1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

DnD Global GROUP: Lý Sơn - Quy Nhơn (13-22/07/12) Lý Sơn-3 ngày hè trên đảo Bé, Quy Nhơn vào hội

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi D_and_D, 03/09/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Một vài thông tin "du lịch" Cù Lao Xanh
    * Nơi ngủ nghỉ: UBND xã có nhà khách (2 phòng ngủ) dành cho khách sang công tác! Không có resort, hotel, nhà nghỉ gì cả. Còn cái vụ ở nhờ nhà dân được hay không là "cái miệng" của bọn em!Học sinh, sinh viên qua đây cắm trại họ thường cắm trại "ngủ" luôn ngoài trời,
    * Nhà hàng, quán ăn: Hầu như không có. Chỉ có một vài quán cafe nhỏ. Đồ ăn nên chuẩn bị trước từ Quy Nhơn. Có thể mua đồ ăn của ngư dân (không chắc chắn).
    * Di chuyển:
    - Nhơn Châu - Quy Nhơn: 1 chuyến/ngày, xuất phát khoảng 6h30-7h00 sáng
    - Quy Nhơn - Nhơn Châu: 1 chuyến/ngày, xuất phát khoảng 13h00 chiều
    - Có thể thuê đò từ bến Hàm Tử để đi về trong ngày (từ Quy Nhơn đến Nhơn Châu mất khoảng 2 tiếng rưỡi).
    Bạn muốn thực hiện một chuyến du lịch biển đảo? Bạn muốn lạc vào một chốn hoang sơ thi vị? Hãy mang balô và đến với Cù Lao Xanh. Đến để hòa mình vào thiên nhiên và khám phá nhiều điều thú vị khác.

    Hải đăng Phước Mai và tượng đài Đức Thánh Trần - tín hiệu mời chào và tạm biệt tàu thuyền cùng mọi người ra vào thành phố
    Chúng tôi xuống bến Hàm Tử rồi lên đò đi Cù Lao Xanh, tức xã đảo Nhơn Châu, thành phố Quy Nhơn. Ra đến cửa Thị Nại, bạn không thể không ngước mắt chiêm ngưỡng tượng đài Đức Thánh Trần và ngọn hải đăng Phước Mai. Hải đăng này được người Pháp xây dựng cách đây hơn 100 năm, cao 8 m tính từ mặt đất và 52 m so với mặt nước biển; như một tín hiệu mời chào và tạm biệt tàu thuyền cùng mọi người ra vào thành phố.
    Chúng tôi ngồi trên boong ngắm trời biển và may mắn tận hưởng một ngày đẹp trời. Công nghệ đã cho những kẻ thích xê dịch một thú vui mới - chỉ cần với thông tin là một cái chấm trên bản đồ hay tọa độ của nó, là chúng tôi dùng máy GPS (hệ thống thông tin toàn cầu) để xác định hướng đi và khoảng cách đến một nơi nào đó. Cù Lao Xanh cách điểm gần bờ biển nhất khoảng 6 km, nhưng chúng tôi không khởi hành từ đó, mà xuất phát qua cửa Thị Nại nên máy cho thông tin là phải đi một quãng đường 17 km và với tốc độ đò chạy như hiện tại thì khoảng gần 2 giờ nữa là đến điểm đầu bờ Bắc của đảo. Và chúng tôi cứ mở máy để xem đò đang tiến dần về đảo còn cách bao xa như thế.
    Cù Lao Xanh đúng là xanh! Trời xanh, biển xanh và đảo cũng xanh. Tới nơi đã gần chiều, qua một chuyến đò ngang nữa chúng tôi đặt chân lên đảo. Trình giấy chứng minh ở Trạm biên phòng, chúng tôi đến một nhà dân để xin lưu lại vài ngày.

    Cù Lao Xanh có diện tích 360 ha nằm phía Đông nam TP.Quy Nhơn Sự phóng khoáng dài rộng của biển xanh và trời xanh
    Sau khi ổn định được chỗ ở, chúng tôi bắt đầu khám phá đảo. Khu dân cư được bao giữa hai dãy núi phía Tây và phía Đông. Hải đăng đứng trên một ngọn núi phía Đông là điểm đầu tiên chúng tôi muốn đến, từ chân núi đi lên đỉnh mất chừng nửa tiếng.
    Tháp đèn có dạng hình trụ tròn, chiều cao từ mặt đất đến tâm đèn là 17 m và từ mặt biển đến tâm là 118 m. Người đi biển dựa vào tín hiệu đèn của các ngọn hải đăng để định hướng hành trình và xác định vị trí của tàu thuyền. Ngày nay, chúng ta có thêm một công nghệ hỗ trợ tốt hơn, đó là hệ thống định vị toàn cầu. Nói theo tọa độ của máy GPS là chúng tôi đã đến được vị trí 323276E/1505075N - tọa độ ngọn hải đăng.
    Cạnh ngọn hải đăng là nhà làm việc hai tầng, thật không thể tin được có một tòa nhà đẹp đến thế được xây dựng cách đây hơn 100 năm tọa lạc ở đây. Từ đây nhìn được toàn bộ khu vực đảo và chiêm ngưỡng được toàn cảnh biển bao la phía xa, trong lòng chợt phóng khoáng như một câu thơ: ?oMuốn nhìn xa nghìn dặm, lên nữa một tầng lầu?.
    Men xuống theo hướng Tây Bắc của ngọn hải đăng là Suối Giếng Tiên. Tên suối này xuất phát từ một tương truyền rằng, xưa kia vào những đêm trăng sáng các nàng tiên trên trời xuống đây để du ngoạn. Các nàng tiên rủ nhau cởi xiêm áo, tắm mát và vui đùa rồi mới bay trở về trời. Có dịp tới đây, bạn nên một lần tắm "tiên", cảm được cái mằn mặn của biển và cái ngòn ngọt của nước suối!
    Chiều về chúng tôi ngắm hoàng hôn trên cầu cảng. Người dân đảo chân chất. Nhiều gia đình ngồi nói chuyện và vá lưới ngay trên bãi Nam. Mấy em nhỏ hồn nhiên tắm, Những chiếc thuyền dập dềnh bên một buổi chiều bình yên.

    Bờ kè chắn sóng - Ngư dân vá lưới khi chiều về
    Bãi Nam, một bãi cát nhỏ rùa thường lên đào ổ đẻ trứng
    Đêm đến, chúng tôi ngồi nhâm nhi mấy chai bia và trò chuyện bên bờ kè, ngọn hải đăng phóng những tia sáng đều đều ba ngắn, một dài.. và buồn buồn như cuộc sống biển đảo về đêm.
    Ngày hôm sau, chúng tôi khám phá bờ Bắc của đảo. Một con đường xi măng dài chừng 3 km dẫn bạn vào một khung cảnh hoang vắng.

    Một cù lao ngát xanh!
    Bước chân qua khóm dứa, chùm hoa dại trên đường. Ngắm nhìn những hòn đá đủ hình thù, rồi dõi mắt theo những đôi chân nhảy nhót của chim biển? bạn sẽ thực sự tan biến vào thiên nhiên tươi đẹp.
    Anh Minh - một người dân địa phương chỉ về một bãi cát và cho biết: ?oMới năm ngoái có con rùa dài hơn một mét, lên đây đẻ. Tui lượm được gần 200 trứng, trứng nhỏ như quả bóng bàn..?. Tôi bảo anh, rùa biển ở Quy Nhơn mình đang có nguy cơ tuyệt chủng, chúng ta cần bảo vệ và không nên thu lượm trứng. Tôi hẹn anh và mong có một dịp nào đó sẽ ra đảo coi rùa nở, xem một bầy 200 rùa con bò xỏa trên bờ cát về với biển, nếu mỗi chúng ta có ý thức bảo tồn chúng!
    Có một truyền thuyết nói rằng khi bạn nhỏ một giọt máu trên đường thì bên đường sẽ nở một bông hoa dại. Tôi đã lỡ chạm tay nhỏ một giọt máu vào lá chà là, vậy là sau khi chúng mình đi qua, có lẽ không ít hoa sẽ nở dọc con đường này.
    Khi đã mỏi chân, hãy nghỉ bên ghềnh đá. Nhớ đem theo cần để thả câu kiếm cá, lội nước bắt một ít ốc vú nàng. Kiếm củi rừng, nướng ngay tại chỗ? bạn sẽ cảm nhận được những giây phút thật sảng khoái bên bạn bè.
    Bạn có nghe biển hát khúc yêu đương?
    Đi là để yêu, yêu con người, yêu quê hương và yêu chính cả bản thân mình nữa. Và không biết từ bao giờ Cù Lao Xanh đã trở thành một nơi mà những kẻ ?ogiang hồ vặt?o đất Bình Định ước ao một lần đặt chân đến trong đời! Thế ấy, trời xanh, biển xanh và một cù lao xanh mãi trong tôi./
    Trích: http://khachuan.multiply.com/journal
    Không biết cái tên ?oCù lao xanh? có tự bao giờ, chỉ biết rằng trên bản đồ địa chính quốc gia nó nhỏ hơn một hạt đậu xanh nổi trên mặt biển, cách Thành phố Quy Nhơn- tỉnh Bình Định chừng 13 hải lý về phía Đông Nam - Cù lao xanh là một trong 4 xã đảo và bán đảo của Thành phố Quy Nhơn, có tên hành chính là xã Nhơn Châu.
    Từ khi người Pháp xác lập nền thống trị thực dân trên toàn xứ Trung kỳ, Cù lao xanh được chọn là nơi đặt ngọn hải đăng đồ sộ nhất khu vực Miền Trung. Hơn 150 năm qua, Cù lao xanh vẫn là người bạn thuỷ chung của những đoàn thuyền đánh cá từ mọi miền đất nước qua đây. Ánh sáng từ ngọn hải đăng Cù lao xanh là niềm tin và hy vọng của bao ngư dân trong đêm bão biển.
    Vậy mà?dưới chân ngọn hải đăng sáng loà ấy, cuộc sống tối tăm, nghèo khó đã diễn ra suốt một thời gian dai dẳng: cái đói, cái nghèo cứ đeo bám mãi người dân Cù lao xanh mặc dù đã hơn 30 năm sau ngày giải phóng. Anh Lê Nguyên Đại ?" Phó Chủ tịch xã cho chúng tôi biết: ?oNếu không có mở cửa, không có kinh tế thị trường thì 3.000 dân Cù lao xanh này còn xin cứu đói dài dài?. Thực vậy, đã từ lâu, kinh tế của Cù lao xanh là kinh tế ?otự cấp, tự túc? của một đảo nhỏ, chưa đủ sức gượng nổi với sức cản của thiên nhiên, của sóng to bão lớn. Từ trên núi, dưới chân ngọn hải đăng nhìn xuống, toàn cảnh Cù lao xanh hiện ra: 4 bề là biển cả. Bãi trước là cát trắng nhìn vào đất liền, nơi đây một bộ phận dân cư sống bám vào biển với gần 450 mái nhà, vỏn vẹn chỉ có 170 phuơng tiện nghề nhỏ đánh cá ven bờ, chưa đủ ?osức ngựa? để đi khơi xa. Chính giữa cái ?olòng bàn tay? ấy là vài thửa ruộng lúa nước chưa đầy 2 ha. Có lẻ chỉ đủ cho trẻ em trên đảo biết cây lúa là cây gì, thế thôi! Còn bãi sau toàn đá là? đá ! Những tảng đá khổng lồ như những ?okhách sạn? xếp chồng lên nhau quanh năm chống chọi với gió hú và sóng gầm. Xa xa là bọt sóng và bụi nước tung lên trắng xoá một vùng trời biển mênh mông.
    Hằng năm, cứ đến mùa biển yên, gió lặng, Cù lao xanh đón gạo mua từ trong đất liền ra, còn cây mì trên rẫy, cây dừa trên bờ cát chỉ là 2 cây cứu đói ?o chiến lược? trong mùa biển động. Đặc biệt chỉ có con vịt và con heo là có mặt trên đảo nhờ có nguồn cá vụn đánh bắt được. Nhưng đến mùa gió chướng từ tháng mười đến tháng chạp thì vịt, heo cũng đói như người. Tôi đã chứng kiến cảnh buổi chiều khi hoàng hôn buông xuống, dân trên đảo, những bà mẹ trẻ ôm con, mắt nhìn thăm thẳm về phía khơi xa chờ những chiếc thuyền trở về để chia nhau từng mớ cá, tôm để cứu đói trong những ngày sóng gió.
    Một cô giáo trẻ ở Cù Lao xanh tâm sự với tôi: -?oGia đình em sống ở Cù lao xanh này 3 đời rồi mà chưa vượt được ?ocái khó 3 đời?. Em cứ mơ có một ngày được về quê chồng ở một vùng quê? đất liền nào đó?. Còn anh Lê Nguyên Đại- Phó Chủ tịch xã tâm sự một cách chân tình: -?oCánh cửa đói nghèo của Cù Lao xanh đã bị ?otung ra? từ khi xoá bỏ bao cấp, hàng hoá đã ra với Cù lao xanh nhộn nhịp hẳn lên. Nhưng ?ocái khó vẫn bó cái khôn? . Thực vậy, dân biển mà không có phương tiện lớn ra khơi là bó tay rồi! Cá , tôm, mực chung quanh bờ Cù lao xanh đã bị dân ?o tứ phương? đến vét bằng thuốc nổ, bằng đèn pha gần như cạn kiệt. Đồng vốn cho vay ?o xoá đói- giảm nghèo? đến tay người dân theo kiểu ?ochia đều, nhỏ giọt? thì làm sao sắm nổi thuyền nghề để sống được chứ chưa nói chuyện đi lộng, đi khơi đánh bắt xa bờ. Hy vọng nhà nước còn có chính sách cụ thể hơn.?.
    Còn giờ đây, sau 34 năm giải phóng, dưới mắt của lãnh đạo tỉnh Bình Định và thành phố Quy Nhơn, của các nhà kinh doanh thời mở cửa- vận hội của Cù lao xanh đã tới! Cù lao xanh tại sao không là một khu du lịch sinh thái, một cụm công nghiệp dịch vụ biển: một trạm dừng chân lý tưởng để sửa chữa tàu thuyền, cung cấp lương thực, nhiên liệu, nước ngọt, đá lạnh? cho những đoàn tàu đánh cá ra Bắc vào Nam. Kế hoạch phát triển Cù Lao xanh của lãnh đạo địa phương Bình Định sẽ không là ?oviễn tưởng??Nếu Cù lao xanh có? điện!
    Thật vậy, phương án cấp điện cho Cù lao xanh bằng nguồn Diesel đã được Công ty Điện lực 3 và Lãnh đạo tỉnh phê duyệt, kế hoạch đã trở thành phương án khả thi . Hai tổ máy Diesel: Volla công suất 125KVA/máy được tỉnh điều từ huyện trung du Hoài Ân vượt đồi núi, vượt sóng gió về với xã Nhơn Châu giữa niềm hân hoan khôn xiết của người dân xứ đảo . Chỉ trong vòng 3 tháng được sự giúp đỡ, khảo sát thiết kế của Điện lực Bình Định, tài trợ của Thành phố Quy Nhơn, Xí nghiệp điện Tuy Phước đã hoàn thành nhiệm vụ thi công lắp đặt hệ thống trạm phát, trụ, đường dây và hoàn chỉnh hệ thống điện dân dụng trên đảo. Sau điện là hệ thống cầu cảng cá, đường giao thông trên đảo, trường học, trạm y tế đã lần lượt được đầu tư. Nhưng điện đã đi trước một bước trong đội quân tiên phong xoá đói - giảm nghèo ấy.
    Tôi trở lại Cù Lao xanh sau 3 năm từ cái đêm tưng bừng đón ánh điện đầu tiên về với Nhơn Châu. Cuộc sống của bà con Cù Lao xanh đã ?ođổi đời? tuy còn bao khó khăn sóng gió phía trước đang dần được khắc phục. Một ý nghĩ lãng mạn đã loé lên: ước gì gặp lại cô giáo trẻ năm nao ở Cù lao xanh để nói rằng: ?o Em ơi, đừng mơ lấy chồng xa nữa, hãy ở lại với Cù lao xanh và hãy dạy cho học trò thân yêu của mình rằng: ?oBình minh đang lên ở hòn cù lao nhỏ này?./.
    Được tranvuhoang2005 sửa chữa / chuyển vào 19:38 ngày 30/07/2010
  2. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Chuyển sang thông tin ẩm thực:
    Những địa điểm ăn uống không nên bỏ qua tại Tp Quy Nhơn ^^
    Đầu tiên là khu ẩm thực Ngô Văn Sở ( từ trường Đh Quy Nhơn, các bạn đi dọc đường Nguyễn Huệ sẽ thấy đường Ngô Văn Sở bên tay phải ). Ở đây bán đủ các món hải sản khô : mực khô, cá khô, mực ngào, cá ngào, nem chua, chả cá, bánh tráng dừa nướng... ( he, ăn những món này thì bia là thức uống phù hợp nhất ^^).. Ngoài ra còn có những hàng ăn với đủ các món bún, phở, trứng vịt lộn và càng không thiếu những món giải khát, sinh tố, chè...Tất nhiên giá cả của nó rất hợp lí với sinh viên tụi mình ( một dĩa mực khô, chả khô...chỉ khoảng 5k/1 dĩa; bún, phở thì từ 5-8k, nước trái cây, chè.. khoảng 3-5k/ly) .Ah, đặc biệt có một quán bánh xèo ở đầu đường khá ngon ( nhưng giá đắt hơn so với những nơi khác 1 chút ( 1,5k/1 cái) và vì quán hơi nhỏ nên có khi các bạn phải chờ hơi lâu )
    Tiếp theo có một khu ở cuối đường Phan Bôị Châu có món kem trộn, chả ram, bánh canh rất ngon mà giá cả rất mềm nhé ^^ ( bánh canh chả cá 4k/1tô, chả ram 700k/ 1 cây, kem 2-3k/1 dĩa). Ở chỗ này, chỉ có bánh canh chả cá, loại này do người nhà tự làm, mùi vị khác so với loại chả cá thường bán ngoài chợ, rất thơm và ngon. Và tất nhiên ở quán bánh canh này cũng có một đặc điểm là quán tự phục vụ và thường rất đôg khách nên việc chờ đợi là không thể tránh khỏi, nên lúc đến các bạn phải tự đến lấy nhé, không thì chờ đến Tết Công Gô cũng không có mà thưởng thức đâu
    Địa điểm thứ 3 tớ muốn giới thiệu là quán chè 334 Ngô Mây mà thường thì mọi người thường gọi là quán chè Nhớ. Ở đây có 3 món là ****tail, chè đậu và Sinh tố trái cây, giá từ 5-7k. tuy hơi đắt một so với các quán khác nhưng đảm bảo thưởng thức rồi các bạn sẽ nhớ mãi tên của quán đấy. Đến quán này, tớ ít khi ăn chè mà thường ăn sinh tố trái cây và có sở thích nếm những thứ trong đó và đoán xem nó là loại trái cây nào vì người ta cho vào ly rất nhiều loại trái cây nhé, đặc biệt là không chỉ cho thêm sữa mà chủ quán còn luôn sẵn kem Sầu riêng, tạo nên hương vị rất đặc trưng
    Địa điểm cuối cùng tớ muốn mọi người ghé là một quán bánh mì Lagu rất ngon trên đường Nguyễn Huệ, có điều quán này không hề có địa chỉ hay bảng hiệu cụ thể, nó nằm trong hẻm nữa nên phải có người đưa đi ( có gì có thể liên hệ với tớ nhá ) nhưng đảm bảo là rất ngon. Lúc trước tớ đi giá là 12k/1 tô nhưng giờ thì bao nhiêu tớ không rõ lắm
    Ngoài ra có một đường là Mai Xuân Thưởng có rất nhiều món ăn vặt nhá : gỏi , ô mai, xí muộI đủ loại rất phù hợp với các bạn nữ nhé ^^
    Có các món ăn đặc sản như sau :
    * Hải sản rất rẻ mà ngon
    * Thịt rừng rất tươi ngon, bổ giá cả phải chăng ( chồn , cheo, Heo rừng, Nhím, Baba, rắn...)
    * Thịt gà chỉ (hấp, nướng, nấu cháo...) ngon rẻ và rất nổi tiếng
    * Có rượu Bầu Đá nổi tiếng từ xưa đến nay
    * Nem chua chợ Huyện
    * Bánh tráng nước dừa
    * Bún chả cá nổi tiếng
    * Bún Sứa rất rẻ và Ngon
    Nhà hàng giá cả hợp lý mà món ăn rất ngon
    - Đường Trần Độc có rất nhiều quán Hải sản ngon, rẻ và nổi tiếng như quán 2000,Quán Hải, Quán Đông và quán Thuyền Hoa Hoa đường Phan Chu Trinh, quán này được ăn và ngồi trên thuyền ngắm trăng sao, đặc biệt có món lẫu sứa, giá khoảng 60.000đ....
    - Thịt rừng có quán 3 cây xoài đường Hùng Vương với nhiều thú rừng còn sống, quý khách muốn ăn con nào bắt , làm thịt tại chỗ, nên thịt rất tươi và ngon rẻ. Quán Sáu câu cá với món thịt ba ba ngon tuyệt cú mèo giá rẻ không chê được...
    - Gà chỉ có quán nổi tiếng nhất là Quán Hữu Lai, Đường Sơn Quán, Vườn Đào, Vườn Xoài, Thuỷ Sơn Trang (đường Quy Nhơn - sông Cầu)
    - Rượu Bầu Đá ở Thị trấn Đập Đá
    - Nem chợ Huyện ở Ngã tư Cầu Ba Gi - Thị trấn Bình Định
    - Bánh Tráng nước Dừa ở thị trấn Tam Quan
    - Bún chả cá, bún sứa nổi tiếng có quán Vân ( Nguyền Huệ), Quán Vân( Lê Hòng Phong)
    Bánh tráng nước dừa

    Cây dừa là sản phẩm được thiên nhiên ưu đãi cho Bình Định. Tinh túy của dừa là phần dầu ổn tàng trong cơm dừa. Ngoài việc lấy dầu, người địa phương còn dùng để làm bánh tráng nước dừa. Đây là đặc sản của cánh Bắc Bình Định. Từ Tam Quan đến Phù Mỹ dọc theo quốc lộ 1 đều có bán nhan nhản.
    Chiều xuống họ thu bánh chồng lên nhau và dùng gỗ nặng đè lên trên cho bánh phẳng, cứ mười hai cái, lấy dây chuối cột lại và đem đi tiêu thụ. Bánh hình tròn rất đẹp, mười bánh cũng dày chỉ hai phân.
    Có lẽ chỉ có bánh tráng nước dừa là mang nhiều sắc thái Bình Định nhất - nó mang tính đạm bạc, thơm ngon và hiếu khách.
    Mắm ruột cá ngừ Quy Nhơn
    Mắm có vị đậm, thơm, ngọt vừa giống vừa khác với hương vị của mắm cái chính hiệu, chan, ăn với cơm nóng, bún, bánh hỏi, bánh cuốn rất ngon. Đây là đặc sản của vùng Quy Nhơn.
    Cách làm mắm ruột cá ngừ cũng khá đơn giản. Quan trọng là người làm mắm phải mua, chọn cá cho thật tươi. Cá càng tươi, càng to thì mắm càng ngon, càng lắng đọng nhiều dư vị. Đương nhiên, khối lượng ruột cá mỗi lần dầm mắm chí ít cũng phải được 1 kg trở lên.
    Nước mắm này có vị đậm, thơm, ngọt vừa giống vừa khác với hương vị của mắm cái chính hiệu. Dùng chan, ăn với cơm nóng, bún, bánh hỏi, bánh cuốn thì ngon miệng phải biết. Mắm ruột cá ngừ có nét giống như những món muối chua là không thể giữ được lâu phải ăn hết, không cho phép để thừa.
    Nem chợ Huyện

    Nhiều nơi có nem, nhưng theo tôi ngon nhất vẫn là NEM CHỢ HUYỆN (Phước Lộc - Tuy Phước - Bình Định). Đến một trong những quán nem của nhà họ Trần ở Phước Lộc, không cần nói gì cô hàng đã dọn lên vài chục nem chua gói bằng lá chuối, cột bằng dây chuối vuông vức xâu từng chục một. Lột bỏ hai cuộn lá chuối bên ngoài, rồi đến lớp lá ổi bên trong, ruột nem hồng hồng hiện ra xinh xắn đã thấy nước miếng tứa ra chân răng. Cầm chiếc nem chấm vào chén xì dầu, cắn một miếng cùng một tép tỏi tận hưởng cái cảm giác giòn giòn, vừa thơm, vừa nồng. Ai thích cay thì cắn thêm lát ớt, càng thêm nồng nàn.
    Nem Chợ Huyện không chỉ được ưa thích đối với người dân Bình Định mà còn là món khoái khẩu của dân tứ xứ, thậm chí còn "vượt biên" đến Tây, Tàu nữa. Một chủ quán ở Phước Long cho chúng tôi biết mấy cái Tết vừa qua Việt kiều về thăm quê đặt làm hàng ngàn chiếc mạng đi. Nem chua để sẵn, khách đến mang ra lột nhấm nháp thật không gì tiện và thú vị bằng
  3. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Bánh Xèo bà Năm Tuy Phước

    Bạn có hình dung bánh xèo quán Bà Năm ngon thế nào không ? Thế này: cái buổi sáng tôi vào quán, có hai cô gái đẹp đang ăn bánh xèo. Hai cô ăn chăm chú đến nỗi?quên mất mình đang đẹp, và có thể có những người ngắm mình. Đạt tới độ ?oquên mình? như thế ở những cô gái đẹp là điều rất lạ lùng, phải không ạ ? Hai cô chẳng để ý tới ai cả, kể cả những người đang nhìn ngắm mình một cách đầy ngưỡng mộ. Hai cô cứ tập trung hết tinh thần vào đĩa bánh xèo, cứ như lúc ấy trên đời không có gì đáng quan tâm hơn. Hai mỹ nhân này quả đã đạt đạo?bánh xèo! Nhưng chả phải bánh xèo ở đâu cũng có được sức hút kỳ lạ như thế. Mà phải là bánh xèo thuộc Bình Định tỉnh, Tuy Phước huyện, Phước Sơn xã, Mỹ Cang xứ , và?bà-Năm-quán kia. Dù không phải đệ tử ?ođặc chủng? của món bánh mà chỉ cái tên vang lên đã nghe?khoái khẩu này (chả thế mà ngoài Huế người ta gọi bánh xèo là bánh?khoái, hẳn là để chỉ cái ?ohậu quả trực tiếp? mà món bánh mang lại cho người ăn, hơn là biểu đạt cái âm thanh tự nhiên đến hoang dại khi người ta chế biến món bánh ấy), nhưng tôi tự kiểm lại, từ nhỏ tới giờ chưa bao giờ và ở đâu khi có người nhã ý mời tôi ăn bánh xèo mà tôi lại từ chối. Ngày trước ở quê tôi, bánh xèo không phải là món ăn bán ở quán. Nó là món bánh mang tính lễ hội ở từng gia đình, như kiểu người Mỹ ăn món gà Tây ở Lễ Tạ ơn ( Thanksgiving) hàng năm vậy. Vì bánh xèo cũng được ?ođúc? hay ?ođổ? vào dịp cúng Cơm mới rằm tháng Mười. ?oRằm tháng Bảy kẻ quảy người không, rằm tháng Mười mười nhà mười quảy?- ?oquảy? là từ ghép của ?ocúng quảy?, nhưng ở ý nghĩa độc lập nó mang tính lễ hội hơn là từ ?~cúng?. Vậy đấy, cứ vào dịp rằm tháng Mười, ở quê tôi mùa mưa bão cũng sắp mãn (Ông tha Bà không tha là 23 tháng Mười), những cơn mưa rai rắc chỉ làm ấm thêm không khí gia đình sau vụ thu hoạch và khiến người làng chợt lâng lâng một cảm giác thèm?mùi thơm và tiếng kêu reo vui trên bếp của?bánh xèo. Vậy là huy động vào bếp cả gia đình, chị xay bột bằng chiếc cối đá truyền thống (con cá đối nằm trên cối đá), mẹ chuẩn bị khuôn đúc bánh, em chọn vào bếp những thanh củi khô nỏ, còn cha lúi húi với chiếc vó ngoài con sông nhỏ trước nhà, cong người cất lên những mẻ?không khí nằng nặng một sớm đầu đông với hy vọng bên trong lòng vó sẽ hiện roi rói những con tép nhỏ. Cái giống tép sông chưa lớn bằng đầu đũa mà búng tanh tách, thân mình trong mọng ngon mắt đến nỗi người ta đã thèm ăn ngay lúc chúng còn tươi sống. Nhưng bát tép sông ấy không phải để ăn gỏi hay rang mặn, chúng được đặc cách dành cho món bánh xèo chủ lực. Người ta có thể dùng rất nhiều thứ thực phẩm khác nhau để làm nhân bánh xèo, từ thịt heo tới thịt bò, từ tôm?xuất khẩu tới giò lụa, nhưng tôi có thể nói chắc, không thứ thực phẩm nào làm nhân bánh xèo ngon cho bằng những con tép sông nho nhỏ. Điều này, bà Năm chủ quán bánh xèo ở Tuy Phước đã chứng nhận dùm tôi.

    Tôm sông giá sống
    Quán( cũng là nhà) bà Năm chỉ có hai khẩu : hai mẹ con. Mẹ đã ngót 75 tuổi, con trai ngót 40 tuổi, ở vậy chăm và phụ mẹ đúc bánh xèo. Bà Năm kể : cứ gà gáy là tôi thức dậy, gạo đã ngâm sẵn, cứ thế cho từ từ vào chiếc cối đá và quay tay. Tôi hỏi, sao bác không xay bột bằng máy cho tiện, bà Năm cười : Bột bánh xèo chỉ thiệt ngon, nghĩa là mềm, dẻo vừa độ, quyện mà không dính bết khi được xay bằng cối đá. Còn xay máy, tuy nhanh và khoẻ, nhưng bột không đạt, bánh không ngon, khách không thích. Ra vậy ! Đâu phải cái gì nhanh cũng tốt, và cái gì làm bằng máy móc cũng hay. Có lẽ một nghìn năm nữa, cho tới khi món bánh xèo chưa?tuyệt diệt trên trái đất, thì cách duy nhất để có bột đúc bánh đạt tiêu chuẩn vẫn là xay bột bằng chiếc cối đá quay tay thời tiền sử. Tôi hỏi anh con trai : ?o Con trai không dậy xay bột giúp mẹ à ? ? Bà Năm cười đỡ lời : ?o Tôi già rồi, ít ngủ. Buổi sáng sớm, xay bột xong, cháu nó chở xe máy đưa tôi ra chợ Gò Bồi chọn mua tôm sông và giá sống, rau thơm. Khi tôi vào bếp đổ bánh thì cháu đi uống cà phê. Tôi đổ xong một hiệp (như bóng đá) thì cháu về đổ giúp tôi hiệp hai (cầu thủ dự bị vào sân)?. Nghe vừa thú vị vừa thương quá là tình cảnh hai mẹ con bà chủ quán bánh xèo. Hỏi anh con trai, sao không chịu lấy vợ cho mẹ nhờ, có cháu bế, anh cười lỏn lẻn : ?o Nhà nghèo, người ta chơ (chê)?. Trời ơi, có cô gái nào dám chơ (chê) anh con trai hiếu thảo như thế này, bà mẹ chồng lam làm như thế này, và những đĩa bánh xèo thơm phưng phức như thế này cơ chứ! Khi đĩa bánh xèo được bưng lên, tôi thấy hình những con tôm sông đỏ màu hồng ngọc nổi bật giữa chiếc bánh có độ lớn vừa phải. Bánh khoái ở Huế nhỏ nhít hơn, còn bánh xèo ?oquảy rằm tháng Mười? ở quê tôi thì ?ohoành tráng? hơn về diện tích khuôn đúc nên chiếc bánh to hơn, ăn vài chiếc là?oải. Tôi có chú em thỉnh thoảng nhà đúc bánh xèo mời tôi, chú này tính hay ?osáng tác? nên có nhiều kiểu làm bột bánh xèo mới lạ. Chẳng hạn, chú xay nguyên cả con vịt để trộn với bột bánh, rồi lấy nước luộc thịt vịt nhào bột. Chỉ riêng món bột bánh thì chú vẫn xay bằng?máy, cho tiện, vì thế bánh xèo của chú tuy ?ođạm bạc?( tức là nhiều ?ođạm? và ?obộn tiền?) nhưng lại không mấy ngon. Ăn chiếc bánh xèo vừa miệng của quán Bà Năm mà cảm phục sự thật thà của người làm bánh. Một chiếc bánh xèo ?ochất lượng? nó là kết quả của bao công phu lao động và chăm chút. Bà Năm nói : ?o Lựa tôm sông ngay tại chợ Gò Bồi mới bảo đảm mười con đều tăm tắp cả mười, không con nào chết, không con nào nhỏ quá hay lớn quá. Nếu mình để họ bỏ mối tại nhà, thì họ đưa tôm thế nào mình cũng phải lấy?. Rồi từng mớ rau thơm, từng rổ cải cay loại mới mọc bốn lá mầm, rồi giá sống đúng điệu, rồi?tất cả hỗ trợ cho đĩa bánh xèo ?otiêu chuẩn?. Nước chấm cũng được pha vừa miệng, không ngọt và không chua quá. Hoá ra, để có một đĩa bánh xèo ?oăn một lần nhớ mãi?, bà Năm chủ quán đã ?ođầu tư? vào đó không ít tâm sức. Vì thế, mỗi sáng, bà chỉ đúc chưa tới 100 chiếc bánh, và chỉ bán gọn trong vòng ba tiếng đồng hồ. Khách của quán bà Năm cũng đủ ?o5 thành phần kinh tế?, có khách đi xe Toyota hay thậm chí cả Mercedes từ thành phố tới thưởng thức, có khách đi Honda vượt vài ba chục cây số ngàn để ăn một đĩa bánh xèo. So tiền xăng xe và tiền ?ocông đi ăn? có khi nhiều gấp mấy tiền bánh. Và cũng có không ít khách là người làng, là bà con trong xóm. Tất cả đều bình đẳng trong ngôi nhà nhỏ mái lợp tranh của bà Năm. Và tất cả đều được phục vụ ân cần như nhau. Nhưng khi trả tiền, thì có khác. Người đi ô tô hay xe ôm tới ăn, phải trả 7 nghìn đồng cho một chiếc bánh xèo. Người trong làng trong xóm đi bộ hay xe đạp tới ăn chỉ phải trả 5 nghìn đồng/bánh. Hỏi sao có sự ?ophân biệt? giữa ?ohai thành phần ăn bánh xèo? như thế, bà Năm giải thích : Khách xa phần lớn họ là những người có tiền, muốn thưởng thức bánh của quán như một đặc sản. Nên họ có thể trả khá hơn một chút. Còn bà con trong xóm trong làng vì mến quán mà tới ăn bánh, họ cũng ít tiền, nên chỉ lấy họ giá vốn, có lời chút chút. Xem ra, ?ochính sách hai giá? của quán bà Năm quá hợp lý mà cũng rất nghĩa tình. Người kinh doanh như thế, có thể lấy vui làm chính, lấy công việc làm vui, chứ không quá tính toán đến lợi nhuận. Bây giờ Việt Nam vào WTO rồi, liệu cách kinh doanh dựa trên nghĩa tình như thế có cạnh tranh được với những ?ođại gia? coi lợi nhuận là ?oThượng đế? ? Tôi nghĩ là được. Có khi còn ?ongon? như ăn bánh xèo nữa kia.
    Giữa Tháp Chàm và Thơ
    Nem nép bên con đường huyện lộ, quán bánh xèo bà Năm không ngờ lại là điểm giữa của hai đặc sản văn hoá Bình Định : đó là Tháp Chàm Bình Lâm và ngôi nhà tuổi ấu thơ của thi sĩ Xuân Diệu ở ngay vạn Gò Bồi - nay là ?oNhà bảo tàng Xuân Diệu?. Về Tháp Chàm Bình Lâm, thì có thể nói vắn tắt : đây là ngọn Tháp có mặt sớm nhất ở vùng Kinh đô Đồ Bàn xưa. Nó tiêu biểu cho một phong cách nghệ thuật thuần Champa khoảng đầu thế kỷ thứ X. Tháp Bình Lâm nay đang có nguy cơ thành phế tích, và rất cần được tu tạo để vẻ đẹp hút hồn của nó tiếp tục tồn tại cùng với?bánh xèo. Nhân nói về Tháp Chàm và bánh xèo, chắc ít ai ngờ, chúng lại có mối giao duyên từ xửa xưa. Vì đơn giản, Tháp Chàm là của người Chăm, và bánh xèo cũng là món ăn của người Chăm. Chưa có nhà khảo cổ nào nói được giữa bánh xèo và Tháp Chàm cái nào có trước, nhưng theo tôi, thì bánh xèo phải có trước. ?oCó thực?bánh xèo mới vực được (xây được)?Tháp Chàm?, đúng không ạ ? Người nghệ sĩ Chăm xưa mỗi sáng, trước khi bắt tay vào công trình tạo tác một kiệt tác tầm nhân loại như thế này, chắc phải điểm tâm vài chiếc?bánh xèo cho ấm bụng và thơm miệng, uống một tô nước chè xanh đặc ?ocắm tăm? cho sảng khoái và tăng cảm hứng, như ông cha chúng tôi vẫn uống trước khi xuống ruộng đi cày. Ăn bánh xèo thì phải uống chè xanh nó mới quyện, mới quánh, mới đã ! Bây giờ khách xa ?ogặp lúc mùa xuân chín?, tới quán bánh xèo bà Năm thưởng thức món đặc sản Chăm, sau đó phải tính, đi thăm Tháp Chàm Bình Lâm, hay đến viếng nơi sinh của ?oĐệ nhất thi sĩ thơ tình? Xuân Diệu trước. Chắc là đi viếng Tháp Chàm trước. Còn vạn Gò Bồi - ?oquê hương của thơ tình và?nước mắm?- sẽ được thăm sau. Hai nơi này đều cách quán bánh xèo bà Năm khoảng một cây số. Nghe nói, ngót 600 năm trước, đô đốc Trịnh Hoà thời nhà Minh đã từng dong thuyền buồm vào vạn Gò Bồi trong chuyến du khảo dài ngày của ông. Chẳng biết lúc bấy giờ, nhà hàng hải Trung Hoa này có được thưởng thức món bánh xèo ? Hồi ấy, bên sông Gò Bồi trên bến dưới thuyền tấp nập chắc không thiếu những tửu quán. Và trong tửu quán cũng chắc không thiếu món bánh xèo. Trịnh Hoà tướng quân - một nhà thám hiểm - làm sao có thể bỏ qua món ăn tuyệt vời này của người Chăm. 600 năm sau, khi Xuân Diệu vừa qua đời, quán bánh xèo ?othời Đổi Mới? của bà Năm được khai trương. Hỏi bà, sao mãi tới năm 1986 mới mở quán, bà Năm nói tới năm ấy việc làm ăn buôn bán mới ?ođược nới?. Thật tiếc cho anh Xuân Diệu, năm 1985 chúng tôi đi cùng anh về Tuy Phước, đã không ít lần anh nhắc đến món bánh xèo nhân tôm sông quê mình, nhưng chúng tôi không biết kiếm đâu ra một đĩa bánh xèo ?ođúng kiểu? để đãi anh. Nghĩ lại mà buồn ! Nhà thơ của chúng ta, mỗi ngày đi nói chuyện thơ vài ba lần phục vụ bà con quê nhà, đêm ?o ngủ ở Tuy Phước là để mà không ngủ? , giá lúc ấy có vài chiếc bánh xèo quán bà Năm như bây giờ để Ông ăn lấy thảo, thì hạnh phúc biết bao nhiêu ! Hạnh phúc nhiều khi chỉ giản đơn như vậy, mà cũng khó có được như vậy. Hôm rồi vào Qui Nhơn dự một hội thảo về Tháp Chàm, buổi sáng hôm sau lại được về Phước Sơn ăn bánh xèo quán bà Năm, rồi ghé vạn Gò Bồi để nhớ Xuân Diệu, trong tôi chợt dào lên một nỗi niềm xa lăng lắc nào. Năm nay, kỷ niệm 90 năm ngày sinh Xuân Diệu, liệu Bình Định ngoài một cuộc hội thảo về thơ Xuân Diệu, có tổ chức được một ?otiệc bánh xèo? hoành tráng để anh chị em văn nghệ cả nước có dịp thưởng thức một món ăn dân dã mà sinh thời Xuân Diệu rất thèm. Nhân đây cũng xin nói, mỗi khi nhìn mái tóc quăn bềnh bồng tự nhiên của ?oÔng Vua thơ tình Việt Nam?, tôi cứ nghĩ, hình như Xuân Diệu có gốc gác Chăm, ít ra là từ bên mẹ. Nhiều lúc, thấy Ông ngồi lặng im như một Tháp Chàm cô đơn. Thơ, nhà thơ với Tháp Chàm đúng là ?ohọ hàng? với nhau. Và ở giữa những ?oquan hệ họ hàng? ấy, chợt tỉnh người khi nghe ?oxèo? lên một tiếng, như tiếng reo con mừng mẹ đi chợ về ! Ngôn ngữ của bánh xèo đấy. Ngôn ngữ của Tháp Chàm đấy ! Và ngôn ngữ Thơ đấy !
    ?oCẩn thận đừng vội nuốt - Chợt no, dễ khốn người?
    Tôi phải dùng hai câu thơ Cao Bá Quát để làm giảm bớt ?otốc độ? ăn bánh xèo của nhà nghiên cứu Tuồng Vũ Ngọc Liễn. Chả gì thì năm nay ông cũng đã?83 xuân ! Biết khoẻ là mừng, nhưng cẩn thận vẫn hơn ! Ngồi cùng chúng tôi ở quán bà Năm vào một sáng đẹp trời, nhà nghiên cứu nghệ thuật Tuồng đã ?oxơi nhanh? một lúc 3 cái bánh xèo. Và còn muốn xơi tiếp. Thực ra thì tôi cũng rất thông cảm với lão nhà nho ?oNôm sâu Hán rộng? Vũ Ngọc Liễn. Chính tôi cũng phải dùng hai câu thơ Cao Chu Thần để tự?ngăn mình, đừng ăn vội quá ! Duyên do cũng chỉ vì bánh xèo quán bà Năm ngon không chịu nổi, chặng đặng đừng ! Có thể nói, mỗi chiếc bánh xèo quán bà Năm là một tác phẩm nghệ thuật. Lẽ ra, thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật thì thường phải thong thả, từ tốn. Nhưng vì đây là ?otác phẩm đặc biệt? nên người thưởng thức nhiều khi?quên, nhiều khi vồ vập hơi?quá nhanh. Chợt nghĩ, liệu những quán bánh xèo như thế này có thể ?onhân rộng điển hình? như kiểu ?oPhở 24? không nhỉ ? Và có thể ?onhượng quyền thương mại? không nhỉ ? Chắc là khó đấy ! Bởi không phải người chủ quán nào cũng tâm huyết với tác phẩm của mình như bà cụ đã 75 tuổi này. Và nếu trong nghệ thuật luôn tồn tại sự độc bản, thì nhiều khi ta cũng phải thở dài mà tiếc cho nhiều món ăn ngon của quê mình đã và đang lặng lẽ chìm theo thời gian vì không có ?ochân truyền?. Khi bà Năm đã ?ohai năm mươi?, liệu anh con trai bà có thể duy trì quán bánh xèo độc bản này ? Và nếu anh lấy vợ, liệu vợ anh có tiếp thụ được một phần nào chất nhân văn và nghệ thuật đúc bánh xèo của mẹ chồng mình ? Vẫn là ?onhững câu hỏi lớn chưa lời đáp?, phỏng theo một câu thơ Huy Cận.
  4. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Bún song thằng An Thái
    Song thần là tên gọi xuất phát từ "song thằng" có nghĩa là dây bún đôi, thường kéo ra một lần hai sợi, lâu ngày đọc trại thành "song thần". Riêng loại bún duỗi hình số 8 cũng là loại bún song thần nhưng đã biến thể chỉ còn có một sợi mà thôi.
    Người Bình Định có câu:
    Nón ngựa Gò Găng
    Bún song thần An Thái
    Lụa đậu tư Nhơn Ngãi
    Xoài tượng chín Hưng Long

    Những ai về thăm Bình Định, quê hương của bún song thần mà không nhớ mua một ít đem về làm quà cho người thân thì là điều thiếu sót vô cùng. Những tấm bún vuông vức hay cuộn lại thành hình số tám gói lại cẩn thận được bày bán lẫn lộn với loại bún thường làm bằng bột mỳ tại các phố chợ.
    Bún song thần đem về nấu canh với tôm, cua hay thịt nạc thì ngon tuyệt. Nước canh ngọt và bổ. Tuy nhiên, nấu canh thì nên dùng loại bún duỗi có dạng hình số 8 ngon hơn vì sợ nó thẳng và rời. Bún song thần đem xào thịt càng thơm ngon, và nếu phải để lâu, sợi bún vẫn dai và dời, chẳng hề đóng cục như loại bún thường.
    Theo khẩu truyền bún này có từ thế kỷ 18, nghĩa là lúc người Hoa đến thị trấn An Thái, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định sinh cơ lập nghiệp và phát triển nghề làm bột đậu xanh và nghề làm bún. Dưới thời phong kiến, các quan địa phương lai kinh đều mang theo bún song thần là đặc sản của Bình Định về triều để tiến vua ngự thiện. Vì sản xuất có hạn, nên nó quý và hiếm. Trong thời kỳ chiến tranh, bún song thần An Thái có mai một đi một thời gian dài nhưng ngày nay đã phục hồi trở lại.
    Bún song thần làm bằng bột đậu xanh, đậu trắng hay đậu đen, nhưng làm bằng bột đậu xanh là có giá trị hơn cả.
    Đậu đem phơi nắng cho thật khô rồi ngâm nước lạnh cho nở đều mới xay. Việc xay bột là cả một nghệ thuật. Lúc xay phải tốn rất nhiều nước để cho bột lắng qua nhiều đợt, vì vậy phải dùng đến nước sông mới xuể. Trên các bãi cát ven sông Côn, những trại xay bột mọc lên khắp nơi. Nước dùng để lắng bột phải là loại nước trong và mát. Nhiều người thường bảo, chỉ có dùng nước sông Côn mới xay được bột tốt, nhất là nước lấy ở đoạn sông chảy qua thị trấn An Thái. Có lẽ đoạn sông này, lòng sông toàn cát sạch không lẫn bùn dơ chăng? Chẳng thế mà ở đây có câu ca:
    Nước trong thời bột mới trong Đậu xanh vẫn đục tại lòng anh đen!
    Những cối xay bột làm việc liên tục suốt cả đêm vì ban đêm nước sông mát mẻ, bột không bị sình.
    Bột xay xong, được lọc qua nhiều lần và phân thành loại bột nhất, bột nhì. Tinh bột được mang đi phơi thật khô trước khi đem làm bún.
    Thông thường 1,2 kg bột đậu sẽ làm được 1kg bún. Bún có hai loại: bún tạ hình vuông, mỗi bề dài độ ba tấc tây và sợi bún được kéo đôi, còn bún duỗi chỉ kéo ra sợi chiều dài đến vài chục mét cuốn lại thành hình số 8.
    Để làm bún, trước tiên người thợ nhào bột cho đều với nước lạnh. Cái khó là nhào bột thế nào cho vừa, không khô mà cũng không nhão quá. Xong, người ta cho bột vào một cái rá thiếc có đục thủng nhiều lỗ nhỏ li ti, vừa nặn bột, vừa rê đều trên mặt chảo nước sôi. Đợi cho bún chín mới dùng chiếc rá nhẵn vớt bún ra bỏ vào một chảo gang khá chứa nước lạnh cho bún nguội dần và nở đều. Bây giờ mới đem bún rải lên tấm vỉ tre có chiều dài từ ba đến bốn mét và rộng độ năm tấc tây đem đi phơi nắng cho khô. Đặc biệt sợi bún không bao giờ dính tay hay dính vào tấm vỉ như loại bún thường. Khi bún đã khô không nên gỡ liền mà phải đợi qua đêm để cho bún dịu rồi mới lấy ra xếp thành từng kiện; riêng loại bún duỗi thì đem xếp lại thàng từng bó.
    Ngày nay, bún song thần An Thái được chở đi bán khắp nơi trong nước.
    Bánh hỏi:
    Được làm từ bột gạo, là món ăn đặc thù của Bình Định. Bánh hỏi thường được ăn kèm với thịt heo, bánh tráng và các loại rau thơm, nước mắm, tạo thành món ăn mang đầy đủ hương vị chua, cay, ngọt, béo, thơm ngon vô cùng đặc trưng, hấp dẫn.
    Rượu Bàu Đá:
    Là loại rượu nổi tiếng của Bình Định, được chưng cất ở vùng An Nhơn, hương vị thơm ngon đặc thù, sánh ngang với nhiều loại rượu nổi tiếng trong cả nước như rượu làng Vân ở miền Bắc, rượu Gò Đen ở miền Nam?
    Thủy, hải đặc sản
    - Chình: Có nhiều loại chình như chình mun và chình bông, thịt ngon và bổ. Đặc biệt là loại chình mun ở đầm Châu Trúc ?" Huyện Phù Mỹ nổi tiếng thơm, ngon và có giá trị bổ dưỡng rất cao.
    Các loại tôm, cua, mực, cá: Như tôm ùm, tôm sú, cua huỳnh đế, mực ống, cá chua, cá ngừ đại dương? được chế biến thành những món ăn hấp dẫn có giá trị dinh dưỡng cao phù hợp với khẩu vị mọi người.
    Cá chạch nấu lá gừng
    Một buổi trưa hè nào đó, bỗng nhớ quắt quay món cá chạch (có vùng còn gọi là cá nhét) nấu lá gừng. Có gì đâu cao xa nhưng trước hết phải có cá chạch tươi, mới vừa tát đìa lên càng tốt; cái giống này chuyên dũi dưới lớp bùn trong ao đồng nên tát bắt là thượng sách; nếu được tham gia vào ?oquy trình? tát cá thì càng thú.
    Chuyện này ở quê thì tỏ ra khá đơn giản nhưng đối với dân thị thành thì đôi khi phải tham gia vào một tour du lịch nào đó thì mới có được cảm giác làm nông dân tát đìa cá. Mùa tháng năm, tháng sáu này là dịp cá chạch đẻ nên con nào con nấy mập núng, trứng chứa chật bụng?
    Cá chạch làm món kho tộ thì đã hảo hạng nhưng lúc nóng nảy trong người hoặc cần tốc hành hơn thì nấu canh lá gừng là? mau thấy nhất. Cá chạch làm ruột sơ, rửa sạch, cho vào nồi nước lã nấu canh vừa với lượng cá-lượng người ăn, khoảng mười lăm phút là cá chín, một nắm lá gừng tươi non xắt nhỏ bỏ vào, ai ăn cay thì thêm mấy lát ớt tươi và tí tiêu bột. Nếu có nước mắm ngon nêm nếm thì cũng chả cần bột ngọt làm gì? Thế là xong một tô canh cá chạch nấu lá gừng bốc khói vang lừng!
    Một tô canh vừa ra khỏi bếp, một nồi cơm vừa chín, ăn nóng mới ngon, cho người giải nhiệt. Cái ngọt dịu dàng, ngon ngót, dai dai của cá hoà hương vị lá gừng nồng đượm trong toàn thể cuống họng, cứ thế mà chan mà húp? Cái kiểu ăn độc món này của người nhà quê xứ Trung mới hợp thời, hợp cảnh làm sao, bởi chẳng có món nào khác làm khẩu vị người ăn bị? phân tán! Chỉ vậy thôi mà ta chợt cảm khái: ?oCá ơi là cá, canh ơi là canh, cơm ơi là cơm?!?.
    Món ngon "quê võ" Tây Sơn
    Ngồi nhâm nhi ly rượu Bàu Đá, bên tô gié hay dĩa cá lúi, rồi ăn chiếc bánh cuốn kiểu ?ohai sống một chín?? là cái thú của người dân đất Võ. Những món ăn tuy đầy vẻ mộc mạc, dân dã, nhưng lại toát lên cái gai góc, đầy hào khí của một vùng ?oquê Võ?: Tây Sơn.
    Trong những món ăn trên, phổ biến nhất và bình dân nhất vẫn là gié bò. Món này xuất xứ từ đâu, đến nay vẫn còn những ý kiến khác nhau. Chỉ biết rằng, để ?obắt gié? thật ngon, cần lựa khúc ruột non còn tươi. Sau khi lấy gié ra khỏi ruột non, đổ muối, tiêu, hành và tỏi băm nhỏ vào nồi đựng gié, rồi để khoảng 10 phút cho thấm. Sau đó, xào chín gié, đổ nước dừa vào nấu sôi, vớt bọt, để nguội lấy nước trong. Để nồi gié thêm hấp dẫn, người ta cho thêm ruột non, gan bò và huyết bò vào. Một bí quyết nhỏ để khử mùi hăng của gié, tạo mùi thơm quyến rũ, là nướng sả và gừng thật thơm, rồi cho vào nồi. Sau đó, vò nát lá giang cho vào để tạo vị chua.
    Người ta vẫn kháo nhau, rằng khi nóng trong người, nên ăn tô gié để giải nhiệt, lại có lá giang tạo vị chua, kích thích vị giác. Gié phải ăn nóng mới ngon. Nhìn tô gié bốc khói nghi ngút, màu nước nâu nâu pha ánh xanh, ngửi thấy mùi cay nồng của ớt, gừng, sả, vị chua của lá giang và vị đắng của gié, hẳn không mấy ai cầm lòng đặng.
    Đến Tây Sơn, muốn ăn tô gié ngon và chất lượng, tốt nhất ta nên tìm đến Đồng Phó, vào những quán bình dân, không bảng hiệu. Những quán này có tiếng vì bán đã nhiều năm. Giá ở đây cũng bình dân. Chỉ cần 5.000 đồng là ta đã có một tô gié thật ?ođúng bài?.
    Cũng là bánh cuốn, nhưng bánh cuốn ở Tây Sơn lại mang cái tên hổng giống ai, đủ để khách thập phương phải ?otròn mắt?: món ?ohai sống một chín?. Có tên vậy vì mỗi cuốn bánh phải dùng hai cái bánh tráng gạo sống cuốn cùng một cái bánh tráng nướng cùng trứng vịt luộc, nem nướng, dưa leo xắt nhỏ, rau thơm, lụi (thịt bò nướng), chả ram? bên trong. Có giả thuyết nói rằng món bánh cuốn Tây Sơn này chính là hậu sinh của món bánh tráng thời vua Quang Trung. Thời đó, quân sĩ dùng bánh tráng làm lương khô thay cơm khi hành quân. Sau này, để ăn bánh tráng cho no, người ta nghĩ đến việc cuốn nó với một số món khác. Ấy cũng là một truyền tụng. Điều thú vị khác: nhân chả ram của món ăn này rất độc đáo vì không hề có tôm, thịt, mà chỉ có giá luộc và bánh phở cắt nhỏ cỡ đốt tay.
    ?oHai sống một chín? đơn giản, dễ làm, nhưng để ăn ngon thì không mấy quán ở Tây Sơn có thể làm vừa lòng thực khách. Bởi cái khó nhất của món này là phải làm nước chấm thế nào thật vừa miệng. Muốn vậy, phải cho thật chính xác lượng chanh cần thiết, để loại bỏ bớt độ chát của nước mắm.
    Một món ăn khác cũng khá hấp dẫn với du khách nhưng ?onghiệt nỗi?, lại gây di họa không ít cho môi trường, ấy là món chim mía Tây Sơn. Do Tây Sơn là vùng nguyên liệu mía của tỉnh, nên chim mía ở đây ngon hơn những nơi khác. Một số người dân địa phương vẫn có nghề rập chim trong những ruộng mía, cung cấp cho các quán ăn. Bởi vậy, chim mía Tây Sơn thường tươi; nướng hay quay lên rất ngọt. Chim mía nướng hay quay giòn, cho cả con vào miệng, nhấp chút rượu Bàu Đá, là thấy lòng lâng lâng.
    Muốn ăn chim mía, bạn còn có thể ghé quán Tư Sa (số 40 đường Quang Trung, Phú Phong). Tuy nhiên, quán này nổi danh hơn với những món cá. Thực đơn của quán gồm đủ các món cá sông như: cá giếc nấu rau răm, cá lóc nấu canh chua, cá rô chiên giòn? Nhưng ngon nhất hẳn là món cá lúi sông Côn kho tiêu hoặc kho nghệ mà nhà thơ Nguyễn Duy từng khen là ?omới nghe danh thôi đã hoành tráng?. Ăn những con cá lúi kho nghệ vàng ươm, ngọt bùi, thơm phức; nhấp nhám những chú cá rô chiên giòn rụm? ta như đang thưởng thức hương vị của một dòng sông.
  5. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Món thưng Bình Định
    Người Bình Ðịnh rất thích ăn bánh tráng cuốn, cái gì cũng cuốn được, từ thịt heo luộc, cá hấp, cho đến chả nướng. Ðấy là những món cuốn ngày thường. Ba bữa Tết người ta hay cuốn bánh tráng với thịt "thưng" (thưng là gọi theo người miền Trung). Món này có cách ướp hơi giống với món rô ti
    Ngày Tết ở đây - dù là thành thị hay nông thôn - nhà nào cũng phải có cho được món thịt thưng. Nhà đông người và không đến nỗi eo hẹp, thì thưng vài ba ký. Nhà ít người thì một, hai ký. Nhà nghèo thì nửa ký... Có chảo thịt thưng, có dàn bánh tráng mới ra cái Tết.
    Thịt heo để thưng, có thể lựa mua phần đùi hoặc là ba chỉ. Tùy theo ý thích mỗi nhà. Còn thịt bò thì nên mua phần bắp. Thịt mua về cắt dọc ra thành những miếng vừa phải, bề ngang cỡ vài phân. Cả heo và bò đều phải luộc sơ qua rồi ướp. Nhớ ướp và thưng riêng. Thịt heo thì ướp với hành - tỏi giã, tiêu, nước mắm ngon, xì dầu và chút đường. Thịt bò thì cùng những gia vị nói trên, thêm sả, gừng giã nhỏ. Trong thời gian ướp độ vài tiếng đồng hồ, thỉnh thoảng lật từng miếng thịt một, cho độ thấm được đều nhau. Sau đó bắc chảo lên bếp, đổ dầu vào. Dầu nóng, lần lượt bỏ từng miếng thịt vào và hạ lửa nhỏ. Rồi cứ một chặp lại lật, và múc nước ướp, rưới đều lên những miếng thịt. Cứ như thế cho tới khi nước ướp đã hết và nước ở trong chảo thưng, chỉ còn xâm xấp. Miếng thịt săn lại, vàng ươm và khắp cả nhà sực mùi thơm của "thưng" là được.
    Những ngày đầu năm mọi người trong gia đình thường đi chúc Tết, đi chơi và tiện lợi biết bao, khi về tới nhà, hâm lại chảo thịt thưng và xắt ra lấy một, hai đĩa. Rồi nhặt một ít xà lách, rau thơm có sẵn và cắt dưa leo, xong nhúng bánh tráng và... ăn. Cái món này thường rất ngon miệng nhưng ăn no quá, lại khó tiêu.
    Bên cạnh thịt heo và thịt bò thưng để cuốn bánh tráng, ở đây người ta còn thưng gan, tai, bao tử, lưỡi heo... để lai rai cùng người thân, bạn bè, trong mấy bữa đầu xuân. Cách làm vẫn tương tự như vậy. Có khác chăng là người ta thường ăn kèm với đồ chua ngọt. Cũng xin nói rõ: Ðồ chua ngọt gồm có su, cà-rốt, kiệu... làm sạch, phơi héo, ngâm với dấm - đường, khoảng vài ngày là ăn được. Mỗi loại thưng có một kiểu ngon khác nhau. Chẳng hạn: Gan heo thì vừa béo, vừa bùi. Bao tử thì ngon ở độ dai. Tai heo thì ngon ở cái dòn... Nhưng tóm lại, đó là những thứ món ăn vô cùng hấp dẫn và rất đặc trưng cho quê hương miền Trung.
    Thế nên món thưng đã, đang và sẽ còn xuất hiện nơi mỗi ngôi nhà miền Trung khi Tết tới.
    Cá chẻm Thị Nại
    Ðầm Thị Nại (Bình Định) nhận nước ngọt từ ngã ba sông Gò Bồi, Cầu Ðôi và Lòng Sông. Nước ngả mặn nhiều thủy trùng, côn trùng, cho nên hầu hết cá tôm đều béo, ngon, ngọt, ngon nhất là cá chẻm.
    Cá chẻm thân dài hao hao cá chép với cái mồm rộng hoác. Nó rất khỏe và chỉ ăn mồi sống. Thấy con mồi lượn, nó phóng tới há miệng đớp ngay. Người đi câu nhà nghề gặp cá chẻm ăn là biết ngay. Cá chẻm cắn câu không mấy khi xảy. Biết cá chẻm đớp bạn chỉ cần giật nhẹ cho lưỡi dính vào miệng cá, nới sợi dây câu cho cá chạy, rồi chỉ cần giữ mái chèo để nó kéo bạn đi du ngoạn trong đầm. Vì vậy nó còn có tên là cá "vượt". Lúc cá mệt rồi, nằm phơi cái bụng trắng như bạc. Thu dây câu, đập cho nó một mái chèo rồi kéo lên. Cá lớn có thể dài hơn 1m. Ðược con chẻm cỡ ấy giá hiện nay phải đến vài trăm nghìn đồng. Giá trị nhất là bộ lòng. Giá cao là thế nhưng không mấy khi gặp bán ở chợ. Thợ câu chỉ bán phần thịt cá thôi. Họ để lại bộ lòng chẻm vì nhiều lẽ: lòng cá chẻm ngon tuyệt. Họ còn tin rằng, có ăn bộ lòng cá thì mới còn câu được nó, bán đi là thất lộc. Miếng ngon thế khi ăn thì nhất định phải mời bạn bè cùng thưởng thức. Thế mới thiêng! Chẳng bao giờ họ ăn một mình. Ðó là cái lệ miền sông nước.
    Lòng cá chẻm xào hành, gan cá bùi mà ngọt, mỡ cá béo, thơm ngậy, bao tử cá giòn giòn, dai dai. Chút lá hành hăng hăng, cay cay làm giảm bớt cái vị béo. Một ly đế nhỏ thôi đủ làm tăng hương vị cá. Ăn món lòng cá chẻm tươi, bạn mới thấy hết cái ngon khó tả trong nghệ thuật ẩm thực. Thịt cá chẻm thật lành, thơm ngon. Bạn có thể ăn cá trừ cơm. Những miếng thịt cá chẻm xắt vuông con cờ, tươi xanh, mà xào với hành, ớt, chuối, khế thì ngon phải biết.
    Cái thú, cái ngon của vùng sông kề biển là thế. Mấy khi người ở xa được thưởng thức món ăn này.
    Cá lóc kho nước dừa
    Cá lóc kho nước dừa là 1 trong những món ăn thông dụng ở Bình Định. Cách chế biến như sau:
    Nguyên liệu:
    - 500gr cá lóc
    - 1/2 nước của quả dừa (dừa non hoặc dừa xiêm)
    - Đường cát
    - Mỡ nước
    - Hành củ
    - Nước mắm ngon
    - Gia vị, tiêu
    Cách làm:
    - Cá rửa sạch, cắt khúc khoảng 4cm rồi ướp hành tỏi, ớt, mắm, muối, mỡ, đường cho ngấm.
    - Đun chút đường làm nước hàn để cá kho có màu. Xếp cá vào niêu đất hoặc nồi có đáy dày, sau đó đổ nước dừa cùng với nước hàn vào cá. Khi nước sôi nhớ vớt bọt, đun nhỏ lửa. Thỉnh thoảng lấy khăn nhắc nồi nghiêng qua nghiêng lại cho phần nước thấm đều vào cá. Nêm nếm rồi tiếp tục kho đến khi nước sánh dẻo vàng lại là được. Rắc chút tiêu và hành lá xắt nhỏ.
    - Ăn nóng với cơm, ăn kèm với rau lang luộc rất ngon
    Đặc sản Bình Định qua ca dao tục ngữ
    Bình Định - Vùng đất duyên hải miền Nam Trung bộ từ Quảng Ngãi đến Phú Yên. Nơi đây có nhiều phong tục tập quán, thổ săn khác nhau và miếng ngon vật lạ chẳng bao giờ thiếu vắng. Bởi vậy, nhiều đặc sản từng vùng, từ món ăn bình dân cho đến các loại sơn hào hải vị được khách sành ăn chọn lựa, phẩm bình. Nhiều đặc sản đã nổi tiếng từ ngàn xưa và đã đi vào văn học dân gian, truyền tụng qua nhiều thế hệ
    ?Gỏi chình Châu Trúc
    Bánh tráng Tam quan
    Nón lá Gò Găng
    Nem chua chợ huyện?o
    Và thêm món chả cá Đề gi được mọi người ca tụng:
    ?Ai về qua cửa Đề gi,
    Nghe mùi chả cá chân đi không đành ?o
    Bình Định còn là quê hương của xứ dừạ Dừa Tam quan mọc như rừng, với câu ca truyền tụng từ bao đời naỵ
    ?Công đâu công uổng công thừa
    Công đâu gánh nước tưới dừa Tam quan?o
    Từ xưa, Bình Định là xứ lắm cá mắm. Nước mắm ngon thì không đâu bằng:
    ?Gò Bồi có nước mắm thơm
    Ai đi cũng nhớ cá tôm Gò Bồi ?o
    Nhiều nhất là cá chuồn, phải nhắn nhủ người vùng cao Tây Nguyên - nơi có nhiều măng le ngon - đem về miền biển để trao đổi, mua bán:
    ?Ai về nhắn với nẫu nguồn
    Măng le gởi xuống, cá chuồn gửi lên?
    Tuy ?ochẳng lịch bằng Kinh đô?, nhưng Bình Định ?okhông đồng khô cỏ cháy?. Đất đai tuy không phì nhiêu, màu mỡ nhưng biển cả mênh mông, núi rừng trùng điệp, ?onăm dòng sông chảy, sáu dãy non cao, biển đông sóng vỗ dạt dào??, có lắm miếng ngon vật lạ, sản vật khắp miền .....
  6. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Cháo cua huỳnh đế Bình Định
    Cua huỳnh đế là đặc sản của vùng biển Tam Quan và Ðề Gi (Bình Ðịnh). Cua huỳnh đế có màu đỏ hồng, mai hình vuông, càng và que ngắn. Ðặc biệt, đầu cua dài và có nhiều râu... Cua huỳnh đế có quanh năm nhưng rộ nhất là tháng chạp âm lịch
    Ðây cũng là thời gian mà cua ngon nhất: to, chắc thịt và gạch cua nở đầy mai. Cua huỳnh đế luộc chấm muối tiêu chanh ăn rất ngon, nhưng ngon nhất phải kể đến món cháo. Cua huỳnh đế rửa sạch cho vào một cái tô lớn rồi đem hấp để giữ nguyên chất ngọt. Xong, tách mai ra dùng muổng nạo hết gạch để vào một tô riêng. Phần càng que được ráy thịt đổ vào tô khác để ướp nước mắm ngon, tiêu hành, bột ngọt... Kế tiếp bắc một chảo dầu lên, phi hành củ cho thơm, nhỏ lửa, cho thịt cua vào và đồ đều cho thịt thấm. Khi cháo nhừ cho thịt cua vào và để sôi vài dạo. Ðổ tô gạch cua sau cùng. Nêm cho vừa ăn và cho thêm nửa củ hành tây lát mỏng cùng lá hành, ngò xắt nhỏ. Nhấc xuống và cho thêm tiêu vào.
    Nồi cháo cua huỳnh đế ngon phải có lớp mỡ hành vàng sánh ở trên, lẫn với nước gạch màu đỏ cùng những thớ thịt màu trắng của cua. Húp từng muổng cháo nóng mới ngon làm sao! Mùi thơm đặc trưng xông vào mũi cùng hơi nóng phả vào mặt. Ăn hết tô cháo, mồ hôi vã cả người, nghe khỏe ra....
    Bún cá Bình Định
    Người Quy Nhơn có một niềm tự hào đặc biệt về món bún cá. Từ những con cá mối, cá thuẫn, cá chai, cá rựa? ít được dùng để kho nấu vì không ngon hoặc nhiều xương, người ta đem chế biến thành chả cá. Cùng với nem chợ Huyện, bánh tráng nước dừa Tam Quan, rượu Bầu Đá An Nhơn, bún cá là món mà người Quy Nhơn thường đem ra khoe với khách phương xa.
    Buổi sáng, nghe nói đi ăn bún cá Nguyễn Huệ là biết ngay sẽ được thưởng thức một món quà sáng đầy thú vị. Quán nằm trên đường Nguyễn Huệ, chếch ngã ba Nguyễn Huệ - Lê Hồng Phong một chút, không bảng hiệu nhưng sáng nào khách đến ăn cũng đông nghịt. Những người sành bún cá khẳng định rằng đây chính là quán "Quy Nhơn đệ nhất bún cá", từ món ăn cho tới phong cách phục vụ. Nước lèo bún cá vốn đã ngọt bởi được nấu từ xương cá còn được chủ quán cho thêm những phụ liệu như măng le, nấm rơm nên vị rất đậm đà. Nước lèo, chả cá ngon đã đành, đến cả dĩa rau sống cũng được chủ quán chăm chút bằng những cọng bắp chuối trắng nõn, xà lách búp, rau ngò xắt nhỏ trộn chung trông rất bắtmắt. Ngoài ra, trên đường Nguyễn Huệ cũng còn một quán bún cá khá đông khách nữa nằm ngay ngã ba Nguyễn Huệ - Lê Lợi và chỉ bán buổi tối. Một số quán bún cá cũng được nhiều thực khách đánh giá là ngon như quán nằm ngay ngã ba Trần Phú - Nguyễn Công Trứ, các quán trên đường Tăng Bạt Hổ?
    Và dù là ăn sáng hay ăn khuya, đi trên bất cứ con đường nào ở Quy Nhơn người ta cũng có thể dễ dàng bắt gặp một tấm bảng đề "Bún cá". Tuy đơn giản chỉ là bún, chả cá và nước lèo nhưng bún cá cũng có nhiều giá khác nhau, từ 2.000đ/tô đến 6.000đ/tô và ngon dở là tùy khẩu vị người ăn "ghiền" ăn ở quán nào chứ không nhất thiết là đắt tiền thì mới ngon.
    Chả cá, tuy chỉ với hai kiểu chính là chả hấp và chả chiên (gồm loại bánh lớn và loại vo viên nhỏ cho vào nồi nước lèo) nhưng hấp dẫn thực khách bởi tính "hiền", ăn dễ tiêu, ngon miệng của nó. Chị Mai, chủ một quán bún cá sáng trên đường Tăng Bạt Hổ cho biết: "Chả cá ngon là phải được làm từ cá mối, cá thuẫn tươi, xay và quết cho thật kỹ để chả dai. Chả ngon còn là chả không tanh mùi cá, thơm gia vị và ngọt vị ngọt của cá. Muốn cho nước lèo bún cá ngon thì nhất thiết phải nấu nước bằng xương cá (đã lấy thịt làm chả)".
    Không chỉ nổi danh ở quê hương, bún cá Quy Nhơn còn theo chân một số người Quy Nhơn vào Sài Gòn làm ăn, và trở thành niềm tự hào của bất cứ người Quy Nhơn nào ở Sài Gòn, mỗi khi bắt gặp một tấm bảng hiệu "Bún cá Quy Nhơn" giữa phố phường đông đúc.
    Ăn hàu giữa mênh mang sóng vỗ
    Bây giờ, quán đặc sản biển nào cũng sẵn món cháo hàu. Cháo hàu kết thúc cuộc nhậu, no - ngon - bổ dưỡng. Dù thế, do vài lần được ăn hàu tại gành biển, nên hàu nguyên liệu của hàng quán cứ thấy nó bùi bùi, nhàn nhạt. Nghe nói hàu nuôi cho ăn nữa, nhanh lớn lắm và dĩ nhiên chất lượng có giảm. Than phiền chuyện này với nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn, dân biển gốc, ông kể chuyện ăn hàu tuyệt chiêu, chép ra đây cùng thưởng thức.
    Vật liệu chuẩn bị cho sự ăn khá đơn giản: hai bó chùm bìa, dúm muối tiêu, lít dấm và chai rượu Bàu Đá (luôn có rượu ngon này, vì dân buôn mang qua đổi sản vật biển). Chùm bìa là loại vỏ cây trên núi, thường mua từ Phú Yên về, ngâm nước nhuộm lưới, bã vớt phơi khô, bó lại cháy rất đượm, tàn chắc phải dụi mới gãy. Chùm bìa bó thành bắp chân, dài mét rưỡi, luôn sẵn ở biển để soi cá, đưa ma?
    Chèo ghe ra gành lúc triều xuống, một chiều mùa hè nào đó. Chọn bãi hàu lớn, dày, đủ ăn cho vài ba người cùng đi. Đốt hai bó chùm bìa cho cháy đượm, rồi rà qua rà lại mảng đá hàu. Mươi phút sau, hàu thứ tự hả miệng. Chai dấm rưới tràn từ triền cao chảy xuống, len lỏi qua đá, rêu, chui vào miệng hàu. Là ăn. Ai cũng phần một gói muối tiêu, một cây kim bị (hoặc gai núi cũng luôn sẵn đâu đó), tự xỉa ruột hàu chấm muối. Vài con dừng lại chiêu một nắp rượu ngon, tuyệt đối phải có rượu vì hàu bổ dưỡng và rất mát.

    Hàu được chế biến
    Chu cha, cái miếng hàu nong nóng, măn mẳn, chua chua, mềm ngọt trong miệng, thêm chút thơm tiêu, thêm nồng nã mùi rong biển chung quanh, rất đặc trưng. Miếng này tiếp miếng kia trong mênh mang gành và biển và sóng gió. Ăn, phần ai nấy tìm cho mình cái sướng ngon tột đỉnh của vị giác, khứu giác và cảm giác đã đời của đất trời thênh thang hòa nhập và tự tại. Nghỉ chút làm ly đế, toàn bộ dư vị tuyệt luân trên, nhất tề tan ra thấm vào tận chu chuyển li ti trong máu, râm ran nóng, trả lại nguyên xi cái miệng thèm ăn như lúc ban đầu. Ăn, chừng nào no, đã mới thôi, ngàn vạn năm trước và chắc rằng mãi về sau, sự ăn đạt thấu cái thỏa mãn cao nhất vẫn luôn là hạnh phúc vô biên của con người, của bản chất sống.
    Dĩ nhiên, thường thì bãi hàu chưa hết, thực khách đã no nê. Lùi lên một trảng bằng nào gần đó, tiếp tục ngâm nga phần rượu còn lại, nghe hoàng hôn chầm chậm xuống trên từng con sóng sẫm màu, nghe trong từng tế bào rộn rực niềm sinh sôi và khoái. Và cảm thấy đời thật đáng yêu, đáng sống, mọi ưu tư phiền muộn tan nhanh, mọi ganh ghét tị hiềm vợi đi rất nhiều. Nếu không có gì thật bận rộn, hãy ngã người xuống ngủ một giấc ngon lành, cho tới khi mặt trời lộng lẫy ngang sóng, vươn vai ngồi dậy ngắm thiên nhiên tuyệt mỹ một chút, rồi chèo ghe về, lại bắt đầu một ngày mới với những lo toan.
  7. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Gỏi da bò Phú Phong
    Gỏi da bò là có thể coi là món ăn đặc trưng của thị trấn Phú Phong, huyện Tây sơn, tỉnh Bình Định. Chọn da bò non mềm, trộn gỏi chua ngọt với gừng, chanh. Món gỏi ăn kèm bánh tráng mè đen.
    Để làm món gỏi da bò phải chọn loại bò non vì bò càng non da càng non và mềm, 1kg da bò có thể đủ cho 10 -12 người ăn, gọi là "lai rai với từng ly rượu Bầu Đá - đất Quang Trung".
    Rửa thật sạch da bò nhiều lần bằng nước muối sinh lý 9% và có ít nước chanh quả tươi. Sau đó dùng dao lam cạo hoặc nhổ sạch lông rửa thêm 2-3 lần nữa với nước muối có pha thêm nước chanh tươi.
    Da bò khô, sạch thái mỏng càng mỏng càng ngon, càng dẻo, giòn. Thắng dầu phụng có hành khô và tỏi thái mỏng giã nhỏ.
    Các nguyên liệu ăn kèm có rau húng quế, rau răm, lá củ hành tươi, ngò thơm, rau bắp chuối, củ hành tây, rất ít lá chanh non tất cả thái nhỏ. Đậu phộng rang giòn giã vừa nhỏ, hạn chế tinh dầu nếu giã nát nhỏ.
    Vài lát gừng giã nhỏ pha với nước chanh tươi (nếu không có chanh thì thay bằng giấm thanh), bột hạt tiêu khô, bột ngọt, ít đường ăn và muối, vài lát ớt đỏ thái mỏng. Cho tất cả các nguyên liệu trên vào thau trộn đều, trong quá trình trộn cho thêm nước mắm chanh, gừng ớt, đường. Ăn gỏi da bò phải có bánh tráng gạo có mè đen nướng giòn, có nước chấm.
    Gỏi da bò ngon và rất bổ, nhưng cũng rất khó tìm, chỉ có nơi nào có lò mổ xẻ bò... tìm được mảng da ngon để làm gỏi. Ở Bình Định phải lên các lò mổ bò, heo ở thị trấn Phú Phong huyện Tây Sơn, Bình Định. Cũng có thể gọi món gỏi da bò là đặc sản của vùng đất Tây Sơn - quê hương của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ - Quang Trung.
    Cá tràu nấu ám
    Trong các loại cá nước ngọt thì cá tràu là ngon nhất. Cá lóc, cá quả, cá chuối cũng chính là cá tràu, chỉ có điều từng vùng miền mà có tên gọi khác nhau. Trong dân gian, cá tràu được cho là loại cá ngon tứ mùa; cá tràu sống chủ yếu ở những nơi hiểm hóc trong các đìa, ao, hồ nước sâu? không khi nào thiếu nước, thiếu mồi; có lẽ từ lý do này mà cá được béo mập, thơm ngon quanh năm.
    Cá tràu không sống theo đàn mà chỉ sống cặp, "một cồ - một mái"; cá tràu sinh hàng nghìn cá con gọi là bầy rồng rồng; rồng rồng còn nhỏ, cá cha - cá mẹ chăn, dắt bầy con đi ăn khắp nơi trong ao đìa, đồng ruộng, cá tràu rất ham con, vô phúc chú vịt nào chui vào đám rồng rồng ắt phải bị thương vì cá cha - cá mẹ. Rồng rồng lớn lên tách khỏi cha - mẹ thì gọi là cá cững; cá cững vẫn sống theo đàn, khi đến tuổi sinh đẻ thì cá tách từng đôi và được gọi là cá tràu.
    Trong dân gian đúc kết nhiều kiểu kho nấu, kiểu gì cũng ngon: rồng rồng thì để nguyên, rửa sạch kho rim với hành, tiêu bột ăn với cơm nóng; cá cững thường nấu canh chua, nướng lửa than dằm nước mắm ngon với ớt tỏi, cũng có thể nướng kho khô hoặc kho với mắm cua chua; cá tràu thì chế biến nhiều kiểu: nấu canh chua, lóc thịt giã chả, nướng lửa than kho tộ với gừng và nghệ tươi, nướng truôi chấm muối ớt? nhưng ngon nhất là món tràu nấu ám.
    Ở các miệt quê, những bữa tiệc sang trọng không thể thiếu hai món: "gà hầm", "cá ám". Nấu cá ám cho ngon cũng công phu lắm: cá tràu phải là cá bắt ở ao, hồ tự nhiên, đem về lấy nước sạch thả cá vào khoảng một ngày để cho bộ lòng cá sạch sẽ (nếu không thả cá vào nước như vậy thì mổ bỏ bộ lòng), đánh vảy, cắt vi, bóc mang, dùng dao khứa hai bên mình cá một số nhát cho cá dễ thấm gia vị, hành, tiêu, nghệ tươi giã nát hòa với muối bột, xát đều lên mình cá (ướp nước mắm cũng ngon nhưng hơi chua). Ướp độ mười phút, dùng lạt bó tròn cá, dầu phộng đun sôi, cho cá vào nồi trở qua trở lại vài lượt, đậy nắp nồi kín hạ lửa hiu hiu cho cá thấm gia vị và chín đều. Hoa chuối chát thái nhỏ (nhớ là thái ngang cho hoa chuối khỏi bị xơ) nếu là hoa chuối hàng năm thì thái dày cho vào nước muối loãng để hoa chuối được trắng và giảm độ chát; đun cá độ từ 5-7 phút thì cho hoa chuối vào đảo vài lượt, cho nước sôi vào nồi độ thiêm thiếp, đậy nắp nồi kín, vẫn lửa hiu hiu; nấu độ 10 phút thì nồi cá thấm tháp, chín đều, hành ngò, rau răm thái nhỏ cho vào nồi đảo vài lượt cho ra bát, đậu phụng rang bóc vỏ lụa rải đều lên bát cá; mùa đông thì ta có thể để nồi cá trên bếp lửa hiu hiu mà dùng. Tuy nhiên, ta có thể không nấu nước lã đun sôi mà nấu bằng nước cốt dừa và cũng có thể cho thêm khế chua thái dày nấu chung khi hoa chuối sắp chín; cách nào cũng ngon chỉ khác nhau ở hương vị và khẩu vị của mỗi người, mỗi gia đình.
    Tôi đã được thưởng thức món cá tràu ám bắp chuối nhiều nơi, nhưng ở miệt An Nhơn - Bình Định tôi cảm thấy ngon hơn, có lẽ là do cảm giác; nồi cá ám bốc hơi thơm, đặt bên là một nậm rượu Bầu Đá - mấy cái chén sành hạt mít; một rổ rau sống gồm các loại rau thơm, dưa leo, cà chua xanh thái mỏng, cải cay non hai lá nhám trộn vào, bánh tráng gạo nướng giòn? buổi chiều trên thềm nhà một vùng quê tĩnh mịch, gió nồm thổi nhẹ; chúng ta ngồi đàm đạo nói chuyện hôm qua, hôm nay, công việc ngày mai; hương vị cá ám, mùi thơm phức chén rượu chính hiệu Bàu Đá - An Nhơn, ta cảm thấy vui sướng, lâng lâng sau một ngày lao động mệt nhọc?
    Bánh in
    Bánh in là loại bánh phổ biến nhất ở Bình Định vào dịp giỗ, Tết, nổi tiếng nhất là bánh in Nước Mặn, thị trấn nhỏ bé có từ thế kỷ thứ 17. Bánh phổ biến mọi nơi, nhà nào dù giàu hay nghèo đều có. Bánh làm bằng bột nếp. Tuy bánh in dễ làm, ai cũng làm được nhưng rất khó khéo. Muốn bánh khéo phải làm thế nào để bánh vừa dẻo, vừa xốp, không cứng cũng không bở.
    Ngày xưa thì làm rất công phu, phải lựa nếp dẻo, chọn hạt cùng cỡ để rang không bị hột cháy, hột không. Nếp chọn xong đem vo, để cho ráo nước. Hạt nếp vừa ráo người ta đem rang bằng trã đất trên lửa nóng. Mà rang vừa vàng thôi. Vì vàng quá bánh sẽ không trắng. Rang chưa vàng rất khó xay (bằng cối đá).
    Nếp xay xong để ít nhất mười ngày mới làm để bột khỏi bị rốc. Vào dịp Tết, khí trời lạnh có hơi nước, bột đem lấy sương. Đường cát trắng đem bỏ vào chảo bắc lên bếp, nhỏ lửa để lúc sôi đường khỏi trào ra ngoài. Khi đường sôi - luôn tay quậy đều và nặn vào một vài giọt chanh để không bị lại đường (không có cát). Khi đường nhuyễn người ta nhắc xuống để nguội. Lúc làm bánh ta lấy muỗng nạo dần từ trên xuống - bỏ bột nếp vào chà bằng hai tay hoặc dùng chai tròn, hoặc chày cán đi cán lại nhiều lần cho thật nhuyễn.

    Số lượng đường và bột ngang nhau (1 kg đường làm 1 kg bột) thì bánh mới ngọt. Chà đến khi nào bột và đường quyện vào nhau, bỏ thử vào lưỡi thấy tan đều không còn hột đường là được. Khâu này quyết định bánh khéo hay không. Người ta dùng khuôn nhỏ, tròn, đường kính độ 3 phân, hoặc dùng khuôn cạnh 3x5cm. Bỏ bột vào lớp dưới đáy, bỏ nhân chính giữa, bỏ một lớp bột lên trên, lấy nắp đậy lên rồi ấn nhẹ tay để bánh được xốp và lấy khuôn ra.
    Bánh mới làm xong rất dễ bể. Phải để 15 phút sau mới di chuyển. Làm như thế bánh sẽ rất xốp, còn mịn là do lúc chà bột. Nếu ấn mạnh quá bánh sẽ chặt, qua vài hôm sau bánh rất cứng.
    Nhân thường làm là nhân đậu xanh được bóc vỏ, nấu chín, tán nhuyễn, cho đường vào để trên lửa riu riu đến khi khô đặc thì nhắc xuống rồi bỏ vào và viên từng viên tròn. Nhân dừa cũng làm như thế: dừa được nạo nhỏ và trộn đường làm như đậu xanh. Có nhiều nhà kỹ hơn thì làm nhân mè rang + mứt gừng + mứt bí + thịt mỡ xắt hạt lựu đã được rim đường. Tùy vào sở thích của mỗi nhà mà bánh có nhiều loại nhân khác nhau. Phố biến nhất là chỉ có nhân mè rang vàng đâm nhỏ trộn đường là xong.
    Những nhà cẩn thận, khéo tay, làm bánh xong họ dùng giấy bóng bọc từng cái, đem xếp vào quả, hoặc hộp giấy. Mỗi lần mở ra bánh vừa thơm, vừa dẻo, vừa xốp, nhân mè thơm, bí đao giòn, thịt mỡ béo, gừng cay lại thơm mùi va ni, ngon không chê được.
    Cũng có nhiều nhà, làm bánh xong họ bỏ vào thúng, hoặc bầu đem treo trên trần nhà để trẻ em khỏi đòi ăn trước Tết. Bây giờ, khâu rang nếp, xay bột và thắng đường không còn nữa, người nội trợ bớt rất nhiều công đoạn. Bột, đường bán sẵn ở chợ, chỉ cần mua về làm nhân bỏ vào in bánh là xong.
  8. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Cái ăn Bình Định qua những câu ca xưa
    Sống trong phong cảnh sơn thủy hữu tình, sông chảy, núi cao, biển dào dạt sóng vỗ, con người Bình Định chẳng dám sánh với người Kinh Đô thanh lịch ?oăn Bắc, mặc Kinh?. Nhưng với vốn đặc sản của riêng mình cũng đủ cho người dân ở đây tự hào.
    Người Bình Định có biệt tài làm bánh ít lá gai. Ai đã từng thưởng thức bánh ít Bình Định thì khó quên cái dẻo dai, ngon ngọt của nó. Thế mới có câu ca: ?oMuốn ăn bánh ít lá gai/ Lấy chồng Bình Định cho dài đường đi? Ngoài bánh ít lá gai còn có bánh ít nhân tôm, bánh ít nhân mè nữa. Mỗi thứ với cách thức chế biến riêng, bằng những kinh nghiệm riêng đã tạo nên cái ngon miệng.
    Muốn ăn bánh ít nhân mè
    Lấy chồng Hòa Đại đạp chè thâu đêm
    Muốn ăn bánh ít nhân tôm
    Lấy chồng Hòa Đại ăn cơm củ mì.
    Chẳng những thế mà trên mảnh đất của người Chàm xưa, còn lại nhiều di tích Chàm, người dân cũng thật thà đặt tên cho một ngọn tháp là tháp Bánh Ít. ?oTháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Di/ Sông xanh núi cũng xanh rì/ Vào Nam ra Bắc cũng đi đường này.? Liên quan đến tháp Chàm và đặc sản của Bình Định phải nói đến nem chợ Huyện ?"Tuy Phước. ?oAi về Tuy Phước ăn nem Ghé qua Hưng Thạnh mà xem Tháp Chàm.?
    Người Bình Định rất có lý khi đặt nem chợ Huyện bên cạnh Tháp Chàm. Điều đó nói rằng: nem chợ Huyện là đặc sản ?ocó cỡ?. Vào quán, gọi món nem chua nhâm nhi chút rượu chờ tiếp món nem nướng để thưởng thức. Và một lần như thế, bạn sẽ không bao giờ quên.
    Bình Định có dừa Tam Quan nổi tiếng. Những hàng dừa râm mát, những cô gái ở đây da trắng nõn nà vì không một giọt nắng nào vươn đến. Nhiều cô gái đẹp lạ lùng: ?oTam Quan ít mít nhiều dừa/ Nhiều cô gái đẹp mà chưa có chồng.? Và các cô cũng đa tình không kém, dám chấp nhận cả cho tình yêu: ?oTam Quan ngọt nước dừa xiêm/ Cha từ, mẹ bỏ vẫn tìm theo anh.? Dừa cho nhiều sản phẩm. Và những thi tứ cũng khởi nguồn từ đây: ?oCạo dừa, đạp cám cho nhanh/ Ép dầu mà chải tóc anh, tóc nàng.?
    Bình Định cạnh biển Đông, có đầm Thị Nại, cá tôm phong phú. Câu ca vùng này đã nói:
    Cá nục gai bằng hai cá nục vọng
    Vợ chồng nghĩa trọng nhơn nghĩa tình thâm
    Xa nhau muôn dặm cũng tầm
    Gặp nhau hớn hở tay cầm lời trao.
    Nghề làm nước mắm cũng theo đó mà phát triển. Tuy không như nước mắm Phú Quốc, Phan Thiết...nhưng nước mắm Vạn Gò Bồi cũng mặn mà không kém: ?oGò Bồi có nước mắm thơm/ Ai đi cũng nhớ cá tôm Gò Bồi.? ?oNước mắm Gò Bồi, trã nồi An Thái?, đó chính là hai đặc sản mà nhân dân so sánh với nhau. Chính nước mắm Gò Bồi đã làm nên cái duyên mặn mà, kết nguyền tình nghĩa của các đôi nam nữ: ?oAi về dưới Vạn Gò Bồi/ Bán mắm, bán cá lần hồi thăm em.? Xuân Diệu khi hồi tưởng nhớ về quê ngoại không thể nào quên được: ?oÔi, tôi mang sẵn cất sâu thay/ Từ lúc má tôi đẻ tôi ra ở Vạn Gò Bồi làm nước mắm/ Một hạt muối trong tim dể mặn với tất cả những gì đằm thắm...? Tình nghĩa người miền ngược với người miền xuôi càng thêm thắt chặt qua những sản phẩm của biển cả, đầm hồ này: ?oAi về nhắn với nậu nguồn/ Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên.? Đó là những cái ăn, dẫu không bằng ?oăn Bắc, mặc Kinh? nhưng cũng lắm điều thú vị, phong phú mà ở đây không thể kể ra hết.
    Nếu ở Hoài Nhơn có dừa Tam Quan thì đi vào Phù Mỹ lại có nhiều thứ khác. Đó là chè tươi: ?oAnh về Phù Mỹ nhắn nhe/ Nhắn chị bán chè sao vậy chẳng lên? Anh về dưới vạn thăm nhà/ Ghé vô em gởi lạng trà Ô Long.? Đó là tôm, tép: ?oRủ nhau mua tép Trà Ô/ Sẵn bờ cát trắng phơi khô đem về...? Đến Tuy Phước, bạn chẳng những thưởng thức nem chợ Huyện, nước mắm Vạn Gò Bồi, mà cả dưa Luật Lễ nữa chứ: ?oMuốn về Luật Lễ ăn dưa/ Sợ e nước lớn đò đưa không đều.? Thật là vô vàn. Vì thế mà ca dao Bình Định đã khuyên:
    Muốn ăn đi xuống
    Muốn uống đi lên
    Dạo khắp bốn bên
    Chợ Thành, chợ Giã
    Chợ Dinh bán chả
    Chợ Huyện bán nem...
    Quả thật là thế. Núi rừng Tây Sơn cũng có sản vật ngon để khoe với các vùng khác. Chẳng hạn, chà viên là thức trái cây ngon lành ở đây:
    Quảng Nam nổi tiếng bòn bon
    Chà viên Bình Định vừa ngon, vừa lành
    Chín muồi da vẫn tươi xanh
    Mùi thơm cơm nếp, vị thanh đường phèn.
    Và nhất là bắp nếp chín vàng của vùng đất này làm bồi hồi những ai đi xa. ?oTa về ta nhớ Bến Giang/ Nhớ soi bắp nếp chín vàng bên sông.? Quê hương Bình Định lắm sản vật, bốn mùa hoa quả, cây trái ngọt lành, trù phú vật chất nên con người Bình Định xưa cũng phong phú về tinh thần. Và đất lành chim đậu...
    Nem chợ Huyện
    Nhiều nơi có nem, nhưng theo tôi ngon nhất vẫn là NEM CHỢ HUYỆN (Phước Lộc - Tuy Phước - Bình Định). Đến một trong những quán nem của nhà họ Trần ở Phước Lộc, không cần nói gì cô hàng đã dọn lên vài chục nem chua gói bằng lá chuối, cột bằng dây chuối vuông vức xâu từng chục một. Lột bỏ hai cuộn lá chuối bên ngoài, rồi đến lớp lá ổi bên trong, ruột nem hồng hồng hiện ra xinh xắn đã thấy nước miếng tứa ra chân răng. Cầm chiếc nem chấm vào chén xì dầu, cắn một miếng cùng một tép tỏi tận hưởng cái cảm giác giòn giòn, vừa thơm, vừa nồng. Ai thích cay thì cắn thêm lát ớt, càng thêm nồng nàn.
    Nem Chợ Huyện không chỉ được ưa thích đối với người dân Bình Định mà còn là món khoái khẩu của dân tứ xứ, thậm chí còn "vượt biên" đến Tây, Tàu nữa. Một chủ quán ở Phước Long cho chúng tôi biết mấy cái Tết vừa qua Việt kiều về thăm quê đặt làm hàng ngàn chiếc mạng đi. Nem chua để sẵn, khách đến mang ra lột nhấm nháp thật không gì tiện và thú vị bằng.
    Bánh ít lá gai
    "Muốn ăn bánh ít lá gai,
    Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi.."
    Nguyên liệu làm bánh ít lá gai lại rất dễ tìm ở vùng quê Bình Định. Hái một ít lá gai - loại cây được trồng thành rào hoặc từng khóm cạnh bờ ao - luộc chín, giã nhuyễn, cho thêm bột nếp tươi đã vắt ráo nước và đường cát vào giã, trộn đều là xong phần bột bánh. Phần nhân, ngoài đậu xanh và đường phải có dừa khô nạo cơm mới đúng "gu". Đường đem thắng cho mất mùi, cho đậu xanh đãi vỏ, luộc chín và cơm dừa nạo vào xào đến khi vừa khô, vo viên được là vừa. Nhớ cho thêm nước muối và gừng để nhân có thêm mùi thơm và ngọt dịu.
    Ngắt cục bột lá gai cỡ bằng quả trứng gà đè bẹp trong lòng bàn tay, đặt viên nhân đã vo tròn cỡ bằng quả trứng cút vào giữa, bọc lại, vê tròn, xong đem hấp hơi cho bánh chín. Thế là xong phần chế biến, bây giờ chỉ còn làm đẹp cho bánh nữa thôi.
    Lá chuối non đã hong qua nắng hay hơ qua lửa cho bớt dòn, cắt thành từng miếng tròn đường kính cỡ gang tay. Xấp hai miếng thành một, cuộn thành hình phễu, cho viên bánh đã được thoa qua lớp dầu phụng chín vào giữa. Xếp lá thành một hình chóp nhọn sao cho các cạnh vuông vắn, cân đối y như một kim tự tháp vậy. Sau đó đem hấp sơ qua cho các nếp gấp "chết " hẳn khỏi bung, đừng hấp lâu là mất màu xanh mà lại mềm nhũn không đẹp. Vậy là chiếc bánh ít lá gai, đặc sản của Bình Định đã hoàn thành.
    Cầm chiếc "kim tự tháp" xanh tươi, bóc lớp lá, cắn một miếng, ngậm mà nghe chút đắng dịu dàng của lá, chút dẻo của nếp, chút bùi của đậu, chút ngọt của đường, chút béo của dừa hoà với mùi lá gai thơm lừng.
  9. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Bánh canh gạo
    Bánh canh gạo là bánh canh được nấu bằng bột gạo, khác với bánh canh nấu bằng bột mì nhứt (còn gọi là bánh canh bột lọc). Bánh canh nấu bằng bột gạo hay bằng bột mì nhứt đều ngon, nhưng bánh canh gạo dễ tiêu hóa hơn nên nhiều người thích món này.

    Bánh canh bột gạo thường được nấu với tôm, thịt hay nấm rơm, chả cá. Chọn gạo gạch, ngâm mềm, đem xay thành bột nước, rồi cho vào túi vải đăng cho thật ráo nước. Bóp bột đã đăng ra mâm, dùng nước thật sôi rưới đều lên bột (gọi là sú bột), nhồi bột thật đều tay, sao cho bột sú không được khô cũng không được nhão. Nếu bột sú bị khô, thì bột sượng, dễ gãy không xắt thành bánh canh được. Còn nếu bột bị nhão, thì bột sẽ chảy cũng không xắt được. Vì thế sú bột cũng phải biết cách, sao cho bột thật dẻo, thật dai, bánh canh mới ngon. Nhồi bột xong bốc thành từng nắm để lên thớt, dùng vật tròn để cán bột ra thành từng miếng mỏng và to cỡ bằng bàn tay người lớn. Đun một nồi nước sôi, dùng dao bén xắt miếng bột thành từng con (gọi là con bánh canh), cần xắt nhỏ để khi con bánh chín nở ra là vừa. Cứ mỗi lần xắt xong là gạt ngay vào nồi nước đang sôi, cứ thế xắt rồi gạt cho đến khi hết bột. Xào tôm, thịt, hay chả cá cho thấm đổ vào nồi nước sôi đang luộc con bánh, nêm nếm vừa ăn, nhắc xuống. Trong quá trình sôi, con bánh canh nào xắt trước, sôi lâu sẽ bị nát, bị "đứt đuôi"; con bánh nào xắt sau, khi chín sẽ nguyên con. Vì lý do đó mà đã là bánh canh thì phải "con ngắn, con dài".
    Lúc chín, con bánh nở ra cùng với những con bánh canh nát sẽ tạo nên độ dẻo của nồi bánh. Để nồi bánh canh thật hấp dẫn, cần thắng ớt màu đổ lên trên và rưới một ít hành hoa. Múc bánh canh ra tô, rưới thêm hành lá và tiêu, ai muốn ăn cay thì thêm một ít ớt màu, dùng muỗng xúc ăn. Bánh canh phải ăn nóng mới ngon.
    Ở thành phố, bánh canh là món bánh dùng để ăn sáng hoặc ăn chiều. Một tô bánh canh gạo ngon đặc biệt giá 3.000 đồng. Với những người bán ăn sáng ở vỉa hè thì giá có rẻ hơn, chỉ từ 1.000 đồng đến 2.000 đồng/tô.
    Mú Bông Bình Định
    Cá Mú là loài đặc sản nước lợ rất ngon từ thịt đến da, bộ lòng... Nhưng hấp dẫn nhất là món da Mú Bông rang trộn với đậu phộng, rau răm thái nhỏ cộng với gia vị vừa đủ. Có trực tiếp thưởng thức, bạn mới thấy hết cái độc đáo của thứ hương vị dân dã, đồng quê này, dai dai, thơm thơm, beo béo, ăn vào miệng có vị ngọt, bùi thật lạ...

    Ở đất Bình Định có câu ca: ?oNhất da Mú Bông, nhì lòng cá Chảm?. Da cá Mú Bông được người dân quê phong tặng một lúc hai cái nhất, làm cho ai cũng muốn được một lần thưởng thức cho biết. Cá Mú Bông thường sống ở vùng nước ?oxà hai?, có nơi gọi là ?onước lợ?, nơi giao tiếp giữa hai nguồn nước sông và biển. Hầu như các loài tôm, cá và thủy sản ở vùng này đều rất ngon. Loài cá Mú Bông chỉ ăn toàn mồi đang sống như tôm, cua đang thời kỳ lột vỏ, đây chính là nguyên nhân làm cho thịt của loài cá này có hương vị đậm đà khó quên. ở Đầm Thị Nại (Quy Nhơn) và đầm Trà ổ (Phù Mỹ) là nơi nhiều cá Mú Bông nhất. Mú Bông Thị Nại không to và không ngon bằng Mú Bông Phù Mỹ. Đã ăn cá Mú Bông Phù Mỹ rồi thì những món cá khác hầu như không còn hấp dẫn nữa. Nhìn con cá Mú Bông còn tươi nguyên đang giãy đành đạch, mình cá mập mạp, trơn láng, thể hiện một sức mạnh tiềm tàng. Con cá Mú Bông có màu rêu, pha đốm vàng nghệ, đôi chỗ ngả màu cam chín, làm cho thực khách chưa ăn đã thấy thèm. Phương tiện đánh bắt mú bông chủ yếu là dùng lưới. Bắt được Mú Bông, ngư dân thường nhốt giữa cá trong ***g đan bằng tre, rồi thả xuống nước. Vì vậy khi mang ra chợ, hoặc đến nhà hàng đặc sản, con cá vẫn còn sống.
    Món ăn khoái khẩu của người miền Trung là cá mú hấp, thường gặp ở các buổi tiệc, hoặc nhà hàng, quán nhậu. Cá Mú đem hấp thì tất cả hương vị của nó được cô đặc lại trong thịt, trong lòng cá. Cái vị đậm đà, mùi thơm lừng lựng. Cá Mú thường được hấp chung với các vị thuốc bắc gồm: đại táo, câu kỷ, mộc nhĩ, bá hạp, hột sen và một ít bún song thằng, gia thêm ngũ vị hương. Món ăn rất hấp dẫn mà rất Tàu. Người miền Trung quan niệm rằng, món ăn này bổ tinh lực và ngon nhất là bộ da. Khi bắt được con cá mú lớn, ngư dân vùng miền Nam Trung bộ thường lột da đem phơi khô,để dành khi giỗ chạp hay có khách quý mới mang ra chế biến thành món ăn đặc sản. Da cá Mú rất dày, có khi dày đến 1cm, lột da đem phơi thật khô mới giữ được lâu. Khi khách đến nhà, chỉ cần cắt một miếng rồi đem thái nhỏ rang trên cát, sau đó ngâm trong nước cho sạch, vớt ra rá để ráo, trộn với đậu phộng rang vàng, rau răm thái nhỏ, nêm thêm gia vị ớt, tỏi, bột ngọt, nước mắm là được. Nhìn đĩa da cá Mú sắc vàng lốm đốm, cộng với những miếng ớt chín đỏ đã thấy phát thèm rồi.
    Ăn miếng da cá Mú trộn, bạn sẽ thấy hết cái đặc biệt của câu ?onhất bì nhì cốt?. Muốn tận hưởng vị của nó, bạn phải chờ đến miếng thứ hai, thứ ba. Nó vừa dẻo vừa thơm, vừa ngọt, vừa béo. Nhấp một chút rượu Bầu Đá, tưởng chừng hương da cá Mú bị trôi tuột xuống bụng, nhưng không phải, dư bị của nó vẫn cứ đọng lại ở tận đầu lưỡi./.
    Bánh tro
    Món quà này rất phổ biến tại các tỉnh ở miền Trung. Có nơi người ta còn kêu là bánh ú tro. Bánh như một thứ trái cây rất cần thiết để ăn tráng miệng, sau những bữa tiệc thịnh soạn vào ngày Tết. Không những thế, bánh còn như cốc nước mát có tác dụng giải rượu, bia khi lỡ vui quá đà.

    Bánh cần nhất là tro, để có đủ lượng bột tro cần thiết, người ta phải dồn lại từ rất nhiều ngày trước đó và phải tuyển rất kỹ. Bột tro để làm bánh nhất thiết phải có màu trắng và mịn. Bỏ vào chum, vại ngâm với nước.
    Tro tan ngay và để cho qua ngày hôm sau thì lọc nước. Gạo nếp vo sạch, để ráo rồi ngâm vào thứ nước tro này. Sau một ngày thì vớt ra, những hạt gạo khi ấy có màu vàng, xối nước lại cho trôi đi những gì bám bên ngoài nếp, rồi tiếp tới là việc gói bánh. Bánh tro được gói bằng lá chuối, nhỏ chỉ độ ngón tay. Bỏ bánh vào xoong nấu trên hai tiếng mới có thể vớt ra được. Có nấu kỹ như thế thì những hạt nếp mới nhuyễn nhừ, tan ra và kết dính lại với nhau, nhìn như một thỏi thạch trong suốt và có màu vàng rất ấn tượng.
    Ở quê, người ta làm bánh tro rất nhiều. Bánh cột lại thành từng xâu, treo nơi thoáng đãng và ăn dần.
    Dưa kiệu
    Bình Định có huyện Phù Mỹ là vùng đất trồng kiệu, nhiều nhất là ở xã Mỹ Trinh. Nơi đây một năm làm hai vụ kiệu, vụ kiệu giống bắt đầu từ tháng giêng đến tháng năm, vụ kiệu mùa từ tháng sáu đến tháng chạp (âm lịch) gọi là vụ kiệu tết. Tết đến, hầu như nhà nào ở Bình Định cũng có món dưa kiệu.
    Cỡ chừng cuối tháng 11 đầu tháng 12 âm lịch, thương lái các nơi đã tập trung về Mỹ Trinh mua kiệu rồi chở ra Bắc, vào Nam, lên Tây Nguyên để tiêu thụ. Chắc có lẽ vì kiệu là loại "cây nhà lá vườn" nên tết đến, không bao giờ người Bình Định thiếu món này trong nhà. Khi khách đến thăm nhà, gia chủ thường mang món dưa kiệu cùng với bánh tét để mời khách.
    Để làm thẩu kiệu chuẩn bị cho ngày tết được ngon, thường họ lựa kiệu sẻ, đều củ, bởi kiệu sẻ giòn và thơm hơn kiệu trâu. Cắt lấy củ, bỏ lá, ngâm nước tro chừng hai đêm cho bớt hăng rồi vớt ra rửa sạch bỏ vào nia đem phơi khô. Sau khi kiệu đã khô, dùng dao bén cắt bỏ râu kiệu, lột bỏ lớp vỏ lụa bên ngoài rồi muốn ngâm kiệu mắm hoặc kiệu chua ngọt tùy ý thích. Muốn làm kiệu mắm thì cứ nửa lít nước mắm ngon nấu cùng với hai lạng đường cát cho sôi đều, hớt bọt kỹ, để nước mắm thật nguội, bỏ củ kiệu vào, đậy kín nắp. Cỡ chừng vài ba ngày là mắm đường đã thấm vào kiệu. Kiệu ngâm mắm ăn rất ngon, nhất là ăn với bánh tét cùng với thịt bì, hoặc thịt thưng.
    Còn muốn làm kiệu chua ngọt, thì cứ nửa lít giấm hòa tan cùng hai lạng đường cát rồi cho củ kiệu vào. Đậy kín nắp thẩu, để chừng hai, ba ngày kiệu thấm, ăn được. Kiệu ngâm mắm, hoặc kiệu ngâm chua ngọt đều có vị ngon riêng của từng món. Ngoài ra, họ còn dùng kiệu non để luộc rồi chấm với nước mắm, ăn với cơm nóng.
    Hiện nay, do nhu cầu của cuộc sống, thị trường lúc nào cũng có dưa kiệu làm sẵn. Tuy nhiên dưa kiệu chế biến ở dạng này không được ngon lắm, bởi đã bị mất đi độ giòn và mùi thơm của hương kiệu.
  10. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Quy Nhơn, Món Có Tiếng
    Nhiều từ đôi thường được kèm vào chữ ăn như ăn mặc, ăn học, làm ăn,...đến một kiểu không hề ăn gì mà cũng bị dính ăn vào là ăn vạ. Đi đến đâu không thưởng thức được món ngon của địa phương coi như mất phân nửa giá trị hành trình khám phá.
    Nhớ vài lần đi du lịch chung với đoàn hoặc nhóm vài người bạn, cứ thấy họ bỏ thời gian đi lùng sục quán ăn Việt nam mà vừa bực (vì ảnh hưởng đến mình), vừa tiếc (vì mất bụng để thưởng thức món lạ). Đành rằng mình nhớ món ăn của mình nhưng mới vừa ở Việt nam hôm qua, hôm nay đã ào ào muốn ăn cơm hay phở. Những quán ăn Việt ở nước ngoài thường không đủ hương vị chính gốc do khó tìm nguyên liệu hoặc người nấu đã bị "lai" vị khi ở nước ngoài khá lâu. Sau một thời gian nhớ nhà phải tìm món Việt thì cũng được nhưng mới tức thì mà bỏ cơ hội khám phá món lạ địa phương thì uổng quá.
    Đợt này cũng không thua gì năm 2006, hễ nghe món gì chưa nếm hay đã từng ăn mà biết là ngon là má tìm nếm thử.
    Gà chỉ: một đoạn đường dài dày đặc các quán ăn trong vườn. Không thể vào quán nên theo lời mách của cô Dưa Hấu, một bạn trên blog, má gọi điện thoại cho họ mang đến nhà trọ. Một con chiên mắm, một con hấp hành. Thịt con gà làm món gì cũng ngon, ngọt đến tận xương. Nói như Hải Đăng đùa: hai con gà nhảy trong bụng sáng đêm.
    Đem hai con gà ra balcony nhìn ra biển, uống với bia Lowen, đọc trại ra thành "lâu quên", vừa nghe sóng vỗ, vừa nói chuyện vui làm thành một đêm ấm cúng. Đặc biệt họ xào một bộ lòng trộn vào xôi có mè thật thơm. Nhai miếng xôi nào biết ngon miếng đó. Một bộ lòng dặn nấu cháo cho hai đứa nhỏ ăn mà người lớn cũng "trơn bụng". Nước hcấm pha cũng rất đặc biệt, má đoán họ có dùng sữa đặc có đường, về nhà thử pha, đúng y.
    Nhớ có người mời "Chị uống Ken cho nó xịn" khi thấy má hỏi Lowen. Lowen ướp thật lạnh, nặn chanh bỏ cả vỏ vào, uống đậm đà không thua Corona của Mễ.
    Dặn nhà Hải Đăng mua bánh mí Tăng Bạt Hổ có thêm tương ớt, trứng luộc thôi mà sao hương vị ngon hẳn. Nhắc đến tương ớt mới nhớ, đến quán nào cũng hỏi có tương ớt xào hay không dù món ăn chẳng có chút nào liên quan. Vậy mà chị bếp của khu nhà trọ cũng vui vẻ chạy lúp xúp tìm cho một chén còn chỉ cách làm.
    Món xôi gà, i da, ngon hơn xôi gà của Nguyễn Trung Trực ở Saigon nhiều. Nếp thơm dẽo, gà tươm dầu vàng óng. Nhắc đến mà còn tương tư vì má đạo xôi.
    Chả bò của Quy nhơn, nem chợ Huyện, tré gói trong con cúi bằng rơm thơm nồng lá ổi,... biết là ngon nhưng không thể chiếm bao tử trong thời gian quý báu ở đây nên đành nhìn cho có.
    Sinh tố, lần này cai hẳn chứ không như lần trước dại dột uống vaò một ly để ghiền mà uống suốt. Vì là xứ nóng nên sinh tố trái cây pha chế rất phong phú. Hỗn hợp nha đam, cam, sữa, chưa uống đã nghe mát cả bụng.

    Chim mía đó là những con chim sống trong rẫy mía, chắc là chim se sẻ. Tội quá nhưng người ta mở quán chuyên bán mà không thử lòng sẽ không yên nên quyết định ghé lại mua mười con nếm cho biết. Chủ quán nghe gọi một chục cho bốn người nhìn má như người hành tinh khác đến. Bà ấy nói một người phải ít nhất hai chục! Chim đâu cho đủ nhỉ!

    Không dùng tại chỗ nên không biết món chim nướng thế nào chứ họ rô ti kiểu này giòn, thơm và ăn vào bắt ngây. Thấy món này nhớ đến món hột vịt lộn gỡ con lớn ra ướp gia vị, chặt mỏ rồi chiên thơm một góc chợ Saigon mặt Phan Bội Châu góc nhìn ra đường Ta Thu Thâu. Người bán cứ gạt người mua là chim se sẻ...

    Mùa này ra trúng ngay mùa sứa. Saigon gọi món sứa ra chỉ lác đác vài miếng và mềm xèo vì để lâu. Ra Quy nhơn, tha hồ thưởng thức gỏi, lẩu, bún sứa. Nghe nói sứa ăn vào làm mát cơ thể. Bún sứa ở quán này nổi tiếng, đúng giờ cao điểm không có chỗ để ngồi.


    Món gỏi này quán nào cũng có và chế biến na ná giống nhau, ngon như nhau hay ít ra má may mắn gặp toàn đầu bếp cao tay.

    Lẩu sứa có riêu cua biển, trứng cút, nấm rơm, thịt nạc xắt mòng, tôm,...nước lèo ngon, ngọt đến lạnh mình.

    Dĩa rau đi kèm mới đáng chú ý: xoài bằm, bắp chuối, hành tây, rau thơm các loại có cả hành phi trộn với đậu phông rang rồi đâm ra không đều có bột có hột.

    Bánh xèo Phước Sơn trong phố là chi nhánh, quán gốc phải ra tận Phước Sơn. Hào hứng lắm để thưởng thức món bánh nổi tiếng này. Nhằm lúc đông khách, đúng là vừa ngồi may là chưa ăn, bị tra tấn bởi khách chung quanh đến nhức đầu. Họ cứ la cứ hét cả làng đều biết chuyện nhà của họ.

    Đã đi xa nên cố thủ ngồi chịu trận, họ bưng ra phần phụ liệu, trông hấp dẫn nhưng đến khi thấy bánh xèo lại "dội" vì dầu mỡ khủng khiếp, y như bánh xèo Đinh Công Tráng tắm mỡ vậy.

    Ở Quy Nhơn món gì cũng cuốn bánh tráng nên bánh xèo không ngoại lệ. Má đem khăn giấy của mình ra lót dĩa này rồi sang bánh qua cho phần mỡ bị rút bớt. Một bịch không đủ phải tới nửa bịch thứ hai, biết là mỡ nhiều đến độ nào. Cuộn miếng bánh giòn vào bánh tráng chung với xoài bằm, rau sống, dưa leo chấm nước mắm đỏ rực ớt và tỏi: ngon! Thảo nào mà người ta cứ nườm nượp.

    Còn một bánh dùng không hết họ mang ra cuộn lại thành một một cuốn thế này. bên trong là nguyên một cái bánh xèo, đủ biết cái cuốn nó to thế nào. Cũng thú vị.

    Chín lò là con số may mắn và bắt buộc cho chuyện kinh doanh.

    Dừa tươi của Quy nhơn vị thanh, ngọt, trái naò như trái nấy. Tri uống hai trái cùng lúc mà còn chép miệng. Góc Trần Phú là quán luôn có dừa mới, chặt tại chỗ. Có điều họ hơi tham nên làm má buồn một chút. Hỏi bao nhiêu một chục mua mang về, cô bé chạy bàn nói "năm lăm", lát sau bà chủ tính "bảy lăm". Nghe nói giá bình quân bên ngoài, chỗ khác là tám ngàn một trái nên thôi, không hỏi lại nhưng HĐ khăng khăng như vậy là không tốt. Kệ, đi chơi mà, hơi đâu bực mình.

Chia sẻ trang này