1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

DnD Global GROUP: Lý Sơn - Quy Nhơn (13-22/07/12) Lý Sơn-3 ngày hè trên đảo Bé, Quy Nhơn vào hội

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi D_and_D, 03/09/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Bánh Bèo...Quy Nhơn
    Lẽ ra cái tựa trên kia là Bánh Bèo Cây Mận. Nhờ chú tài xế taxi mách mà má biết cách quán bánh bèo Cây Mận nổi tiếng của Quy nhơn vài mươi mét trong hẻm nhỏ vào chừng hai mươi mét có quán bánh bèo bà Lan lâu đời hơn Cây Mận. Bánh phong phú nhiều loại hơn, ngon hơn và rẻ hơn.

    Khi chú ấy khuyên nên vào quán đó ăn thử, má đã ngại ngần tính tới tính lui suốt trên xe vì sợ không ngon trong khi má đã quyết tâm phải có bánh bèo CM lót bao tử mới vui vẻ về Saigon. Chọn quán này cũng vì hiếu kỳ và tin tưởng vào tài xế vì các chú cầm lái luôn biết những chỗ ăn uống độc đáo, đáng tin.

    Bánh bèo mềm mại, dai nhưng giòn, đúng là vậy, không hề nghe mùi bột chua như của Cây Mận. Bánh đổ tại chỗ, nhìn cái xoáy tròn vo thật sâu mà thương. Đặc biệt, má phát hiện ra chuyện dùng bình có vòi rót vào khuôn đổ bánh bèo cho có xoáy là một tip hoàn toàn phá sản. Trước mắt má là một cái muỗng bình thường trong bàn tay chị đổ bánh. Nguyên tắc để bánh bèo có xoáy là : khuôn đổ bánh phải hấp trước thật nóng, đổ bột nhanh và khuôn phải có độ sâu. Hết!

    Nước mắm nấu trong, muốn cay thì tỏi ớt giã sẵn để đó, khi cần cho vào dĩa theo yêu cầu cần cay ít hay nhiều. Nước mắm ở đây thật ngon, thơm đậm mà dịu, hừm, ngồi gõ mà nhớ... khó chịu quá!

    Bánh ít bột nếp, có nhân là một con tôm rang, không có gì khác. Hấp bánh xong lấy phần sauce rang tôm còn thoa lên mặt bánh.


    Bánh ít ram cũng vậy rồi chiên lên trong chảo ngập dầu thật nóng.

    Bánh bột lọc không có gì đặc biệt, có nhân tôm, nhân đậu gói trong bột năng.

    Dầu hẹ, loại hẹ có cọng nhỏ rít rất cưng xắt nhuyễn rồi quệt vào dầu phộng nguyên chất thoa lên bánh đã xếp trên dĩa. Thơm quá.
    Ruốc tôm cũng dài cọng chứ không nát nhừ và khô queo như thường thấy.

    Một dĩa bánh hoàn hảo từ mùi vị, màu sắc
    . Ngồi chờ miệt mài mới có để thưởng thức vì người ta đến mua về hàng chục phần chưa kể đóng vào Saigon cho khách.

    Bánh này, quên hỏi tên, đem ra sau cùng vì không hấp kịp. Bột nhiều lá dứa. Bánh ngon nhưng nếu bớt lá dứa má thích hơn.
    Địa chỉ: 720/4 Trần Hưng Đạo. Phường Đống Đa. Điện thoại: (056) 3792633 - 01694751947
  2. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Bánh cuốn trẹt
    Thực khách suýt... bật ngửa khi "đồ nghề" của món bánh cuốn trẹt được bưng lên. Thế nhưng, nếu đã lỡ thưởng thức thì vị khách nào cũng... nước miếng chảy ròng.
    "Đồ nghề" của món bánh cuốn trẹt chỉ với một phần ăn nhưng lại quá nhiều đồ đạc: 1 cái trẹt làm bằng tre, 2 cái bánh tráng nổi tiếng của đất Tam Quan, một đĩa thịt bò nướng lựng mùi thơm lôi cuốn, một đĩa chả ram, rau sống... Bánh tráng được nhúng nước đặt lên trẹt, sau đó bỏ rau, thịt... rồi cuốn, chấm, rồi "gặm", để mà... chất ngất.
    Món bánh cuốn trẹt chỉ có ở thị trấn Bình Định (huyện An Nhơn, Bình Định) và đã trở thành một "thương hiệu" của thị trấn. Với thực khách qua đường, ăn vào cứ vương vấn, nhưng đối với những người "chân quê" ở đó, năm này qua năm khác, bánh cuốn trẹt vẫn luôn mang một dư vị riêng mà họ chẳng bao giờ ngán... Trên con đường Trần Phú ở thị trấn, quán Năm Cưu nho nhỏ nằm ven đường chẳng có gì đặc biệt. Thế nhưng, nhiều thực khách đổ về quán chỉ vì... tiếng đồn! Họ đồn rằng: Một bà già ngồi chễm chệ trên bục xi măng cũ, bên trên với một dãy bếp lửa hồng nướng thịt bò đang nổ tanh tách và thơm phức. Người ta thường gọi bà già ấy là Năm Cưu, nhưng đó là tên của chồng, còn bà tên là Lửa. Bà chính là người đã "sáng tác" ra món bánh cuốn trẹt cách đây đã hơn 50 năm.
    Chế biến món thịt bò nướng xem ra chẳng có gì đặc biệt, nhưng với bà Lửa, đó là một nghệ thuật. Theo bà, thịt bò phải thuộc loại ngon nhất, được thái ra thành từng miếng nhỏ sao cho vừa miệng người ăn. Thịt được tẩm ướp nước mắm, thêm các loại gia vị như hành, tiêu, ớt, tỏi, bột ngọt, dầu... Tuy nhiên, người chế biến phải biết cách đong đếm cho vừa nguyên liệu và ướp phải đúng thời gian thì thịt khi nướng mới là... "số một". Thịt được xiên thành từng xâu trên các que tre (mỗi xâu 3 - 4 miếng), rồi sau đó nướng trên lò than.
    Chén nước chấm bánh cuốn trẹt được pha chế khá công phu. Nước xào của thịt bò trộn với nước mắm ớt giã tỏi thật nhuyễn, thêm một ít xoài cắt mỏng, gia vị rồi bỏ lên bếp than cho nước chấm luôn âm ấm. Thế là, cái dai dai mềm mềm của bánh tráng Tam Quan nổi tiếng, ngào ngạt hương vị của thịt nướng, của mắm, của thịt xào xen kẽ vị chua chua của xoài, cay cay của ớt, thoang thoảng mùi tre của trẹt... Nói chung là ngon tuyệt! Đặc biệt hơn, dù đã có "thương hiệu" từ rất lâu, nhưng giá của bánh cuốn trẹt lại đang nằm ở "đẳng cấp nhà quê" trong cái thời bão giá như hiện nay.
    Cách đây hơn 50 năm, cũng tại quán ấy, cô gái tên Lửa có tiếng "dụ dỗ" thực khách với món chả tôm, đậu luộc, thịt xào... Nhưng rồi một ngày, cô chợt nảy ra ý định là phải thay đổi các món ăn cho thật thú vị để quán có thể tồn tại lâu hơn. Rồi năm này qua năm khác, bà Lửa đến nay đã ngoài tuổi tám mươi, quán Năm Cưu đã quá cái tuổi năm mươi, nhưng mùi vị của bánh cuốn trẹt vẫn thơm lừng một góc thị trấn.
    Ăn rong ở Quy Nhơn 13/02/2007
    Đi ăn rong cũng là một cái thú. Lang thang trên những con đường, tình cờ ghé vào một quán nhỏ ven đường ăn lót dạ. Và thật thú vị khi ta phát hiện ra được một quán ngon, ?olàm quà? để tặng người thân và bạn phương xa bằng câu nói ?ocó quán này ngon lắm, ăn thử hông??, hoặc ?okhi nào bạn về, mình sẽ dẫn bạn lang thang, đi ăn rong trên phố xá Quy Nhơn?...

    Hàng bánh ít, bánh tai vạc, bún dây lúc nào cũng đắt hàng.
    * Bánh canh, bánh cuốn và bún chả cá Quy Nhơn
    Đó là những món ăn mà bạn có thể dễ dàng tìm thấy ở bất kỳ quán ăn nào trên đường phố Quy Nhơn. Đó là ?ođặc sản? của phố biển quê hương.
    Bánh canh làm từ những sợi bột dài trắng tinh làm từ bột gạo hoặc bột mì nhất. Còn bánh tráng cuốn, ở Bình Định mới có thứ bánh tráng vừa mỏng, vừa dai vừa miệng người ăn đến vậy. Nổi tiếng và được nhiều người biết nhất là quán bánh canh Bà O (45 Phan Đình Phùng). Chẳng biết bà tên thật là gì, chỉ biết bà dân gốc Huế, khách vẫn kêu O, lâu rồi thành quen. Bánh canh của bà là bánh canh làm từ bột gạo, cọng tròn dài vừa đủ ăn. Bánh canh chả cuốn, thêm một quả trứng cút, nửa lát chả lụa sóng sánh trong vị nước lèo đậm đà. Thêm chút hành lá, chút tiêu, chút ớt tương sánh đỏ. Vậy là ta đã có một tô bánh canh ngon lành, giá 5.000 đồng/tô, chả cuốn 3.000 đồng.
    Gần hai năm trở lại đây, xuất hiện món bánh canh cua O Huệ (28 Trường Chinh)- đặc sản của xứ biển du lịch Nha Trang. Chẳng biết lấy nguồn từ đâu, nhưng lúc nào tô bánh canh cũng có vài miếng nạc cua thêm vài lát chả cá. Vị cá - cua kết hợp, thêm cọng bánh canh bột mì nhứt dai dai... khiến thực khách Quy Nhơn thấy lạ miệng.
    Còn bún cá ư? Hầu như mọi con đường ở Quy Nhơn đều có bán. Nhưng nhiều người vẫn ?ochấm? quán 159 đường Nguyễn Huệ. Ngoài nguyên liệu chính là chả cá, tô bún còn được chủ quán ?ođiểm xuyết? thêm một vài tai nấm rơm làm cho tô bún ?ongọt? hơn. Dĩa rau sống được chủ quán chăm chút từng chút một, từ hoa chuối chát xắt nhỏ đến các vị húng, quế, xà lách thái nhỏ, tạo cho thực khách cảm giác rất ngon miệng. Một người bạn dân Hà Nội của tôi đến Quy Nhơn nằng nặc đòi dẫn đi ăn bún cá dù buffee sáng tại khách sạn chẳng thiếu thứ gì. Vừa ăn vừa hít hà, anh phán ?ongon quá? và làm liền một lúc hai tô.
    Mùa sứa rộ (cuối xuân đầu hè), bạn muốn thưởng thức món bún sứa cho mát dạ, hãy nhớ ghé đến quán Vân Vi ở 142 Lê Hồng Phong.
    * Bánh xèo
    Nói đến bánh xèo, thể nào giới sinh viên Trường Đại học Quy Nhơn và những người sống ở Khu 6 (đoạn đường Nguyễn Thái Học, Ngô Mây, Hoàng Văn Thụ) sẽ nghĩ ngay đến quán Cây Me (số 546 Nguyễn Thái Học) bởi nó khá ngon.
    Trước đây, ở góc ngã tư đường Trần Cao Vân - Phan Bội Châu có đến ba, bốn quán bánh xèo nằm liền kề nhau, rất đông khách. Nhưng kể từ khi một cô chủ quán xinh gái theo chồng bỏ cuộc chơi (làm nhiều nam thực khách tiếc ngẩn ngơ) thì góc quán bánh xèo này thưa hẳn. Trong hai quán còn lại ấy, giờ thực khách đến quán Thu Vân nhiều hơn (90C Trần Cao Vân). Phải chăng là vì cô ấy trẻ hơn người chủ quán kia?
    Nếu bạn là người hay la cà, chịu bỏ thời gian đi tìm hiểu các ngóc ngách, hẻm nhỏ của Quy Nhơn, xin mời đến căn hẻm nhỏ mà có thể đi vào bằng hai đường Đinh Bộ Lĩnh hoặc Trần Hưng Đạo (hẻm 90 Trần Hưng Đạo). Cua qua ba, bốn dạo, hỏi thăm quán chị Mai, chuyên bán bánh vào buổi chiều. Bánh xèo đúc ngon, cô chủ quán niềm nở, đón tiếp chu đáo nên dẫu có ngồi chờ 1-2 tiếng, khách vẫn cứ vui lòng đợi thêm. Lưu ý: nhắm mình ăn được bao nhiêu thì kêu đúc bấy nhiêu phòng khi quán không kịp phục vụ. Đang ăn ?odở mồm? mà phải chờ... để ăn tiếp thì mất cả ngon.
    * Các loại bánh khác và chè
    Quy Nhơn chẳng có nhiều loại chè, loại bánh kiểu ?ocung đình?, thưởng thức ?ohương hoa? như ở Huế mà chỉ có các loại bánh ?oăn chắc, mặc bền? như chính tính cách của người dân Bình Định vậy.
    Quán bánh bèo nóng ở số 742 Trần Hưng Đạo mà mọi người vẫn thường gọi là bánh bèo Cây Mận. Đơn giản, vì quán có hai cây mận trước sân. Bánh bèo nóng mới đúc, rắc thêm ít tôm chấy (tôm quá mắc nên thay bằng cá nhưng đảm bảo không để lại mùi tanh) lên trên, thêm ít bánh mì chiên giòn, hành phi... bảo đảm người đói bụng, lâu ngày thèm bánh bèo có thể ?odứt? một lúc hai, ba chục chén bánh bèo.
    Tại góc đường Mai Xuân Thưởng, trước hiên nhà số 100, có cô chủ chuyên bán nhiều loại bánh. Từ bánh ít nhân mặn, bánh bèo, bánh hỏi, bánh tai vạc, bánh gói đến bún dây, chả ram... để cho thực khách tha hồ mà chọn lựa, thích gì ăn nấy. Cỡ từ 3 giờ chiều trở đi, quán lúc nào cũng đông khách, không chỉ các bà, các cô, học sinh ăn lót dạ trước khi vào tiếp các cua học thêm mà cánh đàn ông, con trai cũng có mặt. Hóa ra, thú đi ?oăn hàng? cũng không phải là ?ođộc quyền? của giới nữ.
    Người ?ohảo ngọt? thích ăn chè, hẳn thể nào cũng biết đến quán chè của Cô Bảy- ngay gần ngã tư đường Tăng Bạt Hổ - Lê Hồng Phong (Quy Nhơn). Chè đậu xanh bông cau vàng ươm, hột đậu mềm nhưng không nát. Chè đậu trắng, đậu đỏ, đậu ván, đậu đen, rồi chè ỉ... loại nào cũng ngon. Ăn miếng chè ngọt thanh chứ không gắt như những quán khác. Vì tín nhiệm Cô Bảy nên nhiều gia chủ đã đến tận nhà (hẻm 53 Diên Hồng) mua chè trước để về cúng rằm, tất niên.
    Ở đường Ngô Mây, HSSV rất kết quán chè Nhớ ở số nhà 134. Quán chỉ chuyên bán chè thập cẩm (đủ loại), chè trái cây hay đông sương. Chè ở quán này ngon, rẻ nên nơi đây là ?ođiểm hẹn? không chỉ của các đôi bạn yêu nhau mà còn của các bạn sinh viên đến ?okhao? học bổng, hoặc ?ochung độ? sau chầu cá độ nào đó.
    Đất Quy Nhơn vốn ?onổi tiếng? về giá cả phải chăng, rẻ hơn các thành phố khác. Bởi thế cho nên, chỉ 1.000 đồng bạn có thể thưởng thức được một chén chè nóng, vị ngọt thanh tao của chè Cô Bảy, dĩa bánh tai vạc, bún dây 2.000 đồng, tô bún cá ngon nhất cũng chỉ có 6.000 đồng (có thể lên vào dịp Tết).
    Chiều. Dạo quanh thành phố bằng xe máy, xe đạp, lang thang trên từng con phố nhỏ trong không khí bình yên của phố biển, rẽ vào quán bên đường hay trong hẻm nhỏ thưởng thức thú ăn rong. Chà, thật chẳng có gì tuyệt bằng!
    Nghề bánh tráng ở đất Võ
    Bình Định vang danh với nhiều võ sư nổi tiếng, nhiều làng võ cổ truyền An Thái, An Vinh, Thuận Truyền? lưu dấu đôi bờ sông Kôn. Miền đất võ cũng được du khách thập phương nhớ đến với nghề bánh tráng đặc sản. Hầu hết miền quê trong tỉnh và ngay cả ở trên địa bàn TP Quy Nhơn luôn có nhiều gia đình chuyên sống bằng nghề này.
    Các lò bánh tráng đỏ lửa quanh năm, nhưng nhộn nhịp và tất bật nhất vào dịp giáp Tết, khi tiết trời ấm dần lên, nắng rọi chói chang giúp bánh nhanh khô và đặc biệt tháng Giêng khi nhu cầu tiêu thụ bánh của thị trường tăng cao. Nguyên liệu chính chế biến bánh tráng là gạo, ngoài ra còn thêm bột mì (tạo độ dẻo, dai), mè, dừa, muối (tạo hương vị thơm ngon, mặn mà)?
    Thông thường mỗi kg gạo có thể chế biến thành hàng trăm chiếc bánh, tuỳ độ tráng dày hoặc mỏng. Người thợ tráng bánh trên lò như một nghệ sĩ ký hoạ chân dung; nhanh, điêu luyện nhưng không kém phần chính xác để tạo ra những chiếc bánh tròn trịa, đều nhau chỉ trong vòng chưa tới 10 giây đồng hồ. Bánh tráng xong còn phải phơi khô để thành thành phẩm được bán với giá từ 200 đồng đến hơn 2.000 đồng/chiếc tuỳ vào chất lượng của bánh.
    Bánh tráng đất Võ Bình Định từ lâu đã trở thành đặc sản. Tương truyền nghĩa quân Tây Sơn ngày trước đã dùng bánh tráng làm lương khô khi hành quân. Nay đặc sản này là món ăn không thể thiếu trong các gia đình ở vùng đất này? Sau đây là các công đoạn chính của sản xuất bánh tráng.

    Các lò bánh tráng luôn đỏ lửa trong những ngày giáp Tết.
    Gạo (nguyên liệu chính) được vo gạo sạch trước khi xay thành bột nước.

    Phụ nữ là lao động chính của nghề bánh tráng.

    Nhưng đàn ông cũng tài hoa không kém khi tráng bánh.


    Bánh vớt ra xong đưa lên phên để phơi cho khô. Ngày nắng tốt là niềm vui của người làm bánh tráng.

  3. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Bánh Tráng Bình Định
    Bánh tráng (hay bánh đa) không riêng của Bình định, nhưng ở Bình định có lối ăn bánh tráng riêng, dường như ít nhiều liên quan đén một khía cạnh sinh hoạt trong quân đội dưới thời vua Quang Trung.
    Trưóc hết, hãy lướt qua những cách ăn bánh tráng thường thấy: bánh tráng nướng, bẻ từng mảnh, nhai cúc cắc cho vui miệng truớc khi bắt đầu vào tiệc: ngoài Trung ngoài Bắc, trong trường hợp này bánh tráng có vai trò đại khái như bánh phồng tôm trong Nam.
    Trong dăm ba trường hợp khác, cũng thứ bánh tráng nướng, cũng bẻ từng mảnh cúc cắc, nhưng không dùng để mở đầu bữa tiệc, mà lại suốt bữa ăn, từ đầu đến cuối: chẳng hạn trong bữa thịt cầy, bữa chả cá, chẳng hạn khi dùng bánh tráng xúc xác đậu xào, xúc mớ gan cá nghéo xào ăn cho khỏi bệnh quáng gà v.v...
    Cũng lại bánh tráng nướng nữa, đem giã vụn ra, hoặc dùng làm "thính", hoặc trộn với thịt đầu heo , hoặc rắc lên dĩa tiết canh v.v...
    Nhưng dùng được nhiều việc hơn, có lẽ là thứ bánh tráng khô nhúng nước. Có thể cắt từng mảnh nhỏ, cuốn một miếng thịt, một con tôm, chiên dầu, làm món chả ram. Có thể cuốn với cua, tôm, thịt, nấm mèo, bún tàu chiên dầu, làm món chả giò. Có thể cuốn nem nướng, cuốn thịt bò nhúng dấm, cuốn... gần như không thể nói hết về cái nội dung nằm trong những cuốn bánh tráng đó. Tùy mùa tùy tiết, tùy sản phẩm địa phương, tùy tầng lớp giàu nghèo, cuốn bánh tráng thay đổi nội dung: có thể là nem là chả, cũng có thể chỉ là mớ giá sống với miếng cá nục trụng, chỉ là mớ xác đậu xào, là ít cọng rau với miếng dừa già v.v...
    Bánh tráng để cuốn có thể dùng khi nó còn ướt. Bánh ướt bên dưới, bánh khô đặt lên trên; cặp đôi với nhau, làm món bánh đập... Bánh ướt xắt ra, làm bánh phở, xắt rồi phơi khô, dùng trong một vài món xào v.v...
    Chúng ta chỉ lướt qua để có một ý niệm đại khái về cách dùng bánh tráng làm món ăn, chứ không muốn tìm hiểu cho hết ngọn ngành. Chắc chắn trong một cuốn tự vị gia chánh dân tộc, cái phần sẽ được dành cho bánh tráng cũng dài lắm, quan trọng lắm. Tôi ao ước được hỏi ở một công trình tổng hợp kiến thức về bánh tráng như thế. Trên mớ kiến thức ấy, những ông Thạch Lam, Vũ Bằng sẽ tha hồ suy nghĩ về bánh tráng đứng trên quan điểm nghệ thuật...
    Vậy tìm hiểu cho đủ, tìm hiểu cái hay của những miếng ngon miền Bắc món lạ miền Nam v.v... thì hãy chờ ở những công trình nghiên cứu nghệ thuật ấy. Còn như đi tìm một lối ăn bánh tráng cho thật dở thì chỉ cần đến Bình định.
    Thật vậy, cái đặc biệt ở đây chính là tại chỗ dở nhất ấy.
    Tất nhiên, nói chung, ở các nơi khác ăn ra sao, thì ở Bình định cũng như vậy: cũng bánh tráng nướng, bánh khô nhúng nước, cũng bánh ướt, cũng xào, cũng cuốn v.v... Cái món cuốn được ưa thích nhất tại địa phương là bánh tráng cuốn "thịt lụi" (tức thịt bò "lụi" vào que nướng, cuốn với chả ram, với rau thơm, chấm với một thứ nước tương đặc chế). Ở ngoài chợ, ở các quán ăn, ở những đám tiệc, hội hè, xung quanh các đám hát, các chiếu bạc v.v... đều có hàng bánh tráng thịt lụi.
    Nhưng cái đặc biệt ở Bình định là lối ăn bánh tráng cuốn mà không cuốn thứ gì cả, không có nội dung! Tức bánh tráng thuần túy.
    Ăn như thế người ta ăn rất nhiều bánh tráng, lấy bánh tráng thay cơm. Nông dân mỗi sáng trước khi ra đồng, nếu không kịp thổi cơm sớm, có thể dùng mấy cuốn bánh tráng thay bữa cơm sáng. Học trò ở trọ xa nhà, thường mang theo một chồng bánh tráng hàng trăm cái, mỗi sáng nhúng nước vài chiếc, cuốn ăn điểm tâm. Những gia đình có một nghề thủ công riêng, đêm đêm thức khuya dệt vải, đập xơ dừa, chắp trân dệt chiếu v.v... thường xúm xít tổ chức một bữa ăn khuya; lại vẫn bánh tráng nhúng nước rồi cuốn.
    Cuốn như thế, nếu nhà có sẵn rau, sẵn thịt cá v.v... mà cho vào càng tốt; nếu không sẵn (như trường hợp những cậu học trò ở trọ) thì cũng chẳng sao.
    Bánh tráng mà dùng "thuần túy" như vậy có vẻ phi nghệ thuật, khó mê. Vậy mà dân Bình định đã đâm nghiện món ăn ấy. Ði làm ăn xa, lâu ngày không có dịp ăn bánh tráng, họ nhớ quay nhớ quắt. Tìm mua cho được thứ bánh tráng thích hợp để ăn như thế, lắm khi không phải dễ: đó không phải thứ bánh tráng quá mỏng quá mặn, không nên có mè, có tôm, có nước dừa v.v... Ở Sài gòn, những năm trước đây hiếm có nơi nào bán thứ bánh tráng để ăn "thuần túy", chỉ một số người tìm ra chỗ mua khá hiểm hóc ở đâu vùng Ngã Ba Ông Tạ, Ngã Tư Bảy Hiền v.v... Họ mua trữ sẵn trong nhà để dùng. Thế rồi thỉnh thoảng một người bạn đồng hương đến chơi, bắt gặp mớ bánh tráng ấy, lấy làm ngạc nhiên mừng rỡ. Rồi chủ khách tíu ta tíu tít bày tiệc; bánh tráng "thuần túy" chấm với nước cá hay nước mắm chanh ớt. Chỉ có vậy thôi mà người bạn đồng hương - nhất là bạn gái - dù đã giàu sang, đã quen ăn Tây ăn Tàu v.v... vẫn lấy làm ngon. Y như người Huế đối với cơm hến, người quảng đối với gion, người Sóc trăng, Trà vinh đối với bún nước lèo v.v...
    Quen với nếp cũ, có những gia đình người Bình định, ngày nay lánh nạn về đô thị, không còn tiểu công nghệ nữa, vậy mà đêm đêm đàn bà con gái trong nhà rủ nhau làm một chầu bánh tráng cuốn thường lệ trước khi đi ngủ!
    Những chỗ tương đồng không nói làm gì, riêng điểm dị biệt giữa lối ăn bánh tráng ở Bình định và ở các nơi khác có thể phát sinh một thắc mắc: Tại sao nơi dùng nhiều bánh tráng nhất, nơi sở trường về bánh tráng, lại bằng lòng với một món ăn xoàng như vậy, dở như vậy?
    Thật ra, cái khác biệt căn bản là: ở các nơi, bánh tráng dùng để chế biến ra thức ăn; ở Bình định, nó được dùng thay cơm gạo. Bữa bánh tráng tại đây có những trường hợp thay thế cho bữa cơm bữa cháo.
    Và chính vì thế mà có thể ngờ rằng lối ăn ấy có dính líu đến vua Quang Trung. Nó bắt nguồn từ một sáng kiến trong quân đội Tây Sơn chăng? Nó là thứ lương khô, là món đồ hộp của thế kỷ trước, trong một quân đội nổi tiếng di hành cấp tốc chăng?
    Binh sĩ hàng vạn mà nấu cơm nấu đồ ăn cho xong một bữa thì dình dàng khá lâu. Ðàng này, gặp lúc cần kíp, chỉ cần nhúng bánh tráng vào nước, cuốn lại, là rồi. Trong những trường hợp ấy, quân địch nấu nướng, quân Tây Sơn không phải nấu; quân địch ngồi ăn, quân Tây sơn ăn đi ăn chạy. Bánh tráng đã có phần đóng góp của nó vào chiến thuật hành quân của vua Quang Trung chăng? Ðã cống hiến cho người một lợi thế qúy báu để tranh thủ thời gian với địch chăng? Như vậy, trong những cuộc hành quân thần tốc từ Nghệ an ra, đánh rốc Ngọc Hồi, Hà Hồi, đánh thẳng tới Thăng Long, mà quân thanh không kịp trở tay, có phải bánh tráng đã góp một vai trò cứu nước chăng? Trong lịch sử dân tộc, trong lịch sử chống Bắc xâm nên dành một chương cho bánh tráng chăng?
    Vua Quang Trung sở trường về lối đánh chớp nhoáng. Sử sách dường như có nhắc đâu đó cái sáng kiến dùng một chiếc võng cho ba người lính: một kẻ nằm hai người khiêng chạy lúp xúp, luân phiên thay đổi nhau, ngày đêm có thể di chuyển không cần ngừng nghỉ. Sử không nhắc đến bánh tráng. Bởi vậy, những sự suy đoán của kẻ hậu sinh này thật phiêu lưu.
    Dù sao, một món lương khô thịnh hành ở chỗ quê hương của vua Quang Trung: đó cũng là đề tài đáng suy nghĩ, khả dĩ đưa đến một vài giải quyết.
    "Dù sao", không nên suy nghĩ về cái giả thuyết vua Quang Trung phát minh ra bánh tráng. Vua Quang Trung là một thiên tài lớn, nhưng chúng ta đừng tham lam dồn quá nhiều thứ lỉnh kỉnh vào cái thiên tài ấy.
    Hãy tưởng tượng: Nếu ngày nay, trong một quân đội nào đó, chúng ta bắt gặp một món đồ hộp vừa gọn nhẹ vừa bổ dưỡng, nghĩa là tiện dụng hơn những món thông thường ở quân đội khác, bất quá ta chú ý đến nhà thầu cung cấp, đến kỹ thuật của một xưởng chế tạo thực phẩm, hay đến ông giám đốc quân nhu, thế thôi. Lẽ nào bốc thơm đến cả vị tổng tư lệnh chỉ vì chút chuyện ấy? Ngày xưa, vua quang Trung cũng không hơi đâu mà lo...
    Nói thế có lý, nhưng e không đúng ý các nhà quân sự của chúng ta xưa kia...
    Ơ! Xưa kia, các tay tổ như Tôn Vũ, như Khương Thượng v.v... đâu có ý kiến gì về những chuyện nhỏ nhặt ấy?
    Phải. Trong những cuốn binh pháp của Tôn Vũ, của Ngô Khởi, trong Lục Thao Tam Lược của Khương Thượng, của Hoàng Thạch Công v.v... toàn luận về thiên thời địa lợi, về phép điều binh khiển tướng, về những chuyện trên trời dưới đất, cao xa tham thúy, chứ không thấy có chuyện cái ăn cái uống của lính tráng. Nhưng các vị ấy không phải là "chúng ta" là người Việt nam.
    Trái lại, trong cuốn Binh thư yếu lược của đức Trần Hưng Ðạo có hẳn một chương về quân nhu. Vị tướng này xác định: "Lương thực là nhu cầu tối thượng của nhân dân, là sinh mạng của binh sĩ...", và người đã nghiên cứu chỉ dẫn tỉ mỉ những cách thức nấu ăn cho được nhanh chóng, những món lương khô gọn nhẹ v.v... Người dạy cho kỵ binh phép nấu cơm trên lưng ngựa, tay cầm ống tre đựng gạo nước, vừa cưỡi ngựa vừa đun cơm bằng đuốc; như thế lính có "cơm ăn ngon lành, tinh thần thêm hăng hái, gặp địch đánh ngay, không ai địch nổi." Người lại có những toa thuốc bổ tán nhỏ, viên thành hoàn, mỗi lần uống cả viên, cả ngày không đói. Người có mách những món lương khô như bánh nai (?), như cơm sô (?) v.v... Người bày ra cách lấy đậu nấu chín tán nhuyễn, trộn với muối, vắt thành hột táo, phơi khô, mỗi khi ăn lấy ra hòa với nước thay tương, có thể dùng trong năm mươi ngày v.v...
    Sự chu tất ấy không thấy ở các nhà quân sự Trung hoa.
    Tất nhiên không thể đi đến một nhận định khái quát rằng đó là một đặc điểm dân tộc, nhưng tại sao chúng ta không thể nghĩ vua Quang Trung cũng có những mối quan tâm lo lắng như đức Trần Hưng Ðạo?
    Dù vậy cũng không chắc vua Quang Trung phát minh ra bánh tráng.
    Ðúng thế. Và chúng ta không mong tìm ra được kẻ "phát minh" ấy. Về phần vua Quang Trung, có thể người công chú ý, phát huy món bánh tráng ăn thay cơm mà thôi. Như thế đủ rồi: chúng ta chỉ muốn nói đến "một khí cạnh sinh hoạt trong quân đội dưới thời vua Quang Trung", đến một "chút liên hệ với vị anh hùng"...
    Quả thực không có một bằng chứng rõ rệt đưa đến một xác quyết.
  4. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Ngô Thanh Hùng 21:08 13-11-2009
    Nhân đọc bài bánh tráng Bình định,tôi nhớ đến 2 câu chuyện xa lắc ( người thật việc thật).
    1/- Năm 74 vào SG học, theo bạn về nhà Long An chơi, khi ăn bánh tráng cuốn với đủ thứ, bánh tráng nam bộ nhỏ, khô, không cuốn được. Mình nói bánh tráng quê tao BĐ to-dày hơn rất ngon dễ cuốn.Bạn tôi hỏi : mầy biết tại sao bánh tráng quê mầy & miền trung dày-to không?-Tại vì ở trong nam bánh tráng để gói đồ ăn chấm, còn quê mầy bánh tráng ăn cho no, có gì nhiều đâu mà cuốn.
    2/-Khoảng 78 dẫn bạn về QN chơi, chiều ra Phước Hiệp thăm bạn ( có điện thoại đâu mà báo trước), đến nhà bạn đang ăn cơm, cả nhà mừng quá hối 2 thằng cùng ăn cơm. Bạn Nam bộ hơi ngại vì sợ không đủ cơm, tôi thì hiểu quá rồi bảo cứ ăn đi thiếu cơm thì nhúng bánh tráng hái rau trước sân ăn tiếp.Tối đó cùng uống trà, người bạn nam bộ nói : thông qua cái bánh tráng tao thấy người BĐ hiếu khách 1 cách bình dị. Mời ăn cơm là thật lòng, cứ thiếu cơm là nhúng bánh tráng.
    Xin chia sẽ cùng tác giả bài viết 2 ý trong bài
    1/- Bẻ bánh tráng sau khi nhúng nước rồi cuốn ăn, chứ hình như tôi chưa nghe BĐ nói cắt bánh tráng nhúng rồi cuốn.
    2/-Theo thiển ý của kẻ hậu sinh, có lẻ bánh tráng có từ khi tổ tiên ta đi từ bắc vào Trung (có cả BĐ), khi đó còn nghèo khổ, làng xóm mới có còn vắng thì bánh tráng là loại lương khô dự trử ( Cũng như Mì Quảng ít nước vì xương đâu nhiều để hầm nước lèo),khi vua QT hành quân thì dân BĐ nhúng bánh tráng thay cơm là tuyệt.
    Bánh in Bình Định
    Bánh in là loại bánh phổ biến nhất ở Bình Định vào dịp giỗ, Tết, nổi tiếng nhất là bánh in Nước Mặn, thị trấn nhỏ bé có từ thế kỷ thứ 17. Bánh phổ biến mọi nơi, nhà nào dù giàu hay nghèo đều có. Bánh làm bằng bột nếp. Tuy bánh in dễ làm, ai cũng làm được nhưng rất khó khéo. Muốn bánh khéo phải làm thế nào để bánh vừa dẻo, vừa xốp, không cứng cũng không bở.
    (Hình : 1 loại bánh in , không dám bảo đảm là bánh in Bình định)
    Ngày xưa thì làm rất công phu, phải lựa nếp dẻo, chọn hạt cùng cỡ để rang không bị hột cháy, hột không. Nếp chọn xong đem vo, để cho ráo nước. Hạt nếp vừa ráo người ta đem rang bằng trã đất trên lửa nóng. Mà rang vừa vàng thôi. Vì vàng quá bánh sẽ không trắng. Rang chưa vàng rất khó xay (bằng cối đá).
    Nếp xay xong để ít nhất mười ngày mới làm để bột khỏi bị rốc. Vào dịp Tết, khí trời lạnh có hơi nước, bột đem lấy sương. Đường cát trắng đem bỏ vào chảo bắc lên bếp, nhỏ lửa để lúc sôi đường khỏi trào ra ngoài. Khi đường sôi - luôn tay quậy đều và nặn vào một vài giọt chanh để không bị lại đường (không có cát). Khi đường nhuyễn người ta nhắc xuống để nguội. Lúc làm bánh ta lấy muỗng nạo dần từ trên xuống - bỏ bột nếp vào chà bằng hai tay hoặc dùng chai tròn, hoặc chày cán đi cán lại nhiều lần cho thật nhuyễn.
    Số lượng đường và bột ngang nhau (1 kg đường làm 1 kg bột) thì bánh mới ngọt. Chà đến khi nào bột và đường quyện vào nhau, bỏ thử vào lưỡi thấy tan đều không còn hột đường là được. Khâu này quyết định bánh khéo hay không. Người ta dùng khuôn nhỏ, tròn, đường kính độ 3 phân, hoặc dùng khuôn cạnh 3x5cm. Bỏ bột vào lớp dưới đáy, bỏ nhân chính giữa, bỏ một lớp bột lên trên, lấy nắp đậy lên rồi ấn nhẹ tay để bánh được xốp và lấy khuôn ra.
    Bánh mới làm xong rất dễ bể. Phải để 15 phút sau mới di chuyển. Làm như thế bánh sẽ rất xốp, còn mịn là do lúc chà bột. Nếu ấn mạnh quá bánh sẽ chặt, qua vài hôm sau bánh rất cứng.
    Nhân thường làm là nhân đậu xanh được bóc vỏ, nấu chín, tán nhuyễn, cho đường vào để trên lửa riu riu đến khi khô đặc thì nhắc xuống rồi bỏ vào và viên từng viên tròn. Nhân dừa cũng làm như thế: dừa được nạo nhỏ và trộn đường làm như đậu xanh. Có nhiều nhà kỹ hơn thì làm nhân mè rang + mứt gừng + mứt bí + thịt mỡ xắt hạt lựu đã được rim đường. Tùy vào sở thích của mỗi nhà mà bánh có nhiều loại nhân khác nhau. Phố biến nhất là chỉ có nhân mè rang vàng đâm nhỏ trộn đường là xong.
    Những nhà cẩn thận, khéo tay, làm bánh xong họ dùng giấy bóng bọc từng cái, đem xếp vào quả, hoặc hộp giấy. Mỗi lần mở ra bánh vừa thơm, vừa dẻo, vừa xốp, nhân mè thơm, bí đao giòn, thịt mỡ béo, gừng cay lại thơm mùi va ni, ngon không chê được.
    Cũng có nhiều nhà, làm bánh xong họ bỏ vào thúng, hoặc bầu đem treo trên trần nhà để trẻ em khỏi đòi ăn trước Tết. Bây giờ, khâu rang nếp, xay bột và thắng đường không còn nữa, người nội trợ bớt rất nhiều công đoạn. Bột, đường bán sẵn ở chợ, chỉ cần mua về làm nhân bỏ vào in bánh là xong.
    Bánh ít Bình Định

    Bánh ít lá gai Bình Định còn gọi là bánh ít đất võ được gói bằng lá chuối tơ, mướt dịu. Bánh làm rất công phu.
    Thoạt tiên, chọn lá gai trồng trong vườn. Lá phải có hình trái tim, hơi xốp, và khô. Làm một trăm bánh ít phải hái đến hai ba thúng lá gai. Lá đem rửa sạch, luộc chín, để thật ráo nước rồi đem vào cối giã nhuyễn.
    Phải là trai lực lưỡng mới đủ sức quết. Gọi là quết vì là cần nhuyễn như bột nên phải giã lâu. Bấy giờ mới đem bột nếp, thứ nếp thơm dẻo, trộn với đường bánh màu đen, sau đó đổ bột nếp vào cối. Quết tiếp hai ba chày đến khi phải thoa dầu phộng, hoặc dầu dừa vào đầu chày để bột khỏi dính và dầu được trộn đều.
    Nhân bánh, có thể dùng đậu xanh, đậu đen hay cơm dừa nạo nấu chín với đường, đôi khi người ta dùng tôm xào với thịt để làm nhân, đó là loại bánh ít mặn. Lá chuối cắt khoanh tròn, hơ lửa cho mềm, thoa dầu phộng và gói bánh thành hình tháp vuông rồi đem hấp cách thủy.
    Nhìn chiếc bánh người ta có thể biết được độ ngon và kỹ thuật của người con gái đất võ. Bánh ít lá gai thật dẻo nhưng không dính răng. Cắn một miếng, đầu lưỡi sẽ thấy ngay vị ngọt của đường, vị thơm của nếp, vị béo của dầu, vị bùi của đậu, hương cay nồng của gừng, tạo một cảm giác khoái khẩu và rất riêng.
    Bạn có thể ăn nhiều bánh ít lá gai mà không sợ đau bụng. Theo lời giải thích của người dân đất võ thì trong lá gai có vị thuốc chống đau bụng, đặc biệt là vị gừng tạo độ ấm và lá gai còn tác dụng chữa trị bệnh no hơi.
    Ở vùng Tam Quan (Hoài Nhơn) là xứ dừa nên thường nhân bánh ít được làm bằng bánh dừa xay nhỏ. Ăn bánh ít lá gai Tam Quan, có vị béo lẫn vị ngọt không sao quên được. Ở vùng gần biển thì nhân bánh ít làm bằng tôm và thịt. Giống tôm rằn vị ngọt đậm đà xào với thịt ba chỉ, thêm một ít muối, hành, tiêu thành hương vị biển.
  5. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Đặc Sản Bình Định-Quy Nhơn
    Tháng ba có nhiều chuyện để nói, riêng con ếch tháng ba đã trở thành như một biểu tượng của đồng quê. Thực ra, ếch mùa nào cũng có, nhưng vì sao người ta lại nói "ếch tháng ba?"? Hẳn có căn nguyên.
    Ở quê tôi miền Trung, sau những ngày giêng hai, đồng lúa đã bắt đầu chín vàng và nhà nông chuẩn bị mùa gặt tháng ba. Thường khi lúa chuyển vàng chắc hạt, nông dân tháo nước ra khỏi ruộng để ruộng tự khô thu hoạch lúa cho dễ dàng. Nước khô các loài tôm cua, cá nhỏ phơi mình trong những ô nước nhỏ còn sót lại trên mặt ruộng. Đây là dịp các chú ếch khỏi phải đi tìm kiếm mồi đâu xa cũng tha hồ có cái ăn đầy bụng, mà lại là những món ngon, đầy dưỡng chất cả. Các chú ếch lâu nay ở các ao hồ kênh rạch kéo nhau lên ruộng kiếm mồi cua cá, cào cào, châu chấu? chẳng mấy chốc được "vỗ béo tăng cân hẳn?". Ăn no, nhiều chú ếch không quay lại ao hồ, mà đùn hang ngay trên mặt ruộng. Vì vậy, khi bà con nông dân gặt lúa thường bắt được những chú "ếch đùn" béo trục béo tròn. Sau buổi gặt trên đòn gánh lúa tòn teng vài ba chú ếch đùn là hứa hẹn bữa cơm trưa với món canh ếch đu đủ "tuyệt chiêu". Nhờ dồi dào mồi sống, con ếch không chỉ mập mạp mà thịt trở nên thơm ngon hơn. Giống như thịt gà, nhưng thịt ếch nhỏ thớ, màu thịt trắng ngọt ngon hơn nhờ mang hương vị của loài lương cư.
    Với lũ trẻ mục đồng chúng tôi, tháng ba mùa gặt là cả một niềm vui vì đồng ruộng đã gặt xong trống trơn, trâu bò tha hồ gặm cỏ, không còn phải chăn dắt gò bó trên những khu gò chật hẹp. Chúng tôi họp nhau lại, mỗi đứa mang một chiếc đụt (giỏ tre) cùng "hành quân" qua những thửa ruộng vừa thu hoạch xong để bắt ếch đùn. Bắt ếch đùn không khó, vì con ếch từ kênh rạch lên ruộng ở tạm bợ nên chỉ đùn một chiếc hang "dã chiến" trên mặt ruộng dễ nhận ra và gặp chỉ cần dùng tay moi đất lên là bắt được. Sau mỗi ngày chăn bò, mỗi đứa có thêm vài chục con ếch đem về bỏ rộng vô chum chờ phiên chợ mẹ đem bán, kiếm được vài ba chục bạc lẻ là mừng lắm rồi. Nhưng rồi, mùa bắt ếch đùn qua mau, khi nông dân nhanh chóng cày ải ruộng để phơi đất cho vụ mùa sau. Họ hàng nhà ếch cũng dần cạn mồi tươi và kéo nhau trở lại ao hồ, bầu mương. Việc bắt ếch không còn dễ dàng cho bọn trẻ chúng tôi làm được, mà dành cho những tay "sát ếch" lão luyện, có nghề. Lúc này, ếch đã tìm được nơi trú ngụ trong các lùm cỏ cây rậm rạp, hoặc chui vô hang sâu. Dân bắt ếch chuyên nghiệp dò theo dấu vết tìm đào những hang ếch có lượng ếch ở nhiều, có khi bắt được vài ba chục con trong một hang. Chuyện kể rằng có những hang ếch hàng trăm con, đó là những hang ếch do rắn mai gầm nuôi. Mai gầm dụ ếch vào trong hang và mỗi lần ếch ra ngoài rắn chỉ ăn nhớt của ếch. Bắt những hang ếch như thế này không dễ, người bắt có thể bị rắn cắn chết nếu không thoa một loại thuốc vào tay, thuốc này kỵ rắn, con rắn chỉ nằm im không động đậy.
    Tháng ba đi qua, đồng ruộng quê tôi vào vụ mới, nông dân lo tháo nước vào ruộng để cày bừa gieo sạ, các dòng kênh, thửa ruộng ngập nước?đêm đêm vang tiếng ếch a, ếch ộp?. Nhưng nay mùa bắt ếch cũng không còn. Nếu có còn thì chỉ có dăm ba người đêm đêm lội trên các cánh đồng dùng đèn pin để soi ếch, lượng ếch bắt được cũng khá nhiều, nhưng đó chỉ thuần túy bắt ếch để bán nên kém phần thi vị.
    Ếch nấu cháo, ếch xào sả, ếch tẩm bột, ếch nấu canh? món nào cũng ngon và bổ. Ngày nay, do tập quán canh tác thay đổi, đồng ruộng bị nhiễm chất hóa học, ếch không còn sống nhiều, nhưng dù đi đâu ở đâu đêm nằm nghe tiếng ếch kêu, lòng tôi không khỏi không trở về những ngày thơ ấu mang đụt đi bắt ếch trên cánh đồng tháng ba mùa gặt?
    Chim mía Phú Phong
    Trong đồng mía bạt ngàn của đất Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định có một loài chim nhỏ, cư trú từng đàn. Người ta gọi đó là chim mía Phú Phong. Thịt chim mía thơm và ngọt, có thể nướng hoặc rán, nhâm nhi cùng rượu Bàu Đá thì tuyệt.
    Ai về Kiên Mỹ, Phú Phong
    Ăn con chim mía thỏa lòng ước ao
    Huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định có thị trấn Phú Phong, là quê hương của Quang Trung Nguyễn Huệ. Đây thuộc Tây Sơn hạ đạo, một vùng trung du bán sơn địa, với lưu vực sông Côn từ xưa bạt ngàn đồng mía. Trong đồng mía ấy có một loài chim nhỏ hơn con se sẻ, cư trú từng đàn trong đám lá mía, mỗi đàn đông tới cả ngàn con.
    Muốn đánh bắt chim mía, người ta dùng cái trủ như tấm lưới, căng suốt bờ ruộng cao hơn ngọn mía , cầm sào dài đập vào lá mía, rung đuổi chim, cứ thế chúng chuyền dần vào trủ. Những chú chim mía béo tròn sau khi vặt lông, hơ qua lửa cho cháy hết lông tơ, còn lại như một miếng thịt nạc rửa sạch, mổ moi ruột rồi ướp gia vị gồm muối hạt giã nhỏ với ớt, hành, hạt tiêu, thêm ít bột ngọt.
    Món ngon nhất là nướng và rô-ti. Nướng thì mổ banh chim, ướp gia vị rồi ép vào cặp đưa trên lò than hồng. Lật vài lượt, mỡ chảy ra xèo xèo thơm lừng cả xóm. Chim rô ti thì thả vào chảo dầu đậu phụng vừa sôi, chỉ mươi phút là chim vàng rộm, xương thịt giòn tan. Những chú chim xếp ra đĩa, rắc lên trên ít hạt vừng rang cho đẹp mắt là có thể thưởng thức. Chim mía mà có rượu Bàu Đá nhâm nhi thì cứ gọi là đệ nhất anh hào. Thịt chim mía thơm mà ngọt đầm, đậm đà hương vị.
    Những người sành chim mía, thường chọn những con đầu nhỏ, mỏ ngắn, nếu không tinh sẽ nhầm chim áo giá (áo đà) là loại chim đầu to, mỏ dài, thịt nhạt đánh lừa du khách, vì loại chim này không ngon.
    Đồng mía Tây Sơn - Phú Phong ngút ngát xanh, là chỗ cho chim mía ngày càng nảy nở sinh sôi đãi mời du khách gần xa.
    Món thưng Bình Định
    Người Bình Định rất thích ăn bánh tráng cuốn, cái gì cũng cuốn được, từ thịt heo luộc, cá hấp, cho đến chả nướng. Đấy là những món cuốn ngày thường. Ba bữa Tết người ta hay cuốn bánh tráng với thịt "thưng". Thưng là gọi theo người miền trung, chứ các nơi khác người ta đâu có gọi vậy. Món này có cách ướp hơi giống với món rô ti.
    Ngày Tết ở đây - dù là thành thị hay nông thôn - nhà nào cũng phải có cho được món thịt thưng. Nhà đông người và không đến nỗi eo hẹp, thì thưng vài ba ký. Nhà ít người thì một, hai ký. Nhà nghèo thì nửa ký... Có chảo thịt thưng, có ràng bánh tráng mới ra cái Tết.
    Thịt heo để thưng, có thể lựa mua phần đùi hoặc là ba chỉ. Tùy theo ý thích mỗi nhà. Còn thịt bò thì nên mua phần bắp. Thịt mua về cắt dọc ra thành những miếng vừa phải, bề ngang cỡ vài phân. Cả heo và bò đều phải luộc sơ qua rồi ướp. Nhớ ướp và thưng riêng. Thịt heo thì ướp với hành - tỏi giã, tiêu, nước mắm ngon, xì dầu và chút đường. Thịt bò thì cùng những gia vị nói trên, thêm sả, gừng giã nhỏ. Trong thời gian ướp độ vài tiếng đồng hồ, thỉnh thoảng lật từng miếng thịt cho độ thấm tháp được đều nhau. Sau đó bắc chảo lên bếp, đổ dầu vào. Dầu nóng lần lượt bỏ từng miếng thịt vào và hạ lửa nhỏ. Rồi cứ một chặp lại lật, và múc nước ướp, rưới đều lên những miếng thịt. Cứ như thế cho tới khi nước ướp đã hết và nước ở trong chảo thưng, chỉ còn xâm xấp. Miếng thịt săn lại, vàng ươm và khắp cả nhà sực mùi thơm của... "thưng" thì xong. Những ngày đầu năm mọi người trong gia đình thường đi chúc Tết, đi chơi và tiện lợi biết bao, khi về tới nhà, hâm lại chảo thịt thưng xắt ra một, hai đĩa, rồi nhặt một ít xà lách, rau thơm có sẵn, cắt dưa leo xong nhúng bánh tráng và ... ăn. Cái món này thường rất ngon miệng nhưng ăn no quá, lại khó tiêu.
    Bên cạnh thịt heo và thịt bò thưng để cuốn bánh tráng, ở đây người ta còn thưng gan, tai, bao tử, lưỡi heo... để lai rai cùng người thân, bạn bè, trong mấy bữa đầu xuân. Cách làm vẫn tương tự như vậy. Có khác chăng là người ta thường ăn kèm với đồ chua ngọt. Cũng xin nói rõ: Đồ chua ngọt gồm có su, cà-rốt, kiệu... làm sạch, phơi héo, ngâm với dấm - đường, khoảng vài ngày là ăn được.
    Mỗi loại thưng có một kiểu ngon khác nhau. Chẳng hạn: Gan heo thì vừa béo, vừa bùi. Bao tử thì ngon ở độ dai. Tai heo thì ngon ở cái dòn... Nhưng tóm lại, đó là những thứ mồi vô cùng hấp dẫn và rất đặc trưng cho quê hương miền trung. Gần tới Tết, các ông chồng ở đây thường nhắc các bà vợ, bằng những ngôn ngữ rất ư là... nhỏ nhẹ và không kém phần... ngọt ngào: "Nhớ làm ít chua ngọt, nghe mình. Mà có chua ngọt, sao thiếu đồ thưng được em há". Phải nhỏ, ngọt... vợ nghe mới êm tai, mới chịu mở bóp, đi chợ và xắn tay áo lên làm. Còn chồng, mắc gì mà không đi mua vài lít rượu Bầu Đá, để sẵn đó chờ Tết, chờ bằng hữu tới nhà lai rai. Và thuận vợ, thuận chồng như vậy, thì chắc hẳn rượu sẽ ngót hơn, mồi sẽ bắt hơn, những sum họp ngày Tết sẽ hạnh phúc hơn.
    Thế nên món thưng đã, đang và sẽ còn xuất hiện nơi mỗi ngôi nhà miền trung khi Tết tới.
  6. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Bún tôm Trà Ổ
    Trà Ổ là một trong những đầm nước ngọt lớn nhất tỉnh Bình Định. Người dân ở đây sống bằng nghề làm ruộng và đánh bắt thủy sản. Nhờ nghề này mà ở Phù Mỹ có món bún tôm Trà Ổ nổi tiếng.
    Món bún tôm Trà Ổ độc đáo ở chỗ sợi bún được chế biến ngay tại chỗ, tô bún có vị ngọt đậm đà của tôm tươi, vị giòn tan của bánh tráng nướng.
    Nét đặc trưng của bún tôm Trà Ổ, trước hết là ở cách làm bún. Bún không phải làm sẵn bán ở chợ, hay được mua ở các lò bún nổi tiếng. Người bán bún tôm chế biến sợi bún ngay tại chỗ. Khi có khách vào, chủ quán mới bắt đầu ép bột gạo đã xay sẵn, xong hấp trong nồi nước đang sôi. Sợi bún rất nhỏ, mềm và trắng muốt. Tôm dùng làm bún là những con tôm sinh sản tự nhiên, còn sống, được đánh bắt từ đầm Trà Ổ (còn gọi là đầm Châu Trúc). Con tôm trông rất bụ bẫm, nhưng thịt tôm lại săn chắc, và rất ngọt.
    Tô bún tôm Trà Ổ có hương vị rất đặc biệt. Đầu tiên, người ta giã nhuyễn tôm sống đã lột vỏ, nhúng qua vào nồi nước đang sôi rồi cho bún vào tô, chế nước xáo bún vào, rắc một ít tiêu bột, một ít bột ngọt, một ít hành hương. Thế là đã có ngay một tô bún tôm nóng hổi, tỏa hương thơm rất hấp dẫn. Thường thì bún tôm được ăn kèm với bánh tráng gạo nướng. Nhiều người mới ăn lần đầu chưa thấy thích, nhưng ăn nhiều lần thì nghiện lúc nào không hay. Nghiện vì chất ngọt của nước xáo bún, của mùi hành hương thơm ngát và nghiện luôn cả cái giá rất bình dân của nó-chỉ khoảng từ 1.500 - 2.000 đồng/1 tô, cộng thêm chiếc bánh tráng nướng nho nhỏ. Bún tôm là món điểm tâm buổi sáng rất độc đáo chỉ có ở một vài vùng quê thuộc huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Cái độc đáo của bún tôm ở đây phải kể đến khâu làm bún. Trong khi chờ đợi, thực khách được chứng kiến cảnh người bán bún ép sợi bún chảy vào nồi nước đang sôi sùng sục trên bếp lửa hồng. Sợi bún gặp nước sôi liền chuyển sang mầu trong là chín tới.
    Đi từ thị trấn Phù Mỹ ra đến Mỹ Châu đều có bán đặc sản bún tôm. Những quán bún tôm thường đơn giản nhưng lúc nào cũng đông khách, nhất là vào sáng sớm.
    Ốc đồng
    Người dân Bình Định đã biết tận dụng môi trường tự nhiên để tạo ra cho mình nhiều món ăn đặc sắc, trong đó có món ốc đồng. Một món ăn không những giàu đạm, giàu chất bổ dưỡng, mà còn giàu hương vị quê hương, ví như chùm khế ngọt, cánh cò bay.
    Có hàng chục loại ốc như ốc bươu, ốc mít, ốc đá, ốc vặn... sinh ra từ đồng ruộng quê nhà. Ốc luộc là món bình dân nhất. Ngon hơn cả là loại ốc mít, loại ốc có màu vàng óng và nhỏ hơn loại ốc bươu một chút. Thế nhưng nhiều người lại thích ngồi mút loại ốc đá. Thật thú vị khi những ngày gió heo may se se lạnh thổi về cùng với mưa bụi chuyển mùa được ngồi bên đĩa ốc nóng hổi, vừa thổi vừa ăn. Cái nóng của ốc, của gừng, của ớt quả làm cho người ăn xuýt xoa, cay chảy cả nước mắt mà vẫn thấy say mê.

    Người ta đã dùng món ốc này để làm bún ốc. Hiện nay ở Quy Nhơn đã có một số điểm bán bún ốc rất ngon và hương vị đậm đà của món bún ốc đã đi vào lòng người. Ốc mua về ngâm nước gạo trước độ một ngày cho sạch (theo kinh nghiệm dân gian, người ta ăn ốc vào tuần trăng thì ốc sẽ béo và ngon hơn). Vớt ra cạy miệng khêu lấy ruột, xong bóp muối rửa sạch bằng nước nóng cho hết nhớt rồi đem ướp gia vị, xào ốc phi với hành tỏi riêng vì ốc rất nhanh chín, để lâu sẽ dai. Chuẩn bị nồi nước lèo thật ngon để khi cho bún vào bát thì bỏ thêm ốc vào.
    Bây giờ, món ốc đã trở thành đặc sản như: ốc nhồi thịt, ốc hấp lá gừng? Nhưng nếu bạn muốn ăn món ốc đích thực, xin mời hãy về Bình Định. Ở TP Quy Nhơn có hẳn một "phố ốc" trên đường Mai Xuân Thưởng, tha hồ cho bạn lựa chọn.
    Lá dang
    Lá dang thuộc thuộc giống dây leo. Lá hình bầu dục, to bằng ngón chân cái người lớn, mặt lá láng, có vị chua khá hấp dẫn. Vào Hầm Hô (Tây Sơn), mấy ai quên đi cái thú ăn cá nướng cuốn với lá dang, rau rừng.
    Cá sông tươi rói cỡ 3 ngón tay nướng vàng ươm, cuốn nguyên con với bánh tráng, lá dang, rau rừng phơi héo chấm nước mắm nhai rau ráu thật khoái khẩu. Vừa ăn vừa nhâm nhi lai rai vài ly rượu đế, ngồi rung đùi nhìn cảnh rừng núi, sông nước khi hoàng hôn buông xuống quả là tiên vậy! Ốc ở Hầm Hô rất nhiều và to, bà con tha hồ bắt, không phải mua. Ông bạn tôi có mấy câu thơ khá vui:
    Lá dang, ốc đá khỏi mua
    Đem về nấu bát canh chua tặng chàng
    Thật là mộc mạc, giản dị mà thấm đượm tình cảm của người dân quê nghèo rất dễ thương.
    Ở Bình Định nhất là ở Tây Sơn có món gié bò nấu với lá dang khá độc đáo. Có thể nói, gié bò không nấu với lá dang coi như bất thành gié. Người ta lấy toàn bộ các thứ ngon nhất trong cơ thể con vật như: gié, gan, tim, cật, sụn, thịt thăn, đem nấu với lá dang ngon và bổ tuyệt vời, vừa ngọt, vừa béo, vừa bùi, vừa đắng, vừa chua trên đầu lưỡi khá thú vị.
    Tôi có người cháu ruột kêu tôi bằng chú. Sau năm 1975, cháu tôi sang Mỹ theo gia đình vợ và định cư bên đó, hiện nay là chủ một tiệm ăn lớn ở bang California. Thế mà cháu tôi vẫn nhớ lá dang ở quê nhà, viết thơ về nhờ mẹ mua lá dang phơi khô làm bột gửi sang để dành ăn dần.
    Mong sao lá dang quê tôi được phát triển trên khắp mọi miền của đất nước để đi đâu tôi cũng thấy dáng dấp của quê nhà. Và dần dần bà con Nam Bắc cũng như nhân dân quê tôi thưởng thức món gié bò nấu với lá dang, cá sông nướng cuốn với lá dang, rau rừng, ốc đá.
    Lươn - hương vị đồng quê
    Sau mùa gặt, đồng ruộng chỉ còn trơ lại những gốc rạ. Nước ở các suối, ao, hồ bắt đầu cạn dần. Dưới ánh nắng cháy da, mùi bùn non trên những thửa ruộng bốc lên hăng hắc. Đấy cũng là mùa chúng tôi đi bắt cá, cua, lươn, ốc. Nhưng thích nhất vẫn là bắt lươn vì thịt lươn ăn rất ngon và hiếm.
    Dọc theo bờ ruộng, con mương sẽ thấy những miệng hang to, nhỏ đủ cỡ. Nếu là một tay bắt lươn chuyên nghiệp, chỉ thò tay vào hang một thoáng thôi khi rút tay ra khỏi hang sẽ có một chú cá lóc trốn nắng hoặc vài ba chú cua, còn hên thì sẽ có một chú lươn béo nục. Còn xui không chừng sẽ gặp một chú rắn nước ngọ nguậy cũng đủ hết hồn. Còn nếu tay nghề thuộc loại tầm thường thì chỉ nhờ vào các ống trúm mà thôi.
    Bỏ vào trúm một ít tép rang hoặc một con cá ươn đã dậy mùi, đậy nan tre lại rồi đặt đầu ống ngay cửa miệng hang. Lươn rất háu ăn, ngửi thấy mùi là tự động tìm đường chui vô trúm. Lúc ấy chỉ việc đem lươn về đổ vô đống tro bếp, vuốt cho sạch nhớt sau đó đem rửa lại với dấm cho sạch. Xong mổ bụng lấy hết ruột, để cho ráo nước.
    Lươn có thể chế biến thành nhiều món. Nếu sang thì làm lươn um, lươn chiên giòn, lươn băm xúc bánh tráng, lươn nướng, lươn dồn thịt, chả lươn... Còn đơn giản hơn chỉ cần sả ớt, cà ri, hành tỏi, ướp với lươn cắt khúc cỡ bằng đốt ngón tay, xào chín, bạn cho thêm rau om thái nhuyễn, đậu phộng rang giã bể rải lên mặt.
    Đấy là món lươn xào lăn. Còn nếu muốn nấu canh chua lươn thì cần chuẩn bị một cái bắp chuối. Lươn xắt từng khúc khoảng 10 cm, bắc nồi mỡ cho nóng, bỏ sả băm nhuyễn vào cho thơm, thả lươn vào xào sơ cho thấm gia vị rồi vớt lươn ra tô. Cà chua thái bỏ vào nồi, nước me dầm lược sạch cho vào nấu sôi. Thêm vài lát ớt, ngò gai, hành, rau om. Bên mâm cơm nóng, với đĩa lươn xào lăn thơm lựng, tô canh chua bốc khói, bạn đã có một bữa cơm ngon miệng rồi.
    Còn món lẩu lươn cũng cách nấu như canh chua rồi xếp vào lẩu quạt than cho hồng, hoặc nếu có bếp ga loại mi-ni thì càng tiện. Lẩu sôi, nhúng rau đắng, cần nước, trộn chung với cây chuối hột bào, rồi ăn với bún.
    Cứ thử tưởng tượng xem! Ngoài trời đang mưa, cả nhà ngồi quây quần bên lẩu lươn bốc khói nghi ngút, một cảm giác thật đầm ấm và hạnh phúc biết chừng nào!
  7. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Gỏi bò khô
    Gỏi là món ăn vừa dân dã vừa cao sang. Nó hiện hữu khắp mọi nơi, từ mâm cao cỗ đầy, nhà hàng, khách sạn đến cả vỉa hè nơi buôn thúng bán bưng. Có rất nhiều loại gỏi nhưng dường như gỏi thịt bò khô vẫn được nhiều người ưa chuộng.
    Ngày xưa, khi còn cắp sách đi học, đứa trẻ nào mà chẳng tròn mắt, thèm thuồng trước chiếc xe đẩy của người bán hàng rong. Chỉ hai hoặc năm trăm đồng là được một dĩa gỏi ngon lành. Vài sợi đu đủ bào mỏng tanh, trắng xanh, lớt phớt vài miếng thịt bò khô, gan khô?, vài hạt đậu phộng rang, chút nước dấm chua, cay màu đo đỏ cũng đủ để cả bọn nhớ mãi không quên.
    Tưởng món gỏi bò khô chua cay, ngọt ngọt chỉ là kỷ niệm thuở thiếu thời, nhưng càng ngày nó càng phổ biến và nhân rộng hơn món ăn bình dân này. Gỏi bây giờ rất nhiều khúc biến tấu khác nhau từ gỏi mực xoài, gỏi tôm với khế chua, gỏi cá chẽm với cốc, gỏi cá diếc?, nhưng không hiểu vì sao gỏi đu đủ với thịt bò khô vẫn là món khoái khẩu của nhiều người.
    Những người sành ăn gỏi bò khô thường gọi nhiều miếng gan khô hấp dẫn bằng vị bùi bùi, người lại thích nhai nhóp nhép miếng gân vừa dai lại vừa béo. Dăm lá rau răm, vài mẩu bánh tráng tôm, một mẩu chả ram, vài miếng thịt bò khô, gân, gan? rồi xịt vào thứ dấm chua ngọt lẫn chút xíu vị mặn, điểm thêm thìa ớt tương đỏ ngời là hoàn thành một dĩa gỏi thơm ngon.
    Hàng gỏi là nơi "ăn hàng" của các bà, các cô, các chị, là mồi đưa cay của quý ông. Hàng gỏi nổi tiếng trước đây ở góc biển đường Nguyễn Huệ, đối diện trường THPT Trưng Vương (Trường Nữ Trung học cũ). Thời gian gần đây, lại nổi lên hàng gỏi ở ngã tư đường Phan Đình Phùng - Bạch Đằng. Dĩ nhiên, gỏi vẫn ngự trị trên hè đường lẫn trong quán "ăn hàng" dọc các đường Mai Xuân Thưởng, Ngô Mây? Từ nhiều năm nay, nhiều người vẫn nhớ mãi tiếng nhịp gõ chiếc kéo cắt thịt bò khô lách cách của cụ bà mà họ vẫn quen gọi là bà O ở đường Bạch Đằng (Quy Nhơn). Không cần rao giòn giã như các món ăn khác, bà vừa đẩy xe gỏi, vừa lách cách tiếng kéo là đủ hút lũ nhỏ bám theo đòi mua rồi. Giờ đây, không còn tiếng kéo rao quen thuộc, những người bán gỏi bò khô đã ngồi tập trung, nhưng có lẽ tiếng kéo ấy cũng như món gỏi bò khô sẽ theo mãi với mọi người.
    Canh bí đỏ, nước dừa
    Bình Định là vùng đất trồng dừa, nhiều nhất là ở Hoài Nhơn. Từ những quả dừa, đã ra đời nhiều sản phẩm như: dầu dừa, bánh tráng nước dừa, kẹo dừa? Và người Bình Định còn đưa dừa vào chế biến món ăn hàng ngày. Đó là canh bí đỏ nấu với nước dừa.
    Để có được xoong canh bí đỏ nước dừa thật ngon, thì phải chọn quả dừa già, đập bể rồi cạy lấy cơm dừa, rửa sạch, dùng bàn mài để mài. Dừa mài xong, cho vào khoảng nửa tô nước âm ấm dùng khăn vắt lấy nước cốt. Sau đó, tiếp tục cho nước lã vào dừa vắt lấy nước hai, nước ba (còn gọi là nước giảo). Tùy theo lượng người ăn mà vắt lấy nước giảo nhiều hay ít. Chọn bí đỏ hai da (loại bùi) gọt vỏ, rửa sạch, xắt miếng cỡ bằng hai ngón tay, cho vào xoong đổ nước dừa giảo vào nấu. Một nồi canh bí đỏ nước dừa ngon khi nấu bí vừa chín tới, nhớ là nêm muối chứ không được nêm nước mắm và cho vào khoảng 1 muỗng đường đen. Mít chín (loại mít ráo) bỏ vỏ, xơ và hột, tách riêng từng múi, xé làm hai hoặc làm ba cho vào xoong canh, đồng thời thêm vào đó một ít bún tươi hoặc bún song thần. Trước khi nhắc ra khỏi lò, đổ tô nước cốt dừa vào khuấy đều, thế là đã có một xoong canh bí đỏ, nước dừa như ý. Nhìn vào xoong canh ta thấy nổi lên màu trắng đục của nước cốt dừa hòa lẫn vào màu vàng của bí chín trông thật hấp dẫn. Múc canh ra tô, ăn nóng với cơm hoặc ăn canh không cũng được.
    Đơn giản và dân dã như vậy nhưng khi ăn, ta cảm nhận được vị bùi của bí, vị béo ngọt của dừa, mùi thơm của mít chín, tất cả tạo thành một hương vị khó quên. Ai đã từng đến Hoài Nhơn, thế nào cũng được gia chủ mời ăn món canh bí đỏ nấu với nước dừa, tuy đơn sơ nhưng thắm đượm tình người xứ dừa.
    Cơm trái dừa Bình Định
    Công đâu công uổng công thừa
    Công đâu xách nước tưới dừa Tam Quan
    Câu ca dao trên nói rằng: Tam Quan (Hoài Nhơn - Bình Định) là xứ nhiều dừa. Trước khi ăn dùng trái dừa xiêm (dừa nạo) vạt miệng đổ nước ra (nước dùng để nấu cơm), cho cơm thập cẩm trộn sẵn vào trái dừa. Sau đó đem hấp cách thủy, cho nóng lên, khói bốc nghi ngút. Khi ăn dùng nĩa, xúc trực tiếp vào trái dừa, ăn với nước chấm tương ớt. Khi hấp cách thủy, cơm dừa vẫn để nguyên trong trái dừa, nhằm làm tăng độ thơm và cả chất béo của cơm dừa.
    Trong ẩm thực cung đình xưa kia, cơm trái dừa được hấp cách thủy bằng loại dừa xiêm có trái thật nhỏ, chứa khoảng 1 bát cơm nhỏ.
    Khi món ăn này ra khỏi cung đình, trở thành phổ biến, người ta chọn trái dừa xiêm lớn hơn vì ngoài mục đích thưởng thức ra, còn dùng để ăn cho đủ no. Cơm trái dừa được nêm nếm vừa ăn trước khi đem đi hấp, do đó khi ăn không phải dùng thêm nước chấm. Ngoài ra nếu khách không muốn ăn cơm dừa thập cẩm, có thể yêu cầu tiệm cho vào cơm những món ăn mà mình ưa thích như lạp xường, tôm, thịt heo hoặc chả Huế.
    Ăn từng muỗng nhỏ, nhai chậm rãi để thưởng thức được mùi vị của món ăn cung đình này. Nó có mùi thơm của nước dừa xiêm, ngọt, béo, hạt cơm bóng mượt. Cái thú khi ăn cơm trái dừa là ăn trực tiếp trên trái dừa, không phải ăn bằng chén. Với trái dừa xinh xắn trắng ngà, mùi thơm của dừa hòa quyện cùng làn khói bốc lên làm cho tất cả các giác quan đều hưởng trọn vẹn hương vị của món ăn.
    Bánh căn
    Bánh căn rẻ tiền, lạ miệng, rất hợp với túi tiền của người lao động. Giá một đĩa bánh chỉ bằng giá một tô phở bình thường, nhưng hương vị lại đậm đà, dễ lôi cuốn thực khách từ ăn chơi đến ăn no bụng.
    Nguyên liệu để làm bánh căn rất đơn giản. Dùng gạo tẻ ngâm nước rồi đem xay thành bột lỏng cũng giống như bột đổ bánh bèo hay bánh xèo. Trước khi đổ bánh, muốn cho bánh được thơm ngon, người làm bánh còn bỏ thêm vào lá hành hay lá hẹ thái nhỏ.
    Khuôn đổ bánh giống như chiếc trã rang làm bằng đất nung chín, trên mặt có khoét chín ô tròn hình lõm, to bằng miệng tách uống trà, bên trên có nắp đậy cũng bằng đất nung.
    Khuôn bánh đặt lên lò than hồng. Mỗi lần đổ bột vào khuôn, người làm bánh dùng cây que có quấn bông thấm dầu phụng hay mỡ heo thoa lên mặt khuôn để cho bánh lúc chín dễ bóc ra, không bị dính.
    Người thợ bánh cầm chiếc gáo múc bột đổ vào khuôn và đậy kín nắp lại. Chờ chừng đôi, ba phút là bánh chín. Khuôn nào bánh chín trước thì vớt ra trước, khuôn nào bánh chín sau thì vớt ra sau, cứ thế mà tuần tự, xoay vần trong 9 chiếc khuôn. Bánh đổ càng mỏng càng ngon nhưng đừng để già lửa quá bánh sẽ bị cháy sém hoặc để lửa yếu cũng sẽ làm cho mặt bánh chai lì mất ngon. Người làm bánh vừa múc bột đổ vào khuôn vừa vớt bánh liền tay, không kịp ngưng nghỉ.
    Thường thường, người ta dùng nước cá có pha chế thêm gia vị hoặc có nơi thì dùng nước mắm nấu với nước đường cát trắng cho sôi, phi thêm cà chua, phi dầu phụng, ớt và chanh tươi vào. Nhưng cái ngon còn tùy thuộc vào một phần các loại rau sống như khế lát, chuối chát non thái mỏng, dưa chuột, rau răm, rau húng, giá luộc, xà lách...
    Trước khi ăn, phải rải rau sống lên đĩa bánh, cho nước chan vào xăm xắp rồi trộn đều. Khách vừa ăn vừa húp nước chan, cứ thoải mái "vào trận". Nếu cảm thấy chưa hài lòng, khách sẽ được người bán "chiếu cố" điều chỉnh nước chan hay rau sống cho vừa khẩu vị.
  8. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Bánh hỏi Bình Định
    Bánh hỏi được làm từ gạo, ăn với lá hẹ, nước chấm đủ vị chua, cay, mặn ngọt; ăn vừa ngon, vừa bổ, có thể ăn no thay cơm. Đây là món đặc sản của Bình Định mà cả người nông thôn và thành thị đều ưa chuộng.
    Bánh hỏi - cái tên gọi thật ngộ nghĩnh, mới nghe qua thấy là lạ, nó là loại bánh được xếp vào hàng đặc sản nổi tiếng của Bình Định. Người người, nhà nhà ở đây rất ưa chuộng, món ăn bình thường, đơn giản mà ngon miệng ấy. Nhiều nơi ở Bình Định có các cơ sở làm bánh hỏi, và nhiều hàng quán mọc lên tự bao đời chỉ chuyên bán bánh hỏi. Dân phố thì có thói quen dùng bánh hỏi vào bữa điểm tâm buổi sáng trước khi bắt đầu công việc mới. Còn dân vùng thôn quê ở Bình Định thường dùng bánh hỏi vào bữa giữa buổi (gọi là nửa buổi và xế).
    Bánh hỏi được làm từ gạo ngon, thơm, trắng nhất. Sợi bánh nhỏ li ti như sợi râu bắp (ngô). Nó được những đôi tay khéo léo làm thành những thếp mỏng, hình chữ nhật, dài bằng hai ngón tay. Để bánh mịn, mềm, các sợi bánh không dính chụm vào nhau thì khâu nhồi bột phải thật kỹ và khâu bắc thành từng thếp trên vỉa tre phải nhanh và khéo.
    Bánh hỏi rất hợp với lá hẹ. Ăn bánh mà không có lá hẹ thì mất một phần vị ngon. Hẹ tươi thái mỏng rắc lên bánh, dùng dầu (mỡ) phi thơm quệt một lớp thật mỏng lên từng thếp bánh để lá hẹ dính kết, không bị rơi ra. Nước chấm pha khéo cùng đường đen (đường kết tinh), vắt chanh, thêm một vài lát ớt đỏ tươi, tạo nên vị chua chua, ngọt ngọt, hòa cùng vị mặn của nước chấm, và vị cay của ớt đi với bánh hỏi thật là tuyệt! Bánh hỏi ăn kèm thêm một ít lòng heo, thịt ba chỉ hay chả lụa cuốn với bánh tráng mỏng thì càng ngon.Vị ngọt, thanh, bùi của bột gạo, vị cay the the của lá hẹ, cùng với vị béo của dầu, mỡ, khiến người ta bị quyến rũ. Bánh hỏi ăn không ngán như những thứ bánh khác, có thể ăn no, ăn thay cơm vì nó vừa ngon, vừa bổ. Hiện nay ở Quảng Ngãi, Phú Yên nhiều người cũng học cách làm bánh hỏi của Bình Định, nhưng không thể ngon bằng, có cảm giác như thiếu một cái gì đó. Đến Bình Định, bạn không chỉ được thưởng thức những đặc sản như bánh tráng dừa Tam Quan, bánh ít lá gai mà còn có bánh hỏi! Cái tên bánh thật mộc mạc mà thân thương lạ!
    Bánh hỏi quê bạn
    Một lần về Bình Định, được bạn đãi món bánh hỏi mà nhớ hoài... Bánh hỏi không giống như bún, cũng không giống bánh cuốn. Nó mang cái vị vùng quê miền Trung rất lạ. Ăn một bữa mà mê, vào Sài Gòn cứ đi tìm quán bánh hỏi, tìm hoài chẳng thấy...
    Theo lời bạn kể thì bánh hỏi là món ăn phổ biến ở Bình Định. Người ta ăn sáng, ăn trưa bằng bánh hỏi trừ cơm. Bánh hỏi làm bằng bột gạo, mà phải là gạo cũ mới ngon. Sau một đêm ngâm cho mềm, gạo được đem xay thành bột. Người làm bánh sẽ nhồi bột thành những "vặn" lớn, sau đó cho vào khuôn nhôm. Khuôn nhôm hình trụ, đáy có đục nhiều lỗ nhỏ. Sợi bột sẽ theo lỗ đổ ra thành sợi bánh. Người vắt bánh sẽ trải đều sợi bánh trên những tấm nan tre hình chữ nhật rồi đem hấp chín.
    Người làm bánh hỏi chuyên nghiệp một ngày bán cả trăm ký. Bánh được xếp vào giỏ lót lá chuối, có vỉ buồm đậy lại nhưng không được quá kín, bánh sẽ mau chua. Bánh hỏi cũng như bún, không kén món ăn kèm. Nếu muốn đơn giản, có thể chan mắm chanh ớt hoặc mắm cái vào rồi ăn liền. Nhưng thường thì người ta ăn bánh hỏi kèm thịt heo và dưa leo thái mỏng. Cầu kỳ hơn, bạn có thể vào nhà hàng chuyên phục vụ món bánh hỏi ở thị trấn Phù Mỹ, có đến hơn 10 món để bạn chọn lựa: bánh hỏi chả giò, bánh hỏi lòng heo, bánh hỏi thịt nướng, bánh hỏi chạo tôm, bánh hỏi tôm càng, bánh hỏi thịt bò nướng, bánh hỏi bò lụi, bánh hỏi gà lụi... Xem ra thì món bình dân nào vào nhà hàng cũng trở nên "đặc sản" hấp dẫn, phong phú...
    Ăn bánh hỏi mà không có lá hẹ thì coi như mất ngon. Người dân Bình Định có thói quen phết lá hẹ lên từng tấm bánh trước khi ăn. Lá hẹ thái nhỏ, xào qua dầu ăn cho thơm. Hương vị chính của món bánh hỏi là do lá hẹ khử dầu tạo nên, vừa thơm vừa bùi mà không cần đến bất kỳ thứ rau thơm nào ăn kèm.
    Có một vài nơi dùng món bánh hỏi như một món cuốn. Họ cho bánh hỏi, thịt heo luộc, rau sống vào một miếng bánh tráng mỏng rồi cuốn lại chấm mắm lạt. Bạn tôi bảo ăn thế cũng ngon nhưng không đúng kiểu. Ngon nhất là cho từng tấm bánh vào đĩa, phết dầu lá hẹ lên, thêm vào thức ăn kèm dùng ngay. Đây không phải là món bánh dùng nóng nên bạn có thể ăn bất kỳ lúc nào tùy thích. Ngày Tết, đám cưới, đám hỏi, giỗ chạp ở Bình Định cũng không bao giờ thiếu món bánh truyền thống này.
    Món bánh hỏi bình dị của quê bạn thế mà có sức níu giữ đến lạ kỳ. Ai đã ăn một lần sẽ không sao quên được vị ngọt thơm của sợi bánh, vị bùi the của lá hẹ, vị béo của dầu, vị chua của mắm chanh. Để mỗi lần ghé Bình Định chơi trên chặng đường dài vào Nam lại có dịp được bạn mời: "Bánh hỏi nhé!".
    Thưởng thức bánh hỏi Bình Định nhân festival
    Ở Bình Định có một loại bánh mang tên là bánh hỏi. Không biết vì đâu có tên này và có từ lúc nào? Xưa nay chưa có ai nói rõ về nguồn gốc và ý nghĩa của tên bánh.

    Kỳ công một nghề truyền thống
    Nhiều người thường hỏi: ?oKhông biết bánh hỏi có từ lúc nào. Và tại sao người ta lại đặt tên là bánh hỏi??. Theo người Bình Định, bánh hỏi có từ rất lâu đời. Cũng là thứ bánh làm từ bột gạo như nhiều loại bánh truyền thống khác, nhưng thứ bánh hỏi của ?oxứ nẫu? vẫn cứ là lạ. Lúc đầu mới làm ra loại bánh lạ nầy, ai thấy cũng? hỏi là thứ bánh gì? Cái tên bánh hỏi có lẽ đã được khai sinh từ đó?!

    Bánh hỏi làm bằng bột gạo. Gạo phải là gạo từ vụ trước đem xay lấy bột rồi ?osú? để qua đêm cho bột nở đều. Sau đó đem nhồi thành từng khối lớn hình bầu dục, gọi là ?ovặn?, mỗi ?ovặn? nặng chừng một kg.
    Khuôn bánh làm bằng thiếc hay bằng đồng hình khối trụ cao hai đến ba gang tay. Khuôn bánh được gắn vào khung gỗ vững chắc có bề cao vừa tầm thắt lưng. Trên khung còn gắn thêm đòn nén bằng gỗ. Phía đáy khuôn được đục thành nhiều lỗ nhỏ li ti thật đều đặn để bột bánh khi bị nén sẽ thoát ra ngoài. Khi làm bánh người thợ bỏ bột vào khuôn thường làm một ?ovặn?, rồi dùng đòn nén thật chặt. Bột bánh thoát ra khỏi khuôn thành từng sợi dài. Người bắt bột chỉ ngồi chờ sẵn, nhẹ nhàng đưa tay bắt lấy từng đoạn xếp lên chiếc vỉ nan tre. Khi nào sắp đủ một vỉ thì đưa đi hấp cách thủy.
    Bánh chín đưa ra để nguội, dùng dầu lạc thoa lên mặt bánh để cho bánh khỏi bị khô và dính vào nhau. Sau đó bánh được xếp ngay ngắn thành nhiều lớp trong chiếc thúng tre đã lót sẵn lá chuối rồi đậy kín.
    Khi nào có người mua dùng, người bán mới bắt bánh sắp lên đĩa, rồi thoa lên mặt bánh một lớp lá hành lá hẹ thái nhỏ, vừa dai vừa dẻo, không bị nhão hoặc bị chua.
    Bánh hỏi thời nay
    Người dân đất võ có câu: ?~?TMưa lâm râm ướt dầm lá hẹ; Em thương một người có mẹ không cha; Bánh xèo bánh đúc có hành hoa Bánh hỏi thiếu hẹ như ma không kèn...?T?T. Lá hẹ ăn với bánh hỏi rất ngonánh đúc có hành hoa; . Hẹ tuy cùng họ với hành, tỏi nhưng lá nhỏ và xanh hơn, hương lá hẹ lại không gắt như lá hành tươi nên rất hợp với bánh hỏi.
    Ngoài việc dùng xì dầu làm nước chấm rất ngon, bánh hỏi cũng có thể chấm với nước mắm pha loãng với gia vị là ớt, tỏi, đường, chanh, bột ngọt ...
    Khi ăn bánh, người Bình Định thường cho thêm chút dầu phộng hoặc dầu dừa đã khử hành chín. Dầu ăn trộn với lá hẹ xắt nhỏ, tẩm lên từng miếng bánh làm cho hương vị bánh hỏi rất lạ, kích thích khẩu vị. Khi ăn chỉ cần một làm chén xì đầu với ớt, tỏi, đường giả nhuyễn, vắt thêm miếng chanh tươi là có ngay món điểm tâm sáng thật tuyệt.
    Bánh hỏi đi đôi cháo lòng, đấy là món khoái khẩu của người đất võ. Cháo lòng nấu hơi loãng với huyết heo ninh nhừ, thịt nạc băm nhuyễn, thêm chút gia vị tiêu, hành, bột ngọt cho vừa ăn. Cũng vì cách ăn này mà thỉnh thỏang ở các vùng miền khác của cả nước, quán ăn nào có bán bánh hỏi, thường cũng phục vụ kèm thêm đĩa lòng heo, dạ trường, gan, dạ dày, dồi heo ? rất tuyệt.
    Người Bình Định khi cúng giỗ, cưới hỏi, lễ lạt đều có món bánh hỏi. Các làng nghề làm bánh hỏi truyền thống, ngon nổi tiếng vùng này có ở Quy Nhơn, Tây Sơn, An Nhơn, Tuy Phước ? Mỗi ngày, các lò bánh có thể bán ra thị trường hằng trăm kilôgam.
    Ở Bình Định, bánh hỏi được bán rất phổ biến. Nhưng ngon nhất là ở khu vực ngã ba Phú Tài (TP. Quy Nhơn). Có hàng chục quán ăn với món cháo lòng - bánh hỏi, món điểm tâm dễ ăn mà cũng rất hấp dẫn với nhiều du khách phương xa.
    Thực đơn bánh hỏi ở Bình Định hiện có khoảng đến? 10 món; như: bánh hỏi chả giò, bánh hỏi lòng heo, bánh hỏi thịt nướng, bánh hỏi chạo tôm, bánh hỏi tôm càng, bánh hỏi thịt bò nướng, bánh hỏi gà nướng...
    Cùng với bánh tráng, bánh ít lá gai, bún song thằn?, món bánh hỏi từ lâu đã trở thành đặc sản riêng của vùng đất võ. Một món ăn tuy rất đỗi bình dân nhưng lại có sức quyến rũ lạ kỳ.
    Nhân dịp Festival Tây Sơn ?" Bình Định 2008, du khách phương xa nếu có dịp đến vùng đất này, cũng nên thử qua một lần cho biết! Kinh nghiệm cho thấy, nhiều người đến đây, thưởng thức món đặc sản này xong thường cũng lại hay thắc mắc: ?oBánh hỏi là bánh gì??.
    Hỏi xong rồi lại muốn ăn thêm?hic...thèm quá...
  9. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Quán khuya
    Quy Nhơn không có những con phố ẩm thực đêm sầm uất như ở nhiều thành phố trong nước mà chỉ có những hàng quán dân dã, bình dị bán thâu đêm. Đó là những quán ăn nhỏ nơi vỉa hè, góc phố với bộ bàn ghế nhựa dã chiến. Những hàng cháo khuya ở trước sân ga Quy Nhơn. Và những phụ nữ đang gục đầu mơ màng bên những thúng bánh hỏi chờ khách mua...

    * Ăn khuya ở phố biển Một góc phố ?oẩm thực khuya? Ngô Văn Sở.
    Đầu tiên phải kể đến phố ?okhô nướng? Ngô Văn Sở. Khi kim giờ đồng hồ nhảy qua khỏi con số 10, chúng tôi tìm đến phố này. Mới đến đầu đường, đã nức mũi bởi khô mực, cá nướng, nem? dậy mùi trên lửa than hồng. Những quán hải sản khô, quán phở, bánh bèo? vẫn còn tấp nập kẻ vào người ra. Họ là những đôi trai gái, nhóm bạn và cả những gia đình đến đây vì nhiều lý do khác nhau. Có bàn chỉ toàn cánh đàn ông ngồi ?olai rai?, cũng có người ghé ngang mua ?omồi? rồi lại phóng xe đi.
    Bà Hồng Mai - chủ quán Mai, một trong những người đầu tiên ?okhai lập? nên khu quán ăn khuya này, kể: ?oTôi bán ở đây đã mười mấy năm rồi, chỉ chuyên hải sản khô, nem, chả cá nướng. Thời đó, chỉ có mình tôi bán nên khách đông lắm. Nhiều người thấy bán được, cũng mở quán nên lượng khách chia sẻ dần?. Nay thì ở con phố này, ngoài món ?ochủ đạo? là hải sản khô, nem nướng, còn có thêm bánh bèo, bánh xèo, lẩu, bún các loại, sinh tố, kem plan? Đặc biệt khu quán ăn này bán đến quá nửa đêm.
    Giá cả nơi đây rất ?omềm?, phù hợp với người bình dân. Chỉ 5.000-8.000 đồng/tô bún, phở tùy loại. Học sinh, sinh viên chỉ cần vài chục ngàn đồng là có thể đãi cả nhóm bạn. Chị Thanh Hoa, một khách quen của quán bà Mai, nói: ?oCả gia đình tôi ăn đủ thứ, nhai? mỏi cả miệng, vẫn chưa hết ba chục ngàn đồng??. Vợ chồng chị Hoa, từ thời còn yêu nhau, đã hay đưa đến đây. Đến nay, con đầu đã hơn ba tuổi, họ vẫn chưa rời bỏ khu quán này.
    Từ trước giải phóng, Quy Nhơn đã có những quán cháo gà, cháo vịt, vịt lộn bán từ lúc 4 giờ chiều đến tận mờ sáng hôm sau nằm ngay cửa ga. Cho đến giờ vẫn tồn tại những quán hàng như vậy. Lan, một chủ quán có khá đông khách, cho biết, mình đã là đời thứ tư ?otiếp quản? quán cháo của gia đình. Đầu tiên là má, sau đến hai người chị gái, rồi đến lượt cô. Má của cô, đã hơn 40 năm trong nghề bán cháo, tuy đã yếu sức nhưng vẫn phụ trách khâu nấu cháo cho con gái ra bán.
    Gần đấy, đoạn từ Rạp 31.3 (đường Phan Bội Châu) xuôi xuống dưới khu vực bến xe cũ, mấy chục năm qua, vẫn là nơi ?othường trú? của các bà, các chị bán bánh hỏi, bánh ướt. Họ nhẫn nại ngồi từ chiều hôm trước đến tận tờ mờ sáng hôm sau. Ngược lên đường Trần Hưng Đạo, đoạn từ ngã tư đường Mai Xuân Thưởng đến ngã tư Trần Cao Vân, là chốn của các hàng phở vỉa hè.

    Khách ăn khuya ở quán cháo gà tại trước ga Quy Nhơn.
    * Nỗi niềm quán khuya
    Khách bình dân, chủ quán lầm lụi- là hình ảnh của những quán khuya ở Quy Nhơn. Càng lầm lụi hơn là những cuộc đời sống gắn với quán khuya như một nghề để mưu sinh. Hầu hết họ đều lấy vỉa hè phố làm mặt bằng kinh doanh nên không sao tránh khỏi lo lắng, sợ hãi qua những lần ?oổn định trật tự vỉa hè?. Song, vì mưu sinh, họ vẫn tiếp tục?
    Đã 11 giờ đêm mà vợ chồng chú Tư, ngồi cuối đường Ngô Văn Sở, vẫn cố nán, đợi khách đến ăn nốt những chiếc bánh xèo còn lại. Gặp thằng cháu quen, họ ngoắc vào. ?oCũng may, mình bán trong xóm nên con cháu, người quen đến ăn giùm lúc thế này. Nếu không thì phải đem về nhà, coi như mất lời. Mà ngồi từ chiều đến nửa đêm mới được bốn, năm chục ngàn bạc?- cô Tư nhẩn nha nói. Còn chị Phạm Thị Cúc bán bún, bánh cuốn gần đấy thì tâm sự: ?oThời điểm đông khách nhất là 9 đến 11 giờ tối. Nhưng người bán thì cứ bán cho đến khi nào hết hàng, lắm hôm đến quá nửa đêm. Có hôm ế quá, buổi sáng lại phải tiếp tục mang ra chợ. Mùa này còn đỡ, chứ mùa đông thì vừa ế lại vừa co ro trong mưa phùn gió rét? mong từng người khách một?.
    Hơn 11 giờ đêm, dừng xe trước Hội trường Quang Trung, tôi gặp đôi vợ chồng trẻ người Đức Phổ (Quảng Ngãi) bán hủ tiếu xe từ hơn một năm nay. Họ dọn hàng từ 4 giờ chiều đến giờ mà vẫn chưa hết hủ tiếu. ?oThôi ráng thêm chút nữa?- anh chồng ngáp trong lúc dọn đống tô bẩn. Cạnh đó không xa, một phụ nữ ngoại 50 tuổi đang ngồi gục đầu bên gánh bánh hỏi. Bà choàng tỉnh rất nhanh khi nghe tiếng xe máy của hai thanh niên trờ tới mua bánh ?odằn bụng? xem Euro. Những phụ nữ bán bánh đều ở Đập Đá (An Nhơn), hay Tường Vân (Tuy Phước). Ai bán xong trước, lại tụm lại với nhau ngủ chờ đến sáng sớm, theo xe về.
    Đêm tháng 5 chưa nằm đã sáng. Chẳng mấy lúc nữa lại đến bình minh rồi
    (www.baobinhdinh.com.vn)
  10. tranvuhoang2005

    tranvuhoang2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/10/2005
    Bài viết:
    2.033
    Đã được thích:
    1
    Về Bình Định ăn cá đại gia
    Ở hai huyện miền núi An Lão, Hoài Ân người dân thường gọi cá niên là cá "đại gia" bởi cái giá "trên trời" của nó so với mức thu nhập hạn chế của người miền núi.
    Cá niên thường sống ở thác, ghềnh, suối trên vùng cao. Ở Bình Định, chỉ huyện An Lão, Hoài Ân là nơi có thể câu được cá niên, nhiều nhất là An Lão. Cá niên thường xuất hiện vào mùa hè. Do chỉ sống trong dòng nước chảy xiết nên việc câu được loại này là vô cùng khó, vả lại loài cá này cũng rất ít. Ngoài cách ngon nhất là nướng, cá niên còn được sử dụng làm gỏi. Cá sống được làm sạch, xắt ra, vắt chanh, thêm gia vị, mắm muối rồi trộn lẫn với rau dừng (đọt non cây lộc vừng) và lá dớn non (một loại cây giống dương xỉ, mọc ven sông). Vị cá cùng vị chát của rau dừng, vị nhớt của lá dớn làm cho món gỏi trở thành mồi nhậu rất bắt.
    Người câu phải đứng giữa dòng nước chảy rồi cầm cần câu kéo lui kéo tới liên hồi theo dòng nước mới mong được có vài con. Dẫu vậy, con to nhất cũng chỉ chừng hai ngón tay ghép lại. Mồi để câu cá niên thường được dùng là con bọ gậy, người đi câu về mà rọ cá trống rỗng là chuyện thường. Vì thế, dù thi thoảng mới lọt về thành thị để trở thành món ăn đặc sản nhưng một kg loại cá này được bán với giá khoảng 150.000 đồng tại địa phương.
    Với cái giá "trên trời" so với mức thu nhập của người miền núi, nhiều thực khách từ xa tới thường lầm tưởng việc chế biến loại cá này khá công phu. Tuy nhiên khi nghe được cách chế biến cá niên thì ai cũng ngạc nhiên bởi nó quá đơn giản. Cá được câu về, rửa sạch, rồi sau đó cho nguyên con vào nẹp và nướng chín, không cần bỏ đi bộ phận nào của cá.
    Cá niên nướng xong, chấm với muối vắt chanh, ớt xanh, vài lát cà chua kẹp rau thơm. Cá càng nhỏ, ăn càng tuyệt. Theo những vị sành ăn cá niên, ngon nhất của cá này là bộ ruột với vị đăng đắng, thanh thanh của mật cá, khá lôi cuốn người ăn, còn thịt cá thì không thua gì những món cá đặc sản khác. Nhiều thực khách là fan của món ăn này cho rằng, ngoài vị rất riêng của thịt cá, mật cá niên còn có tác dụng rất lớn trong việc chăn gối...hehe... Đúng sai thế nào, thử mới biết...quá đã...

    Ăn rong ở Quy Nhơn
    Đi ăn rong cũng là một cái thú. Lang thang trên những con đường, tình cờ ghé vào một quán nhỏ ven đường ăn lót dạ. Và thật thú vị khi ta phát hiện ra được một quán ngon, ?olàm quà? để tặng người thân và bạn phương xa bằng câu nói ?ocó quán này ngon lắm, ăn thử hông??, hoặc ?okhi nào bạn về, mình sẽ dẫn bạn lang thang, đi ăn rong trên phố xá Quy Nhơn?...
    * Bánh canh, bánh cuốn và bún chả cá Quy Nhơn
    Đó là những món ăn mà bạn có thể dễ dàng tìm thấy ở bất kỳ quán ăn nào trên đường phố Quy Nhơn. Đó là ?ođặc sản? của phố biển quê hương.
    Bánh canh làm từ những sợi bột dài trắng tinh làm từ bột gạo hoặc bột mì nhất. Còn bánh tráng cuốn, ở Bình Định mới có thứ bánh tráng vừa mỏng, vừa dai vừa miệng người ăn đến vậy. Nổi tiếng và được nhiều người biết nhất là quán bánh canh Bà O (45 Phan Đình Phùng). Chẳng biết bà tên thật là gì, chỉ biết bà dân gốc Huế, khách vẫn kêu O, lâu rồi thành quen. Bánh canh của bà là bánh canh làm từ bột gạo, cọng tròn dài vừa đủ ăn. Bánh canh chả cuốn, thêm một quả trứng cút, nửa lát chả lụa sóng sánh trong vị nước lèo đậm đà. Thêm chút hành lá, chút tiêu, chút ớt tương sánh đỏ. Vậy là ta đã có một tô bánh canh ngon lành, giá 5.000 đồng/tô, chả cuốn 3.000 đồng.
    Gần hai năm trở lại đây, xuất hiện món bánh canh cua O Huệ (28 Trường Chinh)- đặc sản của xứ biển du lịch Nha Trang. Chẳng biết lấy nguồn từ đâu, nhưng lúc nào tô bánh canh cũng có vài miếng nạc cua thêm vài lát chả cá. Vị cá - cua kết hợp, thêm cọng bánh canh bột mì nhứt dai dai... khiến thực khách Quy Nhơn thấy lạ miệng.
    Còn bún cá ư? Hầu như mọi con đường ở Quy Nhơn đều có bán. Nhưng nhiều người vẫn ?ochấm? quán 159 đường Nguyễn Huệ. Ngoài nguyên liệu chính là chả cá, tô bún còn được chủ quán ?ođiểm xuyết? thêm một vài tai nấm rơm làm cho tô bún ?ongọt? hơn. Dĩa rau sống được chủ quán chăm chút từng chút một, từ hoa chuối chát xắt nhỏ đến các vị húng, quế, xà lách thái nhỏ, tạo cho thực khách cảm giác rất ngon miệng. Một người bạn dân Hà Nội của tôi đến Quy Nhơn nằng nặc đòi dẫn đi ăn bún cá dù buffee sáng tại khách sạn chẳng thiếu thứ gì. Vừa ăn vừa hít hà, anh phán ?ongon quá? và làm liền một lúc hai tô.
    Mùa sứa rộ (cuối xuân đầu hè), bạn muốn thưởng thức món bún sứa cho mát dạ, hãy nhớ ghé đến quán Vân Vi ở 142 Lê Hồng Phong.
    * Bánh xèo
    Nói đến bánh xèo, thể nào giới sinh viên Trường Đại học Quy Nhơn và những người sống ở Khu 6 (đoạn đường Nguyễn Thái Học, Ngô Mây, Hoàng Văn Thụ) sẽ nghĩ ngay đến quán Cây Me (số 546 Nguyễn Thái Học) bởi nó khá ngon.
    Trước đây, ở góc ngã tư đường Trần Cao Vân - Phan Bội Châu có đến ba, bốn quán bánh xèo nằm liền kề nhau, rất đông khách. Nhưng kể từ khi một cô chủ quán xinh gái theo chồng bỏ cuộc chơi (làm nhiều nam thực khách tiếc ngẩn ngơ) thì góc quán bánh xèo này thưa hẳn. Trong hai quán còn lại ấy, giờ thực khách đến quán Thu Vân nhiều hơn (90C Trần Cao Vân). Phải chăng là vì cô ấy trẻ hơn người chủ quán kia?
    Nếu bạn là người hay la cà, chịu bỏ thời gian đi tìm hiểu các ngóc ngách, hẻm nhỏ của Quy Nhơn, xin mời đến căn hẻm nhỏ mà có thể đi vào bằng hai đường Đinh Bộ Lĩnh hoặc Trần Hưng Đạo (hẻm 90 Trần Hưng Đạo). Cua qua ba, bốn dạo, hỏi thăm quán chị Mai, chuyên bán bánh vào buổi chiều. Bánh xèo đúc ngon, cô chủ quán niềm nở, đón tiếp chu đáo nên dẫu có ngồi chờ 1-2 tiếng, khách vẫn cứ vui lòng đợi thêm. Lưu ý: nhắm mình ăn được bao nhiêu thì kêu đúc bấy nhiêu phòng khi quán không kịp phục vụ. Đang ăn ?odở mồm? mà phải chờ... để ăn tiếp thì mất cả ngon.
    * Các loại bánh khác và chè
    Quy Nhơn chẳng có nhiều loại chè, loại bánh kiểu ?ocung đình?, thưởng thức ?ohương hoa? như ở Huế mà chỉ có các loại bánh ?oăn chắc, mặc bền? như chính tính cách của người dân Bình Định vậy.
    Quán bánh bèo nóng ở số 742 Trần Hưng Đạo mà mọi người vẫn thường gọi là bánh bèo Cây Mận. Đơn giản, vì quán có hai cây mận trước sân. Bánh bèo nóng mới đúc, rắc thêm ít tôm chấy (tôm quá mắc nên thay bằng cá nhưng đảm bảo không để lại mùi tanh) lên trên, thêm ít bánh mì chiên giòn, hành phi... bảo đảm người đói bụng, lâu ngày thèm bánh bèo có thể ?odứt? một lúc hai, ba chục chén bánh bèo.
    Tại góc đường Mai Xuân Thưởng, trước hiên nhà số 100, có cô chủ chuyên bán nhiều loại bánh. Từ bánh ít nhân mặn, bánh bèo, bánh hỏi, bánh tai vạc, bánh gói đến bún dây, chả ram... để cho thực khách tha hồ mà chọn lựa, thích gì ăn nấy. Cỡ từ 3 giờ chiều trở đi, quán lúc nào cũng đông khách, không chỉ các bà, các cô, học sinh ăn lót dạ trước khi vào tiếp các cua học thêm mà cánh đàn ông, con trai cũng có mặt. Hóa ra, thú đi ?oăn hàng? cũng không phải là ?ođộc quyền? của giới nữ.
    Người ?ohảo ngọt? thích ăn chè, hẳn thể nào cũng biết đến quán chè của Cô Bảy- ngay gần ngã tư đường Tăng Bạt Hổ - Lê Hồng Phong (Quy Nhơn). Chè đậu xanh bông cau vàng ươm, hột đậu mềm nhưng không nát. Chè đậu trắng, đậu đỏ, đậu ván, đậu đen, rồi chè ỉ... loại nào cũng ngon. Ăn miếng chè ngọt thanh chứ không gắt như những quán khác. Vì tín nhiệm Cô Bảy nên nhiều gia chủ đã đến tận nhà (hẻm 53 Diên Hồng) mua chè trước để về cúng rằm, tất niên.
    Ở đường Ngô Mây, HSSV rất kết quán chè Nhớ ở số nhà 134. Quán chỉ chuyên bán chè thập cẩm (đủ loại), chè trái cây hay đông sương. Chè ở quán này ngon, rẻ nên nơi đây là ?ođiểm hẹn? không chỉ của các đôi bạn yêu nhau mà còn của các bạn sinh viên đến ?okhao? học bổng, hoặc ?ochung độ? sau chầu cá độ nào đó.
    *
    Đất Quy Nhơn vốn ?onổi tiếng? về giá cả phải chăng, rẻ hơn các thành phố khác. Bởi thế cho nên, chỉ 1.000 đồng bạn có thể thưởng thức được một chén chè nóng, vị ngọt thanh tao của chè Cô Bảy, dĩa bánh tai vạc, bún dây 2.000 đồng, tô bún cá ngon nhất cũng chỉ có 6.000 đồng (có thể lên vào dịp Tết).
    Chiều. Dạo quanh thành phố bằng xe máy, xe đạp, lang thang trên từng con phố nhỏ trong không khí bình yên của phố biển, rẽ vào quán bên đường hay trong hẻm nhỏ thưởng thức thú ăn rong. Chà, thật chẳng có gì tuyệt bằng!
    Không tin, thử thì biết!
    Ở Quy Nhơn mới xuất hiện quán Bánh Xèo Tôm Nhảy (Tuy Phước) giá 8k/lá. địa điểm Ngã tư Phan Chu Trinh - Trần Hưng Đạo. Món này cũng khá hay

Chia sẻ trang này