1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đọc sách Chu Lai

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi hoangvan09, 06/01/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Đọc sách Chu Lai

    Chào các bạn,

    Có ai thích Chu Lai không? Tạm giới thiệu về CL bằng bài phỏng vấn này nhé:

    Nhà văn Chu Lai: Tâm hồn vẫn là chốn khuất nẻo...

    ?oHơn nửa cuộc đời chìm trong cánh rừng chữ nghĩa, tuy chưa hài lòng, nhưng tôi đã vắt kiệt cùng sức lực để có những giọt ngọt, giọt tinh chất nhất, để lại cho đời một số trang sách ruột gan, không dối lòng, không điếm đàng và đến nay có thể nghĩ rằng mình là người cầm bút tử tế, nói được những điều nhức nhối nhất, khát khao cháy bỏng nhất về thân phận con người?. Nhà văn, đại tá Chu Lai thổ lộ như thế khi ông vào công tác tại TP Hồ Chí Minh, tháng 7-2003.


    Nhà văn CHU LAI: - Sau giải phóng, tôi qua lại Hà Nội - Sài Gòn cũng nhiều, nhưng lần này không hiểu sao khi máy bay vừa hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất, tự nhiên nước mắt cứ rịn ra. Mới đó đã 30 năm trôi qua, nhanh thật, nửa cuộc đời đã trôi, quay lại thành phố mình cùng đồng đội góp phần giải phóng nó, nay vừa lạ vừa quen, mình như là người đại diện cho những đồng đội đã ngã xuống, được đi giữa chan hòa nắng gió. Nhìn phố xá hôm nay, bỗng có suy nghĩ, cuộc chiến như không có thật, nhưng nỗi đau thì hoàn toàn hiện hữu. Nó hiện hữu bởi cả ngàn người ra đi năm ấy nay chỉ còn đếm trên đầu ngón tay.

    - Hóa ra, đằng sau vẻ hầm hố, rừng rú của ông Chu Lai là cái gì hết sức mỏng rách, yếu đuối và đầy hoài niệm...

    - Nếu anh lạnh lẽo với cuộc đời, dửng dưng với số phận con người, nếu anh không đắm chìm trong hoài niệm xa xăm, không yếu đuối thì khó tạo thành nghiệp văn chương. Hoài niệm còn là bệnh của người già, người lính đã về già, 10 năm cầm súng, 30 năm cầm bút, nay đã thấm mệt. Người ta thường nhớ về kỷ niệm buồn, với tôi chiến tranh là kỷ niệm buồn.

    - Hàng ngàn trang sách của anh là trang trải những kỷ niệm ấy, ?otrả nợ? cho đồng đội, cho cuộc chiến hào hùng?

    - Đó là cách nói làm duyên, thực ra bằng trang viết của mình, tôi trang trải chính cái nợ nần trong tôi, mỗi lần trả nợ được một chút nào đó, thấy lòng mình thanh thản hơn. Như chuyến này, tôi đi một số tỉnh miền Đông, miền Tây Nam bộ để đánh thức cảm hứng, thực hiện bổn phận người lính cầm bút, viết tiểu thuyết sử thi Đại thắng mùa xuân 1975.

    - Anh đã ?ochuốc? lấy cái nghiệp văn chương từ khi nào?

    - Có một chút gien văn chương, cha là nhà viết kịch (Học Phi), 14 tuổi tôi đã đọc đủ văn học Nga, Pháp. 17 tuổi đã như một ông cụ non. Lớn một chút, máu nghệ thuật trào lên xung vào Trường Nghệ thuật Quân đội. Quãng đời diễn viên ngắn ngủi của tôi chỉ đóng vai ác ôn, dữ dội, không được đóng bộ đội vì mặt mũi tôi trót sinh ra là giống trùm biệt kích, ác ôn ngụy? Có mặt trong kịch ?oNổi gió?, ?oChị Nhàn?. Chính những đêm diễn cho bộ đội xem, mùi mồ hôi của người lính đã hút tôi vào trận mạc. Số phận run rủi làm anh lính đặc công, đơn vị lại rơi vào vùng khốc liệt đến nỗi buộc tôi có một định nghĩa: chiến tranh là ngày nào cũng chôn nhau, nhưng chưa đến lượt chôn mình. Bởi đội đặc công của tôi toàn những chàng trai ưu tú đẹp đẽ ở hậu phương đưa vào đã nằm xuống nhiều lắm. Ngày nào cũng đập mặt vào rừng, sáng rừng, trưa rừng, tối rừng, chiến cuộc khốc liệt, các khái niệm cơ bản nhất như về gia đình, bè bạn, thời gian cứ nhòe đi. Bèn viết, viết để lấp đầy im lặng, viết để tĩnh lặng tâm hồn, viết về những cái gì đã trải qua, dù không thể gửi đi đâu được.

    - Nhiều bạn đọc nhận xét, những tác phẩm đầu tay của anh dù non nớt nhưng tươi xanh, lãng mạn vô cùng. Người ta cũng kể, tiểu thuyết ?oNắng đồng bằng? được anh viết với động thái đang yêu, viết làm sao ngày xong một chương để đến khuya đọc lại cho cô gái, biên tập viên của Nhà xuất bản Quân đội. Sau này, cô gái ấy trở thành vợ anh - nhà văn Vũ Thị Hồng, nay là đại tá Trưởng ban Phụ nữ Quân đội.

    - Ngày đầu giải phóng với vốn sống ngập tràn, cộng với tuổi trẻ, tôi viết nhanh đến chính mình cũng ngạc nhiên, những truyện ngắn đầu tay đều được đăng hai kỳ trên báo Văn nghệ: ?oKỷ niệm vùng ven?, ?oAnh Hai Đởm?, ?oLửa mắt?... Sau này tôi chuyển ?oKỷ niệm vùng ven? thành phim. Rồi tiếng gọi của Hà Nội mùa đông heo hút, mưa phùn đã kéo tôi về và đi theo con đường văn chương chuyên nghiệp. ?oNắng đồng bằng? là tiểu thuyết đầu đời, được tôi viết trong hai tháng ở Đà Lạt trước khi học ở Trường viết văn Nguyễn Du. Tiếp đó, loạt truyện ngắn như tập truyện ?oĐôi ngả thời gian? cũng được tôi viết nhanh, viết một cách say đắm. Sau đó là tiểu thuyết ?oVòng tròn bội bạc? nói về người lính trở về, được chuyển thành 10 tập phim ?oThời gian còn lại?.

    - Tác phẩm của anh thường đặt ra những vấn đề gai góc, đôi khi trần trụi, như tiểu thuyết ?oĂn mày dĩ vãng? chẳng hạn, dù gây tiếng vang, được trao giải, song cũng có nhiều tranh luận trái ngược?

    - Cuốn này tôi viết với gam màu chiến tranh thật nặng. Có nhiều người yêu song cũng lắm người ghét. Qua đó, tôi nghĩ văn học đích thực phải đi chông chênh một chút, hiểm nghèo một chút để có thể lay động tâm thức sâu nhất của con người.

    - Anh là người có nhiều kịch bản sân khấu khá nổi đình nổi đám: ?oĂn mày dĩ vãng?, ?oHà Nội đêm trở gió?, ?oNgười mẹ tự cháy??, sao dạo này không thấy anh sang chơi bên sân này?

    - Sau ?oĂn mày dĩ vãng?, bạn bè nói tôi như quả pháo đùng, nổ toác rỗng rồi, tôi liền viết tiểu thuyết ?oPhố? để chứng minh rằng khi nhà văn còn đau đáu với cuộc đời thì đề tài nào cũng viết ngon lành đề tài không bao giờ có tội, chỉ là cái phông rất mỏng ở đằng sau cái mình định gửi gắm và cái phông ấy càng mỏng thì số phận con người càng lên. Từ ?oPhố? cũng có tiếng vang, tôi chuyển thành kịch ?oHà Nội đêm trở gió?. Viết kịch, để đêm đêm đến nhà hát được chìm trong một cái ghế khuất nhất trong một bóng tối, được nghe trai thanh gái lịch đọc văn mình ra rả, sướng lắm. Viết sân khấu đòi hỏi công phu, nội lực nhưng có một thực tế buồn hôm nay, người viết càng nghiêm túc, càng gửi gắm nhiều ý tưởng sâu xa càng không có ai xem. Do đó, những người muốn gửi gắm ý tưởng sâu xa cứ xa dần kịch.

    - Với một ?okhay? bày trên giá các cửa hàng sách, ở đó, chỉ với ?oNắng đồng bằng?, ?oVòng tròn bội bạc?, ?oĂn mày dĩ vãng?, ?oPhố?, ?oBa lần một lần?, ?oCuộc đời dài lắm?, người ta nói ông Chu Lai đã có một binh đoàn độc giả hùng hậu.

    - Để có số độc giả đóù là những nỗ lực kinh khủng cho sự sáng tạo. Sứ mệnh của người viết văn là phải tạo ra được cái ?omùi? văn của riêng anh. Muốn vậy anh phải dụng công. Tôi sợ những trang văn nhợt nhạt, tôi thích đẩy đến tận cùng vui buồn số phận bằng những câu văn của riêng mình, cách quan sát riêng và phải bạo, lạ một chút.

    - Thông tin của truyền hình, của các loại kỹ nghệ giải trí làm người ta chóng mặt. Nền văn hóa đọc như người đàn bà đã về già đứng dạt vào góc tường nhìn các cô gái thông tin kia nở nang, lộng lẫy, đi trên mặt đường chan hòa ánh sáng?

    - Đó chỉ là sự chóng mặt nhất thời. Cơn hỗn mang của thác lũ thông tin đã tạm qua. Cái thế giới tâm hồn của con người bao giờ cũng hướng về những rì rầm, thì chỉ có một thể loại đáp ứng được sự rì rầm ấy, đó là văn chương, bởi tâm hồn con người là khuất nẻo. Gần đây, cùng với nền kinh tế đi lên, cùng với sự vận động trí tuệ, tâm thức thì các cuốn sách hay đã có bạn đọc đông đảo.
  2. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Nhà văn Chu Lai: ?oBản chất của cuộc đời là bi tráng?

    Nhà văn Chu Lai
    Với tỉ lệ 50-50, những tiểu thuyết viết về chiến tranh của Chu Lai luôn đứng đầu bảng về độ ăn khách và gây ?osốc? cũng như lập kỷ lục về số lần tái bản. Có người bảo, đó là bởi anh dám xoáy bút vào những góc cạnh nhạy cảm chưa ai đụng tới. Chu Lai lý giải: trong anh, luôn song song tồn tại cả sự lãng mạn của một chàng trai Hà Nội lẫn sự lì lợm của một tay lính đặc công.
    Hai ?ogiai điệu? ấy, cộng thêm tính cách cực đoan của dòng họ Chu, đã phả vào văn Chu Lai một cái chất riêng có. Nó khiến những cuộc chiến tranh của anh không thể đi đến một kết thúc ?otròn trịa? mà day dứt người ta mãi ngay cả khi trang cuối cùng khép lại.
    - Những nhà văn từng đi qua cuộc chiến, mỗi người có một cách hồi tưởng chiến tranh không giống nhau, nhưng tựu chung lại vẫn là một cảm giác tự hào về một thời oanh liệt. Chỉ riêng một mình Chu Lai độc quyền khai thác chiến tranh ở một góc độ khác hẳn...
    Từ bé tôi đã sống cực đoan. Yêu ghét rõ ràng. Cái gì cũng phải đi đến tận cùng. Và bây giờ thì ông Chu Lai là đại tá duy nhất để râu trong quân đội mà được quân đội chấp nhận. Nếu tự nhận xét về mình, tôi sẽ nói thế này: Sở dĩ văn ông Chu Lai nhiều người đọc, là vì cái gì cũng được đẩy đến tận cùng của mọi buồn vui. Chu Lai không thích ?ochơi? những gam mầu nhợt nhạt. Lý do ư? Một tuổi thơ nhọc nhằn, đói khổ, một thời trai trẻ đi qua chiến tranh, cộng thêm tính cách cực đoan của nhà họ Chu, nên văn khốc liệt thế thôi. Nhưng chính sự khốc liệt ấy nó tạo ra một cái mùi đấy. Mùi Chu Lai!
    Chu Lai
    - Vì chiến tranh thực sự là một kỷ niệm đẹp và buồn. Tất cả những kỷ niệm có liên quan đến máu và nước mắt, không bao giờ vui cả. Thế nên người ta không thể không bị ám ảnh. Tôi nói thật, nếu anh đã đi qua dù chỉ một ngày trong chiến tranh, tự tay chôn dù chỉ một đồng đội thôi, nó cũng hằn lại dấu vết cho đến suốt đời. Người ta có nhiều cách định nghĩa về chiến tranh. Tôi, nhân danh một người lính, tôi nói rằng: Chiến tranh là ngày nào cũng chôn nhau nhưng chưa đến lượt chôn mình. Bản thân tôi, lao ra trận mạc với tất cả sự lãng mạn của một chàng trai Hà Nội, nhưng khi vấp phải chiến trường một cái thì mọi sự lãng mạn vỡ vụn.
    - Nếu vậy thì điều gì đã khiến anh đi hết cuộc chiến vẫn trong tư thế một người lính?
    - Ý chí và bản năng tồn tại. May là chiến tranh không phải chỉ có hoảng loạn, đau đớn, khổ ải. Nó bao giờ cũng có hai gam: dữ dội đến tận cùng, nhưng cũng lãng mạn đến tận cùng. Tất cả những cuốn sách của tôi đều chứa đựng cả hai gam này. Và tất cả phải dựa trên một cái nền: tình yêu. Nói thật, nếu chiến tranh chỉ là những trận đánh kinh hoàng và chết chóc, sẽ không có ai đọc về chiến tranh đâu. Vì vậy, có một nguyên lý sáng tạo thế này: Anh viết về đề tài nào cũng được, nhưng nếu không có một cái nền tình yêu chắc chắn, thì coi như cuốn sách ấy đổ. Dĩ nhiên, tình yêu trong chiến tranh mang một đặc thù riêng. Trong chiến tranh, tình yêu mạnh hơn bình thường gấp ngàn lần. Bởi đó là yêu một lần cho mãi mãi, yêu để chết; thậm chí, chưa kịp yêu đã chết...
    - Nếu đã coi tình yêu là một điểm tựa cho những người lính nơi chiến trường, một ?obảo chứng? cho sức hút của tác phẩm thì tại sao trong tiểu thuyết của anh, hầu như mối tình nào cũng phảng phất một dư vị buồn và khó đi đến trọn vẹn?
    - Hầu hết các nhân vật chính của tôi là nữ. Nếu cuộc chiến tranh mà thiếu đi một dáng con gái mềm mại, nó sẽ là vô nghĩa. Bởi vì chính cái dáng dấp con gái ấy đã đẩy sâu lý tưởng chiến đấu cho những thằng lính chúng tôi. Một thời con gái đi qua chiến trường, có những sự hi sinh khốc liệt đến không thể tưởng tượng được. Trong tiểu thuyết của tôi, các cô gái cuối cùng đều... chết. Nó như là một ?othi pháp? để gợi ấn tượng. Đó là nói vui. Còn thực ra thì bản chất của chiến tranh, bản chất của cuộc đời nó thiên về màu sắc bi tráng. Sự chết đi của nhân vật chính như một sự tất yếu. Người ta bảo, ông Chu Lai ác, khoái cho nhân vật chết. Không phải. Bản chất của cuộc đời là như thế.
    - Có cảm giác sau chiến tranh, anh đã sa vào một nỗi buồn ?ohậu chiến? kéo dài đến tận bây giờ.
    - Nhìn tôi có vẻ ồn ào phải không? Nhưng tôi là kẻ hay u buồn, chán chường. Nhiều phen muốn bẻ bút, xem cả cuộc sống lẫn viết lách là hư vô. Nhiều đêm nằm xuống chỉ muốn ngủ một giấc dài mai không dậy nữa. Cái buồn đó nó có gốc rễ. Trong chiến tranh, mọi sự rạch ròi. Còn trong thời bình, nhiều thứ lẫn lộn. Trong chiến tranh, cái ác tập trung hết vào kẻ thù, để mình chỉ phải nã một băng đạn là xong. Cái ác chết ngay. Còn bây giờ, nhiều chuyện chướng tai gai mắt vây xung quanh mà mình không làm gì được. Ám ảnh chiến tranh đã là một nỗi đau. Nhưng những bất công của đời thường còn xé toạc nỗi đau ra thêm nữa.
    - Nhưng điều lạ là chính nỗi buồn ấy lại nuôi dưỡng sức sáng tạo trong anh, bằng chứng là hàng loạt tiểu thuyết viết về chiến tranh đã tạo nên một ?othương hiệu? Chu Lai không lẫn vào đâu được?
    - Chính nỗi buồn ấy lại là tài sản vô giá của con người đấy. Nó nuôi dưỡng sự tồn tại của con người và cảm hứng sáng tạo. Giải phóng Sài Gòn, tôi đứng giữa Thành phố ngẩn ngơ. Mình làm gì bây giờ? Thời trai trẻ qua đi rồi, sức khỏe thì giảm sút, quân hàm dừng lại và tiền bạc không có. Trong những đêm buồn như thế, không ngờ văn chương bắt đầu trỗi dậy. Viết với tốc độ kinh hoàng. Đến ?oNắng đồng bằng?, viết xong cảm thấy mình dứt nghiệp văn chương đến nơi vì ?orỗng ruột? rồi. Nhưng hóa ra, cứ ngồi vào bàn là câu chữ nó tự ?osinh sôi?.
    - Điều gì khiến anh thỏa mãn nhất khi cầm bút viết về chiến tranh?
    - Là được đi đến tận cùng. Bước vào chiến tranh, con người ta bộc lộ tất cả tính cách. Chiến tranh giống như một loại dung dịch đặc biệt khiến cho tất cả những gì chạm tới đều phải lên hết mầu, hết nét, từ sự giả dối, thấp hèn đến sự cao thượng, thánh thiện... Không gì che giấu được. Chính vì thế, trong chiến tranh, các số phận nhân vật có quyền đẩy đến tận cùng của mọi buồn, vui.
    Mái tóc bù xù, những nếp nhăn như những đường giao thông hào cày sâu trên mặt, cái nhìn như muốn thọc sâu vào mọi ngõ ngách tâm tư của người đối diện - một bề ngoài hoàn toàn phù hợp với tính cách và văn chương Chu Lai. Có cảm giác trong mọi hoàn cảnh, Chu Lai luôn ?ocố thủ? cho mình một cái vẻ lạnh lùng, bất cần pha chút tếu táo. Chỉ khi anh kể những câu chuyện cảm động về tình người trong chiến tranh, những câu chuyện nghe xong có thể bật khóc, người ta mới chợt phát hiện ra, khi người đàn ông này cầm bút viết về chiến tranh, là còn bởi một điều gì đó cao hơn cả nỗi ám ảnh của máu và nước mắt.
  3. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Nhà văn Chu Lai: ?oBản chất của cuộc đời là bi tráng?

    Nhà văn Chu Lai
    Với tỉ lệ 50-50, những tiểu thuyết viết về chiến tranh của Chu Lai luôn đứng đầu bảng về độ ăn khách và gây ?osốc? cũng như lập kỷ lục về số lần tái bản. Có người bảo, đó là bởi anh dám xoáy bút vào những góc cạnh nhạy cảm chưa ai đụng tới. Chu Lai lý giải: trong anh, luôn song song tồn tại cả sự lãng mạn của một chàng trai Hà Nội lẫn sự lì lợm của một tay lính đặc công.
    Hai ?ogiai điệu? ấy, cộng thêm tính cách cực đoan của dòng họ Chu, đã phả vào văn Chu Lai một cái chất riêng có. Nó khiến những cuộc chiến tranh của anh không thể đi đến một kết thúc ?otròn trịa? mà day dứt người ta mãi ngay cả khi trang cuối cùng khép lại.
    - Những nhà văn từng đi qua cuộc chiến, mỗi người có một cách hồi tưởng chiến tranh không giống nhau, nhưng tựu chung lại vẫn là một cảm giác tự hào về một thời oanh liệt. Chỉ riêng một mình Chu Lai độc quyền khai thác chiến tranh ở một góc độ khác hẳn...
    Từ bé tôi đã sống cực đoan. Yêu ghét rõ ràng. Cái gì cũng phải đi đến tận cùng. Và bây giờ thì ông Chu Lai là đại tá duy nhất để râu trong quân đội mà được quân đội chấp nhận. Nếu tự nhận xét về mình, tôi sẽ nói thế này: Sở dĩ văn ông Chu Lai nhiều người đọc, là vì cái gì cũng được đẩy đến tận cùng của mọi buồn vui. Chu Lai không thích ?ochơi? những gam mầu nhợt nhạt. Lý do ư? Một tuổi thơ nhọc nhằn, đói khổ, một thời trai trẻ đi qua chiến tranh, cộng thêm tính cách cực đoan của nhà họ Chu, nên văn khốc liệt thế thôi. Nhưng chính sự khốc liệt ấy nó tạo ra một cái mùi đấy. Mùi Chu Lai!
    Chu Lai
    - Vì chiến tranh thực sự là một kỷ niệm đẹp và buồn. Tất cả những kỷ niệm có liên quan đến máu và nước mắt, không bao giờ vui cả. Thế nên người ta không thể không bị ám ảnh. Tôi nói thật, nếu anh đã đi qua dù chỉ một ngày trong chiến tranh, tự tay chôn dù chỉ một đồng đội thôi, nó cũng hằn lại dấu vết cho đến suốt đời. Người ta có nhiều cách định nghĩa về chiến tranh. Tôi, nhân danh một người lính, tôi nói rằng: Chiến tranh là ngày nào cũng chôn nhau nhưng chưa đến lượt chôn mình. Bản thân tôi, lao ra trận mạc với tất cả sự lãng mạn của một chàng trai Hà Nội, nhưng khi vấp phải chiến trường một cái thì mọi sự lãng mạn vỡ vụn.
    - Nếu vậy thì điều gì đã khiến anh đi hết cuộc chiến vẫn trong tư thế một người lính?
    - Ý chí và bản năng tồn tại. May là chiến tranh không phải chỉ có hoảng loạn, đau đớn, khổ ải. Nó bao giờ cũng có hai gam: dữ dội đến tận cùng, nhưng cũng lãng mạn đến tận cùng. Tất cả những cuốn sách của tôi đều chứa đựng cả hai gam này. Và tất cả phải dựa trên một cái nền: tình yêu. Nói thật, nếu chiến tranh chỉ là những trận đánh kinh hoàng và chết chóc, sẽ không có ai đọc về chiến tranh đâu. Vì vậy, có một nguyên lý sáng tạo thế này: Anh viết về đề tài nào cũng được, nhưng nếu không có một cái nền tình yêu chắc chắn, thì coi như cuốn sách ấy đổ. Dĩ nhiên, tình yêu trong chiến tranh mang một đặc thù riêng. Trong chiến tranh, tình yêu mạnh hơn bình thường gấp ngàn lần. Bởi đó là yêu một lần cho mãi mãi, yêu để chết; thậm chí, chưa kịp yêu đã chết...
    - Nếu đã coi tình yêu là một điểm tựa cho những người lính nơi chiến trường, một ?obảo chứng? cho sức hút của tác phẩm thì tại sao trong tiểu thuyết của anh, hầu như mối tình nào cũng phảng phất một dư vị buồn và khó đi đến trọn vẹn?
    - Hầu hết các nhân vật chính của tôi là nữ. Nếu cuộc chiến tranh mà thiếu đi một dáng con gái mềm mại, nó sẽ là vô nghĩa. Bởi vì chính cái dáng dấp con gái ấy đã đẩy sâu lý tưởng chiến đấu cho những thằng lính chúng tôi. Một thời con gái đi qua chiến trường, có những sự hi sinh khốc liệt đến không thể tưởng tượng được. Trong tiểu thuyết của tôi, các cô gái cuối cùng đều... chết. Nó như là một ?othi pháp? để gợi ấn tượng. Đó là nói vui. Còn thực ra thì bản chất của chiến tranh, bản chất của cuộc đời nó thiên về màu sắc bi tráng. Sự chết đi của nhân vật chính như một sự tất yếu. Người ta bảo, ông Chu Lai ác, khoái cho nhân vật chết. Không phải. Bản chất của cuộc đời là như thế.
    - Có cảm giác sau chiến tranh, anh đã sa vào một nỗi buồn ?ohậu chiến? kéo dài đến tận bây giờ.
    - Nhìn tôi có vẻ ồn ào phải không? Nhưng tôi là kẻ hay u buồn, chán chường. Nhiều phen muốn bẻ bút, xem cả cuộc sống lẫn viết lách là hư vô. Nhiều đêm nằm xuống chỉ muốn ngủ một giấc dài mai không dậy nữa. Cái buồn đó nó có gốc rễ. Trong chiến tranh, mọi sự rạch ròi. Còn trong thời bình, nhiều thứ lẫn lộn. Trong chiến tranh, cái ác tập trung hết vào kẻ thù, để mình chỉ phải nã một băng đạn là xong. Cái ác chết ngay. Còn bây giờ, nhiều chuyện chướng tai gai mắt vây xung quanh mà mình không làm gì được. Ám ảnh chiến tranh đã là một nỗi đau. Nhưng những bất công của đời thường còn xé toạc nỗi đau ra thêm nữa.
    - Nhưng điều lạ là chính nỗi buồn ấy lại nuôi dưỡng sức sáng tạo trong anh, bằng chứng là hàng loạt tiểu thuyết viết về chiến tranh đã tạo nên một ?othương hiệu? Chu Lai không lẫn vào đâu được?
    - Chính nỗi buồn ấy lại là tài sản vô giá của con người đấy. Nó nuôi dưỡng sự tồn tại của con người và cảm hứng sáng tạo. Giải phóng Sài Gòn, tôi đứng giữa Thành phố ngẩn ngơ. Mình làm gì bây giờ? Thời trai trẻ qua đi rồi, sức khỏe thì giảm sút, quân hàm dừng lại và tiền bạc không có. Trong những đêm buồn như thế, không ngờ văn chương bắt đầu trỗi dậy. Viết với tốc độ kinh hoàng. Đến ?oNắng đồng bằng?, viết xong cảm thấy mình dứt nghiệp văn chương đến nơi vì ?orỗng ruột? rồi. Nhưng hóa ra, cứ ngồi vào bàn là câu chữ nó tự ?osinh sôi?.
    - Điều gì khiến anh thỏa mãn nhất khi cầm bút viết về chiến tranh?
    - Là được đi đến tận cùng. Bước vào chiến tranh, con người ta bộc lộ tất cả tính cách. Chiến tranh giống như một loại dung dịch đặc biệt khiến cho tất cả những gì chạm tới đều phải lên hết mầu, hết nét, từ sự giả dối, thấp hèn đến sự cao thượng, thánh thiện... Không gì che giấu được. Chính vì thế, trong chiến tranh, các số phận nhân vật có quyền đẩy đến tận cùng của mọi buồn, vui.
    Mái tóc bù xù, những nếp nhăn như những đường giao thông hào cày sâu trên mặt, cái nhìn như muốn thọc sâu vào mọi ngõ ngách tâm tư của người đối diện - một bề ngoài hoàn toàn phù hợp với tính cách và văn chương Chu Lai. Có cảm giác trong mọi hoàn cảnh, Chu Lai luôn ?ocố thủ? cho mình một cái vẻ lạnh lùng, bất cần pha chút tếu táo. Chỉ khi anh kể những câu chuyện cảm động về tình người trong chiến tranh, những câu chuyện nghe xong có thể bật khóc, người ta mới chợt phát hiện ra, khi người đàn ông này cầm bút viết về chiến tranh, là còn bởi một điều gì đó cao hơn cả nỗi ám ảnh của máu và nước mắt.
  4. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Chu Lai, cứ như chỗ tôi biết...Xuân Ba
    ... Dai dẳng làm sao những đêm ấy, bây giờ vẫn mồn một trong tâm trí con đường đất lồi lõm chạy qua làng tôi nối với ga Lèn ngược lên nữa là Kim Tân, Phố Cát là Rịa. Nho Quan cứ đêm đêm tầm mười, mười một giờ cứ rầm rịch, thậm thịch hoặc rào rào bước chân của những đơn vị bộ đội hành quân vào nam. Nhiều đêm choàng thức bởi chợt thoảng âm thanh thình thịch hoặc rào rào ấy, hay tiếng lanh canh rất khẽ của đôi thùng gánh nước mà mẹ tôi trong chân Hội mẹ chiến sĩ đang sửa soạn mỗi mẹ một gánh, hàng trăm gánh nước vối như thế, đêm nào cũng vậy mang ra đường "úy lạo" bộ đội. Khối đêm say ngủ không biết bảnh mắt ra đường thấy trên nền đường hun hun dài tít tắp mà đất bột đóng dày tới mấy phân hằn lớp lớp dấu dép đúc, dấu giày... Chỗ đặt những gánh nước vối đêm qua còn vương vài lớp giấy bóng bọc bao lương khô 701, 702. Rồi mùa đông năm 1966, một đại đội tân binh đã dừng lại trú hẳn trong cái làng Lon rậm rịt tre pheo muỗm quéo của tôi gần bảy tháng để huấn luyện đi B. Tổ "tam tam" đóng quân tại nhà tôi là ba chàng trai người bắc. Trong đó có một người thấp đậm tóc xoăn má phúng phính nhưng mỗi sáng lại thấy mờ xanh những vệt chân râu mới cạo. Mẹ tôi nói "anh này hỗn râu..." Chậu cơm lấy về từ bếp đại đội nhoáng cái đã hết... Mẹ tôi thương các anh sức ăn sức ngủ thi thoảng lại góp cho tổ "tam tam" nồi sắn luộc hay dong riềng. Cái anh "hỗn râu" được bọn trẻ trong làng mê tít, ngoài tài kể chuyện, nhất là chuyện Hà Nội, khi ấy với chúng tôi cứ vời vợi xa, lại còn hát khá hay bằng cái giọng trầm khàn khàn. Tôi khoái và nhớ một bài địch vận có đoạn "Quay về đi thôi hỡi anh người lính cộng hòa. Trong lòng anh có nghe bao lời ca. Khoác súng trên vai lòng anh có khi nào mơ tới tương lai mơ đến một ngày mai...". Một lần tôi thấy anh "hỗn râu" ấy khóc. Mà khóc tức tưởi. Ai dỗ cũng chẳng nín. Nước mắt nước mũi đầm đìa mắt đỏ ngầu, ngó sợ lắm... Ðó là lần bốn chiếc F.105 "Thần sấm sét" phát hiện một đám ma ở làng Hoành, làng Giành diễu dọc sông Mã sát với làng tôi, đã thay nhau bổ nhào xuống cắt bom phóng rốc-két gần nửa giờ đồng hồ. Cả đại đội tân binh được lệnh án binh bất động trong khe núi sau làng cấm "động thủ" bởi ngoài đại đội tân binh sát nơi ném bom còn cả một sư đoàn đang làm nhiệm vụ huấn luyện đóng quân rải suốt mười lăm cây số lên tận Thạch Thành. Anh "hỗn râu" cứ nức nở "trời ơi, hắn bổ nhào trông to như cái thuyền mà đành ghìm súng nằm im xem chúng giết đồng bào mình". Trận oanh tạc ấy đã làm chết ngót trăm thường dân vô tội của hai làng... Bảy tháng sau, tôi không biết anh "hỗn râu" cùng đơn vị đi những nơi nào về phía chiến trường. Hơn hai mươi năm sau, tôi đã gặp lại anh "hỗn râu" ngày ấy ở Hà Nội. Ðó là nhà văn Chu Lai...
    ... Cả đại đội đóng quân ở làng tôi ngày ấy, nghe Chu Lai nói đâu như bây giờ chỉ còn không đến một phần ba. "Thôi mày hỏi mà làm gì, nhắc lại làm gì, buồn bỏ mẹ!". Tôi sợ sệt kính cẩn lướt mắt lên cái giá sách nhà anh bày đầy những tác phẩm lớn nhỏ thứ dày thứ mỏng của hơn chục nhà xuất bản những truyện ngắn, tiểu thuyết của tác giả Chu Lai. Nhưng nghe nhà văn mắng như thở hắt ra như thế lại thấy thân gần như ngày nào anh "hỗn râu" với giọng khàn khàn "quay về đi thôi hỡi anh người lính cộng hòa...". Trước thì chả nói làm chi kể cả thời gian "đứt quãng" thì tới giờ cũng có mười mấy năm gần Chu Lai. Gần chứ không thân, có lẽ tôi chẳng phải "dạng" để Chu Lai bỡn cợt hay trút tâm sự gan ruột về nghề nghiệp? Ngồi với nhau kể cũng kha khá nhưng chưa có cuộc nhậu nào Chu Lai ngồi đến đầu đến đũa hay "mút mùa" bởi chỉ một hai ly là mắt trước mắt sau đã chẳng thấy đâu cả. "Lão ấy chuồn về viết đấy mà. Tiếc công tiếc việc lắm. Quần quật như cái thằng thợ cày thèm đất nay được chia ruộng khoán...". Ông Lê Lựu đồng hương với Chu Lai vống lên rõ hơn giữa mâm trong một cuộc nhậu. Một ông khác hấp háy cặp mắt vốn kèm nhèm "Sao cứ thấy Chu Lai giễu Lê Lựu khi viết khổ sở như anh nông dân Phủ Khoái đi cày?". Lê Lựu hê hê "ối giời ơi, Chu Lai mới đích thị là thợ cày chính hiệu...". Hóa ra ngồi với ối người, Chu Lai đều có kiểu vội vội vàng vàng ấy... Người nói Chu Lai tửu lượng kém nhưng quả tội chưa thấy Chu Lai méo tiếng bao giờ... Kém thì phải méo nhanh chứ? Nhưng có lẽ Lê Lựu "đọc" đúng vị? Nhớ hồi mới gặp lại, thấy kiểu vê rồi nạp thuốc lào rất chi là rề rà cả cái chất giọng khủng khỉnh rằng tao đang chán đang ngấy đang muốn mửa mọi thứ ra đây... Giữa những hơi thuốc lào khói cuồn cuộn như một màn đất núi che lấp cái đầu bù xù xoăn tít bỗng bật ra cái chất giọng trầm khàn cố hữu "cứ nghĩ câu của Withman mà thấy khiếp rằng nghề văn là cái nghề hằng ngày lấy bút làm thìa múc óc ra ăn"! Tôi giật thột, có khi lão này sắp bỏ viết đến nơi! Nhưng nói zậy mà đâu phải zậy... Bẵng đi một dạo từ hồi "lão" thở hắt ra như thế, thấy dân đọc "sôi" lên với Vòng tròn bội bạc rồi Phố (có lẽ được liệt vào loại hiếm khi nhà văn Chu Lai được độc giả "biên tập" lại tên sách, ít ai gọi là Phố mà người ta quen gọi là Phố nhà binh), v.v. Chớ nghe Chu nói, hãy ngó Chu làm. Có anh viết khẳng khái thế... Nhiều bận có đảo qua nhà Chu Lai thấy cửa giả im ỉm khóa. Ðích là vắng nhà rồi. Nhưng một bận đang tần ngần trước ổ khóa, tôi thoảng thấy giọng khàn khàn vọng từ tầng trên rồi xoảng, một cái chùm chìa thảy xuống. Thì ra đóng trái cửa lại mà "cày"! Rồi mặc cho tôi nhâm nhi ly rượu thuốc hay đọc vớ vẩn chi đó, Chu Lai với chiếc quần cộc và trần trùng trục hệt một gã ếch khổng lồ bám rịt lấy chiếc máy vi tính mổ lia mổ lịa... Tôi chưa bao giờ chứng kiến cái cảnh Chu Lai say sưa hay cao đàm khoát luận với ai đó hay cuộc gặp nhỏ hay lớn về thứ gì sắp viết hoặc đang viết dù tiểu thuyết, một bài báo hay truyện ngắn như một số người viết tôi thường thấy... Nói trước bước không qua hay sợ xui? Những anh nào yếu bóng vía hay có ý đồ xông vào trường văn trận bút nghe Chu tiên sinh thở hắt ra như thế thì chuẩn bị tinh thần để vứt bút đi là vừa. Mà Chu Lai lại thuộc dạng "hoạt ngôn" nữa mới chết. Chu Lai chỉ cởi mở trong những cuộc mời hay ngẫu hứng trong cuộc gặp hẹp, thậm chí con cà con kê những gì đã qua tức là những cuốn sách đã viết dù chưa in. Con gái tôi học ở một trường phổ thông cơ sở một lần trường mời nhà văn đến nói chuyện về nhà cứ xuýt xoa "Bác nhà văn Chu Lai hay lắm bố ơi... mà bố có biết bác ấy không?". Lần đó hình như Chu Lai nói về vốn sống và thực tế để viết Nắng đồng bằng...
    Lâu rồi tôi đâm "đóng khung" cái ý nghĩ là có lẽ ngoài việc viết, nghề viết ra Chu Lai không biết làm gì khác nói đúng hơn là không có "hứng" nào khác thì phải? Có vẻ như chẳng hề bị câu thúc bởi sự mưu sinh, hai vợ chồng lương đại tá, nhõn một anh con giai đang tu nghiệp ở một trường đại học, trời cho ở tầm sắp lục tuần mà còn vập vạp sung túc như thế tội chi mà không tung tẩy đâu đó cho đã!? Bập vào việc viết rồi mà rên rẩm ca cẩm thở hắt ra mãi như vậy, giễu mình giễu luôn cái nghề mãi như thế để làm gì? Thôi thì nếu là cái bệnh thì cũng là bệnh vô hại. Vả chăng, như người ta nói gì nhỉ, ở độ thâm hậu mà không ý thức về sự thâm hậu ấy mới là thâm hậu na ná như một "biến tướng" của Thiền là "vô ngã"! Hay là Chu Lai đang tập Thiền? Nói loăng quăng vậy thôi, thâm hậu đâu tôi chẳng biết như tuế tóa chơi chơi đôi khi cả sự thở hắt cả ra như thế nhưng lúc nào cũng hiển hiện sờ sờ một Chu Lai tất bật nghiêm cẩn trong việc viết. Chả biết khi dựng những cuốn tiểu thuyết tày tặn thì nhọc nhằn, tất tả ra sao chứ nhớ hồi còn Bộ Nội thương, cái hồi bao cấp khốn khó ấy. Bộ mời mấy anh em đi viết cho họ một tập sách. Phàn "bập" vào những việc kiểu ta trái như thế, tôi thấy không ít người cứ ở nhà "chế tác phẩm" ra từ những bản báo cáo tài liệu dày cộp có sẵn, nhưng Chu Lai hai lần, một bận đi xe của Bộ một bận cưỡi xe máy mấy trăm cây số đến tận nơi có điển hình rồi lỳ ở đấy cả tuần hỏi han ghi chép... Rồi sách ra, không biết đọc có kỹ không mà ông Bộ trưởng thở dài "chao ôi, cái nghề mình tưởng đã biết đã hiểu tới nhàm hóa ra khi đọc vẫn thấy lạ thấy hồi hộp..." Lần ấy ở một trại viết Ðồ Sơn, khi đi mắt tôi nhìn rõ mười mươi là Chu Lai đã đưa "thành phẩm" cho ông phụ trách rồi mà có đêm thiếp hẳn đi được một giấc, trở dậy tôi vẫn thấy phòng anh đèn sáng rất khuya... Phòng bên thì Lê Lựu, với lối viết khó nhọc cố hữu đang xoài người trên giường mà "cày". Phòng bên nữa thì âm thanh bàn phím chiếc máy vi tính xách tay của Trần Ðăng Khoa thi thoảng lại lạch xạch... Tôi ngán ngẩm, quả là Trời đày mấy lão này, đêm biển mát mẻ thế này mà... Ghé qua phòng Chu Lai kéo điếu thuốc lào, tôi ngạc nhiên thấy bản thảo tập bút ký mà tôi thấy anh đã đưa đang được tác giả "khảo" lại... "mà vẫn chưa thấy vừa ý - rồi Chu Lai thở dài nhăn nhở cười - đeo cái tên nó nhục thế đấy...".
    Nghiêm cẩn thì hẳn phải nhọc nhằn vất vả chứ chẳng thể nào chơi chơi tài tử như có một anh đã vênh váo cao đàm khoát luận hẳn hoi trên một diễn đàn là "tôi chỉ cần ngồi nhà ngó qua cửa sổ đã thấy ối tình huống, khối chất liệu..." (!?) Cuốn tiểu thuyết Cuộc đời dài lắm là khối người đang cầm trên tay, tôi biết Chu Lai tất tả với nó nhiều năm... Một bận tôi được theo Chu Lai về vùng cao-su miền Ðông Nam Bộ, nơi địa bàn quen thuộc những năm đánh Mỹ của đại đội trưởng đặc công Chu Lai mà nhiều lúc anh thường tặc lưỡi "cái anh viết phải có một mảnh đất một nơi quen thuộc để đi đi về về... Có lẽ vùng này khéo mà là nơi ấy của mình...". Vùng này Chu Lai có một người bạn thân từ những năm trận mạc. Ðó là Hà Nguyên Cát nay đang giữ trọng trách lo công ăn việc làm của mấy nghìn con người, Tổng Giám đốc Công ty Cao-su Phú Riềng. Chuyện làm ăn nếu cho "ra môn ra khoai" trong thời buổi kinh tế thị trường có mà vô khối việc phải bàn từ giờ cho đến... mai hậu! Hay, dở, tốt xấu, xuống chó lên voi, lận đận, hanh thông... mà ở ông bạn Hà Nguyên Cát gần như hội đủ. Nhiều lần tới lui về miền đất ấy, mà sao phải lắm lần như vậy vì không thỏa mãn với những bài báo, những bút ký mình đã viết, thậm chí cả một truyện dài có tên là Gió xanh nữa... Và sau hết, Chu Lai biết vượt thoát khỏi những "mệnh yểu" của những ghi chép tân văn "công nghiệp hóa" lên cho cái trục nam châm khổng lồ nhân tình thế thái, nhân văn nhân bản xoay tít làm hạt nhân để vô vàn chi tiết tình huống đeo bám, thăng hoa thành Cuộc đời dài lắm.
    Cực nhọc vất vả thay cho những người viết đã "trót" quăng ra trước mình những cái "mốc" mà quãng đời còn lại phải hì hụi, phải tất tả để vượt qua chính những cái mốc ấy... Ðã "trót" thuộc, "trót" quen với Nắng đồng bằng, Phố nhà binh, Vòng tròn bội bạc, v.v. nếu bây chừ có việc thiên hạ sắc mắc khắt khe với Chu Lai thì cũng là điều không mấy lạ! Cũng như có ai đó phàn nàn là Chu Lai "cực đoan" hay "nổi đóa" khi trực tiếp "can dự" chứng kiến những tình huống bạn viết hay bạn đọc đòi hỏi khắt khe ấy... Bởi tôi trộm nghĩ, Chu Lai có quyền "bảo vệ, minh chứng" cho việc lao động nghiêm cẩn nhọc nhằn của mình chứ nhỉ?
  5. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Chu Lai, cứ như chỗ tôi biết...Xuân Ba
    ... Dai dẳng làm sao những đêm ấy, bây giờ vẫn mồn một trong tâm trí con đường đất lồi lõm chạy qua làng tôi nối với ga Lèn ngược lên nữa là Kim Tân, Phố Cát là Rịa. Nho Quan cứ đêm đêm tầm mười, mười một giờ cứ rầm rịch, thậm thịch hoặc rào rào bước chân của những đơn vị bộ đội hành quân vào nam. Nhiều đêm choàng thức bởi chợt thoảng âm thanh thình thịch hoặc rào rào ấy, hay tiếng lanh canh rất khẽ của đôi thùng gánh nước mà mẹ tôi trong chân Hội mẹ chiến sĩ đang sửa soạn mỗi mẹ một gánh, hàng trăm gánh nước vối như thế, đêm nào cũng vậy mang ra đường "úy lạo" bộ đội. Khối đêm say ngủ không biết bảnh mắt ra đường thấy trên nền đường hun hun dài tít tắp mà đất bột đóng dày tới mấy phân hằn lớp lớp dấu dép đúc, dấu giày... Chỗ đặt những gánh nước vối đêm qua còn vương vài lớp giấy bóng bọc bao lương khô 701, 702. Rồi mùa đông năm 1966, một đại đội tân binh đã dừng lại trú hẳn trong cái làng Lon rậm rịt tre pheo muỗm quéo của tôi gần bảy tháng để huấn luyện đi B. Tổ "tam tam" đóng quân tại nhà tôi là ba chàng trai người bắc. Trong đó có một người thấp đậm tóc xoăn má phúng phính nhưng mỗi sáng lại thấy mờ xanh những vệt chân râu mới cạo. Mẹ tôi nói "anh này hỗn râu..." Chậu cơm lấy về từ bếp đại đội nhoáng cái đã hết... Mẹ tôi thương các anh sức ăn sức ngủ thi thoảng lại góp cho tổ "tam tam" nồi sắn luộc hay dong riềng. Cái anh "hỗn râu" được bọn trẻ trong làng mê tít, ngoài tài kể chuyện, nhất là chuyện Hà Nội, khi ấy với chúng tôi cứ vời vợi xa, lại còn hát khá hay bằng cái giọng trầm khàn khàn. Tôi khoái và nhớ một bài địch vận có đoạn "Quay về đi thôi hỡi anh người lính cộng hòa. Trong lòng anh có nghe bao lời ca. Khoác súng trên vai lòng anh có khi nào mơ tới tương lai mơ đến một ngày mai...". Một lần tôi thấy anh "hỗn râu" ấy khóc. Mà khóc tức tưởi. Ai dỗ cũng chẳng nín. Nước mắt nước mũi đầm đìa mắt đỏ ngầu, ngó sợ lắm... Ðó là lần bốn chiếc F.105 "Thần sấm sét" phát hiện một đám ma ở làng Hoành, làng Giành diễu dọc sông Mã sát với làng tôi, đã thay nhau bổ nhào xuống cắt bom phóng rốc-két gần nửa giờ đồng hồ. Cả đại đội tân binh được lệnh án binh bất động trong khe núi sau làng cấm "động thủ" bởi ngoài đại đội tân binh sát nơi ném bom còn cả một sư đoàn đang làm nhiệm vụ huấn luyện đóng quân rải suốt mười lăm cây số lên tận Thạch Thành. Anh "hỗn râu" cứ nức nở "trời ơi, hắn bổ nhào trông to như cái thuyền mà đành ghìm súng nằm im xem chúng giết đồng bào mình". Trận oanh tạc ấy đã làm chết ngót trăm thường dân vô tội của hai làng... Bảy tháng sau, tôi không biết anh "hỗn râu" cùng đơn vị đi những nơi nào về phía chiến trường. Hơn hai mươi năm sau, tôi đã gặp lại anh "hỗn râu" ngày ấy ở Hà Nội. Ðó là nhà văn Chu Lai...
    ... Cả đại đội đóng quân ở làng tôi ngày ấy, nghe Chu Lai nói đâu như bây giờ chỉ còn không đến một phần ba. "Thôi mày hỏi mà làm gì, nhắc lại làm gì, buồn bỏ mẹ!". Tôi sợ sệt kính cẩn lướt mắt lên cái giá sách nhà anh bày đầy những tác phẩm lớn nhỏ thứ dày thứ mỏng của hơn chục nhà xuất bản những truyện ngắn, tiểu thuyết của tác giả Chu Lai. Nhưng nghe nhà văn mắng như thở hắt ra như thế lại thấy thân gần như ngày nào anh "hỗn râu" với giọng khàn khàn "quay về đi thôi hỡi anh người lính cộng hòa...". Trước thì chả nói làm chi kể cả thời gian "đứt quãng" thì tới giờ cũng có mười mấy năm gần Chu Lai. Gần chứ không thân, có lẽ tôi chẳng phải "dạng" để Chu Lai bỡn cợt hay trút tâm sự gan ruột về nghề nghiệp? Ngồi với nhau kể cũng kha khá nhưng chưa có cuộc nhậu nào Chu Lai ngồi đến đầu đến đũa hay "mút mùa" bởi chỉ một hai ly là mắt trước mắt sau đã chẳng thấy đâu cả. "Lão ấy chuồn về viết đấy mà. Tiếc công tiếc việc lắm. Quần quật như cái thằng thợ cày thèm đất nay được chia ruộng khoán...". Ông Lê Lựu đồng hương với Chu Lai vống lên rõ hơn giữa mâm trong một cuộc nhậu. Một ông khác hấp háy cặp mắt vốn kèm nhèm "Sao cứ thấy Chu Lai giễu Lê Lựu khi viết khổ sở như anh nông dân Phủ Khoái đi cày?". Lê Lựu hê hê "ối giời ơi, Chu Lai mới đích thị là thợ cày chính hiệu...". Hóa ra ngồi với ối người, Chu Lai đều có kiểu vội vội vàng vàng ấy... Người nói Chu Lai tửu lượng kém nhưng quả tội chưa thấy Chu Lai méo tiếng bao giờ... Kém thì phải méo nhanh chứ? Nhưng có lẽ Lê Lựu "đọc" đúng vị? Nhớ hồi mới gặp lại, thấy kiểu vê rồi nạp thuốc lào rất chi là rề rà cả cái chất giọng khủng khỉnh rằng tao đang chán đang ngấy đang muốn mửa mọi thứ ra đây... Giữa những hơi thuốc lào khói cuồn cuộn như một màn đất núi che lấp cái đầu bù xù xoăn tít bỗng bật ra cái chất giọng trầm khàn cố hữu "cứ nghĩ câu của Withman mà thấy khiếp rằng nghề văn là cái nghề hằng ngày lấy bút làm thìa múc óc ra ăn"! Tôi giật thột, có khi lão này sắp bỏ viết đến nơi! Nhưng nói zậy mà đâu phải zậy... Bẵng đi một dạo từ hồi "lão" thở hắt ra như thế, thấy dân đọc "sôi" lên với Vòng tròn bội bạc rồi Phố (có lẽ được liệt vào loại hiếm khi nhà văn Chu Lai được độc giả "biên tập" lại tên sách, ít ai gọi là Phố mà người ta quen gọi là Phố nhà binh), v.v. Chớ nghe Chu nói, hãy ngó Chu làm. Có anh viết khẳng khái thế... Nhiều bận có đảo qua nhà Chu Lai thấy cửa giả im ỉm khóa. Ðích là vắng nhà rồi. Nhưng một bận đang tần ngần trước ổ khóa, tôi thoảng thấy giọng khàn khàn vọng từ tầng trên rồi xoảng, một cái chùm chìa thảy xuống. Thì ra đóng trái cửa lại mà "cày"! Rồi mặc cho tôi nhâm nhi ly rượu thuốc hay đọc vớ vẩn chi đó, Chu Lai với chiếc quần cộc và trần trùng trục hệt một gã ếch khổng lồ bám rịt lấy chiếc máy vi tính mổ lia mổ lịa... Tôi chưa bao giờ chứng kiến cái cảnh Chu Lai say sưa hay cao đàm khoát luận với ai đó hay cuộc gặp nhỏ hay lớn về thứ gì sắp viết hoặc đang viết dù tiểu thuyết, một bài báo hay truyện ngắn như một số người viết tôi thường thấy... Nói trước bước không qua hay sợ xui? Những anh nào yếu bóng vía hay có ý đồ xông vào trường văn trận bút nghe Chu tiên sinh thở hắt ra như thế thì chuẩn bị tinh thần để vứt bút đi là vừa. Mà Chu Lai lại thuộc dạng "hoạt ngôn" nữa mới chết. Chu Lai chỉ cởi mở trong những cuộc mời hay ngẫu hứng trong cuộc gặp hẹp, thậm chí con cà con kê những gì đã qua tức là những cuốn sách đã viết dù chưa in. Con gái tôi học ở một trường phổ thông cơ sở một lần trường mời nhà văn đến nói chuyện về nhà cứ xuýt xoa "Bác nhà văn Chu Lai hay lắm bố ơi... mà bố có biết bác ấy không?". Lần đó hình như Chu Lai nói về vốn sống và thực tế để viết Nắng đồng bằng...
    Lâu rồi tôi đâm "đóng khung" cái ý nghĩ là có lẽ ngoài việc viết, nghề viết ra Chu Lai không biết làm gì khác nói đúng hơn là không có "hứng" nào khác thì phải? Có vẻ như chẳng hề bị câu thúc bởi sự mưu sinh, hai vợ chồng lương đại tá, nhõn một anh con giai đang tu nghiệp ở một trường đại học, trời cho ở tầm sắp lục tuần mà còn vập vạp sung túc như thế tội chi mà không tung tẩy đâu đó cho đã!? Bập vào việc viết rồi mà rên rẩm ca cẩm thở hắt ra mãi như vậy, giễu mình giễu luôn cái nghề mãi như thế để làm gì? Thôi thì nếu là cái bệnh thì cũng là bệnh vô hại. Vả chăng, như người ta nói gì nhỉ, ở độ thâm hậu mà không ý thức về sự thâm hậu ấy mới là thâm hậu na ná như một "biến tướng" của Thiền là "vô ngã"! Hay là Chu Lai đang tập Thiền? Nói loăng quăng vậy thôi, thâm hậu đâu tôi chẳng biết như tuế tóa chơi chơi đôi khi cả sự thở hắt cả ra như thế nhưng lúc nào cũng hiển hiện sờ sờ một Chu Lai tất bật nghiêm cẩn trong việc viết. Chả biết khi dựng những cuốn tiểu thuyết tày tặn thì nhọc nhằn, tất tả ra sao chứ nhớ hồi còn Bộ Nội thương, cái hồi bao cấp khốn khó ấy. Bộ mời mấy anh em đi viết cho họ một tập sách. Phàn "bập" vào những việc kiểu ta trái như thế, tôi thấy không ít người cứ ở nhà "chế tác phẩm" ra từ những bản báo cáo tài liệu dày cộp có sẵn, nhưng Chu Lai hai lần, một bận đi xe của Bộ một bận cưỡi xe máy mấy trăm cây số đến tận nơi có điển hình rồi lỳ ở đấy cả tuần hỏi han ghi chép... Rồi sách ra, không biết đọc có kỹ không mà ông Bộ trưởng thở dài "chao ôi, cái nghề mình tưởng đã biết đã hiểu tới nhàm hóa ra khi đọc vẫn thấy lạ thấy hồi hộp..." Lần ấy ở một trại viết Ðồ Sơn, khi đi mắt tôi nhìn rõ mười mươi là Chu Lai đã đưa "thành phẩm" cho ông phụ trách rồi mà có đêm thiếp hẳn đi được một giấc, trở dậy tôi vẫn thấy phòng anh đèn sáng rất khuya... Phòng bên thì Lê Lựu, với lối viết khó nhọc cố hữu đang xoài người trên giường mà "cày". Phòng bên nữa thì âm thanh bàn phím chiếc máy vi tính xách tay của Trần Ðăng Khoa thi thoảng lại lạch xạch... Tôi ngán ngẩm, quả là Trời đày mấy lão này, đêm biển mát mẻ thế này mà... Ghé qua phòng Chu Lai kéo điếu thuốc lào, tôi ngạc nhiên thấy bản thảo tập bút ký mà tôi thấy anh đã đưa đang được tác giả "khảo" lại... "mà vẫn chưa thấy vừa ý - rồi Chu Lai thở dài nhăn nhở cười - đeo cái tên nó nhục thế đấy...".
    Nghiêm cẩn thì hẳn phải nhọc nhằn vất vả chứ chẳng thể nào chơi chơi tài tử như có một anh đã vênh váo cao đàm khoát luận hẳn hoi trên một diễn đàn là "tôi chỉ cần ngồi nhà ngó qua cửa sổ đã thấy ối tình huống, khối chất liệu..." (!?) Cuốn tiểu thuyết Cuộc đời dài lắm là khối người đang cầm trên tay, tôi biết Chu Lai tất tả với nó nhiều năm... Một bận tôi được theo Chu Lai về vùng cao-su miền Ðông Nam Bộ, nơi địa bàn quen thuộc những năm đánh Mỹ của đại đội trưởng đặc công Chu Lai mà nhiều lúc anh thường tặc lưỡi "cái anh viết phải có một mảnh đất một nơi quen thuộc để đi đi về về... Có lẽ vùng này khéo mà là nơi ấy của mình...". Vùng này Chu Lai có một người bạn thân từ những năm trận mạc. Ðó là Hà Nguyên Cát nay đang giữ trọng trách lo công ăn việc làm của mấy nghìn con người, Tổng Giám đốc Công ty Cao-su Phú Riềng. Chuyện làm ăn nếu cho "ra môn ra khoai" trong thời buổi kinh tế thị trường có mà vô khối việc phải bàn từ giờ cho đến... mai hậu! Hay, dở, tốt xấu, xuống chó lên voi, lận đận, hanh thông... mà ở ông bạn Hà Nguyên Cát gần như hội đủ. Nhiều lần tới lui về miền đất ấy, mà sao phải lắm lần như vậy vì không thỏa mãn với những bài báo, những bút ký mình đã viết, thậm chí cả một truyện dài có tên là Gió xanh nữa... Và sau hết, Chu Lai biết vượt thoát khỏi những "mệnh yểu" của những ghi chép tân văn "công nghiệp hóa" lên cho cái trục nam châm khổng lồ nhân tình thế thái, nhân văn nhân bản xoay tít làm hạt nhân để vô vàn chi tiết tình huống đeo bám, thăng hoa thành Cuộc đời dài lắm.
    Cực nhọc vất vả thay cho những người viết đã "trót" quăng ra trước mình những cái "mốc" mà quãng đời còn lại phải hì hụi, phải tất tả để vượt qua chính những cái mốc ấy... Ðã "trót" thuộc, "trót" quen với Nắng đồng bằng, Phố nhà binh, Vòng tròn bội bạc, v.v. nếu bây chừ có việc thiên hạ sắc mắc khắt khe với Chu Lai thì cũng là điều không mấy lạ! Cũng như có ai đó phàn nàn là Chu Lai "cực đoan" hay "nổi đóa" khi trực tiếp "can dự" chứng kiến những tình huống bạn viết hay bạn đọc đòi hỏi khắt khe ấy... Bởi tôi trộm nghĩ, Chu Lai có quyền "bảo vệ, minh chứng" cho việc lao động nghiêm cẩn nhọc nhằn của mình chứ nhỉ?
  6. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Phố nhà binh-Chu Lai
    Tất nhiên căn phố dài một ngàn hai trăm mét đó có tên gọi đàng hoàng nhưng lâu nay, do quen miệng, người ta cứ kêu là phố Nhà binh cho khỏi lẫn với các khu phố dân sự khác.
    Chỉ mới cách đây chừng đôi ba năm thôi, cảnh sắc nơi này còn vắng lặng thâm trầm lắm. Dường như tất cả các căn hộ to nhỏ, ngắn dài đều bảo nhau khinh khỉnh xây lưng ra đường, khiến cho dãy phố đã tăm tối lại càng hun hút nỗi đe dọa rập rình mỗi khi ai đó có việc phải đi sớm về khuya qua đây. Chao ôi là những đêm đông khuya khoắt, cả dãy phố chỉ độc tôn còn lại tiếng giày đinh quân cảnh gõ uể oải hai bên hè, tiếng trai gái run rẩy thì thầm nhòa chìm vào những vùng tối gốc cây và tiếng cành sấu khô rụng đơn côi xuống mặt đường mỗi khi có làn gió lạnh thổi qua...
    Vậy mà bỗng một ngày, lại như tuân thủ nhất loạt một khẩu lệnh của đấng toàn năng, sau vài đêm hỗi hả đục tường, trổ cửa, nới mái... phắt một cái, các căn hộ rùng rùng chuyển động ngỡ ngàng quay mặt ra với cuộc đời. Bao mảng tường rêu phong tựa hồ đã bị bỏ quên hàng ngàn năm in nhờ nhờ dấu chịn ngọt ngào của thân người bỗng phát khởi thành những khuôn sáng vuông tròn chan hòa đủ màu đỏ, vàng, xanh, của đủ loại kiốt thấp cao: mỹ phẩm, uốn sấy tóc, photocopi, giày dép da, điện lạnh, cà phê Berr, cà phê Noa, bún phở, xe máy, thuê và ghi hình video và sự sang trọng đến ngốt người của các đại diện giao dịch Mếch này, Tếch kia... Phố nhà binh ngày ngày bị phá vỡ cấu trúc từ bên trong để hóa thân thành một khu phố thương mại náo hoạt. Và người nhà binh cũng tự vặn mình phá vỡ mọi mặc cảm, định kiến, mảnh giáp trụ quân phục, vị thế cố hữu của phẩm hàm tướng tá, gia phong gia phả... để cố gắng hòa nhập vào dòng đời đang cuộn chảy bên ngoài, mong tìm được cuộc sống khả dĩ còn gọi được là... Cuộc sống.
    Tôi cũng có một anh bạn thân ngụ tại một căn hộ trong phố đó mà mỗi khi về Hà Nội, tôi không thể không ghé qua ăn nghỉ. Sau một ly rượu ngà ngà, nhìn Thẩm (tên người bạn) trẻ trung, cường tráng, lanh lợi và có đôi phần viên mãn, lại liếc nhìn căn hộ hai buồng không to tát nhưng xinh xắn, tiện nghi và ấm cúng, tôi bất giác buột miệng nói ra một câu mà đáng lẽ ở vào cái tuổi tôi chẳng nên nói:
    - Giả dụ như mình Thẩm ạ... Tất nhiên nói theo cảm nhận cá nhân thì... thì mình...
    - Thì dù có ăn rau ăn cháo, một thằng đàn ông chân chính không bao giờ được phép để vợ đi như thế chứ gì? - Thẩm nói tiếp hộ tôi với cái cười dễ dãi, rất tươi - Khỏi lo đi! Mỗi người một quan niệm, mỗi người một hoàn cảnh, một phận số, mình tin ở cô ấy. Mà... Hả? Dù có thế đi nữa thì đã làm sao nào? Miễn là khi cô ấy trở về, bọn mình sẽ sống ổn hơn, nhân quyền hơn, tương lai con bé Hương Thảo sẽ được đảm bảo. Ðó là cái chính, chứ ông bảo lứa bọn mình còn làm được gì nữa, coi như bỏ đi rồi. Hả?
    Nó "hả" cái kiểu nện quả tạ vào mặt người ta như thế thì còn cách nào khác là lặng lẽ gật đầu. Rồi tôi cũng bỗng dưng bật cười vì cái suy nghĩ ngồ ngộ rằng không còn nhận ra thằng Thẩm ngày xưa nữa. Một thằng Thẩm to cao như lực sĩ, cười ha hả, giọng oang oác, vui chửi tục, buồn cũng chửi tục, mặt mày lúc nào cũng tươi tỉnh rỡ ràng như sắp sửa vào cơn hưng phấn. Còn giờ đây, bộ pi gia ma trưởng giả đã thay thế cho chiếc quần cụt thể thao nó thường mặc ở nhà, thoạt trông giống như cái thằng đàn ông mắc bệnh phong tình, bữa cơm đã có cốc nước đá lạnh để cạnh mâm, vừa ăn vừa chiêu dần dà, xem ra lời ăn tiếng nói, dáng đi dáng đứng đã mềm mại khoan thai lên nhiều lắm. Còn Hương, vợ Thẩm, vốn là con một vị tướng tư lệnh binh chủng, Căn hộ hai buồng dễ thương này là ông cho con gái rượu. Trước đây hai người cùng công tác trong một đơn vị công binh cầu đường, chỉ khác kẻ ở văn phòng, người nằm sâu dưới đơn vị. Yêu cái vẻ yêng hùng chiến trận, yêu tính cách đàn ông khoáng đạt bạo liệt của chàng kỹ sư tiểu đoàn trưởng vốn gốc gác con nhà làm ruộng, cô đã lạnh lẽo khước từ không ít chàng trai tốt người đẹp mẽ, học vị đến nơi, lại con nhà môn đăng hộ đối để chấp nhận tình yêu của Thẩm, tất nhiên sau khi đã quần cho cu cậu chỉ còn thiếu nước đập đầu vào tường.
    - Này - Tôi hỏi - Ðằng nào thì cậu cũng đã trót khoét tường, trổ cửa rồi, cớ sao không cho thiên hạ thuê mở cửa hàng mỗi tháng kiếm vài trăm ngàn nuôi con?
    - Chả bõ. Thà đất đai rộng rãi như mấy ông tướng về hưu ở phố này, mỗi tháng ít nhất cũng trên dưới một triệu tiền cho thuê mặt bằng thì lại đi một nhẽ. Nói đùa! Chờ mẹ bé Hương Thảo về đã. Hình như cô ấy có ý định làm ăn lớn, cứ nhắn về là đừng ham lợi nhỏ, tập trung cho con bé có khoảng tĩnh tối thiểu để học hành, chớ để con sớm va đập vào chuyện buôn bán lời lãi, méo mó đầu óc đi. Mình ô kê ngay! Nàng còn dặn: ba tháng sẽ gửi về một va li, nửa năm gửi về một cái kích, cứ bán đi mà tiêu, đừng dành dụm.
    - Cậu hạnh phúc thật!
    - Thật lòng đấy chứ?
    - Hương vẫn như ngày nào, đảm đang, tốt bụng và rộng rãi.
    - Còn cậu - Ðôi mắt khá đẹp của Thẩm ánh lên vẻ cảm động chấp chới - Cũng phải tìm đường làm một cú mã hồi về Hà Nội đi. Hơn bốn chục tuổi mà vẫn cứ thanh gươm yên ngựa mãi?
    - Stop - Tôi lấy lại cái giọng của Thẩm - Mỗi người một quan niệm, một lối sống. Dòng người còn trôi chảy dài dài, cứ thử xem từng số phận sẽ lênh đênh đến đâu. Dẹp! Kiếm rượu uống bậy cái đã.
    Thế đấy! Không gặp thì nhớ, gặp rồi lại thường cãi lộn những chuyện không đâu và bao giờ cũng được kết thúc bằng mấy chén rượu cay nồng ở cái quán chè khuya gần đầu đường như thế!
    Phố vắng, gió lạnh, ngọn đèn dầu cháy thắc thỏm, các cánh cửa chính, cửa sổ của mọi ngôi nhà đã lần lượt được khép kín, xa lắm mới có một tiếng rao bán bánh khúc nóng khàn khàn vẳng đến. Có lẽ chỉ về đêm, cái phố nhà binh đang biến tướng này mới yếu ớt phục hồi lại cái vẻ thâm trầm xưa cũ. Vẫn lại tiếng cành sấu rơi, tiếng đế giày quân cảnh, tiếng quét rác... Chỉ khác, cả chiều dài dãy phố không còn những cặp tình nhân đứng lả người trong tay nhau.
    Khoảnh khắc ấy, tầm mắt đã có chiều bảng lảng của tôi không hiểu sao lại vô cớ ngập ngừng dừng ở góc phố, nơi có một gia đình nhỏ đang loay hoay tìm chỗ ngủ đêm. Một luồng đèn pha xe máy từ đâu đó xa lắm quét tới, đủ cho tôi kịp nhận ra đó là một cặp có vẻ là vợ chồng, một cởi trần vận quần đùi hay vận khố gì đó, một bế đứa con đang ngủ tựa một cái xác trên tay. Vang lên tiếng nhai mía rôm rốp của người đàn ông và tiếng nựng à ơi vụng dại nhọc nhằn của người đàn bà...
    - Uống đi, để ý làm gì, cảnh đời thường ở đâu chẳng có.
    Mặc Thẩm huých nhẹ vào vai, mắt tôi vẫn dán vào đấy.
    - Ðôi vợ chồng từ quê lên ăn xin à? Hay dân Phúc Xá chạy lụt?... Nhưng mùa này đâu có phải là mùa lũ?
    - Không biết!
    - Hay dân chạy chợ, dân lỡ độ đường? Có cả đứa bé nữa kia kìa!
    - Ơ hay cái cậu này! - Giọng Thẩm đã cao lên - Ra đây uống rượu hay điều tra xã hội học đấy?
    - ờ... Vừa có tốp quân cảnh đi qua, sao không thấy họ xua đuổi như mọi bận?
    - Ðuổi cả tỉnh, cả nước - Thẩm gắt khẽ - Nếu xỉn rồi thì mời ông về ngủ, ông ạ!
    Có lẽ động lòng trước cái vẻ ngơ ngơ của một kẻ ở xa đến như tôi, chị hàng nước lúc này mới cất tiếng khẽ khàng.
    - Họ đã cư trú ở đây gần một năm rồi đấy chú ạ! Tội lắm! Mưa thì chạy vào núp trong hàng hiên toà báo, tạnh lại dắt díu nhau ra đây. Mùa hè còn đỡ, đông về, cha con vợ chồng ôm nhau thành một cục tránh gió. Cũng có đận họ bỏ đi đâu cả tháng, tưởng đi luôn cũng mừng, nhưng rồi lại thấy họ trở về xơ xác, tiều tụy hơn. Ðứa bé này mới sinh được có sáu tháng. Con gái, còi cọc chỉ bằng đứa mới nở.
    - Sinh ngay trên hè phố ạ? - Tôi buột miệng.
    - Còn chỗ nào khác nữa!
    - Trời đất! �n ở vật vã thế này mà lại còn bày chuyện đẻ đái! Rồi đứa bé sẽ
    ra sao? Rồi họ lấy gì mà sống?
    - Vậy mà vẫn sống đấy - Chị hàng nước cười hiền từ - Sống quấn quít đáo để. Còn đứa nhỏ, dường như ông trời cũng thương, cấm có bệnh tật sài đẹn bao giờ.
    - Hết chưa? - Thẩm đột ngột đứng dậy.
    - Cái gì hết?
    Thẩm bật cười:
    - Là tôi hỏi cái cơn tò mò của cậu đã qua chưa?
    - Cậu về trước đi! - Ðến lượt tôi gắt lại - Cứ mặc tôi ngồi đây một mình.
    - Tuỳ! Cấp thêm cho cậu một thông tin để có cớ mà tò mò: người đang ngồi chuyện trò với cậu là một giáo sư đại học vừa về nghỉ tạm không ăn lương.
    Nói xong, Thẩm quay người đi vào. Ðến lúc này tôi mới chú mục nhìn chị bán quán. Khoảng bốn mươi nhăm tuổi, tóc uốn cao, cặp mắt hay nhìn lơ đãng lên vòm cây, miệng thi thoảng lại cố tạo ra một cái cười mỉm nhẫn nại.
    - Xin lỗi! Chị dạy ở trường nào ạ? - Tôi hỏi.
    - Thôi! Biết làm gì chú. Mỗi người một cảnh, chẳng nên nói ra, mà có nói cũng đâu có ai thông cảm, có khi còn gây bực mình. Ðấy, cứ ngẫm như cái đôi vợ chồng khốn khổ kia kìa. ở đã mòn cả vỉa hè rồi nhưng tịnh chưa thấy một ai tỏ ý giúp đỡ, chưa thấy một ai hỏi han trò chuyện nửa câu. Thiên hạ coi đó như việc tất nhiên, dễ hiểu. Buồn không? Ôi dào! - Chị thoắt thở dài - Cũng một kiếp người, đêm ôm nhau ngủ còng queo như con sâu cái kiến, ngày chồng bế con èo ẽo cho vợ đi kiếm tiền.
    - Chị ta làm ở tổ sản xuất thủ công nào ạ?
    - Tổ thủ công... chợ. Ra chợ, ai thuê gì làm đó, không ai thuê, nói phải tội, đành phải chôm chỉa, con móc túi. Miễn là có tiền. Nói vô phép chú, thậm chí có lần ông nhà tôi còn bắt gặp cô ta đi bắt khách ngoài ga. Khổ! Người ngợm cóc cáy, thịt da tong teo như thế có ma nào nó màng. Nếu có thì lại là mấy gã du côn, say rượu chơi quỵt, vừa chơi vừa trấn, có đồng nào mất hết.
    - Anh chồng chấp nhận?
    - Sao chú lại hỏi thế? Trên thế gian này thử hỏi có người chồng nào lại chấp nhận cho vợ mình đi làm cái việc kia, nhưng đói thì đầu gối phải bò thôi. Song cũng sầu thảm lắm! Hầu như không đêm nào cậu ta không đánh vợ, có bận đánh thâm tím cả mặt mày, tôi phải đỡ vào nhà lấy rượu ******* xoa bóp cho. Vậy mà chị ta không hề hé răng chửi lại, cãi lại một câu, cứ như con nô lệ tận tụy, cung cúc. Tối tối vẫn mang về cho chồng nào rượu, nào thuốc, có bữa còn khệ nệ cả một xoong to thứ bốc mả toàn xương bò.
    - Vậy ra anh chồng lại chỉ lo làm nhiệm vụ trông con ạ?
    - Cũng tùy lúc. Những buổi chiều mưa, nhìn cậu ấy bế con, mắt nhìn ảm đạm ngọn sấu già, thương lắm! Lại còn thỉnh thoảng ru con nữa chứ. Tiếng ru như tiếng nấc khan. Vào những ngày đông gió hay cô vợ ốm mệt, không ra chợ được, cậu ta trao con lại, một bị một gậy đi trèo sấu. Trèo cả ngày, có bận ngã trẹo xương vai, may lắm mới kiếm đủ tiền mua một vài cân gạo.
    Nghe tới đó, tôi đứng dậy:
    - Chị cho tôi mua gói thuốc.
    - Thuốc gì?
    - �... Du lịch thôi. Thuốc ngon hơn không đủ tiền. Lính mà.
    - Ðừng lo, chú cứ cầm gói Hê rô, tất cả đã có chú Thẩm thanh toán. Chú ấy là con người đàng hoàng, trọng nghĩa khinh tài, thỉnh thoảng vẫn sai con bé Thảo đem ra cho đôi vợ chồng kia lúc thì hộp sữa, khi lại gói thuốc, cân đường. Mà... gói này vẫn đang còn nhiều, chú mua làm gì nữa?
    - Muốn ra chuyện trò với họ một chút.
    - Thôi đi chú ơi! Cậu ta chả mở miệng đâu. Suốt ngày lầm lì, buồn thì nhai mía, vui thì ngơ ngẩn cười, mắt lúc nào cũng gườm gườm như sắp sửa đánh nhau với ai. Có lẽ cậu ấy mặc cảm?
    - Ðã khi nào chị nghĩ rằng cậu ta là người đã từng có tiền án chưa?
    - Ôi giời, mấy cái ông này! Nhìn đâu cũng thấy tội phạm cả. Cậu ấy là bộ đội đấy, bộ đội đóng ở biên giới hết nghĩa vụ trở về. Nhà ở cách đây vài dãy phố thôi, nghe nói cũng khá giả và nền nếp. Vậy mà chả rõ phải lòng phải dạ, bắt tình bắt thóp nhau thế nào mà lúc trở về lại dẫn một cô gái giang hồ, gia đình làm nghề trồng mía về theo. Tức là cô gái này đấy. Tất nhiên là gia đình không chấp nhận, đuổi thẳng. Vậy là kéo nhau ra tá túc ở đây. Công an khu vực cũng đã có đôi phen làm dữ, tống xuất họ ra khỏi thành phố, đưa đi tập trung cải tạo ở tận đẩu tận đâu nhưng cũng chỉ ba bảy hai mốt ngày là đâu lại nguyên đấy. Rút cuộc công an họ cũng chán, thây kệ không phải chỉ có một gia đình này đâu. Ôi, thời buổi nó vậy. Chả nhẽ thiên hạ đua nhau đục tường trổ cửa, kiếm tiền ngàn tiền triệu như chơi mà lại nỡ khép những con người khốn khổ vào khuôn vào phép? Ðằng kia có ánh sáng, đằng này cũng phải nhường cho người ta một khoảng bóng tối chứ. Tất cả còn đang bung bét, tất cả đang đòi hỏi phải sắp xếp lại kia mà.
    Tôi chán nản đứng dậy. Ðành rằng câu chuyện chị kể là có thật, lại kể bằng một cái giọng hết sức xót xa nhưng sao tôi vẫn không muốn nó được nói ra từ chị, từ một người đàn bà đã giảng dạy qua cấp đại học. Lạ thế!
    - Chào anh!
    Tôi cố dọn một nụ cười thân thiện, một giọng nói bỗ bã có thể và chìa gói thuốc ra trước mặt người đàn ông đang gặm mía. Nhìn cái cách anh ta gặm mía mới khiếp chứ! Gần như ăn cả vỏ, ăn cả bằng răng hàm lẫn răng cửa, chỉ ba cái rốp rốp là bay gọn một đẫn dài, bã mía đùn dưới chân cả đống. Anh ta lầm lì rút một điếu thuốc giắt chéo lên vành tai. Im lặng... Vẫn chỉ là tiếng nổ rốp rốp trong cái miệng khá rộng.
    - Rét vậy mà ăn mía không cóng răng sao ông bạn? - Tôi ngồi hẳn xuống.
    Ông bạn không trả lời, chỉ gúc goắc cái đầu to tướng. Lại im lặng... Lại rốp rốp... ánh sáng đèn cao áp xanh lét vừa đủ để soi tỏ một khuôn mặt không ra già, không ra trẻ, xanh bợt, tóc gần chấm vai, cặp môi dày trễ ra, thâm xì như cái vẻ lúc nào cũng thèm ăn thèm uống. Tóm lại là một khuôn mặt hơi bệnh hoạn và gần như không có tư duy. Anh ta chỉ mặc độc một chiếc quần đùi rộng ống đã rách te tua ở gấu, để lộ đôi bắp chân dài thõng sần sượng nhưng có vẻ còn săn rắn, vắt trên vai là chiếc áo bộ đội nhàu nát đang bốc ra mùi chua lòm khen khét.
    Lui về sau một chút, chị vợ đang âm thầm ngồi ôm con sát chân tường. Nghe được cả tiếng muỗi vo ve bay ra từ đó. Cũng là khuôn mặt nửa già nửa trẻ, tiều tụy, không rõ hình nhưng đường nét gãy gọn, nhìn kỹ thấy cũng có duyên. Bất ngờ, chị ta nháy mắt với tôi và làm một động tác xin thuốc rất láu bằng hai ngón tay đen đúa, khô xác.
  7. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Phố nhà binh-Chu Lai
    Tất nhiên căn phố dài một ngàn hai trăm mét đó có tên gọi đàng hoàng nhưng lâu nay, do quen miệng, người ta cứ kêu là phố Nhà binh cho khỏi lẫn với các khu phố dân sự khác.
    Chỉ mới cách đây chừng đôi ba năm thôi, cảnh sắc nơi này còn vắng lặng thâm trầm lắm. Dường như tất cả các căn hộ to nhỏ, ngắn dài đều bảo nhau khinh khỉnh xây lưng ra đường, khiến cho dãy phố đã tăm tối lại càng hun hút nỗi đe dọa rập rình mỗi khi ai đó có việc phải đi sớm về khuya qua đây. Chao ôi là những đêm đông khuya khoắt, cả dãy phố chỉ độc tôn còn lại tiếng giày đinh quân cảnh gõ uể oải hai bên hè, tiếng trai gái run rẩy thì thầm nhòa chìm vào những vùng tối gốc cây và tiếng cành sấu khô rụng đơn côi xuống mặt đường mỗi khi có làn gió lạnh thổi qua...
    Vậy mà bỗng một ngày, lại như tuân thủ nhất loạt một khẩu lệnh của đấng toàn năng, sau vài đêm hỗi hả đục tường, trổ cửa, nới mái... phắt một cái, các căn hộ rùng rùng chuyển động ngỡ ngàng quay mặt ra với cuộc đời. Bao mảng tường rêu phong tựa hồ đã bị bỏ quên hàng ngàn năm in nhờ nhờ dấu chịn ngọt ngào của thân người bỗng phát khởi thành những khuôn sáng vuông tròn chan hòa đủ màu đỏ, vàng, xanh, của đủ loại kiốt thấp cao: mỹ phẩm, uốn sấy tóc, photocopi, giày dép da, điện lạnh, cà phê Berr, cà phê Noa, bún phở, xe máy, thuê và ghi hình video và sự sang trọng đến ngốt người của các đại diện giao dịch Mếch này, Tếch kia... Phố nhà binh ngày ngày bị phá vỡ cấu trúc từ bên trong để hóa thân thành một khu phố thương mại náo hoạt. Và người nhà binh cũng tự vặn mình phá vỡ mọi mặc cảm, định kiến, mảnh giáp trụ quân phục, vị thế cố hữu của phẩm hàm tướng tá, gia phong gia phả... để cố gắng hòa nhập vào dòng đời đang cuộn chảy bên ngoài, mong tìm được cuộc sống khả dĩ còn gọi được là... Cuộc sống.
    Tôi cũng có một anh bạn thân ngụ tại một căn hộ trong phố đó mà mỗi khi về Hà Nội, tôi không thể không ghé qua ăn nghỉ. Sau một ly rượu ngà ngà, nhìn Thẩm (tên người bạn) trẻ trung, cường tráng, lanh lợi và có đôi phần viên mãn, lại liếc nhìn căn hộ hai buồng không to tát nhưng xinh xắn, tiện nghi và ấm cúng, tôi bất giác buột miệng nói ra một câu mà đáng lẽ ở vào cái tuổi tôi chẳng nên nói:
    - Giả dụ như mình Thẩm ạ... Tất nhiên nói theo cảm nhận cá nhân thì... thì mình...
    - Thì dù có ăn rau ăn cháo, một thằng đàn ông chân chính không bao giờ được phép để vợ đi như thế chứ gì? - Thẩm nói tiếp hộ tôi với cái cười dễ dãi, rất tươi - Khỏi lo đi! Mỗi người một quan niệm, mỗi người một hoàn cảnh, một phận số, mình tin ở cô ấy. Mà... Hả? Dù có thế đi nữa thì đã làm sao nào? Miễn là khi cô ấy trở về, bọn mình sẽ sống ổn hơn, nhân quyền hơn, tương lai con bé Hương Thảo sẽ được đảm bảo. Ðó là cái chính, chứ ông bảo lứa bọn mình còn làm được gì nữa, coi như bỏ đi rồi. Hả?
    Nó "hả" cái kiểu nện quả tạ vào mặt người ta như thế thì còn cách nào khác là lặng lẽ gật đầu. Rồi tôi cũng bỗng dưng bật cười vì cái suy nghĩ ngồ ngộ rằng không còn nhận ra thằng Thẩm ngày xưa nữa. Một thằng Thẩm to cao như lực sĩ, cười ha hả, giọng oang oác, vui chửi tục, buồn cũng chửi tục, mặt mày lúc nào cũng tươi tỉnh rỡ ràng như sắp sửa vào cơn hưng phấn. Còn giờ đây, bộ pi gia ma trưởng giả đã thay thế cho chiếc quần cụt thể thao nó thường mặc ở nhà, thoạt trông giống như cái thằng đàn ông mắc bệnh phong tình, bữa cơm đã có cốc nước đá lạnh để cạnh mâm, vừa ăn vừa chiêu dần dà, xem ra lời ăn tiếng nói, dáng đi dáng đứng đã mềm mại khoan thai lên nhiều lắm. Còn Hương, vợ Thẩm, vốn là con một vị tướng tư lệnh binh chủng, Căn hộ hai buồng dễ thương này là ông cho con gái rượu. Trước đây hai người cùng công tác trong một đơn vị công binh cầu đường, chỉ khác kẻ ở văn phòng, người nằm sâu dưới đơn vị. Yêu cái vẻ yêng hùng chiến trận, yêu tính cách đàn ông khoáng đạt bạo liệt của chàng kỹ sư tiểu đoàn trưởng vốn gốc gác con nhà làm ruộng, cô đã lạnh lẽo khước từ không ít chàng trai tốt người đẹp mẽ, học vị đến nơi, lại con nhà môn đăng hộ đối để chấp nhận tình yêu của Thẩm, tất nhiên sau khi đã quần cho cu cậu chỉ còn thiếu nước đập đầu vào tường.
    - Này - Tôi hỏi - Ðằng nào thì cậu cũng đã trót khoét tường, trổ cửa rồi, cớ sao không cho thiên hạ thuê mở cửa hàng mỗi tháng kiếm vài trăm ngàn nuôi con?
    - Chả bõ. Thà đất đai rộng rãi như mấy ông tướng về hưu ở phố này, mỗi tháng ít nhất cũng trên dưới một triệu tiền cho thuê mặt bằng thì lại đi một nhẽ. Nói đùa! Chờ mẹ bé Hương Thảo về đã. Hình như cô ấy có ý định làm ăn lớn, cứ nhắn về là đừng ham lợi nhỏ, tập trung cho con bé có khoảng tĩnh tối thiểu để học hành, chớ để con sớm va đập vào chuyện buôn bán lời lãi, méo mó đầu óc đi. Mình ô kê ngay! Nàng còn dặn: ba tháng sẽ gửi về một va li, nửa năm gửi về một cái kích, cứ bán đi mà tiêu, đừng dành dụm.
    - Cậu hạnh phúc thật!
    - Thật lòng đấy chứ?
    - Hương vẫn như ngày nào, đảm đang, tốt bụng và rộng rãi.
    - Còn cậu - Ðôi mắt khá đẹp của Thẩm ánh lên vẻ cảm động chấp chới - Cũng phải tìm đường làm một cú mã hồi về Hà Nội đi. Hơn bốn chục tuổi mà vẫn cứ thanh gươm yên ngựa mãi?
    - Stop - Tôi lấy lại cái giọng của Thẩm - Mỗi người một quan niệm, một lối sống. Dòng người còn trôi chảy dài dài, cứ thử xem từng số phận sẽ lênh đênh đến đâu. Dẹp! Kiếm rượu uống bậy cái đã.
    Thế đấy! Không gặp thì nhớ, gặp rồi lại thường cãi lộn những chuyện không đâu và bao giờ cũng được kết thúc bằng mấy chén rượu cay nồng ở cái quán chè khuya gần đầu đường như thế!
    Phố vắng, gió lạnh, ngọn đèn dầu cháy thắc thỏm, các cánh cửa chính, cửa sổ của mọi ngôi nhà đã lần lượt được khép kín, xa lắm mới có một tiếng rao bán bánh khúc nóng khàn khàn vẳng đến. Có lẽ chỉ về đêm, cái phố nhà binh đang biến tướng này mới yếu ớt phục hồi lại cái vẻ thâm trầm xưa cũ. Vẫn lại tiếng cành sấu rơi, tiếng đế giày quân cảnh, tiếng quét rác... Chỉ khác, cả chiều dài dãy phố không còn những cặp tình nhân đứng lả người trong tay nhau.
    Khoảnh khắc ấy, tầm mắt đã có chiều bảng lảng của tôi không hiểu sao lại vô cớ ngập ngừng dừng ở góc phố, nơi có một gia đình nhỏ đang loay hoay tìm chỗ ngủ đêm. Một luồng đèn pha xe máy từ đâu đó xa lắm quét tới, đủ cho tôi kịp nhận ra đó là một cặp có vẻ là vợ chồng, một cởi trần vận quần đùi hay vận khố gì đó, một bế đứa con đang ngủ tựa một cái xác trên tay. Vang lên tiếng nhai mía rôm rốp của người đàn ông và tiếng nựng à ơi vụng dại nhọc nhằn của người đàn bà...
    - Uống đi, để ý làm gì, cảnh đời thường ở đâu chẳng có.
    Mặc Thẩm huých nhẹ vào vai, mắt tôi vẫn dán vào đấy.
    - Ðôi vợ chồng từ quê lên ăn xin à? Hay dân Phúc Xá chạy lụt?... Nhưng mùa này đâu có phải là mùa lũ?
    - Không biết!
    - Hay dân chạy chợ, dân lỡ độ đường? Có cả đứa bé nữa kia kìa!
    - Ơ hay cái cậu này! - Giọng Thẩm đã cao lên - Ra đây uống rượu hay điều tra xã hội học đấy?
    - ờ... Vừa có tốp quân cảnh đi qua, sao không thấy họ xua đuổi như mọi bận?
    - Ðuổi cả tỉnh, cả nước - Thẩm gắt khẽ - Nếu xỉn rồi thì mời ông về ngủ, ông ạ!
    Có lẽ động lòng trước cái vẻ ngơ ngơ của một kẻ ở xa đến như tôi, chị hàng nước lúc này mới cất tiếng khẽ khàng.
    - Họ đã cư trú ở đây gần một năm rồi đấy chú ạ! Tội lắm! Mưa thì chạy vào núp trong hàng hiên toà báo, tạnh lại dắt díu nhau ra đây. Mùa hè còn đỡ, đông về, cha con vợ chồng ôm nhau thành một cục tránh gió. Cũng có đận họ bỏ đi đâu cả tháng, tưởng đi luôn cũng mừng, nhưng rồi lại thấy họ trở về xơ xác, tiều tụy hơn. Ðứa bé này mới sinh được có sáu tháng. Con gái, còi cọc chỉ bằng đứa mới nở.
    - Sinh ngay trên hè phố ạ? - Tôi buột miệng.
    - Còn chỗ nào khác nữa!
    - Trời đất! �n ở vật vã thế này mà lại còn bày chuyện đẻ đái! Rồi đứa bé sẽ
    ra sao? Rồi họ lấy gì mà sống?
    - Vậy mà vẫn sống đấy - Chị hàng nước cười hiền từ - Sống quấn quít đáo để. Còn đứa nhỏ, dường như ông trời cũng thương, cấm có bệnh tật sài đẹn bao giờ.
    - Hết chưa? - Thẩm đột ngột đứng dậy.
    - Cái gì hết?
    Thẩm bật cười:
    - Là tôi hỏi cái cơn tò mò của cậu đã qua chưa?
    - Cậu về trước đi! - Ðến lượt tôi gắt lại - Cứ mặc tôi ngồi đây một mình.
    - Tuỳ! Cấp thêm cho cậu một thông tin để có cớ mà tò mò: người đang ngồi chuyện trò với cậu là một giáo sư đại học vừa về nghỉ tạm không ăn lương.
    Nói xong, Thẩm quay người đi vào. Ðến lúc này tôi mới chú mục nhìn chị bán quán. Khoảng bốn mươi nhăm tuổi, tóc uốn cao, cặp mắt hay nhìn lơ đãng lên vòm cây, miệng thi thoảng lại cố tạo ra một cái cười mỉm nhẫn nại.
    - Xin lỗi! Chị dạy ở trường nào ạ? - Tôi hỏi.
    - Thôi! Biết làm gì chú. Mỗi người một cảnh, chẳng nên nói ra, mà có nói cũng đâu có ai thông cảm, có khi còn gây bực mình. Ðấy, cứ ngẫm như cái đôi vợ chồng khốn khổ kia kìa. ở đã mòn cả vỉa hè rồi nhưng tịnh chưa thấy một ai tỏ ý giúp đỡ, chưa thấy một ai hỏi han trò chuyện nửa câu. Thiên hạ coi đó như việc tất nhiên, dễ hiểu. Buồn không? Ôi dào! - Chị thoắt thở dài - Cũng một kiếp người, đêm ôm nhau ngủ còng queo như con sâu cái kiến, ngày chồng bế con èo ẽo cho vợ đi kiếm tiền.
    - Chị ta làm ở tổ sản xuất thủ công nào ạ?
    - Tổ thủ công... chợ. Ra chợ, ai thuê gì làm đó, không ai thuê, nói phải tội, đành phải chôm chỉa, con móc túi. Miễn là có tiền. Nói vô phép chú, thậm chí có lần ông nhà tôi còn bắt gặp cô ta đi bắt khách ngoài ga. Khổ! Người ngợm cóc cáy, thịt da tong teo như thế có ma nào nó màng. Nếu có thì lại là mấy gã du côn, say rượu chơi quỵt, vừa chơi vừa trấn, có đồng nào mất hết.
    - Anh chồng chấp nhận?
    - Sao chú lại hỏi thế? Trên thế gian này thử hỏi có người chồng nào lại chấp nhận cho vợ mình đi làm cái việc kia, nhưng đói thì đầu gối phải bò thôi. Song cũng sầu thảm lắm! Hầu như không đêm nào cậu ta không đánh vợ, có bận đánh thâm tím cả mặt mày, tôi phải đỡ vào nhà lấy rượu ******* xoa bóp cho. Vậy mà chị ta không hề hé răng chửi lại, cãi lại một câu, cứ như con nô lệ tận tụy, cung cúc. Tối tối vẫn mang về cho chồng nào rượu, nào thuốc, có bữa còn khệ nệ cả một xoong to thứ bốc mả toàn xương bò.
    - Vậy ra anh chồng lại chỉ lo làm nhiệm vụ trông con ạ?
    - Cũng tùy lúc. Những buổi chiều mưa, nhìn cậu ấy bế con, mắt nhìn ảm đạm ngọn sấu già, thương lắm! Lại còn thỉnh thoảng ru con nữa chứ. Tiếng ru như tiếng nấc khan. Vào những ngày đông gió hay cô vợ ốm mệt, không ra chợ được, cậu ta trao con lại, một bị một gậy đi trèo sấu. Trèo cả ngày, có bận ngã trẹo xương vai, may lắm mới kiếm đủ tiền mua một vài cân gạo.
    Nghe tới đó, tôi đứng dậy:
    - Chị cho tôi mua gói thuốc.
    - Thuốc gì?
    - �... Du lịch thôi. Thuốc ngon hơn không đủ tiền. Lính mà.
    - Ðừng lo, chú cứ cầm gói Hê rô, tất cả đã có chú Thẩm thanh toán. Chú ấy là con người đàng hoàng, trọng nghĩa khinh tài, thỉnh thoảng vẫn sai con bé Thảo đem ra cho đôi vợ chồng kia lúc thì hộp sữa, khi lại gói thuốc, cân đường. Mà... gói này vẫn đang còn nhiều, chú mua làm gì nữa?
    - Muốn ra chuyện trò với họ một chút.
    - Thôi đi chú ơi! Cậu ta chả mở miệng đâu. Suốt ngày lầm lì, buồn thì nhai mía, vui thì ngơ ngẩn cười, mắt lúc nào cũng gườm gườm như sắp sửa đánh nhau với ai. Có lẽ cậu ấy mặc cảm?
    - Ðã khi nào chị nghĩ rằng cậu ta là người đã từng có tiền án chưa?
    - Ôi giời, mấy cái ông này! Nhìn đâu cũng thấy tội phạm cả. Cậu ấy là bộ đội đấy, bộ đội đóng ở biên giới hết nghĩa vụ trở về. Nhà ở cách đây vài dãy phố thôi, nghe nói cũng khá giả và nền nếp. Vậy mà chả rõ phải lòng phải dạ, bắt tình bắt thóp nhau thế nào mà lúc trở về lại dẫn một cô gái giang hồ, gia đình làm nghề trồng mía về theo. Tức là cô gái này đấy. Tất nhiên là gia đình không chấp nhận, đuổi thẳng. Vậy là kéo nhau ra tá túc ở đây. Công an khu vực cũng đã có đôi phen làm dữ, tống xuất họ ra khỏi thành phố, đưa đi tập trung cải tạo ở tận đẩu tận đâu nhưng cũng chỉ ba bảy hai mốt ngày là đâu lại nguyên đấy. Rút cuộc công an họ cũng chán, thây kệ không phải chỉ có một gia đình này đâu. Ôi, thời buổi nó vậy. Chả nhẽ thiên hạ đua nhau đục tường trổ cửa, kiếm tiền ngàn tiền triệu như chơi mà lại nỡ khép những con người khốn khổ vào khuôn vào phép? Ðằng kia có ánh sáng, đằng này cũng phải nhường cho người ta một khoảng bóng tối chứ. Tất cả còn đang bung bét, tất cả đang đòi hỏi phải sắp xếp lại kia mà.
    Tôi chán nản đứng dậy. Ðành rằng câu chuyện chị kể là có thật, lại kể bằng một cái giọng hết sức xót xa nhưng sao tôi vẫn không muốn nó được nói ra từ chị, từ một người đàn bà đã giảng dạy qua cấp đại học. Lạ thế!
    - Chào anh!
    Tôi cố dọn một nụ cười thân thiện, một giọng nói bỗ bã có thể và chìa gói thuốc ra trước mặt người đàn ông đang gặm mía. Nhìn cái cách anh ta gặm mía mới khiếp chứ! Gần như ăn cả vỏ, ăn cả bằng răng hàm lẫn răng cửa, chỉ ba cái rốp rốp là bay gọn một đẫn dài, bã mía đùn dưới chân cả đống. Anh ta lầm lì rút một điếu thuốc giắt chéo lên vành tai. Im lặng... Vẫn chỉ là tiếng nổ rốp rốp trong cái miệng khá rộng.
    - Rét vậy mà ăn mía không cóng răng sao ông bạn? - Tôi ngồi hẳn xuống.
    Ông bạn không trả lời, chỉ gúc goắc cái đầu to tướng. Lại im lặng... Lại rốp rốp... ánh sáng đèn cao áp xanh lét vừa đủ để soi tỏ một khuôn mặt không ra già, không ra trẻ, xanh bợt, tóc gần chấm vai, cặp môi dày trễ ra, thâm xì như cái vẻ lúc nào cũng thèm ăn thèm uống. Tóm lại là một khuôn mặt hơi bệnh hoạn và gần như không có tư duy. Anh ta chỉ mặc độc một chiếc quần đùi rộng ống đã rách te tua ở gấu, để lộ đôi bắp chân dài thõng sần sượng nhưng có vẻ còn săn rắn, vắt trên vai là chiếc áo bộ đội nhàu nát đang bốc ra mùi chua lòm khen khét.
    Lui về sau một chút, chị vợ đang âm thầm ngồi ôm con sát chân tường. Nghe được cả tiếng muỗi vo ve bay ra từ đó. Cũng là khuôn mặt nửa già nửa trẻ, tiều tụy, không rõ hình nhưng đường nét gãy gọn, nhìn kỹ thấy cũng có duyên. Bất ngờ, chị ta nháy mắt với tôi và làm một động tác xin thuốc rất láu bằng hai ngón tay đen đúa, khô xác.
  8. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Pho nha binh (2)
    - Cái gì?
    Bất thần anh chồng quát lên một tiếng quát hùng dũng, có lẫn cả đờm, có cả nước mía bắn ra. Như bị điện giật, hai ngón tay kia vội thụt lại, cùng lúc mái tóc xơ xước chắc tới hàng tháng nay không được chải gội gục xuống cam chịu như một tội nhân tử hình.
    - Này - Tôi vỗ vỗ vào xương vai hắn - Cô ấy muốn hút thuốc thì để cô ấy hút, cũng là một cách chống lạnh.
    Không thèm trả lời, hắn chuyển ánh mắt gườm gườm dài dại từ người vợ lên cành cây rồi lại... rốp rốp...
    Biết rằng có nán lại cũng vậy thôi, có khi còn làm cho cái gã quân chủ độc tài đầy quyền uy này nổi quạu, tôi lén để gói thuốc xuống mép chiếu rồi lẳng lặng đi trở về. Ðuổi theo tôi là tiếng ru con nghèn nghẹn như nói mơ của người vợ, và trên cao, trong một căn hộ còn sáng đèn, có một nét nhạc gầm gào vọng xuống.
    Thẩm vẫn thức chờ tôi bên bản vẽ thiết kế.
    - Ðã chưa? - Không ngẩng lên, nó hỏi.
    - Chưa.
    - Cậu vẫn như cũ, ngớ ngẩn và lành bụng. Hơi khó chịu một tí nhưng ít nhất tôi cũng còn có một thằng bạn ra bạn để chơi.
    - Cám ơn!
    - Cám ơn cái con khỉ. Rượu nữa không? Hay nước mát?
    - Cậu vẫn vẽ thuê đấy à?
    - Không! Vẽ công trình thứ thật. Lạy Phật! Từ ngày cô ấy đi đến giờ, mình đã thoát được cái kiếp gục đầu đi nhận vẽ cầu tiêu hố xí cho bọn trọc phú mới. Mặc sức đi sâu vào nghiên cứu, cũng thú. Hả?
    Tôi gật đầu ừ hữ và rón chân đi đến giường bé Hương Thảo. Nó đang nằm nghiêng, một bàn tay kê dưới má, tay kia buông xuôi theo người, thỉnh thoảng lại chun mũi một cái như vừa ngửi thấy mùi kẹo thơm trong mơ, đôi mi dài và cong tự nhiên của nó khẽ động đậy tưởng chừng sắp mở bừng đôi mắt to giống mẹ ra mà quàng cánh tay mũm mĩm ôm níu lấy cổ tôi: "A!... Chú Hà! Chú Hà bế Thảo... ". Trời đất! Thì ra cái sinh vật xinh xắn dễ thương này mới là lý do chính yếu và sâu xa để mỗi lần về Hà Nội không thể không ghé qua chứ chưa hẳn đã là tính tình của bố nó, vẻ dịu dàng đoan trang của mẹ nó cũng như sự tiện lợi, ấm cúng của căn hộ mặt tiền.
    - Cậu có thấy con bé khi ngủ, nó bỗng khoác một đôi cánh thiên thần như thế nào không? - Thẩm cũng khẽ đến bên tôi, giọng nói không giấu được một chút tự hào chìm đắm - nếu đẻ thì nên đẻ con gái đầu lòng cậu ạ! Vừa ngoan, vừa là bạn tâm sự của bố lúc chẳng may cơ nhỡ. Mà cuộc đời, cơ nhỡ nhiều chứ may mắn được mấy... Mình nhớ có khi tiễn cô ấy ra sân bay, cả hai mẹ con đều thi nhau khóc. Lúc máy bay cất cánh rồi, nó còn thất thanh hét với theo: "Mẹ Hương ơi!... Mẹ Hương đừng bỏ con nhé!". Mình cũng khóc.
    Tôi tin điều đó vì lúc này kể lại, cặp mắt của Thẩm cũng đang rơm rớm ướt thật. Bị lây cái cảm xúc muôn thuở ngậm ngùi của nỗi chia ly, tôi nói rì rầm như cầu nguyện:
    - Cầu mong cho cô ấy mau trở về. Cứ về cái đã rồi mọi chuyện tính sau. Trẻ con có thể sống xa bố nhưng xa mẹ, trông tội lắm! Cậu có để ý thấy ngấn nước còn đọng ở khóe mắt nó không?
    - Không... Làm gì có. Không có!
    Thẩm trả lời yếu ớt và vội vàng. Bỗng dưng tôi khẽ rùng mình khi chợt thấy một vệt xám nhờ bay rất nhanh trong đôi mắt vừa mới đây thôi còn trong trẻo, rờ rỡ yêu thương của Thẩm.
    Tôi bỏ vào phòng trong, buông màn đi nằm. Ðêm ấy, trong giấc ngủ nặng nề, dường như bên tai tôi lúc nào cũng nghe văng vẳng tiếng ru còn ngàn ngạt của người mẹ trẻ trộn hòa vào tiếng muỗi ong ong dưới chân tường. Rồi cuộc sống của họ sẽ đi đến đâu? Bình ổn dần? Ði tập chung vĩnh viễn? Hay một ngày nào đó lại cùng rủ nhau vào nhà giam trong một tội danh hình sự giết người cướp của nào đó? Hoặc... Tôi bỗng ngồi phắt dậy, mồ hôi túa ra khắp lưng khi cái hình ảnh đứa bé chết cóng trên tay mẹ vụt nóng đỏ trong đầu.
    Sau đó phải bẵng đi đến hơn một năm, do công việc của quân khu quá bận rộn nên tôi không lựa được dịp nào rảnh rang để về thăm bé Thảo.
    Vào khoảng trung tuần tháng giêng, khi công việc đã vãn vãn, tôi nhận được thư của Thẩm. Vẫn cái giọng bỗ bã:
    "...Này bỏ ngay cái lối phản bạn phản bè ấy đi nhé! Hiện giờ cậu đang ở đâu, làm gì, đang phải lòng con nào, vẫn công việc cũ hay đã bỏ đi đào vàng, đào đá thì kệ cha cậu, tôi đếch biết! Nhưng cậu không được mất mặt như thế chứ. Sư cậu! Chỉ khổ cho đứa con gái bé bỏng của tôi nó cứ nhắc tới thằng bạc tình bạc nghĩa hoài. Lại còn ăn cắp thuốc lá của tôi nhét đầy gối cho hôi sặc lên, bảo là để dành cho cậu nữa!".
    Ðọc đến đây, sống mũi tôi cay cay, nước mắt chực ứa ra... Những dòng tiếp theo, tôi chỉ lướt mắt gọi là...
    "... Tin vui đây: tháng sau mẹ Hương Thảo sẽ về! Có nên soạn một mâm tế sống ngài Hen-mút Côn không nhỉ? Nhờ ngài và sự chuyển động chính trị thần thánh trong tổ quốc ngài mà bà xã của tôi sẽ làm cú mã hồi với một lưng vốn kha khá. Hai mươi ngàn đê mác, gần mười tám ngàn đô la, tức là tương đương 150 triệu tiền mình, cậu nghe rõ chưa? Từ nay đến ngày về, cô ấy nói sẽ cố kiếm thêm vài nghìn đô nữa. Chịu đàn bà thật!
    Vì thế, chúng tôi muốn cậu, cha đỡ đầu của bé Hương Thảo sẽ có mặt trong ngày ấy. Phải có mặt! Tiền của tôi cũng như tiền của cậu, thằng bạn duy nhất còn sót lại của tiểu đoàn công binh đã cõng tôi vượt suốt mười cây số đường rừng. Chỉ bằng một phần mười số tiền trời cho đó, chúng tôi sẽ lấy vợ cho cậu, kiếm cho cậu một căn hộ và buộc cậu từ bỏ núi rừng ở lại phố luôn với chúng tôi. Ðược chưa?
    Bù lại, cậu chỉ cần làm độc một việc: thiết kế cho tôi một căn hộ ba tầng với đầy đủ tiện nghi ở ngay trên nền nhà cũ. Có ban công uống trà, sân thượng trồng hoa, có các cánh cửa sắt đóng mở tự động bằng điện tử, có ga ra xe máy, có máy lạnh, bồn tắm và có cả nơi nuôi vài con chó giống ngoại cho vui, có... Mà thôi, để cậu về, ta bàn kỹ. Tóm lại, hai tầng để ở, còn bảy chục mét vuông tầng trệt sẽ cho một công ty, một đại diện sang trọng, làm ăn đứng đắn nào đó thuê. Có thể là hãng JVC hoặc hãng VIETRONICS của Sài Gòn, theo ý của cô ấy. Tôi muốn chính tay cậu vẽ bởi vì trong đó có cả diện tích của... vợ chồng cậu.
    Tin thêm: Tôi vừa nhận hàm thượng tá. Thượng tá! Khỉ không? Ðáng lẽ phải đại tá luôn cho rảnh một chuyện. Ðang thượng chuyển sang đại bây giờ đang đại lại hất xuống thượng. Không hiểu các cụ nhà ta còn ngẫu hứng điều lệnh đến tận bao giờ? Cũng chẳng sao. Tôi dự định nếu cô ấy về, vui thì a lê hấp! Tôi sẽ xin về hưu, giã từ binh nghiệp. Giã từ cơ chế bụi bặm luôn. Phần đời còn lại lo đọc sách, thăm thú bạn bè, trồng tỉa mấy cây hoa và cái chính là chăm bẵm cho bé Hương Thảo nên người.
    ... Ðừng nôn! Chắc thằng bạn lẩn thẩn của tôi lại đang cáu kỉnh muốn biết về thân phận cảnh đời? Thí dụ: Phố Nhà Binh (tên gọi của cậu) đã sắp sửa thành một thứ Hàng Ngang, Hàng Ðào. Gia đình ông tướng Ðiều Lệnh vẫn bán cà phê, ông tướng Bảo Vệ vẫn cho thuê hàng điện lạnh, ông tướng Cán Bộ đợt này nới rộng cho thuê cả hai mặt tiền - nói chung, khi đã làm ông tướng thì đời nào cũng sướng - Và, gia đình đôi vợ chồng kẻ khó ấy (đúng tủ chưa?) vẫn kiên trì bám trụ ở đầu đường. Hình như cô vợ lại đang có chửa đứa thứ hai, sức sống của nhân dân bất diệt thật!
    Ðiều chót cùng: sự phá vỡ kiến trúc của một dãy phố là phản ánh cái trở dạ đau đớn của lề thói suy nghĩ cũ, đồng thời sẽ dẫn đến phá vỡ sự ổn định cổ kính trong từng gia đình, từng số phận, có thể tốt lên nhưng cũng có thể xấu đi. Ví dụ như gia đình tớ...".
    Rút cuộc cô ấy đã trở về. Dù sao cũng đã trở về. Chỉ cần như vậy thôi. Tôi thở phào, trút được cái day dứt nặng nề đã mai phục kín trong lòng bấy lâu nay.
  9. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Pho nha binh (2)
    - Cái gì?
    Bất thần anh chồng quát lên một tiếng quát hùng dũng, có lẫn cả đờm, có cả nước mía bắn ra. Như bị điện giật, hai ngón tay kia vội thụt lại, cùng lúc mái tóc xơ xước chắc tới hàng tháng nay không được chải gội gục xuống cam chịu như một tội nhân tử hình.
    - Này - Tôi vỗ vỗ vào xương vai hắn - Cô ấy muốn hút thuốc thì để cô ấy hút, cũng là một cách chống lạnh.
    Không thèm trả lời, hắn chuyển ánh mắt gườm gườm dài dại từ người vợ lên cành cây rồi lại... rốp rốp...
    Biết rằng có nán lại cũng vậy thôi, có khi còn làm cho cái gã quân chủ độc tài đầy quyền uy này nổi quạu, tôi lén để gói thuốc xuống mép chiếu rồi lẳng lặng đi trở về. Ðuổi theo tôi là tiếng ru con nghèn nghẹn như nói mơ của người vợ, và trên cao, trong một căn hộ còn sáng đèn, có một nét nhạc gầm gào vọng xuống.
    Thẩm vẫn thức chờ tôi bên bản vẽ thiết kế.
    - Ðã chưa? - Không ngẩng lên, nó hỏi.
    - Chưa.
    - Cậu vẫn như cũ, ngớ ngẩn và lành bụng. Hơi khó chịu một tí nhưng ít nhất tôi cũng còn có một thằng bạn ra bạn để chơi.
    - Cám ơn!
    - Cám ơn cái con khỉ. Rượu nữa không? Hay nước mát?
    - Cậu vẫn vẽ thuê đấy à?
    - Không! Vẽ công trình thứ thật. Lạy Phật! Từ ngày cô ấy đi đến giờ, mình đã thoát được cái kiếp gục đầu đi nhận vẽ cầu tiêu hố xí cho bọn trọc phú mới. Mặc sức đi sâu vào nghiên cứu, cũng thú. Hả?
    Tôi gật đầu ừ hữ và rón chân đi đến giường bé Hương Thảo. Nó đang nằm nghiêng, một bàn tay kê dưới má, tay kia buông xuôi theo người, thỉnh thoảng lại chun mũi một cái như vừa ngửi thấy mùi kẹo thơm trong mơ, đôi mi dài và cong tự nhiên của nó khẽ động đậy tưởng chừng sắp mở bừng đôi mắt to giống mẹ ra mà quàng cánh tay mũm mĩm ôm níu lấy cổ tôi: "A!... Chú Hà! Chú Hà bế Thảo... ". Trời đất! Thì ra cái sinh vật xinh xắn dễ thương này mới là lý do chính yếu và sâu xa để mỗi lần về Hà Nội không thể không ghé qua chứ chưa hẳn đã là tính tình của bố nó, vẻ dịu dàng đoan trang của mẹ nó cũng như sự tiện lợi, ấm cúng của căn hộ mặt tiền.
    - Cậu có thấy con bé khi ngủ, nó bỗng khoác một đôi cánh thiên thần như thế nào không? - Thẩm cũng khẽ đến bên tôi, giọng nói không giấu được một chút tự hào chìm đắm - nếu đẻ thì nên đẻ con gái đầu lòng cậu ạ! Vừa ngoan, vừa là bạn tâm sự của bố lúc chẳng may cơ nhỡ. Mà cuộc đời, cơ nhỡ nhiều chứ may mắn được mấy... Mình nhớ có khi tiễn cô ấy ra sân bay, cả hai mẹ con đều thi nhau khóc. Lúc máy bay cất cánh rồi, nó còn thất thanh hét với theo: "Mẹ Hương ơi!... Mẹ Hương đừng bỏ con nhé!". Mình cũng khóc.
    Tôi tin điều đó vì lúc này kể lại, cặp mắt của Thẩm cũng đang rơm rớm ướt thật. Bị lây cái cảm xúc muôn thuở ngậm ngùi của nỗi chia ly, tôi nói rì rầm như cầu nguyện:
    - Cầu mong cho cô ấy mau trở về. Cứ về cái đã rồi mọi chuyện tính sau. Trẻ con có thể sống xa bố nhưng xa mẹ, trông tội lắm! Cậu có để ý thấy ngấn nước còn đọng ở khóe mắt nó không?
    - Không... Làm gì có. Không có!
    Thẩm trả lời yếu ớt và vội vàng. Bỗng dưng tôi khẽ rùng mình khi chợt thấy một vệt xám nhờ bay rất nhanh trong đôi mắt vừa mới đây thôi còn trong trẻo, rờ rỡ yêu thương của Thẩm.
    Tôi bỏ vào phòng trong, buông màn đi nằm. Ðêm ấy, trong giấc ngủ nặng nề, dường như bên tai tôi lúc nào cũng nghe văng vẳng tiếng ru còn ngàn ngạt của người mẹ trẻ trộn hòa vào tiếng muỗi ong ong dưới chân tường. Rồi cuộc sống của họ sẽ đi đến đâu? Bình ổn dần? Ði tập chung vĩnh viễn? Hay một ngày nào đó lại cùng rủ nhau vào nhà giam trong một tội danh hình sự giết người cướp của nào đó? Hoặc... Tôi bỗng ngồi phắt dậy, mồ hôi túa ra khắp lưng khi cái hình ảnh đứa bé chết cóng trên tay mẹ vụt nóng đỏ trong đầu.
    Sau đó phải bẵng đi đến hơn một năm, do công việc của quân khu quá bận rộn nên tôi không lựa được dịp nào rảnh rang để về thăm bé Thảo.
    Vào khoảng trung tuần tháng giêng, khi công việc đã vãn vãn, tôi nhận được thư của Thẩm. Vẫn cái giọng bỗ bã:
    "...Này bỏ ngay cái lối phản bạn phản bè ấy đi nhé! Hiện giờ cậu đang ở đâu, làm gì, đang phải lòng con nào, vẫn công việc cũ hay đã bỏ đi đào vàng, đào đá thì kệ cha cậu, tôi đếch biết! Nhưng cậu không được mất mặt như thế chứ. Sư cậu! Chỉ khổ cho đứa con gái bé bỏng của tôi nó cứ nhắc tới thằng bạc tình bạc nghĩa hoài. Lại còn ăn cắp thuốc lá của tôi nhét đầy gối cho hôi sặc lên, bảo là để dành cho cậu nữa!".
    Ðọc đến đây, sống mũi tôi cay cay, nước mắt chực ứa ra... Những dòng tiếp theo, tôi chỉ lướt mắt gọi là...
    "... Tin vui đây: tháng sau mẹ Hương Thảo sẽ về! Có nên soạn một mâm tế sống ngài Hen-mút Côn không nhỉ? Nhờ ngài và sự chuyển động chính trị thần thánh trong tổ quốc ngài mà bà xã của tôi sẽ làm cú mã hồi với một lưng vốn kha khá. Hai mươi ngàn đê mác, gần mười tám ngàn đô la, tức là tương đương 150 triệu tiền mình, cậu nghe rõ chưa? Từ nay đến ngày về, cô ấy nói sẽ cố kiếm thêm vài nghìn đô nữa. Chịu đàn bà thật!
    Vì thế, chúng tôi muốn cậu, cha đỡ đầu của bé Hương Thảo sẽ có mặt trong ngày ấy. Phải có mặt! Tiền của tôi cũng như tiền của cậu, thằng bạn duy nhất còn sót lại của tiểu đoàn công binh đã cõng tôi vượt suốt mười cây số đường rừng. Chỉ bằng một phần mười số tiền trời cho đó, chúng tôi sẽ lấy vợ cho cậu, kiếm cho cậu một căn hộ và buộc cậu từ bỏ núi rừng ở lại phố luôn với chúng tôi. Ðược chưa?
    Bù lại, cậu chỉ cần làm độc một việc: thiết kế cho tôi một căn hộ ba tầng với đầy đủ tiện nghi ở ngay trên nền nhà cũ. Có ban công uống trà, sân thượng trồng hoa, có các cánh cửa sắt đóng mở tự động bằng điện tử, có ga ra xe máy, có máy lạnh, bồn tắm và có cả nơi nuôi vài con chó giống ngoại cho vui, có... Mà thôi, để cậu về, ta bàn kỹ. Tóm lại, hai tầng để ở, còn bảy chục mét vuông tầng trệt sẽ cho một công ty, một đại diện sang trọng, làm ăn đứng đắn nào đó thuê. Có thể là hãng JVC hoặc hãng VIETRONICS của Sài Gòn, theo ý của cô ấy. Tôi muốn chính tay cậu vẽ bởi vì trong đó có cả diện tích của... vợ chồng cậu.
    Tin thêm: Tôi vừa nhận hàm thượng tá. Thượng tá! Khỉ không? Ðáng lẽ phải đại tá luôn cho rảnh một chuyện. Ðang thượng chuyển sang đại bây giờ đang đại lại hất xuống thượng. Không hiểu các cụ nhà ta còn ngẫu hứng điều lệnh đến tận bao giờ? Cũng chẳng sao. Tôi dự định nếu cô ấy về, vui thì a lê hấp! Tôi sẽ xin về hưu, giã từ binh nghiệp. Giã từ cơ chế bụi bặm luôn. Phần đời còn lại lo đọc sách, thăm thú bạn bè, trồng tỉa mấy cây hoa và cái chính là chăm bẵm cho bé Hương Thảo nên người.
    ... Ðừng nôn! Chắc thằng bạn lẩn thẩn của tôi lại đang cáu kỉnh muốn biết về thân phận cảnh đời? Thí dụ: Phố Nhà Binh (tên gọi của cậu) đã sắp sửa thành một thứ Hàng Ngang, Hàng Ðào. Gia đình ông tướng Ðiều Lệnh vẫn bán cà phê, ông tướng Bảo Vệ vẫn cho thuê hàng điện lạnh, ông tướng Cán Bộ đợt này nới rộng cho thuê cả hai mặt tiền - nói chung, khi đã làm ông tướng thì đời nào cũng sướng - Và, gia đình đôi vợ chồng kẻ khó ấy (đúng tủ chưa?) vẫn kiên trì bám trụ ở đầu đường. Hình như cô vợ lại đang có chửa đứa thứ hai, sức sống của nhân dân bất diệt thật!
    Ðiều chót cùng: sự phá vỡ kiến trúc của một dãy phố là phản ánh cái trở dạ đau đớn của lề thói suy nghĩ cũ, đồng thời sẽ dẫn đến phá vỡ sự ổn định cổ kính trong từng gia đình, từng số phận, có thể tốt lên nhưng cũng có thể xấu đi. Ví dụ như gia đình tớ...".
    Rút cuộc cô ấy đã trở về. Dù sao cũng đã trở về. Chỉ cần như vậy thôi. Tôi thở phào, trút được cái day dứt nặng nề đã mai phục kín trong lòng bấy lâu nay.
  10. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Pho nha binh (3)
    Ay vậy mà tôi vẫn về chậm mất gần một năm so với cái thời điểm hệ trọng đó. Một công trình xây dựng liên doanh với Bạn đã giữ chân tôi suốt một mùa mưa bên kia biên giới Việt - Lào.
    Trở lại Quân khu, tôi tính nhảy ô-tô về Hà Nội luôn nhưng hỏi cậu văn thư không có lá thư nào gửi cho mình, lại ngần ngừ. Nó giận ư? Hay Hương chưa về? Không về? Hoặc... Ðã nghĩ thì nghĩ cho đủ hướng theo đúng tác phong tác chiến người lính, hoặc nó đã nghĩ lại về cái gọi là một phần mười tính sẵn cho tôi? Không có lý. Nó không phải là người như thế và tôi cũng chẳng phải là cái thằng dễ chấp nhận mọi sự cưu mang của người đời. Khổ! Khi còn nghèo, bạn bè đến chơi với nhau dễ dàng biết bao, bây giờ khá giả rồi, mỗi sự đến là nỗi đắn đo hèn cả người. Song tôi vẫn quyết định đi, bởi lẽ có một sinh vật đứng trên mọi đắn đo tầm thường đó. ấy là bé Thảo, hơn hai năm không gặp nó rồi.
    Ðến Hà Nội, trời vừa sập tối. Tôi bước về phía nhà Thẩm mà chân tay líu ríu như bước về chính ngôi nhà của mình, bụng dạ cứ cồn lên không hiểu giờ đây ngôi nhà nó ra sao?
    Muốn đến Thẩm, tôi buộc phải đi qua các gia đình của kẻ ăn mía đêm độ nào ở góc phố. Ðúng là phố Nhà Binh năm nay đã ra cái dáng vàng son choáng ngợp của một vị thế thương trường buôn bán lắm! Mải nhìn ngó, tôi đập mắt vào góc phố lúc nào không hay. Và hơi dừng lại. Góc phố trước trống trơn nay đã mọc lên vài ba hàng quán, đèn điện sáng trưng. Nơi có chiếc chiếu rách trải ra năm nọ lúc này là một điểm chữa xe máy bình dân với đầy đủ các loại đồ nghề vá chín, cờ lê, mỏ lết... nằm xếp lớp trong thùng gỗ. Gần đấy, có chừng hai, ba chiếc cúp xanh đỏ đang chờ đến lượt mình được sửa chữa. Quái lạ hơn, quái lạ đến nỗi tôi khó có thể tin vào mắt mình được nữa; tay thợ xem ra có vẻ đầy uy tín nghề nghiệp đó lại chính là... gã đàn ông hay ăn mía đêm ngày nào! Thùng thình trong bộ quần áo bò Liên Xô lem luốc mỡ dầu, một hàng râu quai nón chạy lộn xộn xuống tận cằm, anh ta rõ ràng ra phong thái một tay thợ lành nghề đang hết sức càu cạu vì cớ sao cho đến tận giờ này vẫn còn khách đến quấy rầy! Quả thật nếu không nhờ vào cặp môi dày phồn thực vẫn đang trễ xuống kia và cái lối nhìn gườm gườm đầy tính quân chủ độc tài ấy thì có lẽ tôi đã không tài nào nhận ra anh.
    Lia mắt sang phòng nhỏ tuềnh toàng như chiếc lô cốt còn nguyên màu vôi ve nham nhở quét ẩu bên cạnh, tôi lại vấp tiếp phải một điều quái lạ nữa: người đàn bà cóc cáy làm nghề chôm chỉa giờ đây đang ngồi trước bàn bán tiết canh cháo lòng, gọn gàng, tươi tắn và không ngơi tay múc cháo cho khách. Tất nhiên, cái để tôi nhận ra vẫn là đôi mắt lá răm liếc xéo xéo qua mặt mọi người và điếu thuốc lá loại rẻ tiền ướt nhoèn đang gắn trên môi.
    Chưa hết! Bên trong, trên một chiếc giường ọp ẹp, giữa vùng ánh sáng đỏ quạch, có hai đứa nhỏ, con chị nựng con em đang cười rinh rích. Cha trời! Chả lẽ đây là hai sinh mạng đã được ra đời trên cùng một vỉa hè võng vãnh muỗi bay?
    Bất giác tôi quay người đi nhanh sang bên kia đường. Chán quá! Thì ra người ta không chỉ chạy trốn những ấn tượng nặng nề mà còn có xu hướng trốn chạy cả những cú sốc ngọt ngào mà trái tim chai sạn ít khi được nếm trải.
    Quán nước quen thuộc có ngọn đèn dầu thắc thỏm dường như đang chờ tôi trong vẻ buồn tênh cố hữu của nó. Người đàn bà giáo viên không còn ngồi ở đó với nụ cười cố tạo ra nữa. Chị đã được người ta mời đi dạy trở lại. Thay chị bây giờ là ông chồng, vốn là đạo diễn phim tài liệu vừa nghỉ hưu hoặc do công việc làm nhiều người khôn của khó mà xin về nghỉ sớm (?). Chính nhà đạo diễn đã có một thời tên tuổi này kể cho tôi nghe đoạn đời kế tiếp của gia đình gã đàn ông hay gặm mía kia. Từ nơi đóng quân cạnh vườn mía. Anh ta quyết định thuê dài ngày một chiếc xe đạp Vĩnh Cửu ngày ngày thồ mía từ Ðan Phượng đi buôn bán ở các huyện. Sau mấy tháng kèo kẽo, người gầy rộc đi đến năm cân, anh ta đã có một khoản tiền để đầu tư vào lò đường của chính ông bố vợ trên mạn ngược. Lỗ cùng chịu, lãi chia đôi, lại trúng. Một năm sau, anh ta rút chân ra khỏi nghề đường, tạm biệt vợ con, nhảy tàu vào Ðà Nẵng tìm gặp một người bạn cùng đơn vị cũ, học nghề sửa chữa xe máy. Hai tháng sau trở về, anh ta bỏ tiền thuê dài hạn cái nhà kho bỏ đi này, sang sửa một chút ít và quyết định sống suốt đời ở đây, nơi góc phố có nhiều kỷ niệm...
    Câu chuyện giống như một dòng sông mùa hạ mát mẻ mà tôi vừa được trầm mình xuống. Tôi không muốn hỏi thêm về Thẩm bởi lẽ tôi muốn dành cho chính tôi một sự bất ngờ mới mẻ tiếp theo. Vậy là dòng đời đang xuôi chảy thuận chiều. Gia đình kẻ khó đã có bát ăn bát để, bà giáo thạo việc đã trở lại bục giảng và Thẩm, chắc chắn đang tồn tại ở một cấp độ khác hơn.
    Tôi bước đến ngôi nhà ba tầng của nó... Chao ôi, màu sắc, đường nét, sự bề thế mới gợi lên dáng dấp một cái vila sang trọng làm sao! Chợt thấy buồn... Rốt cuộc, nó vẫn có được tất cả mà khỏi cần đến tôi. Thôi được, miễn là nó đã có. Thế là mừng.
    Phía bên cánh cửa xếp bằng sắt sơn nhũ bạc là tấm bảng đề: đại diện hãng X thành phố Hồ Chí Minh. Chà! Gớm thay cho vợ chồng nhà này, nghĩ gì làm đó, ghê thật! Tôi bấm chuông... Cùng với tiếng chó hộc lên ồm ồm, một khuôn mặt thiếu niên chất phác ló ra trên khoen tròn cánh cửa nặng nề đang đóng kín.
    - Bác tìm ai ạ? - Cậu thiếu niên hỏi, tiếng nói vẫn còn ngầy ngậy chất quê.
    - Mình là Hà, bạn thân của ông chủ nhà đây.
    - A... Bác là bác Hà! Cô chú cháu nhắc đến bác luôn. Bác tránh ra tí để cháu mở cửa... Thế!
    Sao lại phải tránh? Tôi lùi lại và nghe tức khắc tấm cửa đồ sộ được dồn xếp sang hai bên ngọt xớt. Khá, hóa ra cửa tự động thật! Tôi thầm kêu lên và không thể không né người đi tránh qua mõm con béc-giê lông xám to tướng đang nằm phục ở góc nhà, bên cạnh những đống vỏ đồ hộp JVC rỗng không. Khá! Tôi lại thầm kêu lần nữa.
    - Chú cháu có nhà không? - Tôi hỏi khẽ.
    - Có ạ!... - Nó trả lời ngập ngừng - Ðể... Ðể cháu lên báo.
    - Vẽ! Tao là chiến hữu ruột, báo biếc gì.
    - Dạ, nhưng...
    Vừa lúc đó, từ trên tầng gác sáng xanh ánh đèn nê-ông bay xuống một tiếng trẻ khóc ré, liền đó là một cái bát hay cái cốc đập choang vào tường. Rồi một tiếng rít nhừa nhựa:
    - Mày có câm đi không, cái con tội nợ kia! Không ăn thì cút xéo đi chứ không phải bữa nào cũng chống đũa, nước mắt ngắn nước mắt dài như thế.
    Tiếng khóc được kìm nén khổ sở, chuyển sang tức tưởi. Tiếng khóc của bé Hương Thảo! Bỗng dưng thấy xót ruột, tôi bước nhanh lên cầu thang... Trời ơi, cái gì thế kia? Trước mặt tôi, qua cánh cửa khép hờ là một người đàn ông râu ria xa lạ, tóc dài bờm xờm, áo quần nhàu nát ngồi bên mâm cơm lỏng chỏng mấy cái bát, cái đĩa lạnh ngắt, bên cạnh có chai rượu trắng đã cạn gần sát đáy. Bằng đôi mắt đỏ quạch và u tối, ông ta gằn gằn nhìn vào góc tường, nơi bé Hương Thảo tội nghiệp của tôi đang đứng khoanh tay, mặt úp vào cánh cửa sổ đóng kín, đôi vai thon nhỏ cứ từng chập từng chập rung lên... Tôi vẫn đứng chết sững. Sao lại thế này? Thằng Thẩm đâu? Mẹ Hương nữa đâu? Gã đàn ông phàm phu điên dại kia là ai?
    Chả lẽ lại là bố dượng ư?
    - Mày còn thương lắm à? Hừ? - Tiếng quát tiếp tục bật ra từ bộ râu lùng nhùng nửa trắng nửa đen.
    - Cút! Cút đi theo con đĩ ******! Cút! Giời ạ! Sao tôi khổ nhục thế này?
    Lão ta lúc lắc cái đầu to tướng, mặt nhăn quắt lại ghê sợ và, thật bất ngờ, từ hai hốc mắt sâu hoắm của lão, anh ánh hai giọt nước mắt rịn ra... Tôi bỗng rủn người! Thằng Thẩm!... Chính thằng Thẩm chứ không phải ai khác. Ngày xưa, trước nấm mồ đồng đội, mặt nó cũng nhăn quắt lại tột cùng đớn đau và nước mắt cũng chỉ âm thầm rịn ra như thế này.
    - Mẹ ơi!...
    Tiếng con chim non bật lên ai oán gọi mẹ đây đó đã đẩy tôi lùi nhanh trở lại. Tôi không đủ can đảm đứng đó lâu hơn nữa và cũng không đủ tỉnh táo để bước vào với cha con Thẩm lúc này.
    Cậu thiếu niên chất phác ngửa mặt đón tôi ở chân cầu thang, đôi mắt mở to đầy vẻ dáo dác:
    - ồ bác... Bác sao lại xuống ạ?
    Tôi kéo nó ra một góc sát cửa.
    - Này! Nói đi! Cái gì đã xảy ra ở đây thế?
    Da mặt cậu bé thoắt tái nhợt, khẽ rùng mình một cái rồi nhìn lảng đi, nước mắt rơm rớm:
    - Ðã một tháng nay rồi, tối nào chú cháu cũng như thế này! Khổ lắm! Trước kia...
    Giọng cậu bé vừa sợ hãi vừa rề rà đến sốt ruột. Tôi cắt ngang:
    - Trước kia làm sao? Cháu là thế nào với chú Thẩm?
    - Chú Thẩm là em ruột bố cháu, ở mãi tận dưới quê kia, khi cô cháu về, bố cháu cho cháu lên đây phụ giúp công việc với chú. Lúc ấy cô chú cháu vui vẻ lắm, lúc nào cũng nói cười như nhà có hội, thỉnh thoảng lại cho bé Thảo lên xe máy đi chơi, có bận đi đúng hai, ba ngày mới về. Khi cái chú gì tre trẻ, nói tiếng Nam Bộ, nghe nói là giám đốc hãng điện tử cùng với ba người nữa đến thuê nhà làm cửa hàng, lại càng vui, không ngờ...
    - Không ngờ cái gì? - Tôi gắt khẽ - Nói nhanh đi!
    - Có một lần cô cháu bảo đi thăm bạn gái cùng ở bên kia hai ba ngày nhưng đến ngày thứ tư cũng không thấy về. Ngày thứ năm thì chú cháu có giấy khẩn gọi ra Sầm Sơn nhận thân nhân bị nạn... Lúc trở về, chú cháu bỗng trở nên như thế này.
    - Biết rồi, nhưng ai bị nạn? Bị nạn thế nào?
    Cậu bé cúi gằm đầu xuống, nói lí nhí:
    - Chết đuối... Chết đuối cả hai! Chỉ tại không biết bơi mà lại đưa phao ra xa nên bị sóng đánh tuột tay... Mãi ba ngày sau xác mới nổi, vẫn đang còn dính cứng vào nhau, bụng nghe bảo trương to lắm...
    - Ai dính cứng? - Tôi gần như nắm lấy ngực áo cậu bé - Dính cứng cái gì?
    - Dạ!... - Mắt cậu ta nhớn nhác nhìn lên gác - Dạ, dính vào chú giám đốc thuê nhà ở tầng dưới ạ!... Khi cái phao không giạt vào bờ, mấy ông đánh cá đêm còn bảo... Nói bác bỏ lỗi, vẫn còn giắt lại hai cái đồ lót đàn ông và đàn bà...
    - Thôi... Im đi!
    Tôi gần như nhao ra mặt đường, đầu óc choáng váng không hiểu mình đang ở đâu, mình vừa nghe thấy gì nữa. Phố Nhà Binh lúc ấy vẫn đang chan hòa ánh sáng và ngan ngát hương thơm mỹ phẩm.
    Sầm Sơn, 25-8-1991

Chia sẻ trang này