1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đọc Khi đồng minh tháo chạy

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi chimcanhcutbeo, 15/12/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chimcanhcutbeo

    chimcanhcutbeo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/06/2003
    Bài viết:
    316
    Đã được thích:
    0
    Đọc Khi đồng minh tháo chạy

    Kỳ 1: Bầu sữa cạn bên dòng sông Cửu Long

    Khi đồng minh tháo chạy (K**TC) là cuốn sách mới nhất của giáo sư tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng vừa xuất bản tại Hoa Kỳ giữa năm nay, 2005. Theo lời nói đầu, viết xong cuốn sách dày hơn 700 trang này là "hoài bão ấp ủ suốt 30 năm" của tác giả kể từ sau sự kiện lịch sử ngày 30/4/1975, nhằm tổng kết và đưa ra ánh sáng "tất cả những sự việc ở hậu trường bang giao Việt - Mỹ (giữa chính quyền Sài Gòn và Washington) trong giai đoạn từ khi Mỹ tháo gỡ tới lúc bỏ chạy được rất ít người biết đến".

    Với vị trí là Phụ tá đặc biệt của Tổng thống Thiệu (và là Tổng trưởng Kế hoạch trong chính quyền Sài Gòn), giáo sư Nguyễn Tiến Hưng trở thành "nhân chứng duy nhất trên tuyến liên lạc cấp tối cao Việt - Mỹ vào những ngày tháng cuối cùng" của chế độ. Trước giờ ra đi, ông Thiệu đã giao cho Nguyễn Tiến Hưng toàn bộ công hàm bí mật từ Tòa Bạch Ốc gửi đến dinh Độc Lập trong 4 năm, từ 1971 - 1975, mà thường ngày do chính ông Thiệu cất giữ cẩn thận ở một chỗ riêng trong dinh Độc Lập, bao gồm những lá thư của Tổng thống Nixon và Ford gửi Thiệu, các giác thư và điệp văn chưa hề công bố. Đọc xong, Nguyễn Tiến Hưng bàng hoàng trước nhiều sự thật ghi trong những tài liệu đặc biệt trên. Đến sau ngày rời Việt Nam, sang Hoa Kỳ, ông đã họp báo, viết sách phổ biến về một số "bí mật dinh Độc Lập" dựa theo tài liệu đó, mà cuốn K**TC là một. Tuy nhiên, là kinh tế gia, là giáo sư giảng dạy môn Kinh tế tại các đại học Hoa Kỳ (từ 1963), nên cạnh những trình bày về các nội dung chính trị và quân sự, ông đã kèm theo nhiều phân tích cụ thể về thực trạng kinh tế miền Nam trước đây. Chẳng hạn, mở đầu chương "Làm thế nào để bớt lệ thuộc?", ông viết:


    ?oTừ trên cao nguyên Tây Tạng, con sông Cửu Long hiền hòa chảy xuống đồng bằng Nam Bộ, và mỗi khi "nước sông dâng lên" lại có "cá lội vô bờ". Về sản xuất, nó giúp cho miền Nam trù phú, tưới nước cho vựa thóc của cả nước. Thế nhưng, về chuyên chở nó lại gây nên một ách tắc lớn, vì chiều ngang con sông rộng mênh mông, có chỗ lên tới nửa cây số. Vận chuyển thóc gạo, hành khách, bằng phà qua sông thật là khó khăn. Từ mấy năm rồi, chính phủ đã có kế hoạch xây một cây cầu lớn qua sông để khai thông tắc nghẽn. Nhưng sao mãi không thấy khởi sự?

    Một hôm, trong buổi họp với Bộ Công chánh, chúng tôi có hỏi lý do gì mà chưa xây được chiếc cầu? Nhiều vấn đề như kỹ thuật, ngân sách, an ninh được viện dẫn để giải thích. Sau cùng, một nhân viên tại bộ phát biểu: "Thưa ông, mặc dầu cây cầu mang tên "Mỹ Thuận" nhưng Mỹ có bao giờ thuận đâu mà xây". Câu nói do một thanh niên trẻ tuổi đã tóm gọn sự lệ thuộc của nền kinh tế miền Nam thời đó.

    Khi chiến tranh leo thang, kinh tế khó phát triển, nhiều lãnh vực lại còn tụt hậu, cung ứng cho nhu cầu của nhân dân từ ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, tới vận chuyển, xây cất, phần rất quan trọng được đáp ứng từ "viện trợ Mỹ" (tr.174)?.

    Vậy thì, làn sóng đô la viện trợ và những chi tiêu của Mỹ trút vào Nam Việt Nam thời đỉnh điểm dâng cao đến 25 tỉ đô la mỗi năm (kéo dài từ 1966 -1970) có vực dậy được nền kinh tế Sài Gòn vốn "bé nhỏ, hậu tiến, sản xuất căn bản là nông nghiệp" hay không? Câu trả lời không khó, vì rõ ràng ai cũng thấy quá khứ lụi tàn của nền kinh tế tầm gửi đó. Có điều, dưới ngòi bút của một nhà kinh tế, vấn đề trình bày có trình tự trong K**TC trước khi kết luận. Theo đó, những năm 1960 - 1970, được Liên Hiệp Quốc gọi là "thập niên của phát triển", nhiều nước Á châu như Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore và cả Nhật Bản đã nhảy một bước dài trên đường mở mang. Lúc ấy miền Nam Việt Nam vẫn cầm cự giữ được "cái ăn" và dư ra chút đỉnh để xuất khẩu 340.000 tấn gạo (1960). Nhưng chỉ 2 năm sau (1962) tuột còn 85.000 tấn. Những năm tiếp đó ngày càng tệ. Đến 1965, dòng gạo chảy ra nước ngoài khô kiệt và phải nhón chân đón chờ viện trợ Mỹ, tiếp nhận dòng gạo nhập cảng rót vào, có năm lên tới 760.000 tấn. Con sông Cửu Long như dòng sữa nuôi sống miền đất Nam Bộ xưa nay đã gần như kiệt sức. Khi hạt lúa vàng trong binh hỏa trở nên lưa thưa, héo hắt, thì đồng đô la ồ ạt chảy vào tiếp sức, cùng lúc với sự có mặt của lính Mỹ, đẩy nền kinh tế Sài Gòn ngày càng xa "dòng sữa mẹ" để gắn chặt với đồng tiền và đồ ngoại viện:

    ?oKhi quân đội Mỹ ào ạt kéo sang, nhu cầu quốc phòng, tiêu dùng, xây dựng hạ tầng cơ sở nhảy vọt. Mà sản xuất nội địa còn yếu kém, căn bản chỉ là gạo thóc. Để tránh tình trạng khan hiếm, lạm phát phi mã thì chỉ còn cách nhập hàng hóa từ ngoài vào. Nhưng lại nhập quá nhiều và quá nhanh. Tài trợ nhập hàng hóa gồm bốn nguồn: viện trợ nhập cảng (CIP) + viện trợ "thực phẩm phụng sự hòa bình" + viện trợ dự án + số đô la phía Mỹ mua tiền Việt Nam. Tổng số này đang từ 162 triệu năm 1964 tăng lên tới 830 triệu năm 1966, cao hơn năm lần. Tiền bạc dồi dào, cứ thế mà xài. Chi tiêu công cũng như tư có bề thả lỏng. Ở Sài Gòn chẳng thấy thiếu thứ gì: radio, tivi, tủ lạnh, máy điều hòa không khí. Báo chí ngoại quốc gọi Sài Gòn là Hondaville. Ngoài nhập cảng, lại còn một nguồn khác: thuốc lá, rượu mạnh, đồ gia dụng từ hệ thống tiếp liệu PX lọt ra thị trường. Cứ đứng trước cổng căn cứ Long Bình mà xem thì rõ. Chính sách kinh tế thường hay được tính toán dựa theo dự phóng xem số tiền đô la sẽ bơm vào nền kinh tế là bao nhiêu. Sự kiện này làm tăng lên cường độ của tâm lý lệ thuộc kinh tế. Và tai hại hơn, nó lại mang tới nhiều cơ hội tham nhũng cho nhiều người, ở mọi tầng lớp, trở thành ung nhọt xã hội?. (tr. 148).

    Sau này khi viện trợ Mỹ cắt từ 25 tỉ đô la tuột dần còn 700 triệu đô la, ông Thiệu chua xót: "Mới vài ngày trước đây là 1 tỉ, bây giờ 700 triệu, tôi làm gì được với số tiền này? Như là chuyện cho tôi 12 đô la và bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất từ Sài Gòn đi Tokyo vậy" (tr. 223). Trong cơn khủng hoảng, chính quyền Sài Gòn vừa cầu cứu Quốc hội Hoa Kỳ, vừa xin vay nợ nhiều nơi trên thế giới như ở Pháp, Nhật và gõ cửa cả hoàng cung của xứ dầu hỏa Saudi Arabia. Họ đem luôn nguồn dầu nằm sâu dưới thềm lục địa và 16 tấn vàng dự trữ của quốc gia để thế chấp ra sao?

    (Xem tiếp kỳ sau)
  2. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    Tiếp tục đi bạn, cuốn này nghe nói nhiều, giờ mới trực tiếp đọc.
    Vote cái !
  3. HoaiBach_83

    HoaiBach_83 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/08/2003
    Bài viết:
    137
    Đã được thích:
    0
    Tôi cũng đang đọc gần hết cuốn này . Một cuốn sách tuyệt vời với nhiều tài liệu mật quý giá. Phong cách viết rất thoáng không kém gì sách của các tác giả Mỹ. Đây là một cuốn sách đáng đọc cho những ai muốn tìm hiểu chuyên sâu một chút về lịch sử.
  4. chimcanhcutbeo

    chimcanhcutbeo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/06/2003
    Bài viết:
    316
    Đã được thích:
    0
    Đọc Khi đồng minh tháo chạy - Kỳ 2: Từ ?ocho không? đến ?ocho vay?
    Từ "cho không" (viện trợ không đòi lại) đến "cho vay" (viện trợ có đòi trả) là một khoảng cách thăm thẳm, biến Hoa Kỳ từ một người tình hào hoa thành một chủ nợ chi li, tính toán. Điều đó đã xảy ra trong quan hệ giữa Washington và Sài Gòn vào những năm của "cuộc tình tàn".

    Cụ thể, theo Nguyễn Tiến Hưng, mùa hè 1974 lúc quan hệ hai bên "mỗi lúc một bi đát hơn", ông Thiệu có bàn với Đại sứ Martin việc yêu cầu Quốc hội Hoa Kỳ cấp một "ngân khoản cuối cùng" cho miền Nam. Tuy Martin đồng ý và bắt tay vận động, song Thiệu vẫn phòng hờ kết quả bất lợi, nên cho triển khai nghiên cứu Kế hoạch vay viện trợ (USAID Loan Plan). Nghĩa là, thay vì yêu cầu Hoa Kỳ "cho không" 12 tỉ (1971), 2,1 tỉ (1972), hoặc 1,4 tỉ USD (1973), thì nay hãy "cho vay" và nếu được chấp thuận Sài Gòn sẽ xem đó "như một ân huệ cuối cùng". Nhưng ngay cả "ân huệ" này cũng bị Hoa Kỳ trù trừ, xét lại, Thiệu ngao ngán: "Bây giờ Việt Nam (VNCH) đã thành một tình nhân già, sắp bị bỏ rơi rồi" (tr.307).

    Trước khi mọi hy vọng tắt hẳn, kế hoạch "đi vay" vẫn được đem ra bàn trong phiên họp giữa ông Thiệu với dân biểu Steven Symms, có cả Nguyễn Tiến Hưng dự. Ông Symms sốt sắng: "Nếu đào thấy dầu hỏa, liệu ngài có sẵn sàng trả lại, thí dụ như 10% số tiền chuẩn chi (cho vay) đó không?". Thiệu đáp: "Tiềm năng dầu hỏa ngoài khơi Việt Nam rất tốt; Hoa Kỳ có thể lấy đó làm thế chân" (....). Hồi đó các chuyên viên của VNCH (Sài Gòn) ước tính lợi tức tương lai do dầu hỏa ngoài khơi mang lại sẽ vào khoảng 1 tỉ đô la mỗi năm, căn cứ vào những kết luận kỹ thuật, tài chính và kinh tế của dự án "tiền khả thi" của các công ty khoan dầu (tr.309).

    Đối với Sài Gòn, khai thác tiềm năng dầu hỏa mỗi năm được 1 tỉ đô la là con số "đẹp như mơ". Bởi cách đó không lâu, họ đã năn nỉ, vận động Quốc hội Hoa Kỳ đồng ý tăng thêm chỉ 300 triệu đô la quân viện để phân ra khẩn cấp cho: Lục quân 203 triệu bao gồm các chi phí về: đạn dược, xăng nhớt (132 triệu), thuốc men (6 triệu), đồ phụ tùng (48 triệu), vật liệu khác (17 triệu). Số còn lại chi 91 triệu cho Không quân gồm: thực hiện các phi vụ (29 triệu), đạn dược (13 triệu), đồ phụ tùng (32 triệu), vật liệu (17 triệu). Và 6 triệu đắp vào những chi phí phát sinh (nhưng cuối cùng, 300 triệu đó cũng không được chấp thuận). Qua thái độ nài nỉ, nôn nóng của Sài Gòn trong việc yêu cầu quân viện từ Hoa Kỳ đã cho thấy hoạt động của quân đội Sài Gòn phụ thuộc vào nguồn tiền ngoại viện ra sao. Nói rõ hơn sự phụ thuộc này, Nguyễn Tiến Hưng viết: Có lần sau khi họp với ông Thiệu về tình hình viện trợ, tôi ở lại một mình trong phòng họp (còn gọi là Phòng Tình hình ngay sát văn phòng ông) để ghi lại những điểm quan trọng. Trên bàn họp tôi thấy có một quyển sách mỏng, đóng bìa cứng, màu đỏ, rất đẹp, do ông mang vào. Nhìn thoáng thấy trên bìa lại có hình ông, tưởng ông muốn cho tôi đọc quyển sách ai mới viết về ông, tôi mở ra xem. Vừa lật tờ bìa, tôi thấy ngay nó không phải là một cuốn sách mà là một tài liệu báo cáo do tướng Murray cùng với Bộ Tổng tham mưu trình lên. Tài liệu này phân tích ảnh hưởng của các mức quân viện tới khả năng chiến đấu, phân chia theo từng quân, binh chủng. Tôi lướt qua và chỉ đọc vài trang cuối. Phần kết luận được tóm tắt như sau:

    - Nếu mức độ quân viện là 1,4 tỉ thì có thể giữ được tất cả những khu đông dân cư của cả bốn vùng chiến thuật;
    - Nếu là 1,1 tỉ thì Quân khu I phải bỏ;
    - Nếu là 900 triệu thì khó lòng giữ được QK I và II, hoặc khó đương đầu với cuộc tổng tấn công của Bắc Việt;
    - Nếu là 750 triệu thì chỉ có thể phòng thủ vài khu vực chọn lọc và khó điều đình được với Bắc Việt;
    - Nếu quân viện dưới 600 triệu thì chính phủ Việt Nam Cộng hòa chỉ còn giữ được Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long.

    Đó là năm tuyến phòng thủ tương đương với năm mức độ quân viện. Tướng Murray kết luận: "Ta có thể ví sự mất tiền xấp xỉ như mất đất vậy". (tr.234-235).

    Để bù vào lỗ hổng khổng lồ về tài chính sau ngày viện trợ bị cắt, kế hoạch "đi vay" nhắm đến nguồn dầu chưa khai thác. Nhưng dầu không phải là thứ thế chấp duy nhất: Ông (Thiệu) bảo tôi thảo gấp một lá thư gởi cho Tổng thống Ford đề nghị vay 3 tỉ trong 3 năm, chia ra mỗi năm 1 tỉ. Ông hy vọng rằng, ngay trước mắt, đề nghị này có thể trì hoãn được việc Quốc hội (Hoa Kỳ) bỏ phiếu "chống viện trợ"... Theo kế hoạch, nếu tại Washington (lúc ông Hưng được phái sang đó vận động ngoại viện - M.N) tôi dò xét thấy có triển vọng về khoản vay thì sẽ đánh điện về ngay để ông Thiệu ký lá thư và trao cho Đại sứ Martin. Về khoản thế chấp, nếu Quốc hội đồng ý cứu xét và bắt đầu bàn cãi, VNCH sẽ đưa ra làm bảo đảm, "thế chân" bằng những tài nguyên sau:

    - Tiềm năng dầu lửa;
    - Tiềm năng xuất cảng gạo ;
    - Khoản tiền của vua Haled hứa cho vay; và:
    - Số vàng dự trữ của Ngân hàng Quốc gia.

    Số vàng dự trữ lúc đó còn 16 tấn, trị giá khoảng 120 triệu (theo giá vàng lúc đó). Đại sứ Martin đã sắp xếp giúp để chuyển ra ngoại quốc, vừa cho an toàn, vừa để làm thế chấp cho một khoản vay mua đạn dược. Sau này, ông Martin trình bày về dự trữ vàng với Quốc hội Hoa Kỳ (ngày 27.1.1976) như sau: "Những sắp xếp tạm thời đã được thực hiện để chuyển số dự trữ vàng (của VNCH) sang Ngân hàng Bank of International Settlement (BIS) ở Based bên Thụy Sĩ để có thể làm thế chấp cho một khoản vay mua đạn dược bên Âu châu. Khi tin này lộ ra, thì đã không còn cách nào chở vàng đi bằng hàng không thương mại được nữa. Bởi vậy có những sắp xếp (tiếp theo) để chuyển nó sang tài khoản (của VNCH) tại Ngân hàng Dự trữ liên bang New York (Federal Reserve Bank of New York). Chẳng may, đang khi có sự chậm trễ về phía Hoa Kỳ trong việc tìm nguồn bảo hiểm (cho việc chuyên chở số vàng) thì TT Thiệu đã ra đi (tr.311-312).

    Trong các thứ "thế chân" trên đây, ta thấy có khoản tiền của vua Haled ở khối Ả Rập hứa cho Sài Gòn vay. Nghĩa là lấy lời hứa cho vay (của vua Haled) để thế chấp đi vay nợ khác (của Hoa Kỳ). Những diễn tiến tiếp theo mang nhiều kịch tính hơn, như chúng ta sẽ thấy sau này.

    (Xem tiếp kỳ sau)
  5. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Đọc Khi đồng minh tháo chạy - Kỳ 3: Có vay được cũng khó nuốt
    23:35:41, 19/08/2005
    [​IMG]

    Đại sứ Martin, người đã phê phán: "Rút cuộc, chúng ta chỉ lo tháo chạy. Ý chí dân tộc của Hoa Kỳ đã sụp đổ? đăng trên tờ New York Times trong dịp kỷ niệm 10 năm sự kiện 30/4 (1975-1985) - (Ảnh: T.L)

    Khi nguồn viện trợ và chi tiêu của Hoa Kỳ giảm xuống thê thảm, Thiệu bàn với phụ tá đặc biệt của mình cách "đi tìm những nguồn viện trợ khác". Hưng viết "tôi nghĩ ngay đến Ngân hàng Thế giới (World Bank) và cho đây sẽ là nguồn chính". (tr.180)
    Ngân hàng Thế giới (NHTG) thành lập từ sau Thế chiến thứ hai nhằm tài trợ tái thiết các nước, nên mang tên Ngân hàng Tái thiết và phát triển thế giới (International Bank for Reconstruction and Development, viết tắt: IBRD). Nguyễn Tiến Hưng rất kỳ vọng vào đồng đô la vay được từ tổ chức này nhờ hai lý do. Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa (Sài Gòn) là thành viên kỳ cựu của NHTG từ 1956. Mãi đến những năm đầu 1970, mặc dù NHTG đã "cho các quốc gia hậu tiến vay một lượng tiền lớn", song miền Nam "chưa vay một xu nào" (vì được Hoa Kỳ viện trợ). Thứ hai, thời điểm vay nằm sau ngày Hiệp định Paris 1973 ký kết, lúc "miền Nam đang bắt đầu công việc tái thiết nền kinh tế bị tàn phá vì một cuộc chiến kéo dài", nên có danh chính ngôn thuận để vay. Lại thêm, về phương diện tình cảm, ông Chủ tịch NHTG là người "quá quen thuộc", từng gắn bó với Sài Gòn, đó là cựu Tổng trưởng Quốc phòng Mỹ: Robert Mc Namara. Lúc ấy tuy "Mc Namara không còn dính dáng gì đến Việt Nam nữa, nhưng hy vọng ông còn chút ít tình cảm đối với nhân dân miền Nam. Ông là người có trách nhiệm đem nửa triệu quân Mỹ vào Việt Nam và điều khiển việc leo thang chiến tranh. Chính ông là người đã cho trắc nghiệm chương trình khai hoang bằng chất hóa học da cam (agent orange) ở Việt Nam, gây không biết bao tai hại". Cũng dưới thời Mc Namara, hiệu quả hoạt động của quân đội Hoa Kỳ "được đo lường một cách hết sức máy móc (xa thực tế) bằng xác định quân và những bảng liệt kê vũ khí chiếm được. Sau bao nhiêu sai lầm, ông ngang nhiên bỏ cuộc, xin làm Chủ tịch NHTG. Vì cái dĩ vãng đó, tôi chắc lương tâm ông nầy còn chút dằn vặt. Gõ cửa NHTG qua ông thì chắc ăn rồi". (tr.181)
    Nhưng không phải vậy. Trái lại, khi Hưng bấm nút thang máy trụ sở NHTG lên lầu thứ 12 gặp "ông chủ tịch", trình bày gãy gọn nhu cầu tái thiết ở miền Nam để "hỏi ý kiến ông" về khoản tiền 50 triệu đô la muốn vay đợt đầu, thì Mc Namara cố tình "không hiểu" những gì Hưng nói, cũng không đả động đến khó khăn của Sài Gòn. Thay vào đó, Mc Namara lại nhấn mạnh tới "khó khăn của NHTG ". Mặc cho Nguyễn Tiến Hưng ngồi đó với "dự án tái thiết" trong đầu và với "hy vọng vào thái độ thông cảm của ông cựu Tổng trưởng Quốc phòng Mỹ", Mc Namara vẫn cứ phớt tỉnh chậm rãi phàn nàn về việc Quốc hội Hoa Kỳ không chịu tăng ngân khoản đóng góp cho NHTG:
    - Tôi muốn giúp "nước ông" lắm chứ, nhưng nếu Quốc hội không chấp thuận ngân khoản cho Hiệp hội Phát triển quốc tế IDA thì tôi cũng đành chịu bó tay.
    Mc Namara nói trớ qua như thế. IDA là một cơ quan trợ giúp các nước nghèo của NHTG. Nguyễn Tiến Hưng viết: "Tôi nhắc ông (Mc Namara) rằng Việt Nam Cộng Hòa là một trong những thành viên kỳ cựu nhất của NHTG và chưa hề vay mượn đồng nào của cơ quan này trong gần 20 năm qua. Tiếp tục trình bày, tôi còn tránh không nói tới việc xây dựng lại hạ tầng cơ sở bị tàn phá bởi chiến tranh và chỉ nói tới nhu cầu phát triển canh nông của miền Nam: "Vâng, vấn đề canh nông bao giờ cũng hấp dẫn đối với tôi - Mc Namara trả lời - Ngân hàng đang có một vài dự án quan trọng về gạo Thần nông". Mc Namara lại cố lái câu chuyện qua đề tài khác rồi "đứng dậy đi tới bàn giấy của ông, lấy một hộp pha lê đựng gạo mẫu Thần nông đưa cho tôi xem. "Thưa ông, hiện nay Việt Nam Cộng hòa là quốc gia duy nhất trên thế giới cần đến chương trình tái thiết thời hậu chiến", tôi cứ tiếp tục đầu đề chính của buổi họp mặt. Nhưng Mc Namara lại quay về câu chuyện "thần nông" (...). Ông không nhìn tôi nữa mà cứ nhìn vào hộp gạo (...). Đến đây thì tôi đã thấy rõ thái độ (phũ phàng, tránh né) của ông này rồi. "Cám ơn ông chủ tịch, tôi đã nhìn thấy cả loại IR-8 rồi, còn tốt hơn IR-3". Thấy tôi không chú ý tới đề tài của mình nữa, ông ngừng và mời tôi uống ly cà phê đen để sẵn trên bàn:
    - Cám ơn ông chủ tịch, tôi nghĩ trước hết chúng tôi còn phải giải quyết vấn đề "hóa học da cam" trước khi có thể mở rộng diện tích canh tác lúa thần nông!. (Tr.182).
    Nói câu châm chích đó xong, ông Hưng đứng dậy chào Mc Namara và ra về. Sau lưng ông, có thể Mc Namara đang đỏ bừng mặt, vì chất độc màu da cam tội lỗi mà Mc Namara cho rải xuống Việt Nam vừa bị Hưng nhắc tới và mỉa mai. Phần Hưng, ông bước xuống thang máy trong tâm thái chán chường và nghĩ có lẽ NHTG quay lưng với chế độ VNCH để "chỉ muốn dồn tiền bạc vào những nước mà Mỹ đang còn o bế như Trung Cộng, Ấn Độ, Pakistan". Thất vọng, Sài Gòn hướng về châu Âu. Bấy giờ (1974) Pháp đã cử ông Jean Marie Mérillon tới Sài Gòn làm đại sứ (sau 7 năm cắt quãng ngoại giao tính từ 1966) và đề nghị cho Sài Gòn vay.
    Để xúc tiến, một phái đoàn do Nguyễn Tiến Hưng làm trưởng đoàn gồm các chuyên gia trẻ và những người xuất thân từ các đại học lớn ở nước ngoài, được cử sang Pháp và "chỉ sau một ngày làm việc đã nhận ra là thể thức viện trợ Pháp không có đơn giản. Tuy nói là chính phủ cho vay dài hạn và với lãi suất ưu đãi, nhưng luật lệ lại đòi là "mỗi một đồng quan (franc) viện trợ của chính phủ phải kèm theo một đồng quan của ngân hàng tư", do Hiệp hội Ngân hàng COFACE điều hành. Mới nghe thì thấy có vẻ hợp lý vì có sự tham gia của lãnh vực tư. Nhưng có bắt tay vào việc mới thấy đây là một trở ngại lớn cho quốc gia nhận viện trợ. Trở ngại đó là: Tiền của Chính phủ Pháp thì cho vay dài hạn và lãi suất thấp, nhưng tiền của các ngân hàng tư thì lại ngắn hạn và lãi suất cao. Tính ra thì "phần tặng dư" hay cho không (grand element) rất thấp. Cho nên xét cho kỹ thì mô hình này không hấp dẫn như ta tưởng. Ngoài ra, còn một điều kiện khác nữa: quốc gia nhận viện trợ phải mua hàng của Pháp" (tr.184). Cuối cùng, Pháp đồng ý cho vay 130 triệu quan, tương đương 26 triệu đôla, mà Sài Gòn định dùng phát triển nông nghiệp và giải quyết phần nào nạn thất nghiệp, nạo vét kênh rạch sình lầy ở khu Thị Nghè, cầu Công Lý, hồ Than Thở (Đà Lạt)... Nhưng Pháp tạo áp lực muốn Sài Gòn dùng tiền ấy mua máy nhiệt điện, hệ thống phát sóng tối tân cho đài truyền hình, điện thoại, xe đạp Peugeot. Do "phía Việt Nam không đồng ý nên viện trợ bị khựng lại". Bấy giờ Đại sứ Merillon gặp ông Thiệu bảo là nếu viện trợ năm nay "có sẵn" không chịu nhận thì "làm sao nói đến viện trợ năm tới?". Thiệu liền gặp riêng Hưng, nói đại ý lúc này cần từng đồng, từng xu, thôi cứ thuận theo họ cho ổn đi đã.
    Sau Pháp, Sài Gòn thử hướng về các nước giàu có ở châu Á, nhất là Nhật. Theo Nguyễn Tiến Hưng, tuy thể thức vay của Nhật đỡ gò bó hơn Pháp, cho phép vay dài hạn, nhẹ lãi, song chẳng khác gì Pháp ở chỗ "Nhật cũng đòi phải mua hàng hóa của Nhật. Họ muốn dùng một phần tiền viện trợ để giúp "nhập cảng thương mại", nói trắng là gồm cả các loại hàng không cần thiết. Sài Gòn đã có cái biệt hiệu báo chí ngoại quốc gọi là Hondaville (thành phố của xe Honda Nhật), bây giờ chắc phải nhập thêm đồ phụ tùng cho xe Honda. (Nếu không, sợ mất lòng Nhật)?". Thật là, như tác giả thở dài, nếu có "vay được lại khó nuốt". Trong cơn nghẹn, Sài Gòn quay qua thăm dò các quốc gia thuộc khối dầu lửa Ả Rập. Và họ gặp được hai ông vua phóng khoáng, dễ chịu, cho vay nhẹ lãi, bất ngờ như chuyện cổ tích "nghìn lẻ một đêm".
  6. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Đọc "Khi đồng minh tháo chạy" - Kỳ 4: Sau lưng Nữ thần Tự do
    21:03:33, 20/08/2005
    [​IMG]
    Không đủ chỗ đậu trên tàu USS Blue Ridge, một phi công Việt Nam nhảy ra khỏi trực thăng xuống biển; ảnh nhỏ: Đẩy trực thăng từ tàu xuống biển. Ảnh tư liệu trong K**TC
    Cách đây 15 năm, cuốn Từ tòa Bạch Ốc đến dinh Độc Lập của GS-TS Nguyễn Tiến Hưng viết chung với Jerold Schecter bằng tiếng Anh (nguyên bản: The Palace File, nhiều người dịch), được in bởi NXB Trẻ (TP Hồ Chí Minh 1990), công bố những bí mật bẽ bàng sau hậu trường bang giao giữa chính quyền Sài Gòn với Hoa Kỳ vào những năm cuối của cuộc chiến Việt Nam.
    Tiếp tục nội dung trên, GS-TS Nguyễn Tiến Hưng viết Khi đồng minh tháo chạy (K**TC) bằng tiếng Việt, vừa in tại Hoa Kỳ bởi cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh (San Jose, CA. 2005) dựa theo một số tài liệu mới và nghiên cứu bổ sung của tác giả trong hơn 10 năm qua, lúc ông đảm nhiệm vai trò cố vấn cho Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) về nhiều dự án chuyển đổi kinh tế và cứu đói giảm nghèo vào thập niên 1990. Theo ông:
    Sau Hiệp định Paris 1973, Sài Gòn phải tiếp tục tự xoay xở nguồn viện trợ mới (ngoài Mỹ) và nhận được đề nghị giúp đỡ từ Quốc vương Shah nước Iran với khoản vay 100 triệu đô la để nhập cảng hàng hóa và "nếu Việt Nam Cộng hòa không có khả năng hoàn trả bằng tiền bạc thì có thể trả bằng sản phẩm, thí dụ như rau cỏ, hoa quả Đà Lạt. Phía Việt Nam cứ đi thu mua, rửa sạch, đóng vào giỏ tre, giỏ mây, sẽ có máy bay vận tải bay thẳng từ Tehran, Iran sang Đà Lạt hằâng tuần để chở về. Sân bay Liên Khương ở Đà Lạt sẽ được sửa chữa lại. Kế toán sổ sách theo giá quốc tế, không có vấn đề gì. Đây là một sáng kiến rất tốt, nhưng nó đòi thời gian để tổ chức, phát triển sản xuất, thu mua, nới rộng sân bay, không thể thi hành ngày một ngày hai được" (tr.185).
    Thế là đi vay từ Pháp, sang Nhật, đến Iran, kể cả nguồn "viện trợ song phương" nhỏ giọt của một số nước khác rót vào (khoảng dăm ba triệu đô la), thì xem ra tất cả vẫn chưa đáp ứng nhu cầu lâu dài. Nên trước mắt, Sài Gòn đành quay lại trông chờ ở... Mỹ. Nhưng bấy giờ, quân Mỹ rút, chi tiêu đô la cũng rút theo, vì trong những năm chiến tranh "ngoài số tiền viện trợ, lại còn có nguồn thu đô la quan trọng thứ hai, đó là đô la thu được do nhu cầu đổi sang tiền đồng Việt Nam của nguồn ngoại tệ Mỹ vào gồm quân đội, tòa đại sứ, các công ty xây cất, dịch vụ Mỹ. Bây giờ thì quân đội Mỹ về hết rồi, các cơ quan hành chính Mỹ thu nhỏ lại, và các hãng ngoại quốc cũng ra đi. Số đô la mua được từ nguồn này đã giảm từ mức 300 - 400 triệu một năm xuống còn 96 triệu (1973) và 97 triệu (1974)? (tr.177)
    Thêm vào đó: "Trong thời chiến, sự có mặt của đồng minh giữ mức thất nghiệp ở thành thị tương đối thấp. Một cách gián tiếp, chi tiêu của họ sinh ra công ăn việc làm, đặc biệt trong lãnh vực dịch vụ. Một cách trực tiếp, các căn cứ quân đội, cơ quan và hãng Mỹ cũng đã tuyển dụng một số nhân công không phải nhỏ. Riêng số người làm việc cho các cơ quan và hãng Mỹ là 160.000 năm 1969. Số này chỉ còn vỏn vẹn trên 17.000 vào cuối năm 1973" (tr.180). Đến 1974, về ngân sách viện trợ nhập cảng CIP cho miền Nam tài khóa 1975 - 1976 được Mỹ "duyệt" thấp xuống, chỉ còn 145 triệu đô la. Ngay số tiền này, theo tác giả, cũng chỉ là mệnh giá trên danh nghĩa (nominal), chứ mãi lực thật của nó giảm 50% do lạm phát, vật giá leo thang, chỉ còn 70 triệu). Và do hậu quả lệ thuộc nên "giá cả Mỹ leo thang, giá cả ở miền Nam cũng leo theo luôn. Trước hết là gạo. Với cùng một số tiền viện trợ thực phẩm (trước kia), số gạo Tổng cục Thực phẩm mua được (sau này) từ Louisiana bị giảm cùng mức". Sau gạo, là xăng dầu. Lúc bấy giờ giá dầu xăng đã tăng 47% (vào 11.1973), lại tăng lên 140% (đầu 1974) làm "giá xăng (ở miền Nam) cao vào hàng nhất thế giới hồi đó". Mặc dù chính quyền Sài Gòn vận động dân chúng thực hiện mục tiêu giảm 25% mức tiêu thụ xăng nhớt để dồn cho những nhu cầu thiết yếu như hoạt động nông nghiệp hoặc ngư nghiệp, nhưng do "giá dầu cặn diesel tăng từ 95 đồng lên 125 đồng, cao hơn tất cả các nước láng giềng" nên đã ảnh hưởng nặng nề đến những chiếc tàu đánh bắt tôm vừa tân trang, khiến tất cả phải ngưng hoạt động và "ngư dân với những thuyền mắc máy đuôi tôm lượn trên sông rạch nay đã thưa thớt. Khi giá các loại dầu xăng tăng, thì trực tiếp hay gián tiếp, phí tổn phải tăng, nâng giá hàng hóa cao hơn nữa. Bị ảnh hưởng nặng nhất là những người có đồng lương cố định" như quân nhân, công chức, giáo viên. Họ phải đem đồng lương mất giá đi mua hàng hóa tăng giá. Giá hàng tăng còn do ảnh hưởng trực tiếp từ nguồn viện trợ thực phẩm bị cắt giảm 3/4 (so với tài khóa 1971 - 1972), nghĩa là từ 165 triệu xuống 46 triệu. Một nền kinh tế quen sống bằng tiền tỉ ngoại viện, nay "đến mức này thì coi như cạn kiệt. Bầu không khí mỗi khi họp hành để bàn định về kinh tế sao nó u buồn thế". (tr.186)
    Chợt lóe lên tia sáng vào cuối năm 1974 khi Vua Saud al Faisal của xứ dầu lửa Ả Rập Saudi bằng lòng cho vay vài trăm triệu đô la, lãi suất nhẹ, dài hạn: "Khi nào miền Nam đào lên được dầu lửa thì mới phải trả. Điều kiện viện trợ nhẹ nhàng, thủ tục thi hành đơn giản. Ký xong là có tiền ngay (hay cho vay bằng dầu lửa cũng được). Bao nhiêu hy vọng tràn trề. Họp lên họp xuống, nhất thiết là phải thực hiện ngay kế hoạch này để tới 1975/76 còn giữ được một phần lượng nhập cảng những hàng thiết yếu. Đặc biệt là dầu, xăng, thực phẩm, thuốc men, và phân bón. Nếu quá thiếu những sản phẩm này thì chắc chắn sẽ có khủng hoảng lớn" (tr.187). Chỉ riêng về xăng dầu, miền Nam phải nhập một lượng với số tiền 82 triệu đô la vào 1973, thì cùng một lượng đó phải chi 200 triệu đô la vào 1974. Lấy đâu ra? Sài Gòn trông cậy vào số tiền mà Vua Saud al Faisal hứa cho vay để đắp đổi tức thời vào các nguồn chi "cốt tử" trên. Nhưng "đúng là họa vô đơn chí. Những cái rủi ro nó bay theo nhau mà đến. Đang lúc sửa soạn đàm phán chi tiết với Chính phủ Saudi để sớm có giải ngân thì đùng một cái, Vua Faisal bị chính cháu mình sát hại. Chính phủ miền Nam chưng hửng". Ông vua tốt bụng này nằm xuống ngày 25.3.1975 vào đúng ngày quân đội Sài Gòn rút chạy hoàn toàn khỏi cố đô Huế. Quân giải phóng tràn qua đèo Hải Vân, vào Đà Nẵng, vũ bão chiếm Sa Huỳnh, rồi Nha Trang, uy hiếp phòng tuyến Phan Rang, tiến về Sài Gòn.
    Lúc bấy giờ, tại Washington, Bộ Quốc phòng Mỹ lẳng lặng thảo kế hoạch có mật hiệu Talon vise nhằm đưa 6.000 người Mỹ (cùng một số rất ít người Việt Nam làm việc với họ) di tản khỏi Sài Gòn "bằng những máy bay lớn từ phi trường Tân Sơn Nhất" với số quân yểm trợ dự trù khoảng từ 3 - 6 sư đoàn thủy quân lục chiến (TQLC), mỗi sư đoàn 18.000 người sẽ được bất thần tung vào Việt Nam. Đã có lệnh tập họp 4 hàng không mẫu hạm: Han****, Coral Sea, Midway và Enterprise áp sát vùng biển Nam Việt Nam kèm theo nhiều tàu hộ tống khác để khi cần sẽ "yểm trợ hỏa lực từ ngoài khơi". Trên không hàng trăm trực thăng cùng máy bay phản lực khống chế bầu trời khi kế hoạch Talon vise triển khai. Biết tin, Đại sứ Martin nói với Hưng: "Đó là những kế hoạch điên rồ (crazy plans) có thể gây ra thảm họa lớn". Vì nếu Mỹ chỉ di tản người Mỹ và bà con của họ thì ?oliệu các đơn vị quân đội, cảnh sát, nghĩa quân, địa phương quân, dân chúng VNCH có để yên hay không?? (tr.372). Đêm 17.4, sau nhiều tin tình báo bất lợi, Martin đánh mật điện rất dài gửi Kissinger nhấn mạnh: ?oNgười Việt Nam sẽ cho rằng Hoa Kỳ mang TQLC vào để di tản người Mỹ và mặc kệ số phận người Việt ở đây" (tr.377) và những ngày sau đó Martin đã đưa "một số khá nhiều phi công VNCH và gia đình được ưu tiên ra đi. Tất cả khoảng 2.000 người di tản trước hết là tới phi cảng Utapao ở Thái Lan. Mục đích của việc này là để giảm thiểu khả năng trả thù và đụng độ với lực lượng Mỹ. Trình bày cho Quốc hội về việc này, ông Martin cho rằng nếu cảm thấy bị bỏ rơi quá tàn nhẫn, phía Việt Nam sẽ trút sự giận dữ trên đầu những người Mỹ còn lại (...). Nếu phi công VNCH bắn rơi ba bốn chiếc máy bay vận tải Mỹ, chắc chắn là sẽ có nhiều trong số 6.000 người Mỹ phải chết. Thêm vào đấy là số thương vong không thể lường của quân đội hai bên. Dĩ nhiên là không lực từ Đệ thất hạm đội sẽ vào uy hiếp dẹp mọi cuộc tấn công. Nhưng Sài Gòn sẽ đổ nát như Baghdad và bao nhiêu người dân sẽ là nạn nhân ?" (tr.381). Sau cùng Tổng thống Ford đã được thuyết phục, bãi bỏ Talon vise, không đưa TQLC Mỹ vào Sài Gòn nữa. Đến 4 giờ 58 phút ngày 30.4, Martin "bơ phờ ôm lá cờ Mỹ bước lên chiếc Lady Ace 09". Mật hiệu "Tiger, Tiger, Tiger" được phát từ máy bay, cho biết Martin sắp rời bờ biển Việt Nam. Tại Hoa Kỳ, trưa 30.4 (nhằm 1.5 giờ Sài Gòn), Hãng thông tấn Associated Press phát thông cáo: "Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cựu Tổng trưởng Kế hoạch và cựu phụ tá đặc biệt của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, sẽ tổ chức một buổi họp báo lúc 4 giờ chiều hôm nay tại khách sạn May Flower, phòng Pan American, để nói về bản chất những thỏa thuận bí mật giữa cựu Tổng thống Nixon và Tổng thống Thiệu. Sẽ tiết lộ hai lá thư của ông Nixon gửi ông Thiệu" (tr.421). Đúng giờ, ký giả báo chí và truyền hình kéo đến chật phòng họp. Ông Hưng nói với họ đại ý là, củ cà rốt tức viện trợ mà Hoa Kỳ cam kết rất rõ ràng qua các lá thư Nixon gửi dinh Độc Lập là sẽ tiếp tục đầy đủ để vực dậy hoạt động kinh tế của chính quyền Sài Gòn rốt cuộc chỉ là bánh vẽ to tướng và kêu gọi Hoa Kỳ đón nhận, giúp đỡ người Việt Nam di tản. Một nhà báo Mỹ hỏi lý do gì nước Mỹ phải giúp đỡ như thế. Hưng đáp chính tượng Nữ thần Tự do nhắc nhở điều đó. Nghe thế, anh chàng nhà báo kia vội xen vào một câu xỏ xiên: ?oTôi xin nhắc nhở cho ông là Nữ thần Tự do quay mặt về phía Đại Tây Dương?. Hưng viết: "Ý nói là bà (nữ thần) quay lưng về phía Thái Bình Dương, phía Việt Nam chúng ta! Vô cùng đau đớn, tôi đã không cầm được nước mắt".
    Mai Nguyễn
  7. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
  8. Deltatoni

    Deltatoni Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/09/2006
    Bài viết:
    229
    Đã được thích:
    0
    Thế là có khoá!
  9. 10con3

    10con3 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/12/2005
    Bài viết:
    128
    Đã được thích:
    0
    Bác Nguyễn Tiến Hưng này có 1 cuốn sách được dịch và xuất bản ở VN, hồi trước lấy tên là "từ tòa Bạch ốc đến dinh Độc Lập", sau này in lại đổi thành "Hồ sơ mật dinh Độc Lập".

Chia sẻ trang này