội ngược trong lòng. Tôi đứng lặng, cuốn hút bởi cái nhìn của ông. Có tiếng đằng hắng sau lưng, tôi giật mình quay lạị Một người đàn ông da sậm, cao lớn, tóc râm, đeo kính vỗ vai tôi, thân mật. ?oNè, Bạn Nhỏ. Anh biết Tù trưởng Joseph không? Đó là vị anh hùng của người da đỏ. Người da trắng gọi ông là Indians Napoleon.? Tôi gật, ra vẻ hiểu biết, ?oTôi học sử Mỹ, có nghe danh.? Ông nhìn tôi, nghi ngờ, ?oCó phải họ dạy, người da đỏ quan niệm đất đai như không khí, là của chung mọi ngườỉ? Hay cho rằng, ?oChúng tôi là những người man di may mắn sống trong thế giới văn minh của họ?? Tôi im lặng. Ông bật cười khan. ?oĐó là thứ sử một chiềụ? Rồi đằng giọng, chua caỵ ?oKẻ chiến thắng quơ trong không khí cũng ra chính nghĩạ? Tôi chưa biết nói sao thì Sequois lên gọi ăn tốị Ngày hôm sau vào nông trạị Thật ra gọi lâm trại đúng hơn. Một khoảng rừng cây lodgepines bị đốn nhẵn, gốc trơ giống những miếng gạch tròn. Công việc của đám thợ trẻ là nghiền gốc, xong trồng lớp cây mớị Sequois là trưởng nhóm tốp hai mươi ngườị Theo họ, tôi biết thêm nhiều điềụ Tục da đỏ kiêng gọi tên. Họ dùng những biệt hiệu theo đặc điểm hay thành tích của từng ngườị Thí dụ Sequois là Sói xám, vì hắn từng bẫy được sói rừng. Bighorn, tức Đại Tù Và là cha nuôi của Sequois, vì ông thổi tù và trong các buổi lễ. Họ gọi tôi là Bạn Nhỏ, theo cách ông Chief gọị Những người khác đều có những tên dữ dội hoặc buồn cười như Ngựa Điên, Cục Đá Vàng, Que Lửa vừa nghe nhớ mãị Sequois là người trưởng nhóm tốt. Hắn theo tôi chỉ vẽ tận tình. Đám thợ siêng năng làm việc cật lực. Đến trưa, một vùng rộng đã cào xong. Tôi mệt đứ, mồ hôi nhễ nhại đẫm lưng. Đám thợ của Sequois tỉnh bơ, cởi áo cột áo ngang mình. Tôi ngắm từng tấm lưng trần lực lưỡng. Dưới những tia nắng lóa, mầu da sậm của họ bỗng nhiên đỏ ửng. Chúng tôi kéo vào ăn trưa dưới một mái lá. Bên ngoài, chỉ còn ông Chief căng dây làm mốc để trồng gốc mớị Tôi ngạc nhiên hỏi, Sequois đáp, ông Chief của họ phải làm việc như mọi ngườị Ngày xưa, Tù Trưởng thường là những người dũng mãnh, mưu trí nhất bộ lạc. Họ là người dẫn đầu trong những cuộc săn, trong chiến tranh. Chỉ khi già mới ở nhà. Chiến lợi phẩm thu được cũng phải chia cho kẻ nghèo, không giữ làm của riêng. Ngày nay cũng vậỵ Chỉ khác, họ có nhiều Chief, họp thành một ban Quản trị. Một tuần sau, rừng cây non thẳng tắp. Chúng tôi bắt đầu chuyển trạị Dọc theo con đường mòn dẫn ra rừng Whitebird có nhiều xưởng cưạ Cây từ các lâm trại chuyển tới chờ xẻ gỗ. Tôi ngạc nhiên trước sự giàu có tương phản với nếp sống đạm bạc trong làng của họ. Sau trại là vực. Bên kia, núi đứng chen chúc, che ánh mặt trờị Sương len từ khe đá vừa tỏa lên đã ngưng đọng. Rừng thông Alpines đứng nghiêm, trông như những cổ tháp Đông phương. Giữa vực, một con đường mòn hun hút, không biết dẫn đi đâụ Có lần rủ Sequois xuống đó săn. Hắn trừng mắt nhìn tôi, gằn giọng. ?o Đừng bao giờ có ý nghĩ săn bắn ở đâỵ? Bình thường hắn ôn hòa, không hiểu sao bỗng dưng lại dữ vậỵ Sau này nghe ông Chief nói, đó là mộ địa của người da đỏ, họ đã từng bị truy sát tại đâỵ? Những buổi tối về làng, Sequois nhóm bạn đua ngựa hay tập bắn cung. Tôi ở nhà, quanh quẩn theo ông Chief. Ông dạy tôi nhặt và xắt lá thuốc trồng trong trạị Dần dà, tôi cũng biết kéo tẩụ Thuốc lá của họ đậm và nồng, khói nhạt, dễ vẽ thành những vòng tròn lơ đễnh. Khi say thuốc, tâm trí mơ màng, ông thường kể truyện. Lần nào mở đầu, ông cũng than, ?oChúng tôi đúng là những kẻ lỡ tầụ Này Bạn Nhỏ, anh xem. Trong lúc nhân loại bắt đầu phát minh ra điện, thì chúng tôi vẫn yên trí sống trong thời kỳ đồ đá.? Giơ cây tên bằng xương thú vẫn chưng trong nhà, ông cười khất khưởng. ?oVà, lo bắn nhau bằng những mũi tên cùn.? Hồi sau, ông lắc đầu, thở dàị ?oMảnh đất này cô lập chúng tôi với thế giới quá lâụ Thật không thể tưởng tượng, mãi năm 1700 chúng tôi mới thấy được giống ngựa và đồ kim khí, như nồi niêu gương lược. Giống như con gấu ngủ suốt đông, khi tỉnh dậy trời đất đã đổi mùạ? Ông chuyển giọng, trầm ngâm. ?oNgười da đỏ vốn hiếu khách. Hơn nữa, muốn chìa tay bắt kịp đà văn minh con ngườị Chúng tôi luôn luôn muốn học hỏi ở người da trắng về trồng trọt, chăn nuôià cho đến cả tôn giáọ Nhưng đến năm 1836, khi mục sư Spalding đến cất nhà thờ trên đất người da đỏ, lại đuổi chúng tôi ra khỏi thánh đường, chỉ vì có người mặc khố đi lễ thì sự hiềm khích bắt đầụ Mấy năm sau, người da trắng đến càng đông. Giống da đỏ tự dưng thành thiểu số. Họ cất nhà, lập nông trại trên cánh đồng của chúng tôị Năm 1850, khi mọi người đổ xô tìm vàng thì thảm kịch bắt đầụ Đa số vàng được tìm thấy trên vùng da đỏ. Chính quyền vẽ ranh giới, tước đoạt đất đai, mồ mả chúng tôị Họ xua chúng tôi vào vùng đất này, chà đạp lên luật lệ.? Ông ngừng lại, hỏị ?oAnh bảo có học sử Mỹ, vậy có biết General Oliver Howard không?? Tôi gật. ?oCó, Oliver Otis Howard được ca ngợi là một anh hùng trong cuộc nội chiến.? Ông cười khẩy, ?oAnh đứng trước mặt nên chỉ thấy hào quang. Sau lưng, bóng họ và bóng ma không khác mấỵ? Tôi làm thinh. Bấy giờ, ông như tự nói với mình. ?oTháng 5 năm 1877, chính Howard viết thư phản đối việc tước đoạt đất của bộ lạc Nez Perce lên Liên Bang. Nhưng chỉ tháng sau, ông trở mặt, ra lệnh buộc chúng tôi phải bỏ xứ ra đi trong thời hạn ba mươi ngàỵ Lúc đó là đầu xuân, tuyết trên núi đang tan. Nước tràn xuống như cơn lũ dữ. Tất cả dắt díu nhau lội qua sông Snakẹ Nhiều người và thú đã bị cuốn mất tăm trên giòng sông nàỵ Khi lên bờ nghỉ, tình cờ có một thanh niên, phát giác trong số lính áp tải có kẻ giết cha mình. Một nhóm ba người da đỏ trẻ, rình rập và ám sát toán lính trong rừng. Khi sự việc xảy ra, Chief Joseph tránh cuộc chiến sẽ tiêu diệt hết bộ lạc nên gửi sáu người mang cờ trắng đi đến đồn. Nhưng chưa kịp nói, họ đã bị lính canh gác bắn chết. Tù trưởng Joseph vội vã dẫn cả bộ lạc mở đường máu, chạy theo con đường mòn sau núi Whitebird. Nhiều đội lính rượt theọ Cuộc săn người diễn ra trong rừng. Vừa bảo vệ đàn bà và trẻ nít, vừa chống lại với lính có súng, bộ lạc mất dần những tay cung thủ gan dạ nhất. Trong gần bốn tháng, họ chạy lẩn trong rừng, vượt qua những hẻm núi, trèo lên rặng Bitterroot. Đoạn đường dài 2,720 cây số. Tới tháng Mười, trời đổ tuyết. Băng giá bắt đầu lấp dần những hẻm núị Họ bị hai đội quân bao vây, đạn bắn xuống như mưạ Nhiều người chết vì lạnh và đói trong hang. Tù trưởng Joseph vì sự sống còn của bộ lạc, đã tuyên bố đầu hàng, tại núi Bear Paw, chỉ cách Canada 30 dặm.? Tôi tặc lưỡi, tiếc rẻ. ?oSau này, Tù trưởng Joseph ra saỏ? Ông đáp, ?oChief Joseph và đa số đàn ông trong bộ lạc bị phân tán ở khắp các trại miền nam. ở trại Kansas, đa số không chịu được khí hậu nóng ẩm nên chết rất nhiềụ Hai mươi ba năm sau, ông mới được trở về bộ lạc ở Lapwaị Năm 1900, ông quay lại thung lũng Wallowa để mua một mảnh đất nhỏ, nhưng không ai chịu bán. Bốn năm sau, Joseph chết.? Nói xong, ông rít một hơi dàị Những cọng thuốc cong queo, lóe ngời màu lửạ Tôi bùi ngùi nhìn. Mắt ông ướt, những ngón tay lọng cọng chực làm rơi chiếc tẩụ Tôi an ủi, ?oGiờ, cuộc chiến đã qua, chắc họ cũng nhận thấy bất công nên đặc biệt dành nhiều ngân quỹ trợ cấp cho người da đỏ, nhự..?. Tôi chưa kịp dứt lời, ông ngắt. ?oNhư quỹ bảo vệ thú rừng, quý vì hiếm đó hả?? Xong, ông vỗ vai tôị ?oCuộc chiến của chúng tôi vẫn còn. Lớp trẻ vẫn phải tranh đấu với chính mình để không mất gốc. Điều đó không đơn giản đâụ? Hồi lâu, ông bảọ ?oDân Tàu đông, một mình anh thay đổi cũng không saọ Nhưng chúng tôi khác, phải quý từng người, nhất là phụ nữ.? Tôi lắc đầu, phản đốị ?oTôi là người Việt, không phải Tàụ? Ông ngạc nhiên, ?oNước Việt ở đâủ? Tôi giải thích, ?oViệt Nam là nước nhỏ, ở miền nam giáp Tàụ Chúng tôi cũng từng bị Tàu đô hộ và đồng hóa cả ngàn năm, nhưng chúng tôi vẫn tồn tạị? Ông bật dậy, chú ý hỏị Tôi cố nhớ đoạn sử thời Bắc thuộc tôi học hồi nhỏ để kể. Đại khái, người Việt tránh sự đồng hóa của người Tàu bằng tục ăn trầu, nhuộm răng và vấn tóc để nhận nhaụ Họ còn dùng cách ăn mặc, ngôn ngữ, truyện cổ... để giữ gìn nguồn gốc. Tiếc, lúc nhỏ mê đá dế nên tôi lười học, chỉ nhớ được nhiêu đó. Nhưng ông Chief nghe xong thích thú lắm. Khuya, mưa rơi lộp độp trên mái nhà. Tôi ngủ mơ thấy ông Chief Joseph từ phòng bên bước ra, rủ đi theọ Ông phi ngựa đến bờ sông Snake, chỉ giòng nước. ?oNày Bạn Nhỏ xem kìa, nước dưới kia không chảỵ Nó chỉ rút ra xa, rồi vỗ mạnh vào gềnh. Sẽ có một ngày, sức nước làm tim đá vỡ.? Nói xong, người ngựa đều lao xuống vực. Tôi hết hồn tỉnh giấc. Ngoài kia, gió vẫn rít từng hồị Sáng cuối tuần, tôi dậy sớm. Dưới nhà có nhiều người trẻ. Họ đun nước, nướng bắp và bàn về ngày lễ Truyền Thống cuối hè. Ông Chief vào phòng lấy cho tôi chiếc áo khoác to như cái mền và mười đồng. Tôi nhìn có ý hỏị Ông cười, rồi bỏ đị Thấy tôi ngơ ngác, Sequois nắm tay chúc mừng. Đó là tục người da đỏ nhận bạn. Sequois giới thiệu nhóm trẻ. Tôi chú ý cô gái nhỏ, cứ đứng trong góc nhà vuốt hai bím tóc. Hắn bảo, đó là em họ, tên Ngải Cứụ Tôi bật cười, tên chi lạ. Sau này, tôi biết cô là Yumạ Không hiểu sao, họ quý phụ nữ nhưng hình như không thích Yumạ Cô chỉ lắng nghe, không góp lời, còn họ cũng không hỏi tớị Nhóm con trai chuẩn bị cây, lều và dọn bãị Xong, sẽ ra chuồng ngựạ Đám con gái đi nhặt camas. Lần trước té ngựa, nên Sequois cho tôi theo phía nữ giúp họ khuân nông phẩm về trạị Tôi đẩy cáng xe theo nhóm con gái mang gùi về phía đông. Vượt quá rừng thưa, một thảm hoa dại trải rộng tận chân đồị Bọn họ tản ra, mỗi người mỗi hướng. Tôi cầm càng xe lớ ngớ chưa biết đi đâu thì Yuma ngoắc. Tôi vừa đi vừa ngắt mấy nhánh hoa, đưa lên mũi ngửị ?oHoa gì đẹp quá?? Yuma cười, ?oNgải Cứu, giống tên em.? Cô chỉ ra xạ ?oBên kia có mầu tím đẹp hơn.? Xong, cô vẹt cỏ, lựa bứng những bụi cây, trông giống giò thủy tiên, nhưng hoa mầu xanh nhạt, củ to như củ hành. Cô bảo, đó là camas, tựa khoai tây của người da trắng. Khi mài thành bột, dùng làm bánh kẹp thịt nướng, rất ngon. Tôi chùi một củ, cắn thử. Nhẳn và ngọt như sắn ở quê mình. Cánh đồng còn có nhiều cây dại, như turnip, củ ngọt và dòn; các loại cherriers đỏ, tím dùng làm nhân bánh; Saskatoon, Pemmican mầu vàng nâu để ướp thịt rừng. Cô nhổ một giò camas trắng, dặn. ?oChớ hái mầu trắng, đây là hoa độc.? Tôi hoảng hốt, ?oHoa độc mọc xen hoa xanh, ăn không sợ saỏ? Cô cười, ?oGiống như người hiền, người dữ sống chung mảnh đất vậy mà.? Yuma học Mỹ thuật ở Boisẹ Mùa hè, về sống với mẹ trong làng. Với tôi, cô hoạt bát và vui hẳn, không giống như khi đứng trước những người khác. Sau này nghe họ kể, cô từng có bạn trai người da trắng. Không hiểu sao, chuyện không thành. Khi trở thành bạn thân, tôi theo cô dạo khắp cánh đồng. Yuma dạy tôi nói chuyện bằng thủ ngữ, đó là ngôn ngữ chung của tất cả các bộ lạc. Tôi cứ ra dấu lộn, nói ghét thành yêu, nói không thành có làm cô cười ngặt ngoẽọ Nụ cười khoe hàm răng trong bóng như những hạt gạo đã sàng sẩy kỹ. Buổi tối, ra sau trạị Hai bên núi đá đen chồng chất. Chính giữa giòng Snake đang chảy, trông xa như con rắn trườn khoe những lớp vẩy lấp lánh. Tôi kể về giấc mơ thấy ông Joseph. Cô nghe, rồi chắp tay nhìn trời khấn. Tôi hỏi, ?oEm tin đấng Great Spirit thật à?? Cô gật. ?oNhưng, Thượng Đế của người da đỏ khờ lắm.? Cô cười buồn, ?oNgài làm ngơ bỏ mặc con dân khổ.? Tôi ngửa cổ, nheo mắt nhìn. ?oAnh không tin trên trời có Thượng Đế.? Yuma nằn nì, ?oCứ tin đi, cho nó vuị? Cô chép miệng, thở dàị ?oNếu trên trời toàn là mây, chỉ e con chim cũng không buồn bay nữạ? Cuối hè, lễ Truyền Thống hàng năm bắt đầụ Giống như hội Powwows hay Sun Dance miền Nam. Người từ các bộ lạc khác dự rất đông. Những con đường trong làng tấp nập. Gần trăm chiếc lều dựng lên, trên vẽ những hình người và thú đuổi nhaụ Khán đài có mái che ở giữa bãi trống, chung quanh bày nhiều hàng ghế. Kế bên, là gian hàng bán đồ kỷ niệm hay trò chơị Từ sớm, mọi người kéo ra bãi, chào nhau và ăn sáng. Họ đi thành từng hàng, mặc lễ phục đủ mầụ Đàn ông thắt bím tóc mai, vẽ mặt rằn rị Áo họ dài quá gối, trên có choàng yếm viền tua, ren sặc sỡ. Đầu quấn băng xanh đỏ, và gắn lông chim dài nhuộm mầụ Lưng và mông mang bộ cánh và đuôi giả giống con gà tây lớn. Đàn bà mặc áo choàng dài chấm gót. Trên có khăn khoác thêu sặc sỡ. Tóc chải ngược, bỏ bím hai bên, giắt những lông ngỗng trắng phất phợ Ngực đeo đầy chuỗi hạt đủ mầụ Họ xếp hàng đi quanh khán đài nhiều vòng để thi sắc phục. Tới ngang lễ đài, đám đàn ông dừng lại phập phồng vỗ cánh, hếch đuôị Một ban trống lễ, gồm toàn người già cầm dùi đen, gõ trống liên hồị Tới trưa, cuộc thi nhảy bắt đầụ Nhạc giữ nhịp là một giàn trống nước. Trống giống thùng rượu thấp, làm bằng thân cây hollow có niền đáy, mặt trên bịt dạ Khoảng giữa có ống chuyền nước vào đã được bịt chặt. Trống nước phát được những nốt caọ Xen kẽ là chiếc trống đôi, có hai mặt, trên có căng dây treo mấy que gỗ nhỏ. Khi đánh nghe rất vui taị Ngoài ra còn có kèn, và nhiều loại sáọ Họ biểu diễn đơn, hoặc từng cặp, cuối cùng xếp thành hàng. Tôi xem hồi lâu cảm thấy ù tai, chóng mặt. Trông lòe loẹt như một đám hát bộị Buổi chiều, đám đàn ông đua ngựạ Những con ngựa lớn, khỏe, mầu đỏ nâu phi nước đạị Họ lướt qua cánh đồng, lội qua suối, rồi chạy dọc theo sông Clearwater. Tôi mường tượng cảnh những người da đỏ mình trần, đóng khố, giương cung sải ngựa trong phim la hét vang trờị Bây giờ, họ mặc quần jeans, áo jacket, có người đeo kính lãọ Chỉ đám trẻ như Sequois mới chơi trò phóng đổi lưng ngựa nhiều lần. Không may, khi băng qua cổng trại, hắn bị trặc chân, nên về nghỉ. Tối đó, họ đốt lửa trại quanh lềụ Những người đàn bà treo nồi luộc bánh. Trẻ con xớ rớ lén nướng khoaị Đám con trai tản ra trêu con gáị Những người già ngồi kể chuyện xưạ Khi trăng lên cao, ông Chief lấy tù và ra thổị Âm thanh mạnh và rền, lan nhanh như luồn vào khe núị Đến quá khuya, tiếng tù rúc nghe như tiếng sói trúng thương. Thấy bóng Yuma vụt qua sau lưng, tôi đuổi theo, bắt kịp Yuma ở ngay cánh đồng có nhiều hoa dạị Tôi hỏi, ?oChạy ra đây chỉ? Cô đáp, ?oở lại, hồi nữa sẽ nghe họ khóc đó.? Tôi ngẩn người, ?oHọ khóc thật à?? Cô gật. ?oừ, nhưng anh không thấy đâụ Lệ họ bốc thành hơi lâu rồị? Chúng tôi đi bên nhaụ Cuối hè, hoa đã tàn. Có những cọng cỏ nhuốm vàng rất sớm. Tự dưng, Yuma kể. Lúc nhỏ, cô thường ra cánh đồng này và ở lại tới khuyạ Tôi ngạc nhiên hỏị Cô cười, ?oĐể nghe tiếng côn trùng rỉ rả.? Và, nói xa xôị ?oThật ra, mỗi loài đều có những lời thở than riêng. Đừng chỉ nghe mỗi tiếng của mình.? Hồi lâu, trên đường về, tôi vô ý sụp chân xuống hố. Không biết ai đào, miệng hố trơn lùi, không leo lên được. Yuma bối rối đi tìm cây sàọ Nhưng sức yếu, thay vì kéo tôi lên, cô lại ngã chúi xuống. Tôi loay hoay phát giác có một lỗ hang dưới đáỵ Cô lo sợ bảo, có thể là hang gấu hay sói rừng. Tôi nói, chắc không phải, nhưng trong lòng thầm lọ Khuya, sương xuống nhiềụ Lạnh và sợ, chúng tôi choàng chung cái áo to của ông Chief cho lúc trước. Một hồi, Yuma cười gượng trấn an, kể tôi nghe truyền thuyết về loại sói rừng. Cô nói, vào thời hỗn mang, có con khủng long to nằm chắn giữa những dãy núi nàỵ Khi đói, nó ăn hết mọi sinh vật chung quanh. Cuối cùng chỉ còn lại con sói rừng. Sói tinh khôn biết trước sau gì cũng bị ăn thịt. Nó lấy dây rừng đánh thành sợi dài quấn ngang bụng. Khi bị nuốt, nó cột dây vào răng khủng long, và tuột vào trong. Đến nơi, nó rút dao cắt tim mãnh thú. Sợ khủng long sống lại, sói cắt thịt và xương thú làm nhiều mảnh, rồi quăng khắp nơị Người da đỏ tin, đó là điềm con cháu sau này tứ tán. Nghe xong, tôi thở dàị ?oChúng tôi không có câu truyện cổ nào như vậy, nhưng con cháu Việt sao cũng bị lưu lạc khắp nơị? Hình như Yuma xúc động, cô siết chặt tay tôị Một cơn gió lạnh tràn về, Yuma rùng mình, tôi ghì vai cô và nhẹ hôn trên tóc. Trăng sáng vằng vặc. Bầu trời xanh trong không một vì saọ Tôi tấm tắc, ?oTrăng đẹp quá. ở thành phố chưa bao giờ tôi thấy trăng sáng như vầy?. Yuma bảo, ?oNếu anh thích, sau này về đây tha hồ ngắm.? Nghĩ sao, tôi lắc đầu, ?oKhông, sẽ không có đêm nào trăng tròn hơn đêm naỵ? Mùa thu đến, rừng đổi mầụ Lá aspen ngã vàng rồi chuyển sang nâu đỏ. Khi về Boise học lại, Yuma đã trở thành bạn gái của tôị Điều này Sequois không biết. Ban Quản trị đang dự tính mua thêm lâm trại nên hắn bận. Yuma tiết lộ, những tài sản trên rừng mang tên cá nhân, nhưng thật ra của chung dân chúng. Mỗi một người họ đều tự nguyện góp vốn, mua lại phần đất đai đã mất. Những giọt mồ hôi đổ xuống ví như những giọt máu của người lính đi giành lại quê hương. Chừng nửa niên học, Yuma báo tin có thaị Tôi bàng hoàng cả tuần. Vào lớp, chẳng nhét nổi một chữ vào đầụ Tối nằm, tôi mơ thấy một thằng bé vẽ mặt rằn ri, đầu giắt đầy lông chim, nhảy loi choi như con gà tây bị rượt. Sáng dậy, đầu óc lùng bùng. Yuma về trại tuần trước. Tôi dọ hỏi những căn chung cư ngoài để dọn ra riêng. Xong, sẽ về xin phép làm một lễ cưới nhỏ và dẫn Yuma đi cùng. Mấy hôm sau tôi về trạị Đường trong làng vắng ngắt. Ghé nhà Yuma không có aị Tôi trở về căn gác cũ. Bọn Ngựa Điên, Cục Đá Vàng, Que Lửa thấy tôi mặt lấm lét, chuồn nhanh. Buổi chiều, ông Chief về, bảo tôi theọ Ra tới lều lớn của khu, mọi người đang chờ tôi ở đó. Yuma ngồi sau lưng mẹ, mắt đỏ hoẹ Tôi lúng túng nói không ra lời, nhưng sau cùng cũng trình bày câu chuyện một cách trơn trụ Khi vừa dứt lời, trong lều ồn hẳn, mỗi người một câụ Hình như ai nấy đều bất mãn. Ông Chief giơ hai tay ra hiệu im lặng, rồi nói, họ muốn bắt rể. Gia đình tôi sẽ ở lại trong làng, và trở thành thành viên trong tộc. Giấc mơ thấy thằng con da đỏ chạy lăng xăng trong làng tự dưng hiển hiện. Một đứa con chưa sinh ra, nhưng nỗi buồn vong quốc ngâm tẩm trong rừng núi đã định hình. Tôi cố trình bày cho họ hiểu, tục Việt Nam con gái phải theo chồng. Nhưng nói sao, họ cũng không nghẹ Ông Chief nói, xưa bộ lạc họ đông hơn hai mươi ngàn người, hơn trăm năm sau chỉ còn mấy ngàn, đi người nào tiếc người đó. Nghe vậy, tôi kiếm cớ đi ra ngoàị Vòng ra sau, không thấy aị Tôi chạy ù về chỗ đậu xẹ Mới mở máy, đã thấy Sequois kéo lũ bạn phóng tớị Tôi hoảng hốt, nhấn mạnh gạ Chiếc xe ***g lên như con ngựa chứng. Đám Sequois tức giận, vác cây đập chiếc xe tơi bờị Tôi tháo chạy ra cổng làng. Một hàng người dầy đặc, đứng im chặn ngang cánh cổng. Tôi thắng, định quay lạị Nhưng phía sau, bọn Sequois đang la lối xông tớị Tôi bẻ lái, quẹo ngang. Không ngờ quên trả số, xe giật lùị Đàng sau, có tiếng thét, một vật gì vừa ngã chúị Nhìn lại, Yuma đang nằm sóng xoài trên đất. Tôi chạy tới, vực Yuma dậỵ Một giòng máu đỏ ướt nhem dính tóc. Chiếc xe cấp cứu đưa Yuma ra khỏi trạị Hai người cảnh sát dẫn tôi ra xẹ Khi vừa qua cổng, tôi ngoái lại nhìn. Rừng núi bỗng dưng nhỏ lạị Xe chạy qua dãy núi đen. Tôi như thấy Yuma vẫn còn đứng đó, chắp tay và cầu nguyện. Tự nhiên tôi tin chắc, Thượng Đế đang nấp sau mâỵ Có điều, lần này Ngài khờ hơn lần trước.