1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đỗ Long Vân :Vô Kỵ giữa chúng ta hay Hiện tượng Kim Dung

Chủ đề trong 'Kiếm hiệp cốc' bởi saint81, 27/01/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. saint81

    saint81 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    412
    Đã được thích:
    0
    IV. Nghi vấn đạo lý trong Kim Dung.
    "Sự minh định giữa Tà và Chính vẫn còn được duy trì. Nhưng người ta thấy rằng nó đã bị nghi vấn hoá và không còn dĩ nhiên như xưa nữa? có lẽ không còn ai trong võ lâm có đủ ngây thơ để tự giải quyết nghi vấn ấy một cách đơn sơ như thế."
    "Và cái vinh quang cho những giá trị mà chàng đại diện là cái đuơng nhiên rực rỡ của Chính nghĩa. Nhưng Chính nghĩa nào còn khi, từ trận này sang trận khác, người ta chỉ kéo dài một cuộc tương tàn không có ai được và ai thua. Ngay những đối thủ hầu như cũng đã quên mất những lý do đã làm cho họ xâu xé lẫn nhau."
    "Người chưởng môn của phái Nga My đã sáng tạo được hai bộ kiếm pháp, một tên là Diệt, và một là Tuyệt. Những độc âm cộc lốc ấy?"
    "Cái thời của những anh hùng nghĩa hiệp thật đã xa và, trong cuộc tương tàn miên trường vô độ của võ lâm, người ta chỉ còn thấy như sự xung đột của những mãnh lực tự nhiên. Trước khi biết ai phải và ai trái thì những đối thủ biết rằng họ phải thắng trước đã, và cái ý chí thống trị làm suy tàn tinh thần võ hiệp cổ truyền."

    Tới Kim Dung thì cái trời ý tưởng ấy sụp đổ.
    Lẽ dĩ nhiên vẫn có những nhân vật tự xưng là đại diện cho Chính nghĩa và những kẻ mang tiếng là của Tà đạo. Nhưng truyện Kim Dung sẽ cho người ta thấy sự phân biệt ấy là vô thực. Những con người của Tà đạo, ông cho tất cả những cám dỗ của nhan sắc, của sự thông minh, của tính anh hùng. Ấy là không kể người nào võ công cũng cao cường, cuộc đời cũng sôi nổi, tâm hồn cũng khoáng đạt. Cái tội duy nhất của họ là không coi đạo lý của thiên hạ vào đâu. Nhưng so với họ thì những người có trách nhiệm duy trì truyền thống đạo lý của võ lâm mới ương ngạnh, mới ngoan cố, mới câu nệ làm sao! Tiêu biểu cho thứ người ấy là Diệt Tuyệt Sư thái thà chết chứ không để cho Vô Kỵ động tới vạt áo bà, khi tên "tiểu dâm tặc" này định vận nội lực giúp, bà nhảy xuống từ trên một tháp cao đang phát hỏa. Diệt Tuyệt Sư thái tuy nhiên chỉ là một cô gái già gàn dở. Cái gàn dở ấy có khi tàn nhẫn, nhưng vẫn còn có thể tha thứ được, tại dù sao Sư thái vẫn còn tin và thi hành cái đạo lý của bà. Nhưng sự sa đọa xuống tới sự bất nhân, sự dâm loạn, sự ngu xuẩn của những đệ tử phái Toàn Chân thì còn ai tin gì ở Chính nghĩa? Trên đường lưu vong của chàng, mỗi lần gặp một trong những người của Chính nghĩa ấy là Vô Kỵ lại gặp sự vong ân, sự ích kỷ, sự ác độc và người ta hiểu tại sao sau cùng chàng lại chọn những người của Tà đạo làm bạn đồng hành. Sự thật thì trong Kim Dung có một cố gắng đánh tụt giá những người tự nhận là của Chính nghĩa, và qua họ, những giá trị mà họ tượng trưng. Cái đức đáng yêu nhất mà đôi khi ông cho người ta thấy trong họ là sự thật thà, sự chất phác, sự ngây ngô. Tuy nhiên đó không phải là một cái đức riêng của những người của Chính nghĩa mà chung cho tất cả những đứa con của Đất, dù như Âu Dương Phong, đứa con ấy chỉ là một đứa con hư. Sự đề cao những giá trị của Đất ấy cho người ta thấy rằng các phân loại nhân vật trong Kim Dung không trùng hợp hẳn với những nhãn hiệu đạo lý của họ.
    Theo những nhãn hiệu đạo lý thì có kẻ Tà và người Chính. Nhưng sự khác nhau giữa Tà và Chính ở chỗ nào? Khi chúng anh hùng đến vây bắt Cừu Thiên Nhận để sửa tội cái tên đại-ma-đầu thì y thản nhiên hỏi mọi người: "Ta giết người. Các ngươi cũng giết người. Nhân danh cái gì các người có thể lên án ta?" Câu hỏi bất ngờ ấy không ai biết trả lời thế nào cho phải. Là người trong võ lâm thì tay ai chẳng đầy máu. Nhưng giữa lúc mọi người còn ngơ ngác thì may sao có Hồng Thất Công đứng ra dõng dạc trả lời rằng những kẻ ông giết là những kẻ như Cừu Thiên Nhận chuyên làm hại dân lành vô tội, và giết những người như thế thì giết bao nhiêu cũng được và càng nhiều càng hay. Sự minh định giữa Tà và Chính vẫn còn được duy trì. Nhưng người ta thấy rằng nó đã bị nghi vấn hóa và không còn dĩ nhiên như xưa nữa. Và ngoài một người ngay thẳng như Hồng Thất Công thì có lẽ không còn ai trong võ lâm có đủ ngây thơ để tự giải quyết nghi vấn ấy một cách đơn sơ như thế. Hồng thất Công vả lại cũng là kẻ thù tri kỷ của một đại-ma-đầu khác là Âu Dương Phong và người bạn nữa của ông là Hoàng Dược Sư thì đã nổi tiếng là một nhân vật đứng ra ngoài những thứ loại của đạo lý thông thường. Người trên giang hồ gọi ông là con người Tà ở phương Đông. Nhưng cái tà của Âu Dương Phong là của năng tính. Trong Hoàng Dược Sư, nó là một quyết định của lý trí. Hình như ông cho rằng Tà và Chính chỉ là những nhãn hiệu vô thực. Ai muốn xếp ông vào loại nào thì ông cũng mặc và coi như không. Con người kiêu ngạo ấy chỉ biết một qui luật duy nhất là cái tự do của mình. Trong lịch sử võ lâm, nhân vật như ông tượng trưng cho sự nổi loạn của cá nhân chống lại những giới hạn giả tạo của một truyền thống sa đọa.
    Sự sa đọa ấy bắt đầu khi, như người ta thấy, những người của Chính nghĩa không còn xứng với vai trò của họ và, dưới tay họ, những giá trị thiêng liêng chỉ còn là những giáo điều nghiệt ngã. Nhưng trong thực tế thì lý do chính để không còn ai tin ở những giá trị ấy nữa là giữa Tà và Chính, võ công giờ ai cũng như ai và chẳng có mèo nào cắn mỉu nào. Xưa người anh hùng là người bách thắng. Và cái vinh quang cho những giá trị mà chàng đại diện là cái đương nhiên rực rỡ của Chính nghĩa. Nhưng Chính nghĩa nào còn khi, từ trận này sang trận khác, người ta chỉ kéo dài một cuộc tương tàn không có ai được và ai thua. Ngay những đối thủ hầu như cũng đã quên mất những lý do đã làm họ xâu xé lẫn nhau. Xưa người ta giết một người để trừng phạt một tội ác; giờ thì người ta không cần biết người ấy đã làm một tội ác nào chưa, nhưng đã thuộc vào một môn phái đối nghịch thì đương nhiên y là một kẻ thù để người ta thủ tiêu. Ai trách Tạ Tốn ác độc thì ông sẽ lấy sử ra để minh chứng rằng từ xưa những kẻ ác độc bao giờ cũng thành công và những người được tiếng là nhân tài thì, xét cho cùng, sự nhân đức của họ cũng chỉ là một cái tiếng. Ông thì lẽ dĩ nhiên có thừa nghĩa khí để không bao giờ có thể coi sự giết người là một trò lý thú, nhưng những nhu cầu của an ninh buộc ông thủ tiêu nhân vật vô tội đang cùng ông ôn tồn đàm thoại, và ông rất tiếc phải thất lễ với một người mà ông có cảm tình. Án mạng khi ấy chỉ là những phương thức cực đoan của vệ sinh. Nhưng Tạ Tốn là một trong những anh hùng của Tà đạo, và người ta không thể chờ ở ông một sự từ bi quá đáng. Có lẽ đáng ngạc nhiên hơn là khi thấy Diệt Tuyệt Sư thái cầm Ỷ Thiên kiếm giết một chốc mấy trăm mạng người trong Minh Giáo mà không chớp mắt. Một Tà một Chính, khi ấy, ai tàn nhẫn hơn ai? Tà và Chính đều giết người. Họ là người của võ lâm, và trong cuộc giao tranh, công việc đầu tiên của họ là cướp phần thắng và tận diệt kẻ thù? Người chưởng môn của phái Nga My đã sáng tạo được hai bộ kiếm pháp, một tên là Diệt và một là Tuyệt. Những độc âm cộc lốc ấy, trong sự thô bạo của chúng, đã tóm tắt cái đạo lý đầy máu và đích thực của võ lâm. Cái thời của những anh hùng nghĩa hiệp thật đã xa và, trong cuộc tương tàn miên trường vô độ của võ lâm, người ta chỉ còn thấy như sự xung đột của những mãnh lực tự nhiên. Trước khi biết ai phải và ai trái thì những đối thủ biết rằng họ phải thắng trước đã, và ý chí thống trị làm suy tàn tinh thần võ hiệp cổ truyền.
    Nghi vấn đạo lý tuy nhiên, chưa mất hẳn. Nó đổi chỗ. Sự phân biệt giữa Tà và Chính xưa ở cứu cánh. Nhưng khi trong một cuộc xung đột không thể nào chấm dứt, mọi cứu cánh đều sa đọa và môn phái cũng chỉ biết một tham vọng duy nhất là thiết lập bá nghiệp của mình trên giang hồ thì người ta dựa vào cách đánh nhau của họ để phân biệt họ lẫn nhau. Võ học đương nhiên mang một sắc thái đạo lý. Trong truyện võ hiệp cổ điển, võ công là một phương tiện và Tà cũng như Chính đều sử dụng một thứ võ. Hơn thế nữa, người ta thấy người của Chính giáo, như tin tưởng tuyệt đối vào lẽ phải của họ, không ngần ngại trước một phương tiện nào để thắng kẻ thù. Họ cũng nghe trộm, cũng đánh lén, cũng lừa bịp. Thôi thì không có thủ đọan nào mà họ từ. Nhưng tất cả xảy ra như thiện chất trong người họ đã truyền cho những thủ đoạn ấy một ý nghĩa chính đáng và không bao giờ có ai tự hỏi về sự có nên chăng của chúng.
    Sự thật thà có khi đến chỗ ngây ngô mà Kim Dung coi là đức tính quí hóa thì truyện võ hiệp cổ điển lại dành cho những người của Tà đạo. Ngược lại thì một trong những ấn tích của Tà đạo trong Kim Dung lại là sự thông minh, không phải sự thông minh theo trực giác của những tâm hồn đơn giản, mà sự thông minh làm ra kế hoạch và mưu chước, nghĩa là cái tài sáng tạo. Và người ta hiểu tại sao những võ công được coi của Tà đạo bao giờ cũng phức tạp, biến ảo, nửa thực nửa hư không biết đâu mà lường. Trong khi ấy thì người của Chính giáo sẽ tự hào là có những võ công ngay thẳng, minh bạch, và đường hoàng hơn. Một chưởng của họ là một chưởng, và họ sẽ ít khi dùng tới ám khí độc dược và mưu chước. Một bên thì nặng như núi, cứng như thép, rõ như ban ngày và một bên thì phức tạp, uyển chuyển, mơ hồ? Tuy nhiên đó chỉ là những cách giết người khác nhau, và trong sự đối lập ấy, giữa Tà và Chính, người ta nhận ra sự đối lập giữa Âm và Dương, nghĩa là giữa hai mặt của tự nhiên. Không còn ai ngoài mấy kẻ ngây ngô còn thì giờ nghĩ đến những chuyện nghĩa hiệp nữa. Và giờ nếu người ta có giết nhau chẳng qua là để cướp lấy những võ lâm kỳ thư giúp người ta thành bá chủ võ lâm. Khi những cao thủ tìm đủ mọi cách để độc chiếm cái bí mật giấu trong con đao Đồ Long thì người ta nghĩ đến những tay gián điệp quốc tế đang tranh nhau một tài liệu quân sự hay những đảng cướp trong những truyện Série Noire xâu xé lẫn nhau để giành một món hàng. Ý nghĩa của truyện võ hiệp đã đổi khác. Và tổ chức của truyện cũng đổi theo.
    Thế sự du du nại lăo hà ​
    Vô cùng thiên địa nhập hàm ca ...​
  2. saint81

    saint81 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    412
    Đã được thích:
    0
    Ghi chú:
    Vấn đề dịch thuật.
    Đỗ Long Vân đã từng học chữ Nho, chỉ để đọc Kim Dung. Chắc chắn, ông đã từng bực mình vì những bản tiếng Việt, vốn chỉ là phóng tác. "Ai tuy nhiên đã gây nên phong trào ấy và với mục đích nào? Nghi vấn ấy người đời sau sẽ giải quyết" (Đỗ Long Vân, đoạn mở "Vô Kỵ giữa chúng ta"), ông biết, với cơn sốt vì hiện tượng Kim Dung, thật khó mà có một bản dịch trung thành với nguyên tác. Ông cũng đã từng dịch. Thời gian sau 1975, ông sống gần như xa cách tất cả mọi người, tại một con hẻm (Hồ Biểu Chánh ở đường Trương Tấn Bửu, hình như vậy), ở Phú Nhuận; đọc, đa số là tiểu thuyết khoa học giả tưởng, và dịch "Những hệ thống mỹ nghệ" của Alain. Chắc chắn, ông phải biết tới Simone Weil, người học trò xuất sắc nhất của Alain. Weil cũng đã từng học chữ Nho để đọc Lão Tử. Trong bài viết về Iliade, bà đã đưa ra một số câu thơ, do chính bà dịch, và ghi chú: "Những đoạn trích dẫn là mới dịch. Mỗi dòng là một câu thơ Hy Lạp, y chang nguyên tác. Trật tự từ Hy Lạp bên trong từng câu thơ cũng được tôn trọng tới mức tối đa" (nguyên văn ghi chú của Weil: "La traduction des passages cités est nouvelle. Chaque ligne traduit un vers grec, les rejets et enjambements sont scrupuleusement reproduits; l?Tordre des mots grecs à l?Tintérieur de chaque vers est respecté autant que possible". Simone Weil, Tác phẩm, nhà xb Gallimard, tủ sách Quarto, trang 529).
    ***
    Bây giờ, chúng ta hãy thử so sánh hai bản dịch Kim Dung, đoạn mở đầu Cô gái Đồ Long, một của Từ Khánh Phụng và một của Nguyễn Duy Chính, mới xuất hiện trên lưới Internet.
    Bản Từ Khánh Phụng:
    "Quách Tường, con gái thứ của Đại Hiệp Quách Tĩnh và nữ Hiệp Hoàng Dung, biệt hiệu Tiểu Đông Tà. Hôm nay nàng đi chơi một mình là muốn nguôi sầu giải muộn. Một mình một lừa cứ thấy đường là đi. Hết núi này sang núi nọ. Cũng không biết đi bao xa và đi tới đâu."
    Ngoài những độc giả đã quá mê Kim Dung, không nói, một độc giả lần đầu làm quen ông, đọc đoạn mở như vậy, chắc chắn là vất tác phẩm vào thùng rác, bĩu môi, đưa ra một lời khinh khỉnh: Thế này mà bao nhiêu người ca tụng!
    Tôi chắc chắn, Đỗ quân cũng bực mình, với một đoạn mở như vậy.
    Bây giờ, chúng ta hãy so sánh với bản dịch của Nguyễn Duy Chính:
    Ỷ Thiên Đồ Long ký
    Chương I
    Thiên nhai tư quân bất khả vong.
    Xuân du hạo đãng, thị niên niên hàn thực, lê hoa thời tiết.
    Bạch cẩm vô văn hương lạn mạn, ngọc thụ quỳnh hoa đôi tuyết.
    Bài từ "Vô Tục Niệm" này vốn là của một vị võ học danh gia, cũng là một đạo sĩ ở vào cuối đời Nam Tống họ Khưu tên Xứ Cơ, đạo hiệu Trường Xuân Tử. Ông là một trong Toàn Chân Thất Tử, và là nhân vật xuất sắc nhất của phái Toàn Chân. Trong "Từ Phẩm" đã bàn về bài từ như sau: "Trường Xuân, người đời vẫn coi là một vị tiên, nên lời từ mới hay và xuất sắc đến thế."

    Đọc đoạn mở như trên, mới thấy thật lạ, thật kỳ! Tiếc rằng, Nguyễn Duy Chính đã không dịch nghĩa cho chúng ta, những gì "Thiên nhai tư quân", những gì "Xuân du hạo đãng?". May thay, ngay sau đó, Kim Dung giải thích:
    "Bài từ tuy nói về hoa lê, nhưng thật ra là để ca tụng một thiếu nữ xinh đẹp, mặc áo trắng? Khưu Xứ Cơ tặng nàng ba chữ ?~Vô Tục Niệm?T thật mười phần xác đáng."
    Mở ra bằng một bài từ, để ca tụng nhan sắc một thiếu nữ, tức Tiểu Long Nữ. Từ Tiểu Long Nữ mới bắt qua Quách Tường, có như vậy người đọc mới hiểu được tâm trạng của nàng:
    "Trên sơn đạo núi Thiếu Thất, tỉnh Hà Nam, có một thiếu nữ, đang cúi đầu lẩm nhẩm bài từ này. Cô gái ước chừng mười tám, mười chín tuổi, mặc áo mầu vàng nhạt, cưỡi một con lừa đen, đi chầm chậm lên núi, vừa đi vừa nghĩ thầm:
    -Chỉ có người như Long tỉ tỉ mới xứng đáng lấy được chàng mà thôi.
    Chữ ?~chàng?T hiển nhiên là nói đến Thần Điêu dại hiệp?"

    Bạn thấy không: nghệ thuật của Kim Dung, hay là "cái nên thơ của cơ cấu luận". Tình nọ cuốn lấy tình kia, buồn này đuổi theo buồn nọ, sóng sau đè sóng trước, rắn luồn trong cỏ, ý thức đuổi theo cái chết của ý thức (mượn một câu của Hegel mà Simone de Beauvoir rất mê: Chaque conscience poursuit la mort de l?Tautre)?
    Ngay đoạn tả sau đó, về cuộc gặp gỡ giữa Côn Luân Tam Thánh với Quách Tường, như đã tiên đoán, cơn điên loạn của hai đệ tử của ông sau này, trước nhan sắc của Hân Tố Tố.
    Đây là tiếng đàn khi chưa tương kiến:
    "? mỗi lần tiếng đàn lên cao, thì đàn chim lại ngưng tiếng, chỉ nghe tiếng vỗ cánh? tiếng đàn tuy bình hòa trung chính nhưng bên trong có ẩn một phong vị vương giả?. Phải chăng bản đàn này là ?~Bách Điểu Triều Phượng"?
    Và đây là tiếng đàn khi đã "triều kiến":
    "Quách Tường chỉ mới nghe vài nốt, bất giác vừa mừng vừa sợ. Hoá ra bản đàn này một phần là từ ?~Khảo Bàn?T, là khúc mà nàng đã tấu qua [lần tương kiến trước đó], nhưng một phần khác lại từ trong thơ ?~Kiêm Gia?T, hai bản không cùng một điệu, nhưng y đã hòa lại với nhau, một ứng một đáp, nghe thật là kỳ diệu"? "trong tiếng đàn của y có nói đến y nhân, chẳng nhẽ nhắc tới ta ư. Sao điệu đàn có vẻ ý tứ triền miên đến thế, nghe đầy những nhớ thương cảm mến?"
    ***
    "Vỗ trường kiếm, giương mi lên, nước trong đá trắng sao xa cách? Thế gian này nếu không có kẻ tri âm, dù sống đến nghìn tuổi, phỏng có ích gì?"
    Côn Luân Tam Thánh, sau khi chim chóc bay đi hết, bèn than như trên, rồi vạch kiếm thành bàn cờ, một mình thủ cả hai vai ta và địch. "Quách Tường xem cờ xuất thần, từ từ nhích lại gần, nhưng vì quân trắng lúc bố cục bị thua một nước, trước sau vẫn rơi vào hạ phong? nhìn thấy thế cục? buột miệng nói:
    -Sao không bỏ Trung Nguyên đi để lấy Tây Vực?"
    Nội câu nói đó đã tiên đoán, thiên hạ sẽ xuất hiện một môn phái mới: Côn Luân Tam Thánh, thua trên núi Thiếu Lâm, thề không trở lại Trung Nguyên, trở về Tây Vực, lập thành môn phái Côn Luân.
    Bao nhiêu người được biết đến mối tình của Quách Tường, đều cùng xuất hiện, ở ngay đoạn mở đầu ?" chỉ thiếu hai nhân vật trung tâm, là cặp vợ chồng Dương Quá, Tiểu Long Nữ: Vô Sắc, người tặng quà mừng sinh nhật. Giác Viễn và Trương Quân Bảo, hai người này đã gặp Quách Tường, Dương Quá và Tiểu Long Nữ, khi đuổi theo kẻ trộm kinh sách. Một mối tình câm, và chỉ những người xứng đáng được biết tới, mới xuất hiện, để rồi đi vào quên lãng: Quách Tường tới già, ngộ ra, cắt tóc, đi tu, mở ra môn phái Nga Mi, mà những người trưởng môn sau đó, đều cũng lao đao với tình, như Diệt Tuyệt Sư thái, Chu Chỉ Nhược. Trương Quân Bảo sau thành Trương Tam Phong, suốt đời không gần nữ sắc, "người nhà trời", trưởng môn phái Võ Đang. Giác Viễn viên tịch, sau khi đọc Cửu Dương chân kinh lần chót. Vô Sắc biệt tích giang hồ?
    Bây giờ chúng ta hiểu, tại sao (tên gọi) Vô Kỵ; tại sao Kỷ Hiểu Phù, nữ đệ tử Nga My, thà để cho sư phụ đánh bể đầu, nát thây, chứ không chịu chỉ chỗ ở của Quang Minh Hữu Sứ Dương Tiêu, và tại sao nàng đặt tên con là Bất Hối.
    Con trai là phải vô kỵ: Chẳng uý kỵ gì hết!
    Còn gái là phải bất hối!
    Đừng hối tiếc gì hết!
    Như trong ca dao:
    Cho nhau chẳng tiếc gì nhau,
    Về nhà mẹ hỏi:
    Qua cầu gió bay!
    ***
    Vô Kỵ giữa chúng ta: Tang Loạn Thiếp?
    Với cơn sốt chưởng Kim Dung tại Sài Gòn hồi đó, thật khó mà có một bản dịch cho ra hồn. Ấy là chưa kể những Kim Dung giả như Hậu Cô Gái Đồ Long? Ngay cái tên "Cô Gái Đồ Long"thay vì "Ỷ Thiên Đồ Long ký", là cũng để qua mặt Bộ Thông Tin, với qui định, mỗi nhật báo chỉ được đăng tối đa hai truyện chưởng. Thành thử một bản dịch chính xác, như của Nguyễn Duy Chính là hết sức cần thiết. Theo như trang Web có đăng truyện dịch của ông, Nguyễn Duy Chính tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh Sài Gòn, hiện đang sống tại California với phu nhân và ba người con. Ông là người thích đọc sách, ham nghiên cứu văn học Trung Hoa. Riêng về truyện võ hiệp, ông đã dịch xong Ỷ Thiên Đồ Long Ký, Việt Nữ Kiếm, Bạch Mã Khiếu Tây Phong, Uyên Ương Đao, và hiện đang dịch Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung.
    Nếu không có bản dịch của Nguyễn Duy Chính, chúng ta không thể biết được "tiền thân" của môn võ công có tên là "Đồ Long Công" mà Đỗ Long Vân đã nhắc tới; nhờ nó mà Trương Thúy Sơn và Hân Tố Tố được Tạ Tốn tha chết, tại đại hội Giương Đao Lập Oai, và sau đó là cuộc hành trình thần tiên xa lánh võ lâm giang hồ, và loài người, tới Băng Hoả Đảo?
    Sau đây là đoạn văn do Nguyễn Duy Chính dịch thuật liên quan tới Đồ Long Công:
    "? Chỉ thấy Trương Tam Phong đi lại một hồi, ngửng đầu ngẫm nghĩ, bỗng nhiên đưa tay phải, tại không trung làm bút viết lên thành chữ. Trương Tam Phong cả văn lẫn võ đều thông, ngâm thơ viết chữ, học trò đều biết nên cũng không lấy làm lạ. Chàng [Trương Thúy Sơn] theo dõi nét bút ở tay, hóa ra ông viết đi viết lại mấy lần hai chữ ?~tang loạn?T[tai nạn lớn, catastrophe, chú thích của Nguyễn Duy Chính], rồi lại viết hai chữ ?~đồ độc?T [làm thương tổn, phục độc, to injure, to poison. NDC]. Trương Thúy Sơn trong lòng rung động, nghĩ thầm: ?~Sư phụ trong lòng nghĩ đến "Tang Loạn Thiếp?T?. Khi đó chàng thấy sư phụ dùng ngón tay làm bút, đạt đến tình trạng ?~không nét nào duỗi ra mà không thu vào, không nét nào đi rồi mà không quay lại?T, chính là bút ý của Vương Hi Chi trong ?~Tang Loạn Thiếp?T?. Lúc này, chàng thấy sư phụ đưa tay viết liên tiếp: ?~Hi Chi đốn thủ, tang loạn chi cực, tiên mộ tái ly đồ độc, truy duy kháo thậm?T mười tám chữõ, mỗi chữ đều tràn đầy uất hận bi phẫn, nên bỗng cảm thông được tâm tình Vương Hi Chi khi viết ?~Tang Loạn Thiếp?T.
    Vương Hi Chi là người Đông Tấn, lúc đó trung nguyên đang rối ren, rơi vào tay dị tộc. Họ Vương, họ Tạ là những gia đình có thế lực nay phải di cư xuống miền Nam tránh giặc, trong cái tai biến đó, phần mộ của ông cha bị dày xéo, khiến những đau khổ trong lòng không sao phát tiết ra cho hết, nên tất cả những uất ức đều thể hiện trong bài Tang Loạn Thiếp. Trương Thúy Sơn đang tuổi thanh niên, không lo không sầu, trước đây làm sao lãnh hội được những thâm ý trong bài thiếp? Lúc này gặp phải cảnh đại họa, không biết sống chết ra sao của sư huynh mới hiểu được hai chữ ?~tang loạn?T, hai chữ ?~đồ độc?T, hay bốn chữ ?~truy duy kháo thậm?T (đau khổ cùng cực. NDC).
    Trương Tam Phong viết đi viết lại mấy lần, bỗng thở dài một tiếng, bước tới giữa sân, đứng trầm ngâm mọt hồi rồi đưa ngón tay, lại bắt đầu viết chữ. Lần này cách viết chữ hoàn toàn khác hẳn. Trương Thúy Sơn theo nét bút thì thấy chữ đầu tiên là chữ ?~võ?T, rồi đến chữ ?~lâm?T, tiếp tục hai mươi bốn chữ chính là câu người đời thường truyền tụng?TVõ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, Hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng. Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong.?TDường như Trương Tam Phong đang tìm cách suy nghĩ cho ra thâm ý của hai mươi bốn chữ này để biết vì cớ gì Du Đại Đại Nham bị thương? Việc này có liên hệ gì đến hai món thần binh lợi khí là đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên??T
    Như đã nói, có rất nhiều cách đọc Cô gái Đồ Long. Chúng ta có thể coi đây là truyền thuyết về hai món võ khí tuyệt hảo trong võ lâm. Ngay ở đầu truyện, Kim Dung đã hé mở cho thấy một chút bí mật của nó, qua câu hỏi Dư Đại Nham của viên cướp bể: ?~Thần điêu đại hiệp Dương Quá đã giết vua Mông Cổ bằng võ khí gì??T
    ***
    Hãy tưởng tượng Đỗ Long Vân đã/chưa từng học chữ Nho, đã/chưa từng đọc đoạn nguyên tác trên đây, và viết ?~Vô Kỵ giữa chúng ta?T, mới hiểu được hai chữ ?~tang loạn?T, hai chữ ?~đồ độc?T, bốn chữ ?~truy duy kháo thậm?T đã ám ảnh Đỗ quân như thế nào.
    Bởi vì trong cụm từ ?~tai biến của chúng ta?Tđã gói trọn tất cả, nào là tang loạn, nào là đồ độc? Theo cách đó, có thể coi bản văn "Vô Kỵ giữa chúng ta"là một cuộc tìm kiếm nguồn cơn của mọi tai biến của chúng ta, vậy.
    Hãy tưởng tượng một chàng thanh niên Hà Nội, con nhà giầu, được cha mẹ cho qua Tây, học dược để nối nghiệp nhà làm chủ một cửa tiệm thuốc lớn ngay bên Bờ Hồ, nhưng thay vì học để thành dược sĩ, học văn chương (chắc là gặp tác phẩm Weil ở Paris), thay vì ở lại nước ngoài để trốn cuộc chiến, trở về, dạy đại học Huế, rồi bỏ dạy học, không phải để lên rừng mà đành để bị bắt đi lính.
    Thế sự du du nại lăo hà ​
    Vô cùng thiên địa nhập hàm ca ...​
    Được saint81 sửa chữa / chuyển vào 21:02 ngày 28/01/2003
    Được kieuphong sửa chữa / chuyển vào 14:34 ngày 13/06/2003
  3. saint81

    saint81 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    412
    Đã được thích:
    0
    V. Nghệ thuật kể chuyện trong Kim Dung.
    "Người ta sẽ không quên tiếng chân nặng nề của Tạ Tốn, giọng ho khan của Kim Hoa bà bà, cái nhìn trầm mặc của Phạm Dao và tiếng cười sảng khoái của Dương Tiêu trên Côn Luân sơn, giữa những cánh rừng thu lá đổ vàng?"
    "Ai sẽ thắng? Câu hỏi ấy giờ được đặt ra. Và truyện võ hiệp thêm một yếu tố mới là sự bất trắc. Tiểu thuyết bắt đầu."
    "Ai sẽ thắng? Nhưng không ai biết những gì sẽ xẩy ra
    ."
    "Và con đường bách thắng đã trở thành một cuộc thất lạc trong mê cung."
    "Nhưng tất cả họ cùng có một cảnh ngộ là bị ném vào một thế giới mà họ không hiểu và trong ấy họ phải tự chọn. Mà chọn gì khi Tà không ra Tà, Chính không ra Chính?"
    "Chúng tượng trưng cho cái nên thơ của sự mạch lạc mà tôi muốn người ta coi truyện Kim Dung như một cố gắng để đề cao."

    DLV
    Nhân loại chỉ đặt để ra những vấn đề nó có thể giải quyết.
    Bí mật của vô sản là cái chết của tư bản.

    Marx
    Sự tương đối hóa những võ công, người ta thấy, đã xô những môn phái vào trong cảnh bất phân thắng phụ. Và tình trạng ấy cũng làm mờ dần ý nghĩa nguyên thủy của sự xung đột giữa họ. Còn lại một thế giới của bạo động thuần túy. Truyện võ hiệp cổ điển không kể gì hơn những cuộc thắng trận kế tiếp nhau của Chính nghĩa trên Tà đạo. Nhưng khi giữa Tà và Chính sự phân biệt đã trở nên mơ hồ thì diễn tiến của truyện cũng mất sự tất yếu ấy đi. Không có lý do tiên quyết nào để môn phái này thắng môn phái khác và, như một hậu quả dĩ nhiên, cũng không thể có môn phái nào có một võ công vô địch. Sự tương đối hóa của võ công đã dẫn tới sự tương đối hóa những giá trị đạo lý thì, ngược lại, sự tương đối hóa những giá trị đạo lý lại đưa tới sự tương đối hóa những võ công. Ai sẽ thắng? Câu hỏi ấy giờ được đặt ra. Và truyện võ hiệp thêm một yếu tố mới là sự bất trắc. Tiểu thuyết bắt đầu. Nghĩa là truyện không còn là một cơ hội để chiêm ngưỡng, như một nghi lễ đề cao những giá trị đạo lý, những chiến công của người anh hùng mà để tìm, một cách sơ đẳng hơn, cái hồi hộp của sự trông chờ. Ai sẽ thắng? Nhưng không ai biết những gì sẽ xẩy ra.
    Tại cái đang xẩy ra người ta cũng chưa biết là cái gì. Mọi vật trong một thế giới của vật lực đã mất hết ý nghĩa cố định của chúng. Và tất cả đều trở thành nghi vấn. Cái bí mật của con đao Đồ Long như thế nào mà làm người ta giết nhau? Ai đã xuống tay giết một lúc mấy mươi mạng người của Long Môn tiêu cục? Không lẽ kẻ đã dùng Kim Cương chỉ lực để tra khảo Dư Đại Nham lại là người của Thiếu Lâm? Nhân vật tài hoa, uyên bác, phóng khoáng ấy sao có thể giết người như không để cho cả võ lâm nguyền rủa? Nhưng có gì trong lúc này không là một câu hỏi! Chúng theo nhau đến dồn dập và nhức nhối. Người ta nóng ruột chờ đáp thuyết ở những sự đến sau. Cái tài của Kim Dung tuy nhiên sẽ dẫn người ta từ thắc mắc này đến thắc mắc khác. Nghi vấn này chưa được giải quyết thì nghi vấn khác đã được tung ra. Gay cấn hơn nữa là ngay người anh hùng cũng không biết mình phải làm gì và sẽ trở nên một cái gì. Người anh hùng võ hiệp cổ điển vào đời với một ý chí cố định. Và những giai đoạn trên con đường thẳng dẫn chàng đến sự thực hiện của ý chí ấy. Những biến cố trong Kim Dung trái lại là ngần ấy chỗ quẹo tách chàng xa cái hướng đi thứ nhất của chàng. Và đôi khi như Đoàn Dự, chàng cũng không có ý định nào khác hơn là đi chơi, nhưng tình cờ hết bị lôi vào chuyện lôi thôi này lại bị kéo sang chuyện rắc rối khác, để sau cùng sửng sốt thấy mình trở thành một cái gì mà mình không bao giờ nghĩ tới. Người ta theo chàng vào một Bát quái trận đồ, và con đường bách thắng đã trở thành một cuộc thất lạc trong mê cung. Ở chỗ nào cũng xuất hiện những biến cố lạ và những sự kiện khả nghi. Xưa tất cả đều có ý nghĩa cố định. Thế giới sáng sủa. Không phải không có nguy hiểm nào đe dọa người anh hùng, nhưng nguy hiểm nào thì cũng có thể gọi tên, nghĩa là có giới định và chỉ có ở ngoài. Một sự kiện giờ trái lại là một cửa ngõ dẫn người ta vào một bí mật không thể nào lường. Ấy là một thế giới đầy ban đêm, đầy bất trắc và những ngõ quanh co như mắc cửi. Sau cái mặt nạ hàm hồ của mọi vật, tất cả đều có thể xẩy ra. Không biết chỗ quẹo này sẽ dẫn người ta tới đâu và cái gì chờ đợi người ta ở cuối con đường kia. Sự nguy hiểm, trong cảnh nhá nhem ấy, như rình rập khắp nơi. Cái nguy hiểm đích thực tuy nhiên vẫn không phải là cái nguy hiểm sờ thấy được mà chính là sự ngờ vực ấy, như bóng tối, không những trùng điệp ở trước mặt mà càng ngày càng lớn trong lòng người anh hùng.
    Thế giới ngoại tại đã khả nghi, nhưng có khi ngay thân phận chàng ra sao người anh hùng cũng không chắc chắn. Không phải ngẫu nhiên mà truyện võ hiệp mới thường là truyện của người anh hùng đi tìm mình. Khi thì nôm na như một thiếu niên một hôm nào được biết rằng nó chỉ là một đứa trẻ mồ côi và những người nuôi nó không phải là cha mẹ thực của nó. Khi thì thống thiết như Kiều Phong chợt có người tố cáo rằng chàng không phải là người Hán mà lại mang dòng máu Khiết Đan, nghĩa là của một dân tộc chàng coi như tử thù, và cả sự nghiệp chàng như thế đã dựng trên một điêu trác. Khi thì khôi hài như Thạch Phá Thiên từ nhỏ mang cái tên là Chó Lộn Giống, để lớn lên ra đời ai cũng nhận là người của mình, trong khi ngay chàng cũng không biết chàng là ai. Lẽ dĩ nhiên người ta cũng không quên Âu Dương Phong luyện võ bị tẩu hỏa nhập ma đến nỗi vừa nghe nói có một tên Âu Dương Phong còn giỏi hơn mình vội đâm bổ đi tìm, gặp ai cũng hỏi, "Ai là Âu Dương Phong?", và, "Ta là ai?" Câu hỏi của ông già lộn đầu ấy tuy nhiên người anh hùng nào trong Kim Dung đã không có lần đặt ra? Không phải họ đều là những người không cha không mẹ. Nhưng tất cả họ cùng có một cảnh ngộ là bị ném vào một thế giới mà họ không hiểu và trong ấy họ phải tự chọn. Mà chọn gì khi Tà không ra Tà, Chính không ra Chính và cả thế giới sa đọa trong một tình trạng báo động thường trực, không để lại gì hơn là những nghi vấn chập chùng? Đi tìm mình, người anh hùng cũng đi tìm một ý nghĩa cho thế giới. Thế giới Kim Dung là một thế giới đang chờ được định nghĩa và truyện Kim Dung chỉ là truyện của cái nghĩa đang thành. Ấy là truyện tầm-đạo trong phương thức của một truyện trinh thám.
    Như trong truyện trinh thám, thoạt tiên người ta chỉ thấy những sự kiện lẻ, bất ngờ và khó hiểu. Tất cả thoạt tiên chỉ có giá trị như những manh mối của một bí mật cần phải truy tầm, như những di tích của một quá khứ phải xây dựng lại, như những mảnh vụn của một toàn thể phải khám phá dần dần. Người ta ngạc nhiên trước những gì đang xẩy ra đến từ cái đã xẩy ra, và công việc giờ, như trong truyện trinh thám, là đi ngược từ hiện tại đến quá khứ, từ kết quả đến nguyên nhân, từ xúc động đến giải thích. Nhưng trước hết phải có xúc động. Những biến cố phải làm người ta ngạc nhiên và gây sự tò mò. Của Ưng Vương chẳng hạn, thoạt tiên người ta chỉ biết một tiếng hú kinh dị giữa trời chiều và những xác chết ông để lại sau một cuộc giết người thần tốc. Nhưng thế cũng đủ để tiếng dội tâm lý trong độc giả còn vọng mãi. Và người ta phải chịu rằng Kim Dung, mỗi lần giới thiệu một nhân vật quan trọng là ông biết sửa soạn những điều kiện để sự xuất hiện của nhân vật ấy đạt tới mức công hiệu tối đa. Người ta sẽ không quên tiếng chân nặng nề của Tạ Tốn, giọng ho khan của Kim Hoa bà bà, cái nhìn trầm mặc của Phạm Dao và tiếng cười sảng khoái của Dương Tiêu trên Côn Luân sơn, giữa những cánh rừng thu lá đổ vàng. Có những nhân vật không có gì để cho người ta nhớ hơn là cách xuất hiện đột ngột lần đầu tiên của họ. Tại một khi đã định nghĩa thì, như một sự kiện đã được giải thích, nhân vật như đã chết và không còn tác dụng tiểu thuyết nào nữa. Nhưng còn là một nghi vấn, còn làm người ta thắc mắc và trông chờ thì nhân vật vẫn còn sống và người ta hiểu tại sao người anh hùng trong Kim Dung chỉ có thể là người anh hùng tập sự, người anh hùng đi tìm mình, người anh hùng chưa thành anh hùng. Các nhân vật khác cũng thế, thoạt tiên người ta chỉ biết có một nửa: khi thì như một người dị thường, tính khí ngang nhiên, võ công trác tuyệt, nhưng thân phận như chìm trong một dĩ vãng xa xôi và thần bí; khi thì như một cái tên truyền tụng trong giang hồ, người ta chỉ nhắc đến trong sự tôn kính và sợ hãi, nhưng chưa ai được thấy mặt bao giờ. Cũng có khi người ta có thể khám phá rằng con người dị thường mà cứ mỗi lần xuất hiện là gây cho người ta một nghi vấn ấy, là cái nhân vật danh chấn võ lâm mà người ta náo nức trông chờ, chỉ là một, cũng như Kim Hoa bà bà, nào ai ngờ, chính là một nhân vật của Minh Giáo đã từ lâu biệt tăm chỉ để lưu trong trí nhớ mọi người cái tên rực rỡ là Tỷ Sam Long Vương. Nhưng tất cả nghệ thuật kể truyện trong lúc này là trì hoãn đến mức tối đa cái giờ xác định căn cước của nhân vật. Mộ Dung Phục có mặt nhất khi người ta chỉ biết chàng như một tiếng đồn trong võ lâm. Sự có mặt trong sự vắng mặt ấy là tất cả sức mạnh của truyện. Nó là nơi của nghi vấn, của trông chờ và mọi sự có thể. Nghĩa là của mọi sự bất ngờ.
    Ai ngờ rằng Mộ Dung Phục, vẫn trong một phong độ phong nhã, thoáng chốc có thể trở thành một kẻ giết người không gớm tay, rằng sự thùy mị của Chu Chỉ Nhược lại sửa soạn cho những tham vọng, những tuyệt vọng và những ác độc khôn lường, rằng tất cả những ân cần của Trương Linh chỉ là một kế hoạch trong một âm mưu dài hạn để cướp con đao Đồ Long. Các nhân vật, người ta chỉ biết cái vai trò của họ, và đùng một cái, họ xuất hiện dưới bộ mặt mà người ta không chờ đợi. Ấy có thể là một mặt nạ khác và cũng có thể là một con người thực chôn vùi trong tâm khảm chợt được một biến cố nào làm tỉnh giấc như Tạ Tốn nghe tiếng khóc của một đứa trẻ thơ mà tìm thấy sự sáng sủa của lương tri. Nhưng cũng có khi, như trong cơn túy sát của Mộ Dung, người ta chứng kiến một đột biến tâm lý.
    Thế sự du du nại lăo hà ​
    Vô cùng thiên địa nhập hàm ca ...​
  4. saint81

    saint81 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    412
    Đã được thích:
    0
    Cái bất ngờ, theo định nghĩa tầm thường nhất là cái không ai chờ đợi. Khi thì thê thảm như cái chết của A Chu dưới tay người nàng yêu. Khi thì khôi hài như cảnh một đại ma đầu như Nam Hải Ngạc Thần phải lạy Đoàn Dự, một thư sinh trói gà không chặt, làm thầy. Cũng có khi nó chỉ là một bất ngờ thuần túy, không có giá trị nào khác hơn là sự nên thơ như khi người ta khám phá ra rằng Côn Luân Tam Thánh không phải là ba người mà chỉ có một, rằng đứa ăn mày nhem nhuốc làm bạn cùng Quách Tĩnh là một người con gái đẹp giả trai; rằng Âu Dương Phong, vì học một võ công chép lộn mà trở thành đệ nhất cao thủ trong võ lâm. Lẽ dĩ nhiên cũng có những bất ngờ giả tạo để thỏa mãn nhu cầu xúc động của người đọc, để thêm số dòng và số trang, để thêm đà cho một câu chuyện đã đến chỗ sa lầy. Và cũng có những bất ngờ được sửa soạn hơn để giải quyết một tình thế đã tới chỗ bế tắc.
    Cái bế tắc ấy, người ta thừa đoán, cũng là một bế tắc được sửa soạn. Tác giả cố tình đưa câu chuyện đến một chỗ nghẽn để, khi ấy, mới tung ra một nhân vật mới, một phát giác mới ******** thế đảo ngược, và câu chuyện lại tiếp tục theo một hướng mới. Khi người ta không chờ gì nữa, khi những nguy hiểm tưởng đã qua khỏi, khi mối hy vọng đã tàn lụi thì tất cả xẩy ra đúng như người ta đã chờ, đúng như người ta đã sợ, đúng như người ta đã mong. Ấy là một thứ bất ngờ bậc hai. Khi Vô Kỵ yên trí rằng mưu kế của vợ chồng Hồ Thanh Ngưu đã thành công và họ đã thoát khỏi tay Kim Hoa bà bà để chỉ còn có việc cùng nhau xây hạnh phúc đến mãn kiếp thì chàng khám phá ra xác chết của họ treo trên một cành cây; khi sau không biết bao nhiêu ngày theo đuổi, Đoàn Dự lấy được tình yêu của Vương Ngọc Yến, người ta đã thở dài nhẹ nhõm thì tin đâu sét đánh, điều mà người ta nghi ngại được chứng thực: Vương Ngọc Yến là con của Đoàn Chính Thuần và là em khác mẹ của Đoàn Dự, và thế là hai người không thể lấy nhau. Sự bất ngờ khi ấy đến như một sự thiếu: cái mà người ta tưởng thế nào cũng xẩy ra lại không xẩy ra. Nhưng giữa lúc người ta đang tuyệt vọng không biết câu chuyện sẽ ra sao thì, đùng một cái, lại có tin rằng Đoàn Dự không phải là con của Đoàn Chính Thuần mà là của Đoàn Diên Khánh, người đáng lẽ trị vì nước Đại Lý và vẫn lưu vong chờ cơ hội cướp lại ngai vàng. Cái tin ấy lại đảo ngược một lần nữa. Nó trả lại Vương Ngọc Yến cho Đoàn Dự. Hơn thế nữa, cái ngai vàng nước Đại Lý, chàng trở nên người thừa kế xứng đáng nhất. Tất cả sau cùng đều xẩy ra theo thông lệ: người anh hùng sẽ lấy vợ và làm vua. Người ta có thể nghĩ rằng để đi đến kết luận cổ điển ấy có lẽ Kim Dung không cần phải bày ra nhiều chuyện như thế. Nhưng nếu không như thế, nếu không phải trải qua một cơn tuyệt vọng thì cái kết luận ấy còn giả tạo tới đâu? Tới sau một sự bế tắc cố ý thì sự giả tạo ấy lại xuất hiện như một chứng cớ của cái tài biến hóa của tác giả. Giả tạo một ít thì hỏng. Nhưng giả tạo hơn một ít nữa thì Kim Dung lại trả cho sự bất ngờ cái nên thơ của nó.
    Sự thật thì ông có thể để yên cho Đoàn Dự lấy Vương Ngọc Yến và kế vị Đoàn Chính Thuần làm vua mà không ai thấy gì là trái cựa, và những tình thế kế tiếp đảo ngược ở phút chót, thoạt tiên, vừa có vẻ thừa và quá lôi thôi. Nhưng truyện không phải chỉ là truyện của Đoàn Dự. Không có những sự đảo ngược tình thế ấy thì nhân vật Đoàn Diên Khánh người ta biết xếp vào đâu? Hình như nhân vật mà người ta vẫn chỉ biết như ác tinh của nhà họ Đoàn tới đó mới tìm ra lý do cho vai trò của nó là để trả cho Đoàn Dự cùng một lúc, cả tình yêu và ngai vàng. Và cái kết luận mà người ta tưởng là dàn xếp ở phút chót ấy, giờ, người ta mới biết rằng với nhân vật Đoàn Diên Khánh nó đã được định từ những trang đầu. Cảm tưởng sau cùng của người ta là một tổ chức cực kỳ chặt chẽ không để gì xảy ra một cách tình cờ, và trong ấy cái bất ngờ chỉ là đáp thuyết thích hợp nhất cho một tình thế tưởng không thể nào gỡ nổi. Người ta cho rằng đáp thuyết ấy là bất ngờ. Nhưng bất ngờ nhất phải chăng là khi người ta thấy rằng cái bất ngờ ấy đã được sửa soạn từ lâu? Khi trông thấy Tiểu Siêu lần đầu thì Phạm Dao chợt giật mình. Nhưng cái giật mình nhỏ nhoi ấy gần như không ai buồn chú ý, báo hiệu kết cục của truyện kể khi Tiểu Siêu được nhận ra là con của Kim Hoa bà bà, và khi ấy người ta mới hiểu tại sao trước những sứ giả của Minh Giáo, nàng phải méo mặt giả làm một đứa con gái xấu xí. Ấy chỉ là một trong những thí dụ của cách bố cục kỹ lưỡng của truyện Kim Dung. Như tất cả các truyện viết đăng từng số một, trong Kim Dung không ngớt xẩy ra những biến cố khả nghi và bất ngờ. Nhưng điều làm truyện của ông vượt xa những truyện cùng loại là trong khi những tác giả khác như thất lạc giữa những sự kiện mà họ thả sức tung ra cho đầy trang giấy để sau cùng không ai biết kết luận ra sao thì trong Kim Dung, tất cả những chi tiết rải rác mà thoạt tiên người ta tưởng là vẽ ra theo sự tình cờ của cảm hứng, sau cùng đều giải thích lẫn nhau trong một kiến trúc nhịp nhàng.
    Nhưng trong sự mạch lạc ấy, ẩn sau những nghi vấn rối như tơ vò, người ta có gặp gì hơn là một đặc tính của truyện trinh thám? Như trong truyện trinh thám, công việc là tìm cho một số sự kiện khó hiểu mối tương quan thống nhất và giải thích chúng. Ấy là công việc Hoàng Dung đã làm, khi từ những tang chứng để lại trên Đào Hoa Đảo mà tang chứng nào cũng kết án cha nàng, nàng phải xây dựng lại diễn biến vụ thảm sát đã xẩy ra và truy định thủ phạm đích thực. Trên một quy mô lớn hơn thì truyện Đồ Long sẽ không dẫn người ta đi đâu xa hơn là sự tái lập cái tổ chức của Minh Giáo đã từ lâu lý tán. Người ta thấy suốt cuốn truyện xuất hiện thường xuyên những nhân vật mới và cảm tưởng của người ta là đứng trước một trí tưởng tượng không có gì kiềm chế. Ngần ấy nhân vật tuy nhiên sau đều được phát giác là những nhân vật thất lạc của Minh Giáo và người ta sẽ không ngạc nhiên nếu, khi chức vụ của ai cũng được trả cho nấy rồi, thì truyện coi như đã gần xong. Tổ chức của Minh Giáo sẽ cho truyện sự mạch lạc của nó. Tất cả xẩy ra như trong hoá học. Mỗi lần khám phá ra một chất mới thì người ta cũng khám phá ra rằng cái chất ấy đã có một ô dành sẵn cho nó trong cái bảng Mendéléev. Ngược lại thì mỗi ô để trống lại đòi sự khám phá ra một chất mới để bù vào. Những nhân vật trong truyện Đồ Long cũng thế, như đều được sáng tạo để bù vào những chức vụ bỏ không của Minh Giáo và diễn tiến của truyện, tuần tự theo sự xuất hiện của họ sẽ trả lại cho Minh Giáo bộ mặt nguyên thủy của nó, nghĩa là, dẫn người ta đến một tình trạng có trước của thế giới. Nói tóm lại thì, như trong truyện trinh thám, cái gì mà theo người anh hùng, người ta khám phá ra là một dĩ vãng. Tổ chức Minh Giáo vừa là khởi điểm, vừa là tận điểm của truyện. Nếu những biến cố của truyện võ hiệp cổ điển nối tiếp nhau theo một đường thẳng thì truyện Đồ Long được viết theo một vòng tròn. Ấy là một thứ Bát Quái trận đồ: người ta đi bao nhiêu sau cùng trở về chỗ cũ, và sự phức tạp của nó ẩn một sự mạch lạc căn bản. Không phải ngẫu nhiên mà giữa truyện Kim Dung đã bày những trận đồ của Hoàng Dược Sư như một thách đố ám ảnh. Chúng tượng trưng cho cái nên thơ của sự mạch lạc mà tôi muốn người ta coi truyện Kim Dung như một cố gắng để đề cao.
    Cái nên thơ ấy, người ta sẽ gặp lại trong cách Kim Dung xếp những nhân vật thành từng bộ. Có những bộ ba như A Chu, A Bích, A Tỷ, mỗi người mang một mầu áo; có những bộ tứ như Long Vương, Ưng Vương, Sư Vương, Bức Vương, mỗi người lấy một linh vật làm danh hiệu có những bộ năm như Đông tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, Trung Thần Thông, mỗi người xưng bá một phương, và lẽ dĩ nhiên cũng có những bộ bẩy hoặc tám nữa. Sau cùng phải kể đến Quang Minh Lưỡng Sứ, người tên Tiêu, người tên Dao, như sinh ra để cùng đồng hành và được võ lâm xưng tụng là Tiêu Dao nhị tiên. Một điều đặc biệt trong những bộ nhân vật ấy là Bộ có trước nhân vật. Mỗi Bộ thoạt tiên là lược đồ của một guồng máy mà những cơ quan là những nhân vật chờ được sáng tạo. Nhưng một khi những cơ quan đã lập, nghĩa là những nhân vật đã có những chức vụ đang chờ đợi họ thì Bộ, tùy theo những chuyển động riêng của mỗi người, sẽ như một guồng máy có một nhịp chuyển động riêng của nó. Ngược lại thì sự chuyển động của Bộ cũng làm nhân vật chuyển động theo. Nhân vật làm ra Bộ, Nhưng trong Bộ nhân vật mới tìm thấy định nghĩa của nó. Ấy là một chức vụ, một địa vị, một mầu sắc. Tâm lý nhân vật mất quan trọng, và có lẽ Kim Dung, sau khi đã xác định nhân vật như một chiều sâu, sẽ tiến đến một quan niệm về nhân vật giống truyện võ hiệp cổ điển, nhưng được khai thác một cách ý thức và có hệ thống hơn. Sự khác nhau giữa những nhân vật khi ấy chỉ còn là sự khác nhau giữa những vị trí của họ trong một Bộ. Có những nhân vật tâm lý không có gì đặc sắc nhưng thuộc một Bộ lại có một sự có mặt khác thường Ngược lại thì đôi khi có thể nói rằng Bộ đã ăn mất con người của nhân vật chỉ để lại một số hiệu. Quả Kim Dung đã không uổng là nhà văn của thời đại tổ chức! Và trong truyện ông, Cái Bang, Minh Giáo, Thiếu Lâm, nghĩa là những môn phái có tổ chức to lớn, chặt chẽ, và phức tạp thường giữ một vai trò đôi khi còn quan trọng hơn người anh hùng. Sự phức tạp ấy tuy nhiên Kim Dung không giới hạn vào một môn phái mà đã cho nó kích thước của một thế giới. Ấy là tất cả cái mênh mông của võ lâm trong cảnh ly tán, đa sắc và phồn tạp của nó mà theo người anh hùng người ta sẽ khám phá ra. Người anh hùng không chỉ khám phá ra một thế giới. Cái gì chàng sẽ làm sống lại là cả một giai đoạn của lịch sử võ lâm, và chính trong lịch sử ấy mà chàng sẽ tìm ra lý do đã làm cho võ lâm ly tán, nghĩa là sự mạch lạc trong cảnh ly tán ấy của võ lâm, để sau cùng trả lại cho võ lâm sự thống nhất của nó.
    Thế sự du du nại lăo hà ​
    Vô cùng thiên địa nhập hàm ca ...​
  5. saint81

    saint81 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    412
    Đã được thích:
    0
    Ghi chú:
    "Chiến thắng" của Kim Dung ở Việt Nam, theo tôi, không có nghĩa là nhà nước , và nhất là những nhà văn của họ đã nhận ra giá trị của ông, và nói theo Đỗ Long Vân: nghi vấn này ?" việc in lại những tác phẩm đã một thời bị coi là đồi trụy, trong đó có chưởng Kim Dung - người đời sau sẽ giải quyết.
    Nhưng ít ra, có một nhận xét thật tuyệt vời về chưởng Kim Dung, của một tác giả ở trong nước, qua bài viết của Vương Trí Nhàn. Đó là đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, "một nhà hoạt động sân khấu nhưng lại rất mê văn học, và cũng mê chưởng, mới đây kể với tôi rằng ông đã phải suy nghĩ nhiều, khi có lần nghe một người lái xe nhận xét: Đọc chưởng của Kim Dung, thấy cái gì cũng bịa, song cuối cùng lại thực, trong khi xem vở kịch của anh A. đọc truyện của anh B. viết bây giờ, biết thêm nhiều chi tiết thực mà toàn bộ cứ như giả khượt." (Vương Trí Nhàn: "Ngoài trời lại có trời", in trong "Kim Dung, tác phẩm và dư luận", nhà xb Văn Học, Hà Nội).
    Một "chân lý văn chương" mà lại do một anh lái xe đưa ra thì thật tuyệt vời!
    Trên tờ Điểm Sách Paris (The Paris Review interviews, Writers at Work, 6th Series), khi được hỏi bắt đầu viết như thế nào, Gabriel Garcia Marquez cho biết, khi học đại học Bogota, những bạn bè mới quen biết ở đây đã giới thiệu ông một số nhà văn đương thời. "Một đêm, một người bạn cho tôi mượn tập truyện ngắn của Franz Kafka. Khi về nơi trọ, tôi mở ra, bắt đầu đọc ?~Hóa Thân?T, và dòng đầu tiên gần như đánh văng tôi ra khỏi giường. (The first line almost knocked me off the bed). Tôi quá đỗi ngạc nhiên. Dòng đầu như sau: ?~Buổi sáng đó, Gregor Samsa thức giấc và thấy mình biến thành một con bọ ở trên giường.?T Khi tôi đọc dòng đó, tôi nói với tôi, mình chưa từng gặp một con người nào được phép viết một điều như vậy. Nếu biết, tôi đã khởi sự viết từ đời nảo đời nào rồi."
    Nhận xét của anh chàng lái xe và của nhà văn Nobel văn chương, theo tôi, có một chút gì "tâm đầu ý hợp".
    Nếu độc giả nào đã từng đọc "Cội Rễ Nhà Trời" (Les Racines du ciel) của nhà văn người Pháp Romain Gary, chắc nhận ra một điều: chuyện phịa. Làm gì có một thằng khùng chui rúc mãi tít nơi rừng sâu nước độc, ở tận trái tim của bóng đen, là xứ Phi Châu, để bảo vệ loài voi, sợ nó bị diệt chủng, là hết cột chống trời, là trời sập! Nhưng càng đọc, càng chỉ thấy "sự thực, và sự thực mà thôi", bởi vì cái nhân vật chính ở trong đó còn "người hơn tất cả mọi người", và cuộc chiến đấu tuy bịa đặt, tuy vô vọng đó, bất cứ một con người nào cũng mong được dự phần. Đây cũng là "thiên chức" của nhà văn, nếu anh ta có được một thiên chức, theo Beckett, khi ông định nghĩa, nhà văn là một kẻ bị kết án phải thất bại, "Hãy thua, thua nữa, thua cho bảnh" (Fail, fail again, fail better).
    "Sự kiện" Đoàn Dự uống rượu rồi vận Lục Mạch Thần Kiếm cho rượu theo mấy đầu ngón tay chảy ra ngoài thì bố ai mà tin được, nhưng bất cứ một người nữ nào cũng có thể hy sinh cho người tình của mình như A Chu, và hình như đây chính là "thiên chức" của nàng, một khi Thượng Đế đã ban cho nàng một "cơ may" gặp được chàng!
    "Cội Rễ Nhà Trời" được coi là cuốn "tiểu thuyết sinh thái" đầu tiên, khi cái từ "sinh thái" chưa được biết tới, khi thảm họa môi sinh còn là chuyện "bịa khướt". Thú thật, bản thân người viết cũng không làm sao chịu nổi hình thức văn chương có tên là "tiểu thuyết tài liệu" (roman documentaire). Và càng sợ hơn nữa, thứ tiểu thuyết tư tưởng! Còn nhớ có lần được nghe một nhà văn hải ngoại "tâm sự", cứ mỗi lần ông muốn để cho nhân vật của mình nói lên một tư tưởng gì đó, là thấy như ngường ngượng! Có vẻ như nhân vật tiểu thuyết mũi tẹt không chịu nổi món này!
    Mũi tẹt hay không tẹt, thì cũng "mắm sốt" (même chose). Không phải là không có tiểu thuyết tư tưởng, nhưng thứ này hiếm. Đâu có phải ai cũng có thể viết được những tác phẩm như của Musil hoặc Thomas Mann, hay một "Bóng Đêm Giữa Ban Ngày" (Koestler), với những nhân vật từ đời thực bước thẳng sang tiểu thuyết, như những nhận định của G. Steiner: "Nhưng vâng, đó có thể là ý thức hệ. Tôi may được quen Arthur Koestler, biết được cái điều: ai mà chẳng dám đánh đổi tất cả, nếu viết được một tác phẩm như là Bóng Đêm Giữa Ban Ngày: một trong những hành động tối thượng của tư tưởng. Đối với tôi, đây là một trường hợp biên cương [giữa văn học và ý hệ]. Nó sẽ vẫn còn được đọc, không chỉ vì Gletkin và Rubashov là những nhân vật giả tưởng, mà còn vì những tranh luận về chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa Marx, về sự tra tấn, và khủng bố: đâu là bản chất của sự dấn thân tới chết, với ý hệ? Đâu là bản chất của dối trá, nhằm bảo vệ chính nghĩa? Đúng là một cuốn sách giầu có. Koestler đưa vô, khá đủ độ đậm của cuộc sống, khiến nó không nghèo nàn như là một kịch bản về ý hệ." (Trả lời phỏng vấn của tờ Điểm sách Paris).
    Và đây cũng là lý do Kundera coi "1984" của Orwell không phải là tiểu thuyết, mà chỉ là chính trị giả danh văn chương. Ông cho rằng lỗi ở tác giả, đã quá "nghiêm trọng" khi viết văn. Ông khuyên, "đừng nghiêm trọng, cho dù đang viết về những chuyện chết người."
    Nhìn rộng ra một chút nữa, nhà văn, một khi muốn "nhân danh", (hoặc muốn nhét vào miệng nhân vật mình một tư tưởng nào đó), là hỏng! Hỏng ở đây, một phần nào đó, không mắc mớ gì đến tài năng của người viết, đề tài người đó chọn? mà chính là do người viết đã tự trói, hoặc đã thui chột trí tưởng tượng của mình, rồi mới bắt đầu loay hoay tìm cách viết văn!
    Có một câu chuyện ngụ ngôn, về một con hổ muốn biết trí khôn của con người ra sao, đã chịu cho người cày ruộng trói lại, khi nghe người này nói, "trí khôn tao để ở nhà". Một khi bạn muốn "chụp một cái mũ cho văn chương", như vậy là đã "cố tình" bỏ quên trí khôn ở nhà! Trong trường hợp đó, tốt nhất là để cho hổ ăn thịt, cả trâu lẫn người!
    Mô phỏng Kim Dung, chúng ta có thể nói, có hai bí kíp Cửu Âm chân kinh: một, từ ảo qua thực (tiểu thuyết) và một, từ thực qua ảo (tiểu thuyết dởm). Có điều, với Kim Dung, tập luyện thứ nào thì cũng đưa đến kết quả.
    Nói rõ hơn, có tư tưởng, và là thứ xịn, ở trong chưởng Kim Dung,
    ***
    Cũng cùng một trường hợp như vậy, nếu chúng ta để ý tới những lời phẩm bình Lê Minh Hà, của Y Ban, một nữ tác giả ở trong nước, trong một dịp ngao du hải ngoại. Nếu bỏ qua cụm từ "nhà văn gì gì đó", những nhận xét còn lại của Y Ban, theo tôi, có điều gì hết sức chân thực, và là do cách đọc, cách hiểu văn chương của bà; nói rộng ra, của đa số nhà văn ở trong nước.
    Y Ban coi những truyện của Lê Minh Hà giống như của những học sinh tập viết văn. Và những truyện như thế "chẳng tải gì cả".
    Đúng như vậy! Những truyện ngắn của Lê Minh Hà chẳng tải gì cả, và đây là một điều thật là tuyệt vời! Bởi vì bà đã phải đợi cuộc chiến qua đi, rồi lại đợi, đợi mòn đợi mỏi, cho đến khi không thể đợi được nữa, đành thoát ra ngoài, chỉ để viết những câu chuyện vặt vãnh, "chẳng tải gì cả", về một miền đất. Bạn có bao giờ để ý đến những cánh hoa, sau một trận mưa, đã cố sửa soạn lại nhan sắc, cố giấu những vết thương trên mình, và lại mỉm cười như chẳng có chuyện gì xẩy ra?
    "Có sợi tóc nào bay trong trí nhớ nhỏ nhoi": tôi cứ tưởng tượng ra một người đàn bà, sau khi làm hết bổn phận với chồng với con, với cuộc đời nặng nề này, trong đêm khuya, đợi cho người thân yên giấc, lặng lẽ thả từng cánh hoa xuống lòng giếng sâu là hồn mình, rồi hồi hộp, âu lo, đợi chờ tiếng vọng của một thời nào đã xưa, đã cũ? Liệu những cánh hoa như vậy có "tải" được không, và những tiếng vọng, có "nghe" được không?
    Thành thử những "gì gì đó", nào là, sau một thời văn chương vết thương, tới một thời văn chương vết rạn, sau phản kháng tới ly khai, sau chống cộng tới hợp lưu? là toàn những chuyện giả danh văn chương ráo trọi!
    Vẫn trong "Kim Dung tác phẩm và dư luận", Vũ Hạnh khi được hỏi, về những nhận định trước đây, khi còn nằm vùng, và bây giờ, đối với chưởng Kim Dung, ông cho rằng đây chỉ là một thứ "para-littérature", trước đây ông chống, vì nó làm ru ngủ thanh niên trong lòng địch, bây giờ, ta cho in nhưng phải kiểm soát.
    [Tôi sẽ trở lại với văn chương phải kiểm soát, trong một dịp tới].
    ***
    "Lẫm liệt một thời mà bây giờ thì? tội nghiệp quá."
    Câu văn trên, trích từ "Một Thời Gió Bụi", tập truyện ngắn của Nguyễn Khải (nhà xuất bản Lao Động Hà Nội 1993). Tác giả không định nói về một miền đất, mà là một khí hậu văn chương, khi so sánh anh nhà văn hiện nay với người dân làm cói ở xã N.
    "Một Thời Gió Bụi" mở ra bằng câu chuyện một làng làm cói. Thuở lẫm liệt, "vào thập niên 1970 có năm họ thu được 9 triệu tiền hàng. Tiền thu đã nhiều mà làm cói lại dễ hơn trồng lúa. Một lần cấy mống cói thu hoạch từ bẩy đến mười năm? Mọi người tin rằng sự ổn định ấy là bất di bất dịch? Vậy mà cái yên tĩnh bây giờ [không còn lo chiến tranh], cái mở ra của bây giờ? đang dồn xã anh hùng vào ngõ cụt?". Thế rồi tác giả bèn quay qua chuyện viết văn, "cũng như những người làm cói, tôi tin tưởng cái nghề viết của bọn tôi sẽ không có gì thay đổi, sẽ mãi mãi vẫn như thế. Nền văn học trong tương lai là nền văn học xã hội chủ nghĩa, làm sao nghi ngờ được? Vậy mà bỗng chốc? bỗng chốc bản thảo đưa tới nhà xuất bản từ nửa năm bị trả lại. Tại sao vậy? -Anh viết chính trị quá, cao siêu quá, bạn đọc sẽ khó mua. ?"Bạn đọc nào? Bạn đọc của tôi vẫn trung thành với tôi mà! ?"Bạn đọc quen thuộc của anh đã tới tuổi về hưu rồi, đã về hưu tiền ăn còn chả đủ lấy tiền đâu mua sách."
    "Nhưng người có tiền là những người đang làm việc, họ còn trẻ, rất trẻ. Hãy viết cho tuổi trẻ đi! Khốn nỗi cái tuổi trẻ hôm nay với tuổi trẻ của bọn tôi lại khác nhau quá nhiều vì thời thế đã thay đổi? Chân lý vĩnh cửu không còn nữa? Tiêu chuẩn bây giờ là tiền. Nó là bản vị của mọi giá trị. Chẳng hạn một nhà văn mà không kiếm ra tiền là nhà văn tồi? Nên ví thân phận anh nhà văn với ai nhỉ? Chắc là phải xếp dưới thầy cúng với thầy bói. Nghề này đang hái ra tiền, vì còn rất cần thiết cho những cái mộng tỉ phú. Chỉ có thể so sánh anh nhà văn hiện nay với người dân làm cói ở xã N mà thôi. Lẫm liệt một thời mà bây giờ thì? tội nghiệp quá!"
    Ấy chỉ vì "chân lý vĩnh cửu không còn nữa!"
    ***
    Bất cứ một so sánh nào cũng khập khễnh. Đôi khi khập khễnh "cần thiết" hơn cân đối, hoàn chỉnh, ít ra là trong trường hợp ở đây.
    Người viết đã từng nghe "hơn một nhà văn" ở trong nước chê Nguyễn Tuân. "Những tùy bút sau này của ông dở quá! Thua xa Võ Phiến!", một nhà văn ở trong nước đã nói với tôi như vậy. Anh kể, kỷ niệm lần đầu đụng đầu với văn chương miền nam trước 1975, "Tôi đọc câu thơ của Nguyên Sa, hình như là thế này, ?~Sáng hôm nay Nga buồn như một con mèo ốm??T, và sướng điên lên. Làm sao ở miền bắc lại có một câu thơ ngu ngơ dại khờ tuyệt vời đến như vậy! Làm thơ như thế thì còn quá *********!"
    Ấy là tôi diễn ý của tôi, khi nhìn anh bồi hồi với "nụ hôn đầu ôm mái tóc lang thang" (thơ Thanh Tâm Tuyền): thì cứ coi như anh lần đầu tương tư Nga, và tiện thể, tương tư câu thơ đi, có chết ai!
    Tôi lạc đề như vậy, là để nói ra điều này: không thể có một thứ văn chương lẫm liệt, và nếu có một thứ văn chương lẫm liệt, thì cái hậu quả tội nghiệp bây giờ là tất nhiên!
    Và nếu Nguyễn Tuân sau này dở quá, cũng là lẽ tất nhiên, theo nghĩa, có thể ông thừa sức để viết hay hơn, thừa sức kiếm ra những đề tài xứng với ông hơn, nhưng ông biết rất rõ: viết hay là bỏ mẹ!
    Bởi vì hãy nhớ lại câu cảnh cáo của Adorno: Sau Lò Thiêu mà còn làm thơ thì thật là ? "tội nghiệp"! (ông dùng chữ "dã man").
    Hay là mượn ngay một câu chuyện ngụ ngôn của Đông phương, về một con chó chuyên săn hùm beo, bị đánh què chân, chỉ để dùng vào việc săn chuột! Ở đây, Nguyễn Tuân đánh què chính mình, tự tay ném tác phẩm của mình vào thùng rác, vì sợ rằng sau này thiên hạ sẽ hỏi, tại sao một thời đại khốn kiếp như thế mà lại có một thằng viết văn hay như vậy?
    Liệu có thể coi nhà văn đó hèn nhát? Và cái thái độ chê bai Nguyễn Tuân, có phải do quá ghen với tài năng của ông, hay là vì họ Nguyễn phải đợi ba trăm năm sau mới tìm được kẻ khóc mình?
    Liệu chúng ta có thể đi đến một kết luận vội vã: lẫm liệt cho lắm vào, bây giờ tội nghiệp cho đáng kiếp!
    ***

    Thế sự du du nại lăo hà ​
    Vô cùng thiên địa nhập hàm ca ...​
  6. saint81

    saint81 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    412
    Đã được thích:
    0
    Cũng một trường hợp như vậy, nếu chúng ta đọc truyện ngắn "Huyền thoại phố phường" của Nguyễn Huy Thiệp.
    Đây là một câu chuyện mô phỏng "Con đầm bích" của Pushkin. Nghe nói ở trong nước có người "quá ghen" hoặc "quá ngu" đến độ chê họ Nguyễn là đạo văn! Bản thân tôi, lần đầu đọc truyện này, cũng ngạc nhiên, tự hỏi tại sao Nguyễn Huy Thiệp "viết lại" Pushkin, bằng cách đẩy cái không khí huyền hoặc của "Con đầm bích"ù - bạn đọc chắc còn nhớ cảnh tượng "nụ cười" của bà đầm già "bước ra khỏi lá bài" khiến tay sĩ quan phát điên? - vào trong "thực tại" phố phường?
    Một cách nào đó, Nguyễn Huy Thiệp đã nhận ra nhu cầu phải viết khác đi, nếu không muốn làm nhục văn chương, nghệ thuật. Nên nhớ, một khi văn chương phải hạ mình xuống để làm những công chuyện như "phản kháng, ly khai, chống cộng, hợp lưu, giao lưu hoà giải?" một cách nào đó, nó đã bị tổn thương, hoặc đã tự đánh què chính nó, và nếu văn chương có một lương tâm, chắc là nó cũng cảm thấy hổ thẹn! Theo nghĩa đó, Cao Hành Kiện đã cho rằng, đây chỉ là chuyện tri âm tri kỷ mà thôi. Cũng vẫn theo nghĩa đó, những người chê thơ Nguyễn Chí Thiện (không phải là thơ!), đáng lẽ họ phải đặt ngược vấn đề và tự hỏi, nếu Nguyễn Chí Thiện ở trong tù mà còn làm thơ thì? tội nghiệp thực!
    Đây chính là lý do tại sao, khi thiên hạ khen "Bác sĩ Zhivago" của Pasternak, Nabokov đã "bực mình", qua một số câu trả lời phỏng vấn mà người viết trích dịch sau đây.
    Khi được hỏi, ông tiên đoán ra sao, về sức khoẻ của văn chương Nga, Nabokov trả lời:
    Thật khó mà có một câu trả lời giản dị cho một câu hỏi như thế. Vấn đề là, không có một chính quyền nào, cho dù thông minh tới đâu, nhân bản tới đâu, có thể đẻ ra những nghệ sĩ lớn; ngược lại, một chính quyền tồi tệ nào cũng dư sức để mà hành hạ, ******** làm tội, và hơn thế nữa, bách hại, làm thịt nghệ sĩ. Nên nhớ điều này, vì nó thật là quan trọng: chỉ đám thiếu thẩm mỹ (philistins), mắt mù tai điếc trước nghệ thuật, mới ăn nên làm ra trong mọi chế độ. Bởi vậy tôi chẳng có thể nào tiên đoán gì hết, nhưng hy vọng, lẽ dĩ nhiên, rồi chế độ công an trị ở Liên xô sụp dần rồi biến mất. Trong khi chờ đợi, tôi lấy làm thương hại cho mấy tên ngu đần đã lầm lẫn Staline với McCarthy, Lò Thiêu Auschwitz với bom nguyên tử?
    Khi được hỏi, ông viết cho ai, Nabokov trả lời:
    Tôi không tin một nghệ sĩ lại phải lo lắng đến độc giả của mình. Độc giả số một của ông ta, là cái kẻ mà mọi buổi sáng ông ta nhìn thấy trong gương, khi cạo râu. Tôi cho rằng, khán thính giả độc giả của một nghệ sĩ, mà ông ta tưởng tượng ra được, là những người làm đầy một căn phòng, và tất cả đều mang mặt nạ của ông ta.
    Về cuốn Dr Zhivago, khi Robert Bingham, của tạp chí Reporter, New York, muốn biết ý kiến của ông, Nabokov đã từ chối đưa ra một lời phê bình, sợ có hại cho tác giả. Theo ông, đây là một cuốn sách ủng hộ (pro) bôn sê vích, và sai lầm về lịch sử (historiquement faux), bởi vì đã vờ đi cuộc cách mạng tự do (révolution libérale) mùa xuân 1917; hơn nữa vị bác sĩ đã mừng đến phát điên, khi cú đảo chánh của bôn sê vích xẩy ra bẩy tháng sau đó. Tuy nhiên, ông đánh giá cao Pasternak như là một thi sĩ trữ tình (poète lyrique). Ông chào mừng Pasternak được giải Nobel, chỉ vì những câu thơ của ông ta. Trong Dr Zhivago, văn đã không tới được tầm cao của thơ ông. Ông nói thêm, tầng lớp trí thức Nga không ăn ý với Đảng đã không mặn mà với cuốn sách như là độc giả Mỹ. Khi cuốn sách xuất hiện ở Hoa Kỳ, đám lý tưởng tả phái đã mừng quýnh lên: đây là một bằng chứng cho thấy "một đại tác phẩm" đã được đẻ ra, từ chế độ Xô viết.
    [Về những trích dẫn trên đây, là từ "Strong Opinions" (tạm dịch Bạo Mồm), người viết sử dụng bản dịch tiếng Pháp, "Partis Pris", tủ sách 10/18, nhà xb Julliard, ấn bản 2001].
    Với riêng người viết, chính cái tình trạng tội nghiệp kia, là một dấu hiệu hết sức đáng mừng của văn chương ở trong nước, nếu chúng ta nhận ra cái thông điệp của nhà văn Nam Phi Coetzee, khi viết về trường hợp cuốn Thương Xá (The Arcades Project: Dự án về những vòm cung thương xá) của nhà văn người Đức gốc Do Thái, Walter Benjamin. Khi Hitler lên nắm quyền ở Đức, Benjamin bỏ chạy qua Paris. Và khi Pháp sắp sửa lọt vào tay Quốc Xã, ông tìm đường tới Hoa Kỳ bằng ngả biên giới giữa Pháp và Tây Ban Nha, ôm theo bản thảo cuốn sách. "Nó còn quan trọng hơn cả tôi, và phải được gìn giữ", ông nói về đứa con tinh thần của mình.
    Theo Coetzee, cuốn "Thương Xá", cho dù chúng ta đánh giá nó như thế nào ?" điêu tàn, thất bại, một dự án bất khả, impossible project ?" đề nghị một đường lối mới, để viết về một nền văn minh: sử dụng những rác rưởi làm chất liệu, thay vì những nghệ phẩm của cái nền văn minh đóù; lịch sử từ đáy thay vì lịch sử từ đỉnh. Và lời kêu gọi của Benjamin (trong "Những luận đề" - "Theses"), cho một lịch sử xoáy vào đau khổ của những người thua, thay vì thành tựu của những kẻ thắng: lời kêu gọi này mang đầy tính tiên tri, về cung cách mà việc viết sử bắt đầu nghĩ về chính nó, trong quãng đời [còn lại ngắn ngủi của chúng] ta.
    ***
    Qui est Ky?
    Ky là ai? Đây là câu hỏi của tướng de Gaulle, thời gian hoà đàm về chiến tranh Việt Nam diễn ra ở Paris. Câu hỏi này được báo Tây đăng tải, vì tính ngộ nghĩnh của nó (một trò chơi chữ), nhưng còn vì những hành vi "ngộ nghĩnh" của Nguyễn Cao Kỳ, khi, thay vì họp, ông kéo bà vợ "Duyên Kỳ Mai" đi trượt tuyết, hoặc chứng kiến ông biểu diễn lái phi cơ phản lực, hoặc vì tính "ngộ nghĩnh" của hòa đàm, hai, ba hay bốn bên; bàn tròn, bầu dục, hay vuông; rút quân trong danh dự hay cuộc tháo chạy tán loạn?.
    Nhắc tới Nguyễn Cao Kỳ, vì có một thời, "Cô Gái Đồ Long" là tác phẩm ruột của ông, và từ đó, của binh chủng không quân. Ông cũng từng được một nhà thơ miền nam, nhân chuyện ông và Nguyễn Văn Thiệu hục hặc, coi là Vô Kỵ, qua câu thơ:
    "Ông về ông kẻ lông mày tí chăng?"
    ***
    Có ít nhiều tương đồng giữa Weil và Đỗ Long Vân.
    Weil là học trò đắc ý nhất của Alain. Simone Pétrément, người viết tiểu sử của Weil cho biết, ngay từ hồi đi học, Weil đã chịu ảnh hưởng của ông thầy, từ nỗi quan hoài trước bất công, tới chống lại trật tự xã hội.
    Đỗ Long Vân rất mê Alain, và đã từng dịch những tác phẩm của ông thầy người Pháp này.
    Có thể, cả hai cùng bị ám ảnh bởi sức mạnh, theo nghĩa Weil viết trong "Iliade hay là bài thơ của sức mạnh": "Sức mạnh biến kẻ bị nó chi phối thành đồ vật". Hoặc lời nhắn nhủ này: "Chúng ta đừng bao giờ tái diễn cuộc chiến thành Troie" (tên một bài viết của Weil, viết năm 1937). Có thể, "Vô Kỵ giữa chúng ta" được viết dưới ánh sáng của những bài viết, những kinh nghiệm của Weil về Nazi, chủ nghĩa toàn trị... Ngay cả sự kiện Đỗ Long Vân đành để bị đưa đi Trung Tâm Ba tuyển mộ nhập ngũ như là một bình nhì, và từ chối ra bưng, như một hai "bằng hữu" hay mối quen biết (?) của ông, thời kỳ Mậu Thân, có thể cũng do ảnh hưởng của Weil.
    Bà là một trong những người đầu tiên, thuộc giới trí thức tả phái, lên tiếng tố cáo Liên bang Xô viết, nhưng lại bị coi là "ngây thơ" (naive), khi cho rằng nước Pháp chỉ có mỗi một cách để chứng tỏ tính "ưu việt" (superiority) của nó, là trả lại độc lập cho những xứ thuộc địa. Tiểu thuyết gia người Pháp Georges Bataille có lẽ là người diễn tả tuyệt vời nhất về Weil: một "Don Quixote", trong trường hợp của Weil, những kẻ thù của bà không phải là những cối xay gió, mà có thực, nhưng cây thương của bà là đồ dởm (imaginary).
    Với Đỗ Long Vân, ông không biết đâu là kẻ thù, đâu là bạn, nhưng có thể ông cũng nghĩ như một nhân vật trong "Bếp Lửa" của Thanh Tâm Tuyền: Ra ngoài ấy thì cũng là một cách đánh đĩ tinh thần!
    Theo tôi, Đỗ quân còn bị ảnh hưởng Weil, ngay ở trong văn phong của bà: một văn phong đầy hồn thơ, và cũng thật là dữ dằn (ferocious).
    Ngay cả thái độ từ chối mọi tiện nghi, mọi đặc quyền của cuộc đời, như Weil: "Tôi sinh ra là để có phần của mình, ở tình yêu, không phải ở hận thù."(Antigone. Sophocle).
    ***
    "?. Trong Kim Dung, tất cả những chi tiết rải rác mà thoạt tiên người ta tưởng là vẽ ra theo sự tình cờ của cảm hứng, sau cùng đều giải thích lẫn nhau trong một kiến trúc nhịp nhàng".
    ĐLV
    Trước Newton, những hiện tượng vật lý như trái táo rớt xuống đất, thủy triều lên xuống theo con trăng? đều là "những chi tiết rải rác", những hiện tượng "tình cờ"của vũ trụ. Đến khi Newton xuất hiện, với luật vạn vật hấp dẫn, tất cả những hiện tượng riêng rẽ, rời rạc, tình cờ kia đều thu về một mối. Koestler đã coi Newton là người nhạc trưởng, tay cầm cây đũa thần, giơ lên cao, và bản hòa tấu bắt đầu.
    Nhưng cái kiến trúc nhịp nhàng kia đâu phải là chấm dứt mà chỉ là mở đầu, nó là buổi đêm chứ không phải rạng sáng, nói theo Lévi-Strauss. Bởi vậy, sau Newton có Einstein, sau Einstein có lý thuyết Big Bang, Lỗ Đen?
    ***
    Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn, trong bài phỏng vấn in trong "Kim Dung, tác phẩm và dư luận", cho biết: "Tôi biết rằng ở Trung Quốc đang cho in lại Kim Dung, bằng bản do chính tác giả chỉnh lý: loại bỏ 30% những gì đã cho in và nâng cao lên, bằng cách văn học hóa những gì đã viết. Trong bản cũ, từng có những nhân vật bị tác giả bỏ quên: nếu tôi nhớ không lầm thì trong ?~Cô gái đồ long?T, Khúc Phi Yến, một nhân vật khá hấp dẫn bỗng dưng không thấy mặt mũi đâu nữa, chẳng chết, cũng chẳng sống, biến mất tăm không một lời giải thích?"
    Khúc Phi Yến là nhân vật trong ?~Tiếu Ngạo Giang Hồ?T. Theo tôi, không phải người đẹp bị Kim Dung bỏ quên. Khúc Phi Yến xuất hiện chỉ để nói một câu rồi biến mất, giống như người đẹp bay lên trời ở trong "Trăm Năm Cô Đơn" của Garcia Marquez.
    Bạn đọc chắc còn nhớ đoạn hai đồng tác giả bản đàn Tiếu Ngạo Giang Hồ bị cao thủ Phí Bân phái Tung Sơn truy đuổi tận diệt, rồi Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm xuất hiện, Phí Bân muốn giết luôn cả hai để diệt khẩu, Lệnh Hồ Xung kêu Nghi Lâm hãy bỏ chạy, nhưng vị ni cô quyết định ở lại, và Khúc Phi Yến đã cười nói: "Chàng ngố ơi, ni cô muốn cùng chết với chàng ngố đó?"
    Lời tỏ tình, Lệnh Hồ Xung không thể nói, (vì là chàng ngố), Nghi Lâm lại càng không thể nói, (vì đã gửi thân nơi cửa Phật). Kim Dung đã mượn người đẹp, cô cháu gái (?) của Khúc trưởng lão của Ma giáo nói giùm, là vậy.
    Trong đời "thực", chắc còn nhiều chàng ngố, chỉ mong được nhìn thấy người đẹp một lần trong đời?
    ***
    "Tổ chức của Minh Giáo sẽ cho truyện sự mạch lạc của nó. Tất cả xẩy ra như trong hóa học?".
    ĐLV
    Có ba cách đọc "Cô Gái Đồ Long", ít ra là vậy, theo tôi.
    Cách thứ nhất: lấy Cửu Dương chân kinh làm nền, và đây là câu chuyện về một nguyên lý võ công mất đi, rồi tìm thấy lại.
    Cách thứ nhì: lấy Vô Kỵ làm nền và đây là câu chuyện một đứa trẻ bất hạnh, như những nhân vật của Dickens chẳng hạn. Và những trang sách tuyệt vời trong "Cô Gái Đồ Long", là để tả cuộc hành trình của hai đứa trẻ bất hạnh, Vô Kỵ và Bất Hối, từ Điệp Cốc tới đỉnh Côn Luân.
    Cách thứ ba, như trên, là lấy Minh Giáo làm nền, như Đỗ quân đã trình bày: "Trên một qui mô lớn hơn thì truyện Đồ Long cũng sẽ không dẫn người ta đi đâu xa hơn là sự tái lập cái tổ chức của Minh Giáo đã từ lâu ly tán?" "những nhân vật trong truyện Đồ Long [những chất hóa học trong bảng tuần hoàn Mendéléev] như đều được sáng tạo để bù vào những chức vụ bỏ không của Minh Giáo?. Tổ chức Minh Giáo vừa là khởi điểm, vừa là tận điểm của truyện."
    Những ý niệm về "nhân vật xếp thành từng bộ" như Đỗ Long Vân diễn tả, là mượn từ tân toán học, theo tôi, nhưng đã bị ám ảnh bởi thời cuộc, thí dụ như những câu sau đây:
    "Nhân vật làm ra Bộ. Nhưng trong Bộ nhân vật mới tìm thấy định nghĩa."
    "Tâm lý nhân vật mất quan trọng? sự khác nhau giữa những nhân vật khi ấy chỉ còn là sự khác nhau giữa những vị trí của họ trong một Bộ."
    "Ngược lại thì đôi khi có thể nói rằng Bộ đã ăn mất con người của nhân vật. Quả Kim Dung đã không uổng là nhà văn của thời đại tổ chức!"

    Từ "tổ chức" thật là đầy ấn tượng!
    Thế sự du du nại lăo hà ​
    Vô cùng thiên địa nhập hàm ca ...​
  7. saint81

    saint81 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    412
    Đã được thích:
    0
    VI. Thế giới Kim Dung.
    "There is therefore a poetics of blood. It is a poetics of tragedy and pain, for blood is never happy"
    Gaston Bachelard. (Về Tưởng tượng Thi ca và Mơ mộng, On Poetic Imagination and Reverie; Colette Gaudin biên tập, nhà xb Indianapolis: Bobbs-Merrill, 1971.)
    ["Từ đó, có một thi học về máu. Đó là một thi học về bi thảm và đau đớn, bởi máu là chẳng thể nào hạnh phúc." J.M. Coetzee trích dẫn, trong "White Writing: On the Culture of Letters in South Africa", nhà xuất bản Yale University Press].
    "As long as there are victors, there?Ts not too much hope for the world".
    "The only hero is the anti-hero".
    "We have no chance against a time that needs heroes."
    Christa Wolf: The Author?Ts Dimension (tuyển tập tiểu luận, nhà xb The University of Chicago Press).
    "To whom can I say that the Iliad bores me?"

    (Nói với ai đây, Iliad làm tôi chán?)
    Christa Wolf: Casandra (a novel and four easays).
    "Heroes must suffer, not die"
    (Người hùng phải đau khổ, cấm được chết")

    G. Steiner
    "Truyện ông như muốn quật ngã cái ý chí anh hùng và cái đạo lý của ông không giống cái đạo lý của người thống trị. Hay đúng hơn ấy chính là sự thống trị. Khi uy quyền đã vững và tới bậc cuối cùng của tham vọng người ta có thể bước sang giai đoạn của ăn năn. Còn những kẻ muốn tiếp tục truyền thống nghĩa hiệp??"
    "Và có lẽ cũng như tác giả ?~Don Quichotte?T, ở cái thời mà vàng của Mỹ châu tràn ngập những thị trường Địa Trung Hải làm sống lại sự giao thương, tao loạn và những thuyết nhân bản, xóa nhòa trong trí nhớ mọi người sự nghiệp oai hùng của những chàng nghĩa sĩ của Charlemagne, Kim Dung đã viết những truyện võ hiệp để vừa tiếc chúng vừa mua một cuộc ?~Tiếu Ngạo Giang Hồ?T. Những anh hùng của ông sẽ biết sự thất bại. Nhưng còn đâu nữa những anh hùng? Chỉ có những cá nhân."
    "Và lẽ dĩ nhiên cái chết nào, dù là cái chết xứng đáng của một Dương Khang, cũng đủ thảm khốc để có vẻ oan uổng. Cái gì tác giả muốn là gây cho người đọc một cảm động mạnh. Cảm động trên hết, cảm động trước đã và cảm động sẽ thắng."
    "Ông sẽ cho người ta thấy trong mỗi tên đại ma đầu có một người cha muôn thuở đang ngủ."
    "Nhưng dưới tác phong tàn bạo của họ, nhân vật nào trong Kim Dung mà không đa sầu, đa cảm, đa tình?"

    Nhưng trước khi chắp xong những mảnh vụn ấy, thu tất cả những đầu dây vào một mối và tìm ra cái chốt của mọi sự kiện thì chàng đã trải qua những rừng nghi vấn. Hơn một lần những bất ngờ đã vồ lấy chàng. Và cuộc phiêu lưu của chàng đã là một thất lạc giữa những đe dọa chập trùng. Không có ai trong truyện cổ điển để nghi ngờ cái ý nghĩa sẵn có của mọi vật. Nhưng người anh hùng của Kim Dung trái lại vào đời để ngạc nhiên và khám phá rằng thế giới to, rộng và phức tạp hơn người ta đã dạy chàng. Ấy thường là một thiếu niên thật thà, võ công chẳng có mấy cũng như chẳng có mấy kinh nghiệm giang hồ. Khác hẳn những anh hùng cổ điển khi xuống núi là đã sẵn có những võ công trác tuyệt và chỉ có việc mang cái đạo sẵn có ra thi hành để tiếp tục một truyền thống đã gần trở thành tự nhiên, thì chàng, chàng phải học tất cả từ đầu. Những tình cờ của cuộc đời sẽ dạy chàng võ công cũng như đạo lý. Theo chàng, người ta tham dự vào sự khám phá một thế giới mới lạ và bí mật. Và đồng thời chuyện của sự khám phá ấy cũng là chuyện trở thành của người anh hùng. Không thuộc một môn phái nào cố định, nhưng học ở khắp nơi, người anh hùng Kim Dung là con của kinh nghiệm và tình cờ. Ấy là con người của những thuở giao thời khi truyền thống sụp đổ mà những giá trị mới vẫn chưa xuất hiện một cách rõ ràng. Con người ấy do cuộc đời làm ra, và có khi cuộc đời biến chàng thành một cái gì khác hẳn những tham vọng nguyên thủy của chàng. Truyện võ hiệp cổ điển trình bày những giai đoạn của sự thực hiện theo một đường thẳng của một dự định từ đầu tới cuối vẫn là một. Khi cuộc phiêu lưu của Vô Kỵ chấm dứt thì còn gì ý chí phục thù của chàng? Hình như chàng đã quên nó từ bao giờ không biết.
    Con người bị thế giới thay đổi. Ấy là tại thế giới lớn hơn con người. Người anh hùng Kim Dung thường xuyên bị vây giữa cái chưa biết. Tương lai thì mịt mù, hiện tại khó hiểu, sau lưng chàng còn cả một dĩ vãng mà chàng không hề tham dự, nhưng đôi khi một võ công thất truyền như nhắc lại tiếng vọng của một cái gì thần bí và hoang đường. Chàng phải khám phá ra thế giới từng bước một. Nhưng thế giới như không có giới hạn. Hết sự lạ này lại đến sự lạ khác, hết võ công này lại có võ công khác cao hơn, và như người ta nói, ngoài trời lại có trời. Kinh nghiệm của người anh hùng là kinh nghiệm của cái vô cùng, cái bên kia, cái khác. Từ cái phồn hoa của những đô thị đến những cơ quan ác hiểm, tất cả, trong truyện võ hiệp cổ điển, đều làm chứng cho sự nhân loại hóa của thế giới. Cảnh trí trong truyện võ hiệp mới khác hẳn. Hang sâu, vực thẳm, rừng hoang, đảo vắng, sa mạc mênh mông, một thiên nhiên dữ tợn vây con người ở khắp nơi. Khắp nơi xao xác tiếng gọi của Huyền bí và Vô cùng.
    Tà đạo trong Kim Dung cũng có lưỡng tính ấy. Vừa đe dọa vừa cám dỗ. Như người của Chính phái, khi lâm sự, người của Tà đạo cũng mười phần ác độc, và đôi khi những đòn của họ còn thâm hiểm gấp bội. Chỉ có người Tà đạo, chẳng hạn, mới nuôi rắn trong túi để phòng khi họ bị thua, kẻ thù có lục xác sẽ bị rắn cắn chết. Nhưng họ không bao giờ tìm cách cho sự ác độc ấy một minh chứng. Hơn thế nữa, họ còn cười đạo lý của những môn phái khác là ngây thơ, giả dối và hủ lậu. Cám dỗ đầu tiên họ mang lại là sự tự do không biên giới. Người lương thiện trước họ sửng sốt tự hỏi tại sao trên đời lại có những người như thế? Làm sao có thể vô tình trước sự thông minh của Hoàng Dung, nhan sắc của Hân Tố Tố, sự uyên bác của Tạ Tốn, tính ngạo mạn của Hoàng Dược Sư? Những đức tính ấy tuy nhiên chỉ là những cám dỗ bề ngoài. Xa hơn nữa, Kim Dung sẽ làm cho người ta thấy rằng Tội Ác tự nó có một sức thu hút lạ thường. Ai có thể đoan trang hơn Mục Niệm Từ? Nhưng người con gái suốt đời giữ thủy chung với Dương Khang, một con người ung thối, gian sảo và ngoài danh vọng ra thì chẳng thiết gì. Cũng như thế, Kỷ Hiểu Phù thà chịu chết chứ không chịu phản bội Dương Tiêu, người mà sư phụ nàng gọi là tên dâm tặc và cũng là người tình phụ bạc của chính nàng. Trong những mối tình ấy có một cái gì người ta không thể hiểu hết và người ta tự hỏi khi tả chúng thì Kim Dung muốn nói lên cái gì? Sự thôi miên của tội ác, sự phi lý của tình yêu, hay là cái thiêng liêng mà người ta muốn xác định trong những con người sa đọa nhất? Tất cả những ý tưởng ấy có lẽ cùng một lúc đã thoáng qua trong đầu người ta, khi, cái xác của Dương Khang phơi ở ngoài tòa miếu vắng, đàn quạ no nê chỉ để lại một mớ xương hoang. Con người gian xảo ấy đã đền tội một cách xứng đáng. Nhưng trong một ngôi chùa xa, ít người lai vãng, Mục Niệm Từ vẫn giữ nguyên dưới đáy lòng ảnh tượng của một người yêu.
    Cái chí của Dương Khang không cao. Tham vọng duy nhất của chàng là thừa kế cái địa vị của người cha nuôi của chàng để có thể tận hưởng phú quí. Nhưng để thực hiện tham vọng ấy chàng đã phản bội tất cả: quê hương, cha mẹ, anh em, bằng hữu, và sau cùng trở thành một kẻ sát nhân. Cái họa ấy là tâm hồn chàng vẫn còn có chỗ bị cái đạo lý truyền thống uy hiếp, và cứ gặp cái nhìn của Mục Niệm Từ là chàng lại như thấy sự oán trách của lương tri. Tội ác chàng làm tự chàng lại coi là tội ác, và đứa con sa đọa ấy của một dòng nghĩa hiệp sẽ không bao giờ biết gót chân nhẹ nhàng của những người đi chinh phục những vùng đất cấm. Xã hội lên án những con người ấy là Tà đạo. Nhưng họ có làm gì hơn là muốn vượt khỏi giới hạn của cuộc sống tầm thường? Giới hạn của đạo lý lẽ dĩ nhiên, nhưng cả giới hạn tự nhiên của con người, họ cũng muốn vượt qua, và không vượt qua được thì đến Trời họ cũng chửi. Nhưng trong sự nổi loạn ấy, người ta đã nhận ra người anh hùng của văn học lãng mạn. Cơn thịnh nộ của Tạ Tốn, trong cơn bão đánh bạt thuyền ông lên Băng Hỏa Đảo, chống lại cái mà ông nguyền rủa là Lão Tạo Thiên làm người ta nghĩ đến thuyền trưởng Achab của Melville và không phải ngẫu nhiên mà đã hai lần Kim Dung lấy cái tên Phá Thiên để đặt cho nhân vật của mình. Tà đạo trong ông không phải chỉ gồm những quân đầu trộm đuôi cướp mà những người mang cái chí muốn đoạt quyền tạo hóa. Họ đã ly khai khỏi cái đạo lý của tất cả mọi người. Lẽ dĩ nhiên họ bị mọi người nguyền rủa. Tham vọng điên cuồng của họ trong khi ấy chỉ có thể đưa họ đến thất bại và sự thất bại ấy lại xuất hiện như một nguyền rủa lớn hơn nữa, là của định mệnh. Họ là những người đã thách đố Thần linh. Và như trong truyện cổ Hy Lạp, Thần linh đã trừng phạt sự kiêu ngạo của họ và làm cho họ hóa điên. Hơn là tham vọng của họ, hơn là cái tài của họ, sự thất bại của họ làm cho người ta sợ hãi, tại trong sự thất bại ấy người ta đã không gặp gì hơn là cái bất nhân. Ấy là ấn tượng của người ta trước định mệnh của một Hoàng Dược Sư, một Tạ Tốn, một Kiều Phong. Lại có những nhân vật như Dương Khang, Chu Chỉ Nhược, Du Thản Chi chẳng có gì vượt bực. Nhưng thảm kịch của đời họ đặt cho người ta những nghi vấn. Sao lại có thể có một Du Thản Chi, từ thể xác tới tinh thần, như tụ hội tất cả những tật nguyền? Những nhân vật như thế tuy nhiên, trong Kim Dung, không phải chỉ giữ một vai bàn đạp để tuyên dương cái tích cực rực rỡ chuyên chở trong những nhân vật chính. Tai họa mà họ phải gánh chịu ông còn cho người ta biết như một điều oan uổng. Người ta chạm trán trong họ với cái phi lí của định mệnh.
    Định mệnh, Thần linh, Thiên nhiên, Thế giới, tất cả đều lớn hơn con người như sa mạc lớn hơn ý chí của Thiết Mộc Chân. Và cái gì ông hoàng Mông Cổ, sau khi đã khuất phục cái mênh mông của sa mạc, sẽ gặp lại trước giờ nhắm mắt là một cô độc không thể vãn hồi. Sự thất bại sau cùng ấy Kim Dung cũng sẽ dành cho những Vô Kỵ, Mộ Dung, Kiều Phong, Tạ Tốn. Truyện ông như muốn quật ngã cái ý chí anh hùng và cái đạo lý của ông không giống cái đạo lý của người thống trị. Hay đúng hơn ấy chính là sự thống trị. Khi uy quyền đã vững và tới bậc cuối cùng của tham vọng người ta có thể bước sang giai đoạn của ăn năn. Còn những kẻ muốn tiếp tục truyền thống nghĩa hiệp? Người ta sẵn sàng dành cho họ cái dễ thương của sự nhẹ dạ và ngu đần! Và có lẽ như tác giả "Don Quichotte", ở cái thời mà vàng của Mỹ châu tràn ngập những thị trường Địa Trung hải, làm sống lại sự giao thương, tao loạn, và những thuyết nhân bản, xóa nhòa trong trí nhớ mọi người sự nghiệp oai hùng của những chàng nghĩa sĩ của Charlemagne, Kim Dung đã viết những truyện võ hiệp để vừa tiếc chúng vừa mua một cuộc "Tiếu Ngạo Giang Hồ". Những anh hùng của ông sẽ biết sự thất bại. Nhưng còn đâu nữa những anh hùng? Chỉ có những cá nhân.
    Cái gì người ta chiêm ngưỡng trong những nhân vật cổ điển không phải cá nhân họ mà là những giá trị họ tượng trưng. Nhưng sự sụp đổ của những giá trị trước một thế giới của vật lực cũng làm rơi những mặt nạ, và con người trong Kim Dung xuất hiện như một mớ đam mê. Khi Trương Thúy Sơn ôm cái xác của Dư Đại Nham về Võ Đương thì cái gì sư huynh đệ chàng chợt giác ngộ là sự thật đơn giản, rằng họ không phải là những thiên thần. Họ có một thân thể để mang bệnh, trúng thương và chết, không phải cái chết vinh quang mà người ta thường đợi ở những người anh hùng mà là cái chết tăm tối, ô nhục, và khả nghi không biết tại sao chết và chết dưới tay ai, có thể xảy ra cho bất cứ kẻ vô danh nào lạc bước trên giang hồ. Sinh ra ở đời ai mà không chết! Tiếng thở dài của Trương Tam Phong trước cảnh hấp hối của đứa học trò yêu của mình như cáo chung cho một giai đoạn trong lịch sử võ hiệp. Những người anh hùng giờ sẽ biết sự đau khổ. Hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục, tâm hồn họ sẽ là nơi dao động của thất tình. Và những biến cố tâm lý cũng có một trọng lực không kém gì những biến cố ngoại tại. Tương quan giữa người đọc và truyện cũng đổi hẳn. Từ địa vị khán giả của một buổi trình diễn, người ta phải chia sẻ tâm sự của nhân vật: vui buồn, thắc mắc cùng nhân vật, nói tóm lại, tham dự trực tiếp vào cuộc phiêu lưu.
    Thế sự du du nại lăo hà ​
    Vô cùng thiên địa nhập hàm ca ...​
  8. saint81

    saint81 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    412
    Đã được thích:
    0
    Xa cái vui mắt của những đô thị, người ta theo người anh hùng tiếp xúc với cái trữ tình của những mặt hồ man mác, những chuyến đi thuyền đêm dưới trăng, những cảnh rừng hoang xào xạc lá rụng. Ấy là những cảnh để nói với lòng người, và trong truyện, chúng là một yếu tố dẫn cảm. Cũng như thế, quan trọng của biến cố không còn ở ý nghĩa đạo lý chúng có thể trình diễn mà ở tiếng dội tâm lý của chúng. Khi thì chúng làm người sửng sốt và trông chờ, lại có khi chúng gây ra những tình cảm nhân loại hơn: lãng mạn như cuộc tương ngộ đầu tiên giữa một đôi tri kỷ, nhưng thương tâm cũng có ?" như cái chết của một nhân vật mà người ta đã theo như một người bạn đường. Ai có thể nghĩ rằng những Hân Tố Tố, Trương Thúy Sơn, Kỷ Hiểu Phù, A Châu, Kiều Phong, A Tỷ? lại có thể bị hy sinh? Nhưng Kim Dung sẽ đi rất xa. Ông sẵn sàng cho chết ngang xương những nhân vật được cảm tình của người đọc nhất. Và lẽ dĩ nhiên cái chết nào, dù là cái chết xứng đáng của một Dương Khang, cũng đủ thảm khốc để có vẻ oan uổng. Cái gì tác giả muốn là gây cho người đọc một cảm động mạnh. Cảm động trên hết, cảm động trước đã, và cảm động sẽ thắng. Những giá trị của truyện võ hiệp mới là những giá trị của tâm hồn. Ai có thể chờ gì hơn ở một truyện kể khi ngay những nhân vật của truyện cũng không còn thiết đến ý nghĩa đạo lý của nó? Tất cả là làm thế nào cho người ta động lòng. Xưa thế giới chia đôi: một Tà, một Chính. Giờ thì những tiêu chuẩn tình cảm sẽ thay thế những tiêu chuẩn đạo lý: sẽ có những nhân vật để người ta có cảm tình với, và những nhân vật để nhận tất cả ác cảm của người ta. Cho nên, để gợi sự thương tâm trong độc giả, anh hùng giờ sẽ là người anh hùng lâm nạn, và truyện sẽ không kể lại những chiến công mà là những tai họa kế tiếp nhau trong đời chàng. Ấy là Dương Quá trong tay những ông thầy bất công và nghiệt ngã; ấy là Thạch Phá Thiên ở với một người mẹ nuôi thù hằn; ấy là Vô Kỵ suốt thiếu thời mang một thứ bệnh nan y. Nhỏ thì chịu tất cả những tủi nhục của một đứa trẻ vô thừa nhận, lớn lên họ lại bị xã hội nghi ngờ, xua đuổi, nguyền rủa, uy hiếp. Ngoài ra còn đủ thứ cảnh ngộ éo le mà cái tình cờ của phiêu lưu thường xô họ vào để họ phải chọn giữa những tình cảm đối nghịch. Không có gì trong thế giới là minh định như xưa. Họ thường xuyên phải ngạc nhiên, tự tra vấn, xét lại những thành kiến và những ước định của mình. Cho nên người nào cũng có một cuộc sống bên trong cực kỳ sôi động. Hơn thế nữa, chẳng mấy người lại chẳng từng trải qua những cay đắng của giang hồ và đeo trong mình một quá khứ nặng nề. Kinh nghiệm ấy cho họ một tâm hồn đầy uẩn khúc, và mỗi nhân vật giờ xuất hiện như một sự sâu xa thần bí. Ấy là nguồn của cái tâm lý phức tạp mà người ta thường ca tụng Kim Dung là đã mang vào truyện võ hiệp. Tâm lý trong truyện Kim Dung có lẽ cũng không phức tạp như người ta tưởng. Nhưng ít nhất thì những nhân vật của ông cũng không phải là những vai trò mang những nhãn hiệu cố định. Sau những nhãn hiệu như thế là một thế giới riêng tư, sau những vai trò còn có con người, và con người đích thực, theo Kim Dung, là con người của năng tính. Ông sẽ cho người ta thấy trong mỗi tên đại ma đầu có một người cha muôn thuở đang ngủ. Tiếng khóc của một đứa trẻ thơ thức tỉnh Tạ Tốn khỏi cơn mê sảng đẫm máu từ bao lâu đã vùi ông trong một cuộc tàn sát tưởng không bao giờ thôi. Và cái sướng nhất đời của Âu Dương Phong, có ai ngờ, là được một thằng bé con gọi là cha. Mất con, Diệp Nhị Nương bắt trẻ của người để ăn tim uống máu. Nhưng chỉ cần nhìn thấy đứa con mụ mong thầm nhớ trộm là mụ chợt giác ngộ và tự lên án cả quá khứ của mình. Cũng như thế, một Lý Mạc Thu có thể nhảy vào lửa để cứu một đứa trẻ thơ. Nhưng dưới tác phong tàn bạo của họ, nhân vật nào trong Kim Dung lại không đa sầu, đa cảm, đa tình? Người ta chỉ cần nhớ đến sự thủy chung của Hoàng Dược Sư với người vợ sớm qua đời, và tiếng sáo của ông trên nước biếc, khi, một mình một chiếc thuyền, ông đi khắp bốn bể tìm con.
    Cái tình là tiếng nói của cái phần sâu xa nhất trong mỗi con người. Không có tình giữa những vai trò xã hội. Nhưng khi hai nhân vật khám phá ra nhau như những con người, nghĩa là khi Trương Thúy Sơn thấy rằng Hân Tố Tố không giống hẳn cái ảnh tượng mà ba tiếng nữ ma đầu gợi ra trong đầu chàng thì cái tình giữa hai người đã bắt đầu. Nhân vật của truyện võ hiệp cổ điển cũng biết yêu nhau. Nhưng trong thế giới của họ chữ Tình chỉ định một tương quan ngoại tại, ước lệ và trừu tượng, qui định bởi thứ bậc xã hội và những tiêu chuẩn đạo lý. Không thể tưởng tượng được chẳng hạn một cuộc yêu đương giữa người của Tà môn và của Chính giáo. Nhưng trong Kim Dung, cái tình là cái tinh hoa của năng tính. Nó sẽ thắng những giới hạn giả tạo ấy và làm cho Dương Quá chẳng hạn suốt đời thương nhớ một người cha sa đọa. Tình cha mẹ con cái, tình thầy trò, tình đồng môn, tình bằng hữu, không tình nào mà Kim Dung không mô tả qua. Và lẽ dĩ nhiên phải kể đến tất cả những sắc thái của tình yêu: tri kỷ như giữa Hoàng Dung và Quách Tĩnh, thần tiên như giữa Dương Quá và Tiểu Long Nữ, ác độc như giữa Du Thản Chi và A Tỷ. Có những mối tình trưởng thành trong sự chia sẻ những nguy hiểm và gian khổ chung và những mối tình, như của Hân Ly với Vô Kỵ kết tinh từ một kỷ niệm nhỏ thuở thiếu thời. Lại có những mối tình sét đánh, như Đoàn Dự vừa trông thấy Vương Ngọc Yến là tưởng như những nhan sắc khác đều bị xóa nhòa. Những người yêu thì có kẻ đào hoa như Đoàn Chính Thuần, thờ phụng như Đoàn Dự, ngây thơ như Hân Ly, đau khổ như Chu Chỉ Nhược, dịu dàng như A Châu, nhưng người nào cũng yêu đắm đuối như đã gặp trong người mình yêu một cái gì không thể gặp được lần thứ hai ở trên đời. Cho nên A Châu có chết đi nhưng ảnh tượng nàng vẫn còn thao thức mãi trong lòng Kiều Phong. Hai tâm hồn gặp nhau, tương đắc, giao hội và không có gì có thể chia rẽ họ. Trương Thúy Sơn, Kỷ Hiểu Phù, A Chu nhận cái chết để khỏi phải lên án người yêu của họ, và Mục Niệm Từ giữ thủy chung với Dương Khang cho tới cùng. Tình yêu không kể tới đạo lý. Nó không thể giải thích được. Ai biết đâu sự sa đọa của Dương Khang là cái đã cám dỗ Mục Niệm Từ, cái ngây thơ của Quách Tĩnh là cái cám dỗ Hoàng Dung, sự lơ đãng của Mộ Dung Phục là cái cám dỗ Vương Ngọc Yến? Tham vọng có thể dẫn đến tuyệt vọng. Nhưng tình yêu là cái đam mê duy nhất trong Kim Dung không bao giờ biết đến sự ăn năn. Cái tên Bất Hối mà Kỷ Hiểu Phù đã đặt cho đứa con hoang của mình có lẽ đã đánh dấu trang sử diễm lệ nhất của võ lâm và có lẽ Mộ Dung Phục sẽ bị trừng phạt đến hóa điên, không phải vì tham vọng của chàng quá lớn mà tại vì chàng là nhân vật rất hiếm của Kim Dung đã không biết thế nào là tình yêu.
    Sự giá trị hóa cái Tình trong Kim Dung, tuy nhiên, chỉ là tỉ dụ điển hình nhất của sự giá trị hóa đời sống tâm hồn. Tâm hồn của nhân vật võ hiệp cổ điển có thể đọc trên mặt họ. Ấy không phải là một tâm hồn mà là một vai trò, một nhãn hiệu, nhiều lắm là một cá tính. Tất cả những cử chỉ của nhân vật đều mang sắc thái của cá tính ấy mà mục đích của chúng là trình diễn cho ai cũng có thể thấy rõ. Nhưng Kim Dung biết rằng sự thật cuối cùng của một con người không bao giờ có thể đạt tới. Nhân vật của ông thường là những nhân vật đa diện, và trong họ lúc nào cũng có thể xuất hiện một con người khác hẳn con người vẫn thường biết. Hơn thế nữa, trong Kim Dung, người ta vào đời là để tự khám phá, tự đào luyện, tự xây dựng. Cho nên cái vô định tính thường là đặc tính đầu tiên của nhân vật ?" và nhân vật nào cũng chỉ dần dần người ta mới có thể nhận rõ. Thoạt tiên ở họ người ta chỉ biết có những cử chỉ. Nhưng cử chỉ, diện mạo, ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết được sự thực của người ta? Cái vỏ ngoài ấy trái lại thường ẩn những nội dung khác hẳn. Sự chất phác ở sau cái cục mịch, sự tàn nhẫn ở sau cái dịu dàng, sự thủy chung ở sau cái ương ngạnh. Tác phong của nhân vật Kim Dung không diễn tả cái tâm hồn của họ. Nó giấu cái tâm hồn ấy đi và tâm hồn ấy lại xuất hiện như một cái gì rất sâu xa. Giông tố nào sau cái mặt nạ lạnh như tiền của Hoàng Dược Sư? Tham vọng nào trong con mắt lơ đãng của Mộ Dung Phục? Tuyệt vọng nào trong cơn say phá trời của Hoàng Dung? Nhân vật võ hiệp cổ điển ngược lại, cảm ra sao thì tình cảm ấy xuất hiện ra ngoài, nghĩa là được diễn tả một cách trực tiếp và minh bạch qua những cử chỉ ước lệ và cố định. Không ai có thể hiểu lầm một tiếng cười, một điệu khóc, một cơn giận dữ của họ. Nhưng cũng vì thế mà càng cố làm ra như thực, những tình cảm của họ lại càng có vẻ ngoại tại và giả tạo. Chợt bùng lên, chúng lại chợt tắt đi, và những nhân vật sau một lúc ồn ào, lại tiếp tục như không có gì xảy ra. Nhưng trong Kim Dung, những tình cảm đích thực thường ít nói. Khi biết rằng không còn cách nào để chữa cho Dư Đại Nham thì Trương Tam Phong chỉ yên lặng thở dài quay lại nhìn các môn đệ của mình và nói một câu chạm chạp: làm người ai chẳng chết một lần. Để rồi suốt đêm ngồi một mình suy nghĩ trên mấy câu thơ đang tàng trữ cái bí mật về tai nạn đã xảy ra cho đứa học trò yêu của mình và sáng tạo ra bộ Đồ Long Công. Nỗi buồn không được nói ra, nhưng nó đè nặng trên mỗi cử chỉ. Ấy là một nỗi buồn đã ngấm vào thân thể, một nỗi buồn để người ta nghiền ngẫm, một nỗi buồn đã hóa ra chất liệu của cuộc đời. Sự kín đáo của nhân vật cho nó một sự sâu xa mà không ngôn ngữ nào đạt tới. Hay là ngôn ngữ, trong một thế giới mà đối thoại duy nhất có thể có là của vũ lực, chỉ còn là một thứ xa hoa? Cho nên mới có một Hoàng Dược Sư mặc cho người đời nguyền rủa và nghi ngờ, vẫn thản nhiên tiếp tục con đường của mình mà không bao giờ tìm cách tự minh chứng. Hình như ông cho rằng ai cũng có lý do riêng để làm cái việc mình làm, và tất cả những cố gắng để thuyết phục cũng như giải thích đều thừa. Khi thật tức giận ông cũng chỉ "hừ" một tiếng ngắn ngủi. Nhưng càng ít nói thì những tình cảm càng nói nhiều. Và ở sau cái mặt nạ của Hoàng Dược Sư là một tâm hồn đầy bão tố. Người ta bước vào từ chương của những yên lặng đầy ý nghĩa, và cái gì Kim Dung mang vào truyện võ hiệp là một ngôn ngữ cho tâm hồn, khi tâm hồn của mỗi người là một tâm sự không thể nào chia sẻ. Và có lẽ cũng tại thế mà trong Kim Dung, người ta thích trá hình ?" theo nghĩa bóng và theo cả nghĩa đen của chữ ấy ?" như người ta chỉ thấy trong cái hàm hồ của những cử chỉ, một cơ hội cho sự lường đảo và cái nguồn của ngộ nhận.
    Thế sự du du nại lăo hà ​
    Vô cùng thiên địa nhập hàm ca ...​
  9. saint81

    saint81 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    412
    Đã được thích:
    0
    Mình Trương Thuý Sơn biết rằng chàng không có tội. Nhưng làm thế nào chàng có thể tự minh oan khi tất cả những sự kiện kiểm soát được đều lên án chàng là một kẻ sát nhân? Quả Hân Tố Tố có đả thương Dư Đại Nham. Theo qui củ trong giang hồ thế chẳng có gì là trái đạo. Huống chi nàng đã tìm mọi cách để cứu chữa thương thế cho chàng. Nhưng ngờ đâu sự ân cần ấy lại gây thêm tai vạ, và con người đã bị nàng biến thành một phế nhân ấy sẽ là bạn của chồng nàng. Chủ quan mà xét thì nàng không có tội. Nhưng sự thật của những chứng nhân đâu có giống sự thật của những tác nhân. Hơn ai hết, Kim Dung đã dùng cái mâu thuẫn ấy để xây dựng một tâm sự, sửa soạn một thảm kịch, dẫn đường cho một bất ngờ và không đợi những lý thuyết gia mới của tiểu thuyết khai thác trong truyện ông sự tương đối của những quan điểm. Khi nghe Hân Ly kể lại mối tình của nàng với Vô Kỵ thì có ai, kể cả Vô Kỵ, có thể nhận ra những gì đã xảy ra? Trong thực tế thì chỉ có một cuộc cãi lộn giữa hai đứa trẻ trong một chốc tình cờ gặp nhau. Nhưng trong trí nhớ của Hân Ly câu chuyện ấy biến thành một thiên tình sử đẫm nước mắt. Cũng một sự kiện ấy nhưng tùy nhân vật, người ta có thể có nhiều chuyện khác nhau, và ngược lại những chuyện tưởng là khác nhau sau cùng chỉ là những mặt khác nhau của một chuyện duy nhất. Cái khéo của Kim Dung là bao giờ cũng trình bày những biến cố từ quan điểm đặc biệt của một nhân vật. Người đọc nhìn bằng cái nhìn của nhân vật, không biết gì hơn nhân vật và lẽ dĩ nhiên sẽ tham dự vào cuộc phiêu lưu của nhân vật như nhân vật. Sự tham dự ấy cho truyện một sức hấp dẫn cảm gia tăng. Nhưng nếu có sự tham dự ấy thì không những tại chủ quan đã được trả lại cho nhân vật để người đọc có thể cùng nhân vật đồng hóa, nghĩa là có cùng một ý nghĩ, một tình cảm, một xúc động, mà ngược lại thì những xúc động, tình cảm, suy nghĩ của nhân vật cũng là những xúc động, tình cảm, suy nghĩ mà người đọc, nghĩa là bất cứ một người tầm thường nào cũng có thể có. Nhân vật võ hiệp của Kim Dung là những nhân vật đã được nhân loại hóa.
    Không những có một thân thể, họ còn có một tâm hồn. Hơn một tâm hồn, họ có một tâm sự. Những ý tưởng đại cương sụp đổ. Và giá trị của nhân vật giờ là ở cái phần độc đáo nhất của nó. Những khác biệt thi nhau đua nở và người ta ngạc nhiên trước cảnh đa sắc ấy của nhân loại. Sức sáng tạo tâm lý của Kim Dung, người ta sẽ công nhận là phi thường và có thể gọi ông là một thứ Shakespeare của truyện võ hiệp. Suốt mấy cuốn truyện, số nhân vật của ông không sao kể hết. Không nhân vật nào giống nhân vật nào. Ấy là những tổ hợp phức tạp, theo những tỷ lệ biến đổi giữa sự thông minh, sự ác độc, sự thùy mị, sự thanh cao, sự quật cường, sự kiêu ngạo, sự ngây ngô. Một cố gắng để phân loại những nhân vật của Kim Dung theo cá tính và những đam mê của họ có lẽ sẽ có ích trong việc tìm hiểu tư tưởng Kim Dung hơn là những lý luận dài dòng. Nhưng điều quan trọng giờ không phải là nội dung của sự khác biệt giữa những nhân vật, mà là chính sự khác biệt ấy, nghĩa là sự giá trị hóa những nhân vật như những cá nhân. Nhân vật Kim Dung có một trọng lực khác thường. Có nhân vật như Hà Túc Đạo chỉ xuất hiện một lần mà ấn tượng để lại tưởng không thể nào phai. Mà đặc biệt là đã xuất hiện thì mỗi nhân vật Kim Dung, dù nhỏ tới đâu, khi truyện kết thúc, người ta cũng biết là nó đã trở nên cái gì. Không những đã cho nó một tâm hồn, Kim Dung còn cho nó một tiểu sử. Và đôi khi tiểu sử ấy sẽ giải thích tâm hồn của nhân vật như những tai biến trong đời Tạ Tốn sẽ giúp người ta hiểu sự tàn bạo của ông. Sự khác biệt mà thoạt tiên Kim Dung xác định trong nhân vật của ông như một điều huyền bí sau cùng ông cho người ta thấy rằng nó không phải là không có nguyên do. Và đào sự khác biệt ấy sâu hơn một tí, cái gì người ta gặp cũng chỉ là một người như tất cả mọi người; không giống ai, nhưng, như bất cứ ai, một nửa do mình tạo ra, một nửa do cuộc đời làm thành, nói tóm lại, một cá nhân. Nhân vật cổ điển cũng có những đặc tính để người ta phân biệt họ lẫn nhau. Hơn thế nữa, những đặc tính ấy được phóng đại một cách quá đáng. Làm thế nào thì nó cũng chỉ có một tính cách ngoại tại. Trong căn bản, nhân vật vẫn chỉ là tương thân cho những ý tưởng. Nhưng nốt ruồi đỏ trên mép A Châu, khuôn mặt chữ điền của Vọ Kỵ, dáng đi cục mịch của Quách Tĩnh, những chi tiết kín đáo ấy, trái lại, không để tách nhân vật ra khỏi cái nhân loại thường ngày mà để mang họ lại gần người ta hơn. Ý nghĩa của chúng là câu chuyện giờ không xảy ra giữa những thiên thần và ác quỉ mà giữa người và người, không phải những nhân vật nhưng là những cá nhân ?" nghĩa là những người, giống bất cứ người nào người ta có thể gặp ngoài đường, chỉ có một trên đời và không ai có thể thay thế.
    Nhưng nhân vật Kim Dung như chỉ xác định sự khác biệt của họ để trở về cái vô danh của tất cả mọi người. Sự kín đáo ấy, trên bộ mặt, ngôn ngữ, cử chỉ, người ta lại thấy trong tên họ. Truyện võ hiệp cổ điển thường cho nhân vật những cái tên thật kêu, thoạt nghe tưởng họ đều là thần tiên, ma quái. Nhưng Quách Tĩnh, Dương Quá, Vô Kỵ, những tên ấy có gợi gì cho người ta hơn là nhân loại tầm thường? Có khi Kim Dung lại cố ý tìm cho nhân vật những cái tên thật xấu như Vô Phúc, Vô Lộc, Vô Thọ. Xét trên phương diện ấy thì truyện ông thực là những phản anh hùng và chúng mở đường cho sự đột nhập của cái nôm na vào cái trời tưởng của truyện võ hiệp cổ điển. Cái tên sang trọng nhất trong Kim Dung là Vương Ngọc Yến. Nhưng người ta nhớ rằng Đoàn Dự đã coi nó như khuyết điểm duy nhất trong con người thần tiên ấy, và chàng chỉ tiếc sao người ta không gọi nàng một cách mộc mạc là A Bích, A Tỷ, A Châu? Nói tóm lại, sau khi đã xác định sự khác biệt của cá nhân chống cái trừu tượng của những nhãn hiệu xã hội, Kim Dung, để chống cái lãng mạn của sự khác biệt, lại xác định sự khác biệt ấy như một sự tầm thường và tìm cách giá trị hóa cái tầm thường, cái nôm na, cái vô danh. Ấy là giai đoạn thứ hai trong cái biến trình quen thuộc của mọi thứ văn học trưởng giả.
    Nhân vật được nhân loại hóa, và, như người ta đã thấy, người đọc có thể tham dự vào truyện một cách dễ dàng hơn. Xưa mục đích của truyện là trình diễn một ý nghĩa đạo lý. Người ta kể truyện theo quan điểm của Chính nghĩa. Hay đúng hơn thì trong những truyện ấy chỉ có Chính nghĩa là có thực, chứ Tà đạo chỉ có như một đồ phụ thuộc, một thứ ký sinh, một bóng tối cốt làm nổi sự rực rỡ của Chính nghĩa. Nhưng khi Tà và Chính không còn minh định thì lẽ dĩ nhiên không có quan điểm nào được coi là ưu tiên. Quan điểm tốt nhất là quan điểm người đọc có thể đồng hóa với một cách dễ dàng nhất. Mà người đọc, nhất là người đọc truyện võ hiệp thường không có máu anh hùng. Cho nên người anh hùng Kim Dung cũng không còn gì của những thiên thần giáng thế để ra oai và tác phúc nữa mà là một người, như thường thấy, đầy thiện chí, lương thiện, và ngu đốt bị lôi vào những xung đột mà chàng không thể hiểu lý do. Làm thế nào một Dư Đại Nham có thể hiểu tại sao người ta có thể giết nhau vì một võ công kỳ thư? Người anh hùng của Kim Dung trước hết là một người xa lạ với võ lâm và những qui luật của nó. Xét những cách mở đầu của truyện ông thì người ta thấy ngay rằng phiêu lưu thường đến cho họ bất ngờ. Giữa một ngày đẹp trời, khi người ta nghĩ rằng cuộc đời đáng sống hơn bao giờ hết và người ta chỉ có việc tiếp tục cuộc sống đã thành nếp từ trước đến giờ, thì tất cả xảy ra. Tất cả xảy ra khi, dưới bầu trời mưa tuyết êm đềm, Dương và Quách hai nhà đang ngồi uống rượu, tính chuyện vợ đẻ và ước định tương lai của con; khi Quách Tường thơ thẩn ngao du bên bờ núi Thiếu Thất; khi trên núi Võ Đương người ta tưng bừng sửa soạn như thường lệ sinh nhật của Trương Tam Phong. Truyện võ hiệp cổ điển thường bắt đầu, khi trong cái lâm ly của đêm khuya, cảnh vắng, gió khóc từng cơn; khi giữa cái ồn ào của những đô thị là chỗ những anh hùng tứ chiếng đến tìm nhau kiếm chuyện, nhưng bao giờ cũng là trong không khí và môi trường của phiêu lưu. Phiêu lưu trong Kim Dung xuất hiện như một điểm bất tường giữa cái trưởng giả của cuộc sống thanh bình và có ngăn nắp. Võ Đương Thất Hiệp là những người cuối cùng còn muốn tiếp tục truyền thống của người anh hùng thế thiên hành đạo. Nhưng ở một thời Thiên đạo đã suy, can thiệp vào những xung đột của giang hồ chỉ mang lại cho họ phiền lụy, tai họa và những thù oán không đâu. Có khi họ không tìm đến người ta mà người ta cũng đến họ gây sự. Mới đặt chân đến Trung Nguyên thì vợ chồng Trương Thúy Sơn đã bị võ lâm đuổi theo chận đường, tróc nã. Vô Kỵ có làm gì ai đâu mà ai cũng muốn hại? Nếu ở lại Băng Hỏa Đảo thì đâu xảy ra chuyện gia đình tan nát, để kẻ bị bức tử và người thì lưu vong! Cho nên người anh hùng Kim Dung sẽ đầy nghi kỵ với những chuyện của võ lâm mà đôi khi còn coi võ học như độc vật. Một Đoàn Dự bỏ nhà đi để khỏi phải học võ. Nhưng sự mai mỉa là chính con người ngoài cuộc ấy giờ người ta muốn lôi vào cuộc; chính con người phản anh hùng ấy người ta muốn bắt làm anh hùng; chính con người vô tội ấy người ta bắt phải trình những minh chứng về sự vô tội của mình. Ôi! Cuộc đời sao mà đẹp trên Băng Hỏa Đảo với một con vượn lông đỏ! Nhưng không bao giờ, không bao giờ Kiều Phong sẽ được trở về Nhạn Môn Quan cùng A Châu chăn cừu.
    Thế sự du du nại lăo hà ​
    Vô cùng thiên địa nhập hàm ca ...​
  10. saint81

    saint81 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    412
    Đã được thích:
    0

    Ghi chú:
    Đọc "chuyện Tầu", chúng ta nhận thấy, vua Càn Long thường xuất hiện, không phải là người Mãn Thanh, mà Trung Hoa, và là con một vị thượng thư trong triều. Không phải ông này mèo chuột gì với hoàng hậu ngoại nhân, mà bị tráo con, giống như trong tuồng Ly Miêu Hoán Chúa, Bao Công tra án Quách Hòe. Vẫn theo truyền thuyết, khi thấy cậu tí nhau của mình, sau khi theo mẹ vào cung thăm hoàng hậu trở về, bỗng biến thành một cô tí nhau, vị thượng thư bắt cả nhà câm như hến, rồi kiếm cách từ quan.
    Để giải thích "hội chứng" Càn Long là người Tầu, người ta cho rằng, những ông "con trời" ở Trung nguyên, bị "rợ" Mãn Thanh đô hộ ròng rã mười ba đời (Thanh Cung mười ba triều) đã bịa đặt ra như vậy, cho đỡ đau. (Liệu có thể gọi, hội chứng Rambo?).
    Kim Dung cũng đã viện tới hội chứng trên, khi cho Trần Gia Cách, thủ lãnh Hội Hồng Hoa, và vua nhà Thanh, là hai anh em ruột; nhưng "tiến bộ" hơn, ông "tưởng tượng", rằng, cả hai đã đồng ý, phản Thanh phục Minh chỉ làm tốn xương máu, và nếu một ông vua Mãn Thanh gốc Tầu mà làm được những điều tốt lành cho cả hai dân tộc, thì còn gì đáng quí cho bằng, và ông cho anh em Hội Hồng Hoa rút về xứ Hồi Cương, vui thú điền viên, lo "chăn cừu", nhường Trung Nguyên cho Mãn Thanh.
    Đấy là nói về mặt "chính trị phải đạo".
    Về mặt văn chương, tuyệt vời nhất, với riêng tôi, là đoạn, do hai người giống hệt nhau, nên Hồ Phỉ đã nhờ thủ lãnh Hồng Hoa Hội đóng vai kẻ bạc tình Phúc An Khang (trong Lãnh Nguyệt Bảo Đao tiếp theo Hồng Hoa Hội), để an ủi một người đàn bà si tình và bị bạc tình đang hấp hối...
    Nhưng phải đợi đến khi Kiều Phong xuất hiện, người ta mới nhận ra tính sáng tạo nhân vật và cùng với nó là "tuyệt bi" của chưởng Kim Dung. Tuyệt bi theo nghĩa của triết gia người Pháp Gaston Bachelard, và của Wolf, nữ văn sĩ người Đức (thuộc Đông Đức cũ), qua những dòng trích dẫn ở trên:
    Bởi vì máu là chẳng bao giờ hạnh phúc.
    Còn kẻ thắng là thế gian còn mịt mùng.

    Người hùng độc nhất có thể có được, là một phản-anh hùng.
    Chúng ta chẳng có một cơ may nào, ở cái thời cần người hùng.
    ***
    Người hùng Kiều Phong là một sáng tạo tuyệt vời, "đỉnh cao trí tuệ" của Kim Dung, theo nghĩa: đây là người hùng mang tính chủng tộc thay thế người hùng mang tính giai cấp, tức những A Q, Chí Phèo. Theo nghĩa đó, W. Faulkner, qua một bài điểm sách trên tờ Người Kinh Tế, được coi là nhà văn "hậu hiện đại", trước khi có thuật ngữ này.
    Lẽ dĩ nhiên, chuyện dòng dõi, huyết thống đã bắt đầu từ khi có loài người, và không phải cứ cùng một huyết thống là "người ta" thương yêu nhau, là chúng ông thương chúng mày... theo kiểu suy nghĩ: một giọt máu đào hơn ao nước lã. Hoặc Miền Nam ở trong trái tim của tôi. Nhưng phải đợi đến sự bùng nổ cơn thèm khát của cải (thí dụ ngà voi, nô lệ...), thị trường, và tiếp đó là chủ nghĩa thực dân, nó mới thực sự trở nên nhức nhối, nhất là khi được "văn chương" nhòm ngó tới, qua những tác phẩm thí dụ như Trái Tim Của Bóng Đen, của Joseph Conrad. [Nhân tiện, đề nghị một đề tài tiểu thuyết ở đây: Trái Tim của Bóng Đen, viết về một anh chàng Bắc Kỳ theo chân đoàn quân viễn chinh vượt Trường Sơn, tới trái tim của bóng đen: Sài Gòn: đỉnh cao của sa đọa... cuối cùng khám phá ra Hà Nội. Đừng tưởng đùa, bởi vì đã có tới hai tiểu thuyết gia ở hải ngoại sử dụng "ẩn dụ" này rồi, một coi cuộc Nam Tiến của Miền Bắc tương tự như những cuộc xâm lăng Việt Nam của Trung Hoa, một coi đây là do cái ác muôn đời của người dân một miền đất, và muốn cải tạo, tổ quốc phải ăn năn...]
    Nhà văn Nam Phi Coetzee, trong bài viết (Máu, Hôi, Hư, Rữa: Những cuốn tiểu thuyết của) Blood, Taint, Flaw, Degeneration: The Novels of Sarah Gertrude Millin (trong White Writing), đã coi "máu" (blood) là từ-chìa khóa trong những tiểu thuyết đề cập tới xã hội Nam Phi của nhà văn nữ Nam Phi viết văn bằng tiếng Anh này. Máu phân biệt dân Phi châu với dân Âu Châu, Englishman khác Afrikaner, Hottentot khác Xhosa, Gentile khác Jew. Nói tới máu là nói tới sắc dân. Nhưng ?~máu" ở trong những tác phẩm của Millin không giản dị chỉ là một hình dung từ để chỉ sắc dân, mà đây là một "thực thể", một dòng nước nhờn đỏ, có thể dầy hoặc mỏng, nóng hoặc lạnh, sạch hoặc dơ, chảy từ đàn ông qua đàn bà, từ bà mẹ qua đứa con... Một thi học về máu hơn là một chính trị học về sắc dân, đã khêu dậy trí tưởng tượng của bà.
    Trong một dịp khác, người viết sẽ trở lại với nhà văn Nam Phi này, bởi vì, như Coetzee nhận định, tuy hiện nay gần như bị bỏ qua, bởi vì cách chữa trị căn bệnh sắc dân của bà có vẻ lỗi thời, và còn gây phẫn nộ, nhưng chính sự quan tâm của bà khi xoáy vào vấn đề sắc dân ít ra cũng cho thấy, đây là một đáp ứng cho những vấn đề mang tính hình thức mà một nhà văn thuộc địa như bà đã gặp phải, khi đụng tới tiểu thuyết: một bi kịch về máu (a tragedy of blood, Coetzee viết), lay động con người trước bi kịch, đặc biệt là khêu dậy những xúc cảm ngỡ ngàng, kinh sợ, mang tính tôn giáo, trước huyền bí.
    Đề tài đề nghị: Cuộc chiến Việt Nam: Bi kịch về máu.
    ***
    (Đoạn viết sau đây, "Mơ Trung Hoa", viết về phim võ hiệp "Ngọa Hổ Tàng Long" và nhân đó, bàn thêm về nghệ thuật Kim Dung.)
    Phim võ hiệp Ngọa Hổ Tàng Long đề nghị 10 Oscars, được 4, qua tin tức báo chí. Theo Joan Acocella, tác giả bài viết trên báo Nguời Nữu Ước số tháng Ba 26, 2001, nếu có thêm một giải thưởng đạo diễn chuyển động (mouvement direction), thì phải là 11, bởi vì những màn đánh kiếm trong phim thật tuyệt vời và là cốt lõi của phim và Yuen Wo Ping là người sáng tạo ra "cuộc khiêu vũ của cái đẹp trong lúc chuyển động" này.
    Ông người Hongkong, thuộc một gia đình chuyên về phim võ hiệp. Bốn người con trai theo nghề của bố (một, là đạo diễn những màn đấm đá trong cuốn phim mới "Những thiên thần của Charlie"). Yuen khởi nghiệp bằng vai đóng thế tài tử chính ở những màn nguy hiểm, trong phim của bố.
    Ông luôn luôn đóng vai kẻ [phải] chết. Ông nói với tờ Guardian (London): "Về chuyện té xuống chết, tôi là số một."
    Năm nay 55 tuổi, đạo diễn những màn đấm đá trong khi bay nhẩy (fight choregrapher) trên 50 phim. Ông đã biến Jackie Chan thành một tay quyền cước tiếu lâm, để đối lại với một Lý Tiểu Long lúc nào cũng đăm chiêu. Hai năm trước đây, làm choregrapher cho phim The Matrix, ông đưa xảo thuật dây (wirework) vào trong phim này. Những diễn viên có thể bay nhẩy nhào lộn trên không, nhờ buộc vào những sợi dây (khi in phim, họ xóa những sợi dây đi).
    Đây là một xảo thuật mà người viếti, khi còn là con nít đã từng say mê những nhân vật như Phàn Lê Huê đằng vân giá vũ, di sơn đảo hải? trong các tuồng Tầu, hoặc cải lương hồ quảng?
    Nhưng cho dù xóa những sợi dây, thì hiệu quả của chúng vẫn còn. Khán giả tinh ý vẫn có thể nhận ra: khi diễn viên đột nhiên bị giật lên cao, theo nguyên lý quán tính, cơ thể của họ cưỡng lại; cũng vậy, khi họ đặt chân xuống đất. Theo tác giả bài viết trên Người Nữu Ước, xảo thuật dây đối nghịch với nghệ thuật khiêu vũ: một nghệ thuật của sự dung hoà (negociation) với sức hút của trái đất tạo nên sức nặng của cơ thể, trong khi với xảo thuật, chỉ cần xóa bỏ hình ảnh những sợi dây. Trong môn vũ ba lê, cú nhẩy của diễn viên làm cho khán giả ngỡ ngàng, lý do là diễn viên nhẩy lên cứ như không, như thể không phải vận dụng một sức lực nào hết, giống như thường nhân chúng ta thảnh thơi dạo chơi trên mặt đất; trong khi bất cứ một chuyển động nhẩy vọt nào, đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi nguyên lý quán tính. Nói nôm na, trái đất trì kéo người diễn viên, trong khi người đó phải giải tỏa sức trì kéo này, mà vẫn bay nhẩy một cách thật tự nhiên.
    Người Trung Hoa chia ra nhiều thứ tình. Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung gần như bao gồm đủ loại tình "truyền thống" đó: tình si, tình hận, tình hiệp? Ngọa Hổ Tàng Long, một phim võ hiệp, chắc chắn rồi, nhưng chắc chắc hơn nữa, đây là một phim tình hiệp. Cái màn "long tranh hổ đấu" giữa vị sư muội của đại hiệp Mu Bai là Shu Lien với Jen, nữ đệ tử của Hồ Ly, theo thiển ý của người viết, là do ghen tuông mà ra. Và sở dĩ, tới phút hấp hối vị đại hiệp mới tỏ tình với sư muội, là cũng do hối hận, vì đã để lòng mình ngả nghiêng, trước "tài sắc vẹn toàn" của Jen, qua những màn đấu "giao hữu" trên những ngọn cây xanh, giữa ông và người nữ đệ tử xinh đẹp của Hồ Ly (nên nhớ, cuộc tình giữa hai người đã không thể thực hiện, vì người yêu trước của Shu Liên là bạn của Mu Bai).
    Như đạo diễn Ang Lee của Ngọa Hổ Tàng Long nói, "điều tôi muốn, là một giấc mơ về Trung Hoa", và ông đã đạt được. Nhưng nếu Ngọa Hổ Tàng Long là giấc mơ Trung Hoa, thì màn "khiêu vũ bằng võ nghệ" những ngọn tre, chính là giấc mơ của võ hiệp (kung-fu): Mu Bai, vị đại hiệp, trong lòng thì như dông như bão, nhưng dáng đứng trên ngọn tre lại "trầm mặc" như dáng đứng của một ông Phật; còn Jen, nữ đệ tử của Hồ Ly, bay lui về phía sau, trong cái dáng tần ngần ngơ ngẩn thật ướt át (erotic trance).
    Joan Acocella, tác giả bài viết "(Dancing): Jump, Fly, and Wail", trên tờ Người Nữu Ước, xem phim, nhận ra chất Đạo (Tao) ở trong đó. Nhưng với độc giả say mê Kim Dung, họ nhận ra điều này liền, vì đây đúng là màn đấu giữa hai đệ tử của môn phái Tiêu Dao.
    Joan Acocella cho rằng trong những phim Hongkong, nam hoặc nữ đều "nghiêm túc" như nhau, khi nói tới "kiếm đạo". Theo Kim Dung, kiếm đứng đầu trong mọi thứ võ khí (độc giả Kim Dung chắc khó có thể quên, lần đầu tiên Viên Thừa Chí được quỳ trước bức tượng vị ***** của môn phái, và sau đó, chứng kiến sư phụ Bát Thủ Tiên Vượn Mục Nhân Thanh, dùng hỗn nguyên công phóng kiếm vào thân cây ngập tới tận chuôi, trên đỉnh Hoa Sơn, trong Bích Huyết Kiếm. Trong Ngọa Hổ Tàng Long, khi Jen hỏi nhan sắc sầu muộn Shu Lien, 'Chị cũng là một kiếm sĩ", nàng trả lời, "Đúng vậy, nhưng tôi thích đao hơn kiếm"; người xem phim tự hỏi tại sao, và sẽ thấy câu trả lời sau đó: vì kiếm cũng như trái tim vị đại hiệp đã thuộc về cô em rồi!
    Nói rõ hơn, Jen khi đánh cắp thanh kiếm là đã đánh cắp luôn trái tim người cầm kiếm!
    Mu Bai trao tặng thanh kiếm, là để làm mồi nhử Hồ Ly, nhưng Hồ Ly không mắc bẫy, đệ tử của bà đánh cắp thanh kiếm chỉ vì "nghịch tinh"; theo tôi, điều này cho thấy, bố cục của phim Ngọa Hổ Tàng Long rất lỏng lẻo. Ang Lee chưa học được Kim Dung ở những tình tiết lắt léo, tính nghẹt thở, và kỹ thuật "rắn nằm trong cỏ" của Đông Phương. Tôi lấy thí dụ: Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, khi Nhạc Linh San giả làm cô gái bán rượu, và là nguyên nhân khiến Lâm Bình Chi giết người, gây họa cho toàn gia đình? phải mãi sau đó, chúng ta mới hiểu được, từ chính miệng Lâm Bình Chi, khi biết rõ bộ mặt thật của quân tử kiếm Nhạc Bất Quần: tất cả là do Tịch Tà Kiếm Phổ mà ra. Cái chết của Nhạc Linh San, ở tay người chồng hờ, mang tính tình nghiệt, c ủa Đông Phương. Do đó, trước khi chết Nhạc Linh San năn nỉ Lệnh Hồ Xung chiếu cố tới Lâm Bình Chi, và tiễn nàng ra đi, là âm thanh của những bài hát của những cô gái hái chè vùng Phúc Kiến, quê hương nhà chồng trong trí tưởng của nàng.
    Joan Acocella cũng bị quyến rũ bởi tiếng nhạc trong phim Ngọa Hổ Tàng Long. Nó làm ông nhớ tới những phim âm nhạc tuyệt vời của Tây phương thập niên 1930. Vẫn theo tác giả, phim âm nhạc tuyệt vời sau cùng của Tây phương là "West Side Story", làm năm 1961. Nhưng những độc giả của Kim Dung chắc chắc một điều, Ngọa Hổ Tàng Long chưa đạt tới tinh thần của bản đàn do hai cao thủ chính tà hợp soạn, ở trong Tiếu Ngạo Giang Hồ. Ang Lee, nhà đạo diễn phim Ngọa Hổ Tàng Long, làm sao không đọc Kim Dung, và làm sao quên được cái cảnh tượng Phí Bân truy đuổi tận sát hai cao thủ chính tà là Lưu Chính Phong và Khúc Dương trưởng lão, đồng tác giả bản Tiếu Ngạo Giang Hồ, và rồi chết dưới lưỡi kiếm của Tiêu Tương Dạ Vũ. Kiếm từ hồ cầm theo tiếng đàn bật ra, kiếm tới đâu, tiếng đàn theo tới đó, khi kiếm trở lại với đàn, cũng là lúc Phí Bân biết mình trúng tử thương, nhẩy lên cao, dồn hết nội lực theo tia máu vọt ra theo vết kiếm, trông thật ghê rợn, kỳ bí! Joan Acocella đã cảm nhận được điều này, qua tiếng trống ở trong phim Ngọa Hổ Tàng Long (Drums sound, adding to the mystery).
    Tác giả cũng chú ý tới mầu tre xanh: một mầu xanh bạn chẳng thể nào tưởng tượng ra nổi, mềm như nhung, dầy như nêm; trong cõi siêu thực như thế đó nổi lên hai cánh chim trắng là Jen và Mu Bai?
    Đao hơn kiếm hay kiếm hơn đao? Đây cũng là một bài toán hắc búa, theo tôi, một "đệ tử" của Kim Dung. Trong Lãnh Nguyệt Bảo Đao, thì đao lại đứng đầu, với Hồ Gia Đao Pháp. Đây là một tuyệt tác của Kim Dung, nhưng là một tuyệt tác "hỏng", theo nghĩa còn nhiều sơ hở, cho nên nó là một tuyệt tác. Chính tác giả cũng đã nhận ra những sơ hở này, và đã tìm cách viết lại tác phẩm (lần đầu xuất hiện với cái tên Thần Đao Hồ Đại Đởm). Kim Dung là bậc thầy, trong quan niệm "cái đẹp thì tuyệt hảo, do bất toàn". Lục Mạch Thần Kiếm: tuyệt hảo, nhưng lúc sử dụng được, lúc không. Dịch Cân Kinh: tuyệt hảo, nhưng "cố tình học" là không được, nếu chối đây đẩy, nó lại bám chặt lấy bạn, gỡ không ra! Bẩy mươi hai tuyệt kỹ Thiếu Lâm, chỉ Đạt Ma ***** là kiêm đủ?
    Nhìn theo quan niệm trên, Ngọa Hổ Tàng Long đúng là một giấc mơ Trung Hoa đã trở thành hiện thực.
    ***
    Xử thế nhược đại mộng ​
    Hồ vi lao kỳ sinh ?​

Chia sẻ trang này