1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đồ cổ đây, đồ cổ đây...chuyện Đông - chuyện Tây trên KTNN hồi xưa.

Chủ đề trong '1981 - Hội Gà Sài Gòn' bởi vietgreat, 05/10/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vietgreat

    vietgreat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2005
    Bài viết:
    1.440
    Đã được thích:
    0
    43. (KTTN 103, ngày 01-3-1993)
    Trong bài ?oĐêm giao thừa 1993? của Trịnh Công Sơn (Kiến thức ngày nay số 101, trang 22-23) có hai tiếng sát na (?ocái sát na nhỏ bé của thời gian?). Xin cho biết sát na là gì?
    AN CHI:
    Sát na là một khoảng thời gian cực ngắn. Đây là một danh từ mà người Trung Hoa đã phiên âm từ tiếng Sanskrit (cũng gọi là tiếng Bắc Phạn) kṣa?a trong kinh Phật. Họ đã ghi kết quả phiên âm đó bằng hai chữ Hán mà người Việt Nam đọc theo âm Hán Việt thành sát na.
  2. vietgreat

    vietgreat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2005
    Bài viết:
    1.440
    Đã được thích:
    0
    44. (KTTN 103, ngày 01-3-1993)
    Xin cho biết lịch sử cây thánh giá của người theo đạo Thiên chúa.
    AN CHI: Thánh giá vốn là một thập tự giá (trở xuống xin gọi tắt là thập giá) nghĩa là một cái giá hình chữ thập (?). Đó là biểu tượng của đức tin Ki Tô giáo vì chính Chúa Jesus đã chịu nhục hình trên một cây thập giá.
    Tuy nhiên ngay từ trước Công nguyên, chữ thập đã là biểu tượng có tính chất tôn giáo của nhiều dân tộc khác nhau thời cổ đại rồi. Chữ thập đều, cũng gọi là chữ thập Hy Lạp, là biểu tượng của thần Amu nơi người Chaldée và người Babylone. Chữ thập có quai (croix ansée) rất thường thấy nơi người Ai Cập và được xem là tượng trưng cho sự bất tử. Chữ thập ngoặc đã có mặt ở Ấn Độ từ hàng ngàn năm trước Công nguyên. Chữ thập ngoặc có nhánh chĩa về bên phải, gọi là svastika, tượng trưng cho thần Gane>a và điềm lành còn chữ thập ngoặc có nhánh chĩa về bên trái, gọi là sauvastika, thì tượng trưng cho nữ thần Kali và điềm dữ. Nơi nhiều dân tộc khác nhau, từ người Ba Tư đến người Phénicie, từ người Etrusque đến người La Mã, từ người xứ Gaule đến người xứ nay là nước Anh, ngay cả thổ dân Da đỏ của Mexico và Trung Mỹ, người ta đều thấy sự có mặt của chữ thập.
    Riêng việc hành hình bằng cách trói hoặc đóng đinh tội nhân vào một cây thập giá thì nhiều nhà nghiên cứu đã cho là thuộc về ?osáng kiến? của người Phénicie. Sau đó, nhiều dân tộc thời cổ đại cũng đã áp dụng kiểu hành hình này. Tiền thân của cây thập giá chỉ là một cái trụ đứng, nơi đó người ta trói tội nhân vào khi mà chung quanh không có một thân cây nào để tận dụng. Người ta cũng có thể dùng cái trụ đó đâm xuyên tội nhân từ hậu môn lên rồi cứ thế mà bêu cho đến khi tội nhân chết. Về sau, người ta đã gác thêm một thanh ngang vào cái trụ đứng và thế là cây thập giá với tính cách là một phương tiện hành hình đã chính thức ra đời. Đức Chúa Jesus đã chịu nhục hình trên một cây thập giá như thế.
    Thoạt đầu chỉ là dấu hiệu của sự ô nhục, theo dòng thời gian, cùng với sự phát triển của Ki Tô giáo, cây thập giá đã trở nên biểu tượng của tình thương Thiên Chúa và đức hy sinh cho sự nghiệp cứu rỗi nhân loại. Trong tiếng Việt, nó được gọi là cây thánh giá.
  3. vietgreat

    vietgreat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2005
    Bài viết:
    1.440
    Đã được thích:
    0
    45. (KTTN 104, ngày 15-3-1993)
    Thỉnh thoảng tôi được thấy trong tranh vẽ của Trung Quốc hình một ông già có chòm râu bạc phơ dài đến rún, lại có một cái trán sói vĩ đại nổi lên trên đầu như hình dáng một quả trứng to quá khổ. Thí dụ, trên bìa 1 của Mỹ thuật thời nay số 28 (Xuân Quý Dậu) có in một bức tranh như thế và chú thích ở trang 3 là tranh ?oThần Phúc Lộc?. Có phải đó là Thái Thượng Lão Quân không? Và cái trán quả trứng to quá khổ của ông ấy có ý nghĩa gì?
    AN CHI:
    Thái Thượng Lão Quân là tôn hiệu dành cho Lão Tử, người được phái Đạo giáo xem là tông sư. Còn ông lão mà bạn thấy trong tranh Trung Hoa và trên bìa 1 của tạp chí Mỹ Thuật thời nay số 28 không phải là Lão Tử mà cũng không phải là ?oThần Phúc Lộc?. Đó là Nam Cực Lão Nhân như đã được khẳng định bằng chính mấy chữ Hán trong tranh in nơi bìa 1 của tạp chí đó: Nam Cực Lão Nhân ứng thọ đồ, nghĩa là ?otranh Ông Già Nam Cực đi ban thọ?. Ông ta chính là Ông Thọ. Và Ông Thọ chính là hóa thân của Nam Cực Lão Nhân tinh.
    Nam Cực Lão Nhân tinh, tức là sao Nam Cực Lão Nhân, hiện nay chỉ gọi tắt là Lão Nhân tinh, tức sao Ông Già. Sao Ông Già là sao Canopus trong chòm sao Argo, sáng hàng thứ hai sau sao Thiên Lang, tức sao Sirius, trên bầu trời Nam bán cầu. Tuy sáng thua sao Thiên Lang nhưng vì sao Ông Già là ngôi sao sáng nhất ở phía cực Nam của bầu trời nhìn từ mặt đất (Thiên Lang: 16°36?TN, còn Ông Già: 52°40?TN) nên người Trung Hoa ngày xưa đã gọi nó là Nam Cực tinh, tức sao Nam Cực. Ở địa bàn nguyên thủy của người Trung Hoa thời cổ đại là lưu vực sông Hoàng Hà (thuộc Bắc bán cầu) thì rất khó mà nhìn thấy được nó. Phải sống rất lâu mới nhìn thấy nó nhiều lần trong đời. Vì vậy người Trung Hoa mới lấy sao Nam Cực làm tượng trưng cho tuổi thọ mà gọi nó là Thọ tinh tức sao Thọ. Tượng trưng hóa như thế xem ra vẫn chưa thỏa lòng, người ta lại tiếp tục nhân cách hóa thành Nam Cực Lão Nhân (tinh) = (sao) Ông Già Nam Cực. Sau đó, còn bỏ cả hai tiếng Nam Cực vốn là tên nguyên thủy mà chỉ giữ lại có hai tiếng Lão Nhân (tinh) = (sao) Ông Già.
    Hiện đại Hán ngữ từ điển (Bắc Kinh 1992) đã giảng hai tiếng Thọ tinh (shòu xing) như sau: ?oChỉ sao Ông Già. Từ xưa đến nay dùng làm tượng trưng cho sự trường thọ, gọi là Thọ tinh. Nhân gian thường vẽ thành hình dáng một ông già, đầu dài mà nổi u lên. Cũng gọi là Ông Già sao Thọ?.
    Nơi tranh bìa đã nói, đi trước Nam Cực Lão Nhân, tức Ông Thọ, là ba chú tiên đồng khiêng một trái đào thọ to bằng thân hình của ba chú gộp lại và ở hậu cảnh, cũng tượng trưng cho tuổi thọ, còn có hình của ba con hạc.
    Cái đầu nổi u lên của ông ta có ý nghĩa Đạo giáo sâu sắc. Đạo này cho rằng hành động tính dục có ba mục đích là sự truyền giống, sự thỏa mãn tính dục và sự ngăn chận quá trình suy lão. Mục đích cuối cùng này lại chỉ là ?ođộc quyền? ?" vì là bí truyền ?" của một số đạo sư mà thôi. Những người này cho rằng tất cả mọi lần ********* đều rút ngắn đời người. Vì vậy nên phải cho tinh dịch quay trở về mà bồi bổ cho não để đạt đến trường sinh. Cho nên, trong việc giao hợp, khi phóng tinh thì không được để cho tinh xuất ra ngoài mà phải rút nó từ ngọc hành trở vào để đưa nó lên tận não. Chính do diệu pháp này mà các vị siêu đẳng thọ mới có cái đầu nổi u lên như đã nói và đã thấy. Điển hình nhất chính là cái đầu của Ông Thọ.
    Xin chớ cho đây là chuyện tếu. Ghi nhận quan niệm trên đây là hai đồng tác giả, một người Pháp và một người Trung Quốc là Pierre Huard và Ming Wong đã viết về cái đầu của ông ta và về diệu pháp đó như sau: ?oĐích thị là vì ông ta có thể đưa lên đến tận óc của ông ta những chất tinh túy gây thụ thai của cơ thể mình và tích lũy chúng tại đó bằng những phép thực hành tính dục rất đặc biệt nên ông ta đã đạt được sức khỏe và trường thọ? (La médecine chinoise, Paris, 1959, p.19).
  4. vietgreat

    vietgreat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2005
    Bài viết:
    1.440
    Đã được thích:
    0
    46. (KTTN 104, ngày 15-3-1993)
    Theo mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay số 101 thì ?ohoàng tức? là con dâu của vua. Xin cho biết thêm ?ovương phi? là gì?
    AN CHI:
    Vương phi là vợ của thái tử. Thí dụ như trong hoàng gia nước Anh thì Diana là vương phi của thái tử Charles và là hoàng tức của nữ hoàng Elisabeth (*). Còn trong hoàng gia nước Nhật, Masako Owada là vương phi của thái tử Naruhito và là hoàng tức của hoàng đế Akihito và hoàng hậu Michiko. Phi, theo nghĩa gốc là thiếp (vợ lẽ) của vua. Nó còn có nghĩa là thê (vợ chính) của thái tử, của người có tước vương hoặc tước hầu.
  5. vietgreat

    vietgreat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2005
    Bài viết:
    1.440
    Đã được thích:
    0
    47. (KTTN 104, ngày 15-3-1993)
    Có phải mấy tiếng ?ođôi tôi?, ?otôi tôi? là do ?othôi nôi? mà ra hay không?
    AN CHI: Đây là một tục lệ gốc ở Trung Hoa xưa, liên quan đến chữ T, đọc theo âm Hán Việt là tối, có nghĩa là tròn năm (vị từ) hoặc đứa trẻ đầy một tuổi (danh từ). Khi đứa trẻ đúng một tuổi, người ta ?otrắc nghiệm? để dự đoán sở thích và sở trường của nó trong tương lai. Tiếng Hán gọi việc này là ?othí nhi? nghĩa là thử con. Người ta bày lên mâm một số đồ vật vừa đồ chơi, đồ nghề, vừa học cụ, v.v? để xem đứa trẻ chọn thứ nào mà lấy căn cứ vào món đồ này mà dự đoán tương lai của nó. Cái mâm đó gọi là tối bàn (mâm đầy năm). Nó được bày biện để thử con vào đúng dịp chu tối, nghĩa là dịp tròn trặn một năm tuổi của đứa trẻ (chu là giáp vòng).
    Đôi tôi và tôi tôi bắt nguồn từ hai tiếng chu tối. Trong tiếng Việt, hai tiếng này dần dần được phát âm thành chu tôi. Tối được phát âm thành tôi cũng y hệt như tín (tức) thành tin (tức), (cân) đái thành (cân) đai, tứ (= bốn) thành tư, v.v? Nhưng phần đông người bình dân Việt Nam thời xưa chỉ biết nội dung và hình thức của lễ thí nhi mà lại chẳng biết hai chữ chu tôi có nghĩa là gì. Dần dần họ phát âm trại đi thành tôi tôi. Ở đây, đã diễn ra một sự đồng hóa ngữ âm (chu bị tôi đồng hóa) để làm thành một từ láy giả tạo. Nhưng có những người không rõ nguồn gốc của hai tiếng tôi tôi mà lại muốn giải thích nó theo ý riêng của mình. Họ đã dị hóa tiếng tôi thứ nhất bằng cách hữu thanh hóa phụ âm đầu [t] của nó thành [đ] mà nói đôi tôi nhưng cũng chẳng hề ?" vì không thể ?" nói rõ được đôi có nghĩa là gì. Đây chẳng qua chỉ là sự tái giả tạo một hình thức giả tạo mà thôi.
    Đến như thôi nôi, thì đây lại là một kiểu refonte (sự soạn lại) hoàn toàn, nhằm giải thích tôi tôi và đôi tôi về cả ngữ âm lẫn ngữ nghĩa. Với hình thức soạn lại này, người ta có ý muốn nói rằng đôi tôi và tôi tôi chẳng qua cũng chỉ là những lối nói trại âm của thôi nôi và rằng đôi tôi = tôi tôi chẳng qua cũng chỉ là lễ đứa trẻ thôi nằm nôi. Người ta đã quên rằng lễ thôi nôi ngày xưa, dù có được gọi bằng cái tên mới này, thực chất vẫn cứ luôn luôn là lễ thí nhi, rằng lễ này vẫn cứ phải được tiến hành đúng vào dịp chu tối, rằng phương tiện trắc nghiệm vẫn cứ là những vật dụng được bày biện trên cái tối bàn, nghĩa là cái mâm đầy năm.
    Từ những điều trên đây, có thể suy ra rằng thôi nôi chỉ là một hình thức sinh sau đẻ muộn so với đôi tôi, tôi tôi, chu tôi, chu tối mà thôi.
  6. vietgreat

    vietgreat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2005
    Bài viết:
    1.440
    Đã được thích:
    0
    48. (KTTN 105, ngày 01-4-1993)
    Gà rán ?ohăm-bu-gơ? là món ăn như thế nào mà bài ?oCon gà trong ngôn ngữ dân gian? (Kiến thức ngày nay số Xuân Quý Dậu) đã nhắc đến? ?oHăm-bu-gơ? là gì?
    AN CHI:
    Đó là tác giả nói theo lời ? quảng cáo của ?oNhà hàng gà rán hăm-bu-gơ? trên truyền hình! Còn món hăm-bu-gơ chính cống, tiếng Anh nói ở Mỹ (American English) là hamburger [hæmbT:gT] thì lại là món Hamburg steak, nghĩa là thịt miếng kiểu đặc biệt của Hamburg, một thành phố cảng nổi danh của nước Đức. Dân Mỹ xem ra không thích nói Hamburg steak nên đã gọi món này là hamburger. Đây là món thịt bò băm nhuyễn làm thành miếng rồi nướng lên. Món này thường được cặp vào bánh sandwich để ăn cho nên bây giờ bánh sandwich có cặp miếng Hamburg steak cũng được gọi luôn là hamburger. Điều oái oăm là sau khi danh từ này ra đời thì người Mỹ không thấy được cấu tạo của nó là hamburg + er mà lại thấy rằng hamburger = ham + burger, vì trong tiếng Anh, ham có nghĩa là giăm-bông, là bắp đùi (của súc vật). Do đó burger đã được xem là một hình vị và với ?ohình vị? này người ta còn tạo ra nào là fishburger (món burger cá), cheeseburger (món burger pho-mát), v.v? Thậm chí còn có nhà sản xuất như hiệu Moore còn gọi món ăn đặc sản của mình là Mooreburger nữa. Và bây giờ người ta còn có thêm các từ ngữ tân tạo McBurger, Kebab Burger và Kiwi Burger nữa (Xem ?oCả thế giới nhai bánh mì thịt McDonald?Ts?, Kiến thức ngày nay, số 103, tr.94-8).
  7. vietgreat

    vietgreat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2005
    Bài viết:
    1.440
    Đã được thích:
    0
    49. (KTTN 105, ngày 01-4-1993)
    Xin cho biết vắn tắt sự tích của ông Thần Tài.
    AN CHI:
    Theo truyền thuyết thì thần tài chính là Triệu Công Minh, người đã sống vào thời nhà Tần. Ông đã lánh đời mà dốc lòng tu tiên ở núi Chung Nam. Về sau đắc đạo, được phong làm Chính Nhất Huyền Đàn Nguyên soái, coi việc xua ôn đuổi dịch, cứu bệnh trừ tai. Lại nữa, phàm ai bị oan ức đến cầu cứu nơi ông đều được ông giúp làm cho sáng tỏ. Người buôn bán cúng ông để cầu tài cầu lộc cũng được ông giúp cho như ý muốn. Người ta thường vẽ ông thành hình một người mặt đen, râu rậm, tay cầm roi, mình cỡi trên lưng một con cọp đen. Người ta cũng thường hay vẽ hình ông trên ảnh đăng (một loại đèn cù) và còn gọi ông là Tài Bạch Tinh Quân hoặc Triệu Công Nguyên Soái.
  8. vietgreat

    vietgreat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2005
    Bài viết:
    1.440
    Đã được thích:
    0
    50. (KTTN 105, ngày 01-4-1993)
    Tại sao lại gọi là ?oLa Hán?? Có tất cả 16 vị hay 18 vị? Xin cho biết tên mỗi vị.
    AN CHI
    : Về hai tiếng La Hán, sau đây là lời giảng của hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi:
    ?oVào chùa Việt Nam, chúng ta thường thấy tượng mười tám vị đứng gần nhau, mặt mũi trông sắc sảo dữ tợn. Đó là tượng mười tám vị La Hán, vốn là những tên tướng cướp, về sau gặp được duyên may, được giác ngộ quy y theo Phật và chứng quả A La Hán (?) Chùa Tây Phương (tỉnh Hà Tây) có tượng 18 vị La Hán rất độc đáo. Đây là tích mười tám La Hán theo một huyền thoại của Trung Quốc, bởi vì truyện mười tám tên cướp tu thành La Hán xảy ra ở Trung Hoa. (Ba chỗ in nghiêng là do chúng tôi nhấn mạnh ?" AC). Còn ở Ấn Độ, không thấy nói đến tích này? (Từ điển Phật học Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr. 432).
    Thực ra, các vị La Hán không những không phải là người Trung Hoa mà họ cũng chẳng phải vốn là những tướng cướp, mặt mũi của họ cũng không dữ tợn mà lại nhân hậu và trông rất khắc khổ.
    La Hán là dạng tắt của ba tiếng A La Hán mà người Trung Hoa đã dùng để phiên âm tính từ tiếng Sanskrit arhant (Hình thái ở cấp tuyệt đối là arhattama), mà nghĩa gốc là đáng tôn kính, được dùng để chỉ những bậc tu hành đắc đạo dưới hàng Bồ Tát. Tiếng Anh và tiếng Pháp thường phiên thành arhat. Người ta cho rằng La Hán là các vị đệ tử của Phật tuy đã đắc đạo nhưng vẫn sống ở trần gian để tế độ chúng sinh. Hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi viết rằng chuyện mười tám vị La Hán xuất xứ từ một huyền thoại Trung Hoa ?ocòn ở Ấn Độ, không thấy nói đến tích này?. Thực ra các vị đều mang tên bằng tiếng Sanskrit là một phương ngữ cổ đến mấy nghìn năm của Ấn Độ. Tên của các vị đã được chép trong Pháp trụ ký của Nan Đề Mật Đạt La như sau :
    1. Tân Độ La Bạt La Đọa
    2. Già Nặc Già Phạt Sa
    3. Già Nặc Bạt Ly Đọa Ám
    4. Tô Tần Đà
    5. Nặc Cự Na
    6. Bạt Đà La
    7. Già Lý Già
    8. Phạt Đồ La Phất Đa La
    9. Tuất Bát Già
    10. Bán Thác Già
    11. La Hồ La
    12. Na Già Tê
    13. Nhân Kiệt Đà
    14. Phạt Na Ba Tư
    15. A Thị Đa
    16. Chú Đồ Bán Thác Già
    Danh sách trên đây là tên các vị La Hán mà người Trung Hoa đã phiên âm từ tiếng Sanskrit. Tất cả là 16 vị.
    Sở dĩ có ý kiến cho rằng tất cả có 18 vị La Hán là vì vào thời Tống, người thích vẽ chuyện đã thêm vào hai tên Khánh Hữu và Tân Đầu Lô mà không biết rằng Tân Đầu Lô chỉ là một dạng phiên âm hơi khác của Tân Độ La (Bạt La Đọa) còn Khánh Hữu chỉ là dịch nghĩa của Nan Đề Mật Đa La. Khánh = mừng là dịch nghĩa của Nandi (Nan Đề = người được vui mừng) còn Hữu = bạn là dịch nghĩa của Mitra (Mật Đà La = bạn). Mà Nandi-mitra (Nan Đề Mật Đà La) tức Khánh Hữu chỉ là tác giả của Pháp trụ ký đã nói ở trên chứ không phải là một vị La Hán trong danh sách đang xét. Vậy tất cả chỉ có 16 vị mà thôi.
  9. vietgreat

    vietgreat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2005
    Bài viết:
    1.440
    Đã được thích:
    0
    51. (KTTN 105, ngày 01-4-1993)
    Tại sao người ta lại ghép tên con chim (có cánh, đẻ trứng) với tên con chuột (có vú, đẻ con) thành tiếng đôi ?ochim chuột? để chỉ chuyện trai gái ve vãn, tán tỉnh nhau?
    AN CHI:
    Hai con vật hữu quan, một con thuộc lớp chim, một con thuộc lớp có vú, tất nhiên không thể "tình tự" với nhau được. Đó là xét về sinh vật học. Còn xét về từ nguyên thì chim chuột cũng không phải là một tổ hợp được tạo ra theo qui tắc cấu tạo từ ghép đẳng lập của tiếng Việt. Nó chỉ là kết quả của một sự dịch nghĩa từ các thành tố của một địa danh Trung Hoa: Điểu Thử Đồng Huyệt (= Chim Chuột Cùng Hang), cũng gọi tắt là Điểu Thử (= Chim Chuột).
    Đó là tên một ngọn núi trong dãy Tần Lĩnh, nằm ở phía Tây huyện Vị Nguyên, huyện Lan Châu, tỉnh Cam Túc. Núi này có tên như thế là vì dân chúng ở địa phương đã quan sát được hiện tượng chim chuột ở cùng một hang. Giống chim đó có tên là đồ hoặc mộc nhi chu còn giống chuột đó có tên là đột hoặc ngột nhi thử. Sách Cam Túc ghi chép: ?oĐất Lương Châu có con ngột nhi thử, giống như con chuột, có con chim tên là mộc nhi chu, giống như con sẻ, thường cùng con ngột nhi thử ở chung một hang. Đó chính là (chim) đồ (chuột) đột nhưng chỉ là tên xưa tên nay khác nhau mà thôi?. Vậy con mộc nhi chu, tức con chim đồ, chỉ là kẻ sống nhờ ở hang của con ngột nhi thử, tức con chuột đột. Giữa chúng không thể có quan hệ ?otình cảm? hoặc ?otính dục? đựợc.
    Nhưng cháu mười hai đời của Khổng Tử là Khổng An Quốc, khi chú giải Kinh thư, đã giảng bốn tiếng Điểu Thử Đồng Huyệt như sau: ?oChim (và) chuột cùng nhau làm (con) trống (con) mái (Chúng tôi nhấn mạnh ?" AC) cùng chung hang sống ở núi này, (vì vậy) mới có tên núi là Chim Chuột?. Từ xưa, đã có nhiều người cực lực bác bỏ cách giải thích này của họ Khổng, chẳng hạn như Đỗ Ngạn Đạt và Trương Án đều quả quyết rằng đó không phải là chuyện đực cái hoặc trống mái giữa chim và chuột.
    Tuy nhiên nhà nho Việt Nam thì lại tin tưởng ở nhà chú giải họ Khổng. Khổng Tử là Đức Thánh thì Khổng An Quốc cháu ngài cũng phải là một quyền uy. Bậc quyền uy này đã giảng rằng ?ođiểu thử đồng huyệt? là chuyện trống mái giữa chim và chuột thì việc nhà nho Việt Nam dịch hai tiếng điểu thử thành chim chuột để chỉ chuyện tán tỉnh, ve vãn giữa trai và gái cũng là điều rất tự nhiên.
  10. vietgreat

    vietgreat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2005
    Bài viết:
    1.440
    Đã được thích:
    0
    52. (KTTN 106, ngày 15-4-1993)
    Mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay số 95 đã không giải đáp dứt khoát thành ngữ ?omười hai bến nước? mà chỉ mới xác định cách giảng của Huình-Tịnh Paulus Của ?ohợp lý hơn? cách hiểu do ông Triệu Văn Cẩn nêu lên. Ngoài cách hiểu mà ông Triệu Văn Cẩn đã nêu, còn có thể hiểu ?omười hai bến nước? là 12 nghề nghiệp trong xã hội ta ngày xưa: sĩ, nông, công, thương, nho, y, lý, bốc, ngư, tiều, canh, mục hoặc là 12 tuổi tính theo thập nhị chi: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, v.v?
    AN CHI:
    Trên Kiến thức ngày nay số 95, chúng tôi có nói rằng đây là chuyện do từ nguyên dân gian gây ra nhưng vì vấn đề hơi phức tạp nên chúng tôi có hẹn đến một dịp khác sẽ trình bày rõ. Nay xin nói vắn tắt như sau. Hai danh từ bến và thuyền vẫn được dùng theo ẩn dụ để chỉ người con gái và người con trai trong quan hệ đính ước, hẹn hò. Từ cách dùng này, đi xa thêm một bước, bến lại được dùng để chỉ số phận của cá nhân, thường là phụ nữ, trong quan hệ nhân duyên.
    Chữ nhân ở đây viết là 姻 và nhân duyên được Mathews?T Chinese-English Dictionary giảng là ?othe fate or influence which brings lovers together? nghĩa là ?osố phận hoặc ảnh hưởng gắn bó (hai) người yêu với nhau?. Bến nước trong thành ngữ mười hai bến nước chính là thứ nhân duyên này.
    Nhưng trong tiếng Hán lại còn có một thứ nhân duyên khác, với chữ nhân viết là >. Đây là nhân duyên của nhà Phật mà cũng quyển từ điển trên đã giảng như sau: ?othe cause which produces effects in the future life? nghĩa là cái nhân tạo ra những cái quả trong kiếp sau?. Theo điển lý nhà Phật thì có tất cả mười hai nhân duyên, tiếng Hán gọi là thập nhị nhân duyên.
    Do cách hiểu theo từ nguyên dân gian ?" mà vì khuôn khổ có hạn, chúng tôi không thể nói kỹ tại đây ?" nên người ta mới đánh tráo thứ nhân duyên của thần Ái tình vào chỗ thứ nhân duyên của nhà Phật mà diễn nôm thập nhị nhân duyên thành muời hai bến nước. Hóa cho nên chỉ có hai bến như Huình-Tịnh Paulus Của đã nói ?ohoặc gặp bến trong, hoặc mắc bến đục (?) may thì nhờ, rủi thì chịu? đó mà thôi. Từ điển gia của chúng ta đã không thấy được hiện tượng từ nguyên dân gian nên mới viết rằng ?otiếng nói mười hai bến nước là nói cho vần?. Nhưng ông vẫn rất đúng ở chỗ ông không thừa nhận rằng ở đây hai tiếng mười hai có ý nghĩa xác thực như khi chúng được phân bố cho những ngôn cảnh bình thường khác.
    Để cho rõ hơn, chúng tôi xin được nhắc đến lý thuyết hữu quan của nhà từ nguyên học tiên phong hiện đại người Pháp là Pierre Guiraud trong cuốn Les locutions françaises (Paris, 1973). Đó là chương V mang tiêu đề ?oAccidents linguistiques? (Các sự cố ngôn ngữ) trong đó tác giả đã bàn đến những sự đan chéo hình thức (croisements des formes) và những sự lan truyền ý nghĩa (contaminations de sens) giữa các thành ngữ và từ ngữ với nhau. Phàm đối với những thành ngữ hóc búa kiểu mười hai bến nước mà khi nghiên cứu lại không xét đến các hiện tượng trên đây thì khó lòng tìm ra sự thật. Ở đây, nhân duyên của thần Ái tình đã lây nghĩa cho nhân duyên của nhà Phật nên mới tạo ra lối nói oái oăm đó.
    Mười hai thành phần đã kể ra chỉ là kết quả của một sự liệt kê trùng lặp cốt tìm cho đủ con số vì nho cũng là sĩ mà canh cũng là nông. Hiểu theo nghĩa rộng, nho, y, lý, bốc, cũng lại là sĩ cả. Mười hai địa chi cũng không liên quan gì đến thành ngữ đang xét.

Chia sẻ trang này