1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Độc Hành Vạn Dặm: Xứ Huế - Đà Nẵng

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi xadieu_2000, 24/12/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    Thế Miếu và Hưng Miếu:
    1. Thế Miếu:
    " Thế Tổ Miếu (thường gọi là Thế Miếu) là miếu thờ chung các vị vua triều Nguyễn. Miếu tọa lạc ở góc tây nam bên trong Hoàng thành. Nguyên ở nơi này trước kia là tòa Hoàng Khảo Miếu, miếu thờ ông Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long. Năm Minh Mạng 2 (1821), Hoàng Khảo Miếu được dời lùi về phía bắc khoảng 50m để dành vị trí xây tòa Thế Tổ Miếu thờ vua Gia Long và Hoàng hậu. Miếu được xây dựng trong 2 năm (1821-1822), ban đầu chỉ dành để thờ Thế Tổ Cao Hoàng Đế (vì thế mới có tên gọi Thế Tổ Miếu) nhưng về sau trở thành nơi thờ tất cả các vị vua của triều Nguyễn.
    Khuôn viên của Thế Tổ Miếu hình chữ nhật, diện tích khoảng trên 2ha, chiếm đến 1/18 diện tích toàn bộ các khu vực bên trong Hoàng thành và Tử Cấm thành. Bên trong khuôn viên này, bên cạnh tòa Thế Tổ Miếu là công trình chính còn có thêm các công trình khác như Thổ Công Từ, Cửu Đỉnh, Hiển Lâm Các, Canh Y điện, Tả Vu, Hữu Vu. Tòa Thế Tổ Miếu là một công trình kiến trúc gỗ rất lớn theo lối ?otrùng thiềm điệp ốc? đặt trên nền cao gần 1m. Bình diện mặt nền hình chữ nhật (54,60m x 27,70m), diện tích đến 1500m2. Nhà chính 9 gian 2 chái kép, nhà trước 11 gian 2 chái đơn, nối liền nhau bằng vì vỏ cua được chạm trổ rất tinh tế. Phần ngói vốn được lợp ngói ống lưu li vàng (nay thay bằng ngói âm - dương) với đỉnh nóc gắn liền thái cực bằng pháp lam rực rỡ.

    Các Án thờ vua Nguyễn - nội thất
    Thế Miếu
    Bên trong miếu, ngoài án thờ vua Gia Long và 2 Hoàng hậu đặt ở gian giữa, các án thờ của những vị vua còn lại đều theo nguyên tắc ?otả chiêu, hữu mục? để sắp đặt. Tuy nhiên, theo gia pháp của họ Nguyễn, các vị vua bị coi là ?oxuất đế? và ?ophế đế? đều không được thờ trong tòa miếu này, vì thế, trước năm 1958, bên trong Thế Tổ Miếu chỉ có 7 án thờ của các vị vua dưới đây:

    1. Án thờ Thế Tổ Cao Hoàng Đế (vua Gia Long) và 2 Hoàng hậu Thừa Thiên, Thuận Thiên ở gian chính giữa.
    2. Án thờ Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế (vua Minh Mạng) và Hoàng hậu ở gian tả nhất (gian thứ nhất bên trái, tính từ gian giữa).
    3. Án thờ Hiến Tổ Chương Hoàng Đế (vua Thiệu Trị) và Hoàng hậu ở gian hữu nhất (gian thứ nhất bên phải, tính từ gian giữa).
    4. Án thờ Dực Tông Anh Hoàng Đế (vua Tự Đức) và Hoàng hậu ở gian tả nhị ( gian thứ hai bên trái).
    5. Án thờ Giản Tông Nghị Hoàng Đế (vua Kiến Phúc) ở gian hữu nhị (gian thứ hai bên phải).
    6. Án thờ Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế (vua Đồng Khánh) và Hoàng hậu ở gian tả tam (gian thứ ba bên trái).
    7. Án thờ Hoằng Tông Tuyên Hoàng Đế (vua Khải Định) và Hoàng hậu ở gian hữu tam (gian thứ ba bên phải).
    Đến tháng 10 năm 1958, án thờ 3 vị vua yêu nước vốn bị liệt vào hàng xuất đế là Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân đã được hội đồng Nguyễn Phúc Tộc rước vào thờ ở Thế Tổ Miếu. Hiện nay án thờ vua Hàm Nghi được đặt ở gian tả tứ (gian thứ tư bên trái). Án thờ vua Thành Thái đặt ở gian tả ngũ (gian thứ năm bên trái), còn án thờ vua Duy Tân đặt ở gian hữu tứ (gian thứ tư bên phải). Còn các án thờ vua Dục Đức, Hiệp Hòa và Bảo Đại đến nay vẫn chưa có mặt trong Thế Tổ Miếu. "
    2. Hưng Miếu:
    " Hưng Miếu (tức Hưng Tổ Miếu) thờ ông Nguyễn Phúc Côn (trước gọi nhầm là Luân), thân sinh vua Gia Long. Sinh thời ông không ở ngôi chúa nhưng sau vẫn được truy tôn miếu hiệu là Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế. Miếu được dựng từ năm Gia Long 3 (1804) ở góc tây nam trong Hoàng thành, trên vị trí Thế Miếu hiện nay với tên gọi là Hoàng Khảo Miếu. Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), Hoàng Khảo Miếu được dời lùi về phía bắc chừng 50m để lấy chỗ dựng Thế Miếu và đổi tên thành Hưng Tổ Miếu. Hưng Miếu nằm chung cùng khuôn viên với Thế Miếu nhưng có bờ tường gạch ngăn cách.
    Miếu chính nằm ở vị trí trung tâm là một tòa nhà kép, chính đường 3 gian 2 chái kép, tiền đường 5 gian 2 chái đơn. Bên trong đặt thần khám thờ bài vị của Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng đế và Hoàng hậu. Hai bên miếu chính có tường ngắn ngăn cách, ở giữa tường trổ 2 cửa: Dục Khánh (bên đông), Chương Khánh (bên tây), phía trước là cửa miếu. Đi qua cửa Dục Khánh là Thần Khố (nhà kho), qua cửa Chương Khánh có nhà Thần Trù (nhà bếp). Từ khu vực Thần Khố, Thần Trù đều có cửa thông ra ngoài và qua khu Thế Miếu.

    Một gian nội thất Hưng Miếu
    Lễ tế ở Hưng Miếu tổ chức mỗi năm 5 lần tựa như ở Thái Miếu, Thế Miếu. Đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, tháng 02-1947, Hưng Miếu bị đốt cháy hoàn toàn. Năm 1951, bà Đoan Huy Hoàng Thái Hậu (mẹ vua Bảo Đại) đã mua một phủ thờ từ Kim Long đưa về dựng lại ở nền cũ tòa miếu chính. Năm 1995 tòa nhà này lại được tu bổ thêm một lần nữa. Trong lần tu bổ này, miếu được sơn son thếp vàng. "
  2. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    Thế Miếu và Hưng Miếu
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
  3. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    Tiếp
    [​IMG]
    [​IMG]
  4. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    Tiếp
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
  5. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    Tiếp
    [​IMG]
    [​IMG]
  6. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    Tiếp
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
  7. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    Mình thấy một số bạn muốn đi Huế dịp 30/4 này lên đẩy Topic này lên để mọi người tham khảo và xem qua ảnh, lịch trình cho đỡ loạn xạ và sì pam.
  8. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1

    Tiếp: ĐẠI NỘI gồm: Hoàng Thành và Tử Cấm Thánh
    Cửu Đỉnh:
    Cửu Đỉnh là một công trình nghệ thuật bằng đồng có giá trị nhất tại Huế nói riêng, và Việt Nam nói chung. Tất cả đều được đúc ở Huế vào cuối năm 1835, hoàn thành vào đầu năm 1837, dùng làm biểu tượng cho sự giàu đẹp, thống nhất của đất nước và ước mơ triều đại mãi vững bền. Mỗi đỉnh có khắc một tên riêng bằng chữ Hán, tên được lấy từ miếu hiệu (tên để thờ cúng) của một vị vua nhà Nguyễn. Và cái đỉnh đó được xem là biểu tượng của vị vua đó.
    - Cao Đỉnh: vua Gia Long
    - Nhân Đỉnh: vua Minh Mạng
    - Chương Đỉnh: vua Thiệu Trị
    - Anh Đỉnh: vua Tự Đức
    - Nghị Đỉnh: vua Kiến Phúc
    - Thuần Đỉnh: vua Đồng Khánh
    - Tuyên Đỉnh: vua Khải Định
    Dũ Đỉnh và Huyền Đỉnh chưa tượng trưng cho ông vua nào cả, mặc dù ngoài các vị vua nói trên, triều Nguyễn còn 6 vị vua khác: Dục Đức, Hiệp Hòa, Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, Bảo Đại.

    Họa tiết cây Lúa trên Cao Đỉnh

    Kích thước và trọng lượng các đỉnh không giống nhau. Cao Đỉnh cao 2,5m, nặng 2601kg - là đỉnh cao và nặng nhất. Huyền Đỉnh cao 2,31m, nặng 1935kg - là đỉnh thấp và nhẹ nhất. Quanh hông mỗi đỉnh đều chạm trổ 17 cảnh vật. Như vậy có tới 153 cảnh vật được chạm nổi trên Cửu Đỉnh. Đó là các hình ảnh: núi, sông, trăng, sao, cây cối, hoa, súc vật, vũ khí, xe, thuyền v.v... Có thể xem 153 bức chạm khắc ấy là 153 bức tranh. Ta sẽ thấy sông Hồng trên Tuyên Đỉnh, sông Cửu Long trên Huyền Đỉnh, sông Hương trên Nhân Đỉnh
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
  9. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    Tiếp
    Kết thúc buổi chiều buổi đi chơi Đại Nội gồm: Hoàng Thành( Ngọ môn, Điện Thái Hòa và Sân Đại Triều Nghi, Triệu Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, Thái Miếu, Cung Diên Thọ, Cung Trường Sanh, Hiển Lâm Các, Cửu Đỉnh) và Tử Cấm Thành( Tả Vu và Hữu Vu, Vạc Đồng, Điện Kiến Trung, Điện Cần Chánh, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường).
    Buổi tối đi một số điểm Kinh Thành Huế: Kỳ Đài, Đình Phú Xuân, Viện Cơ Mật - Tam Tòa, Đàn Xã Tắc. Ra Hồ Tịnh Tâm nhậu nhọet. Cạnh Hồ Tịnh Tâm có quán ăn thuộc loại to nhất ở đó, ở tít trong góc đường nhưng không gian View đẹp, giá cả cũng được. Có món gà tương đối ngon:
    Gà ở Hồ Tịnh Tâm:
    [​IMG]
    Nhậu nhoẹt say sưa xong. Ra quán VŨ DI TRÀ uống trà cung đình( nhắc nhở mọi người không nên đi quán này, vừa đắt mà vắng như Chùa Bà đanh. Lúc bọn tôi đến đã thấy nghi nghi chẳng có ma nào uống, chán òm. 25k/ người + đồ ăn. 3 thằng uống gần 100. Theo tôi thà uống ở Hy Lạc Trà hay Dã Chi Trà ở HN ngon gấp tỷ)
    [​IMG]

    Kết thúc 1 ngày RONG CHƠI xứ Huế
  10. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1

    Ngày thứ 2 ở Huế: đi những nơi Ngoài Kinh Thành

    ĐÀN NAM GIAO
    Đàn Nam Giao là nơi các vua Nguyễn tế trời, được đặt tại làng An Ninh vào năm 1803, thời vua Gia Long. Năm 1806, đàn được dời về phía Nam của Kinh Thành - nay là địa phận phường Trường An, thành phố Huế. Đây là đàn tế trời duy nhất ở Việt Nam còn khá nguyên vẹn, với rừng thông xanh bao bọc quanh đàn. Trước đây, đích thân vua cùng các quan trong triều phải trồng và chăm sóc những cây thông này. Đối với họ, đây là chốn thiêng liêng bậc nhất cần phải gìn giữ. Ngày nay, số thông cũ tuy không còn nhưng một loạt các cây khác đã được tiếp tục trồng thay thế. Đàn gồm 3 tầng, xây chồng lên nhau, tượng trung cho ?otam tài?o: thiên, địa, nhân.
    Tầng trên cùng hình tròn - Viên Đàn - tượng trưng cho trời, xung quanh có lan can quét vôi màu xanh. Trên nền Viên Đàn có lát những phiến đá Thanh được khoét lỗ tròn. Đến kỳ tế lễ, những lỗ này được dùng để cắm cột dựng lều vải màu xanh hình nón, gọi là Thanh Ốc.
    Tầng tiếp theo hình vuông - Phương Đàn - tượng trưng cho đất, lan can quét vôi màu vàng. Khi tế, người ta dựng lều vải màu vàng, gọi là Hoàng Ốc.
    Tầng dưới cùng cũng có hình vuông, lan can quét vôi màu đỏ, tượng trung cho con người. Cả ba tầng đều có trổ cửa và bậc cấp ở 4 mặt Đông, Tây, Nam, Bắc.
    Xung quanh ba tầng đàn này còn có các công trình như Trai Cung (dành cho vua vào nghỉ ngơi trai giới trước khi tế vài ngày), Thần Trù (nhà bếp, nơi chuẩn bị các con vật cúng tế), Thần Khố (kho chứa đồ dùng cho cuộc tế) và một số công trình phụ khác.
    Theo quan niệm ?oVua là Thiên tử?o (con trời) nên chỉ có vua mới được quyền cúng tế trời đất (cha mẹ của vua), cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, tạ ơn trời đất. Lễ Tế Giao đầu tiên dưới thời Nguyễn được tổ chức năm 1807 và từ đó trở đi được tổ chức vào mùa xuân hàng năm cho đến thời Thành Thái, vào năm 1907, thì đổi lại 3 năm một lần.
    Công việc chuẩn bị được giao cho bộ Công và bộ Lễ, tiến hành hàng tháng trước khi tế, liên quan đến nhiều nghi lễ phức tạp, vật dụng tốn kém. Các quan và bản thân nhà vua cũng phải trai giới 3 ngày trước khi tế. Dưới thời Bảo Đại, thời gian trai giới rút xuống còn 1 ngày.

    Người ta gọi những con vật được đem ra cúng trong dịp này là các con sinh (hay còn gọi con sanh). Đó là trâu, heo, dê. Hàng chục con được tập trung vỗ béo từ trước bằng những thức ăn tinh sạch. Khâm Thiên Giám có nhiệm vụ xem ngày lành tháng tốt. Vua đích thân ban hành những chiếu dụ thông báo cho dân chúng, tri ân cho các quan và cho phép giảm án tù.
    Dọc đường từ Đại Nội đến Giao Đàn, nhân dân phải kết cổng chào, lập hương án đón đám rước nhà vua đi qua. Đoàn Ngự đạo của nhà vua sẽ đi ra từ Ngọ Môn, vượt sông Hương qua cầu phao bằng thuyền (khi chưa có cầu Trường Tiền), đến Nam Giao bằng con đường mà trước đây gọi là ?oNam Giao cựu lộ?o là đường Phan Bội Châu và ?oNam Giao tân lộ? tức là đường Điện Biên Phủ ngày nay.
    Cuộc lễ chính thức bắt đầu lúc 2 giờ sáng, với nhiều nghi lễ lần lượt tiến hành ở các tầng đàn, có sự tham gia của các quan cũng như sự góp mặt của dàn nhạc (chuông, trống, chiêng, khánh, tù và, nhị, sáo...). 128 văn công và vũ công múa Bát Dật, các ca công hát 9 khúc nhạc tế trong 9 giai đoạn khác nhau của cuộc lễ. Sau gần 3 tiếng đồng hồ, buổi tế mới kết thúc.
    Lễ Tế Giao cuối cùng của nền quân chủ Việt Nam được tổ chức dưới thời vua Bảo Đại, vào nửa đêm rạng ngày 23-3-1945, đúng 5 tháng trước khi nền quân chủ ấy sụp đổ hoàn toàn.
    Ngày nay, đàn Nam Giao trở thành một chứng tích lịch sử quan trọng trong cụm di tích triều Nguyễn.
    Bãi cỏ xanh trước mặt ĐÀN NAM GIAO và những hàng thông tỏa bóng xanh mướt
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

Chia sẻ trang này