1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đọc Sử viết năm 1943

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi nguyenlytk21, 11/03/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Chính xác, mục đích post bài của nguyenly cuối cùng thì cũng lộ rõ ra là chỉ người Việt nam gốc tầu. Nếu quả thật Lý Trần là nhân vật có thật thì giới thiệu thêm về tiểu sử hay lại là một nick khác của Trương Thái Du, Trần Đại Sỹ.
  2. vnhn

    vnhn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2004
    Bài viết:
    840
    Đã được thích:
    0
    Xin phép được các cao nhân tranh luận, đây là đoạn trích trong tác phẩm Lịch sử cổ đại VN của học giả Đào Duy Anh:
    ..........Các nước Việt tộc ở lưu vực sông Dương Tử là Sở,Ngô,Việt đã dần dần đồng hoá theo văn hoá Hán tộc, Đến thời chiến quốc sau khi nước Sở diẹt nước Việt và chiếm cả đất Ngô Việt cũ thì sự đồng hoá của người Việt trong phạm vi nước Sở có thể nói là đã hoàn thành. Ở phía Tứ Xuyên thì sau khi nước Tần chinh phục các nước Thục, Ba,người Việt ở miền ấy cũng bị hấp thu vào VH trung nguyên,Đến thời Chiến quốc thì chỉ có đất Bách VIệt là nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của Hán tộc,Số phận của các nhóm tộc Việt đó ntn thì kô thể biết hết được,có lẽ do sự thôn tính lẫn nhau giữa các bộ lạc nên số các bộ lac ngày càng ít dần đi,mà sử sách chép lại chỉ có 5 nhóm lớn là Đông VIệt hay Đông Âu,Mân Việt,Nam Việt,Tây Việt hay Tây Âu và Lạc Việt..
    Theo Lộ sử ( tác phẩm của La bí thời Tống) chép rằng: Việt Thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu Khải, Âu Nhân, Cung Nhân, Hải Dương, Mục Thâm, Phù Xát, Cẩm Nhân, Thương Ngô, Man Dương, Dương Việt, Quế Quốc, Tây Âu, Quyên Tử, Sản Lý, Hải Quỳ, Tây Khuẩn, Kê Dư, Bộc Câu, Tỷ Đái, Khu Ngô , gọi là Bách Việt.
  3. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Bác Phù Thủy Bay sao lại nói hộ người khác một cách sai lạc như thế. Nghe bác nói thì biết Bác chưa đọc kỹ các điều tôi viết và các tài liệu tham khảo tôi mang vào.
    Thôi, nghe lời khuyên của Mr. Hoàng, xin nói tóm gọn lại ý chính của tôi cho các bác dễ theo dõi nhé:
    1. Dân Việt Nam ngày nay ở trong lãnh thổ hình cong như chữ S, từ Ải Nam Quan tới mũi Cà Mau, Đông và Nam giáp biển Đông Hải, Bắc giáp Trung Hoa, Tây giáp Lào, Cam Bốt, Thái Lan, có gốc là dân Lạc Việt, văn minh lúa nước, bắt nguồn từ Văn Hóa Hòa Bình có trên vạn năm.
    2. Do địa lý của vùng đất này, giữa Núi và Biển, người dân tại đây hấp thụ tinh hoa của Núi, sức mạnh của Nước, tin mình là Con Rồng, (Biển), cháu Tiên (Núi).
    3. 60,000 - 70,000TCN: Tại miền Bắc và Trung Việt đã có người từ Trung Đông và Parkistan đến lập nghiệp qua ngã Ấn và biển phía Nam châu Á.
    4. Trong khoảng 10,000 năm sau đó, có sự lai giống giữa người Mongoloid phía Nam và Australoid thành giống Melane sien, Indonesien, từ phía Nam tỏa lên và đi khắp Đông Nam Á.
    5. 10,000 TCN, Văn Hóa Hòa Bình phát triển với nhiều đồ đá, đồ gốm, và nền văn minh nông nghiệp đầu tiên trên thế giới. Người Việt Cổ nói tiếng Mường, dùng chữ Mường, ngày nay còn nhiều di tích người Mường tại khu Hòa Bình.
    6. Khoảng 2500 TCN, những người sinh sống phía Nam sông Dương Tử (gồm nhiều tộc Việt) bị giống du mục phương Bắc đánh đuổi chạy dần xuống phương Nam, tới lập nghiệp tại châu thổ sông Hồng cùng với dân bản địa. Những tộc Việt còn lại tại lãnh thổ Hoa Lục dần dần bị người Hán đồng hoá.
    7. Có sự giao thoa giữa những người sống bằng nghề trồng lúa nước tại đồng bằng sông Hồng (Lạc Việt - con cháu Hùng Vương) và những người từ phía Tây sang (Âu - Thục Phán), lập nên nước Âu Lạc.
    Trên lãnh thổ Việt lúc này có người Việt Cổ gốc Mường + người Lạc Việt chạy nạn từ phía Bắc xuống.
    8. Khoảng 2200 năm : Người Hán từ phương Bắc tiếp tục tràn xuống tìm cách xâm lăng phương Nam. Người Hán đầu tiên chiếm được đất Âu Lạc bằng mưu giả hòa và kết thân là Triệu Đà. Triệu Đà sát nhập Âu Lạc vào đất ông chiếm được của người Mân Việt tại Lưỡng Quảng thành Nam Việt, xưng vương nhưng thần phục triều Hán.
    9. 2000 năm: Triệu dâng đất cho Hán. Giao Chỉ trong Nam Việt bị Hán đô hộ, bắt đầu thời kỳ Bắc Thuộc.
    Từ Phong Châu của Lạc Việt, Hai Bà Trưng khởi nghĩa sau đó, bắt đầu những giai đoạn tự chủ ngắn nhưng nói lên tinh thần tự chủ, độc lập của nhóm người Việt tại vùng châu thổ sông Hồng.
    Sau đó là trên 1000 năm Bắc Thuộc, rồi đến các thời đại tự chủ của Việt: Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Trịnh, Nguyễn Tây Sơn, Nguyễn Gia Long với công cuộc Nam tiến tới mũi Cà Mau.
    Trong giai đoạn này, có sự pha trộn giữa người Lạc Việt với nhiều tộc Việt lánh nạn Hán từ phía Nam sông Dương Tử chạy xuống, với chính người Hán đang thống trị qua chính sách đồng hoá của họ, người Chiêm Thành ở phía Nam khi Việt Nam tiến.
    10. Thời kỳ Pháp Thuộc trên 100 năm, có sự giao thoa với một số người Âu, tại lãnh thổ Việt có thêm sự pha trộn giòng máu với người Caucasian, da trắng, tuy không nhiều.
    Xem như thế, thì vị trí của Việt Nam tạo cho chúng ta một lịch sử bắt buộc phải là nơi giao thoa của nhiều giống dân. Tùy theo thời điểm, những người dân sống trên lãnh thổ Việt pha trộn thêm nhiều giòng máu khác.
    Đây cũng là chiều phát triển tự nhiên của toàn thế giới.

    Tôi đồng ý với cái nhìn rất rộng của Lý Đông A:
    Thời Duy Dân: Khi các dân tộc còn tương đối cách biệt. Thì con người trên mỗi vùng lãnh thổ phải tìm cách duy trì, phát triển, và bảo vệ chủng tộc của mình để tự tồn.
    Thời Duy Nhân: Khi con người tiến lại gần nhau hơn, sự hòa lẫn chủng tộc không thể tránh, thì trên mỗi vùng lãnh thổ, sự kết hợp (Chủ quyền)của tất cả mọi người sống trong cùng địa bàn (DÂN) để cùng phát triển và tự bảo vệ quyền lợi chung (Quốc Gia) là chính.
    Trong thời kỳ này, người ta phải biết xóa bỏ phân biệt chủng tộc, mà chỉ chú trọng phát triển con người (NHÂN) để tránh các mâu tthuẫn trong cùng một tập thể trên một vùng đất.
    Chúng ta đã bước vào thời kỳ DUY NHÂN.
    Thế giới đã bước vào quan niệm này trước đây khoảng 50 năm.
    Trung Quốc, vì những tệ nạn do văn hóa gíao điều và độc quyền toàn trị, đã đi sau thế giới cả trăm năm, và vẫn còn đang trong thời kỳ GIA TỘC, CHƯA CẢ BIẾT ĐẾN TRỌNG DÂN. Họ vẫn mang mộng bá chủ với ý tưởng bắt cả thế giới tin rằng tộc Hán là một gốc cuả tất cả mọi dân tộc và là một tộc siêu việt. Việt Nam không may, lại là láng giềng của Trung Quốc.
    Vì chúng ta ở ngay sát Trung Quốc, nên tại thời điểm này, chúng ta phải tự khẳng định VIỆT KHÔNG CÙNG GỐC HÁN, để giữ vững bản sắc của mình hầu có thể bước tới một cách tự tin, tự chủ, và nhất là không bị rơi vào quỹ đạo của Trung Quốc lần nữa.
    Nếu các bạn vào một số Diễn Đàn Việt trên Mạng hôm nay, các bạn sẽ thấy chủ trương "đồng hóa bằng văn hóa" của Trung Cộng có chính sách.
    Thí dụ đầu tiên là vào Việt Nam Thư Quán,
    tại đây:
    http://vnthuquan.net/diendan/
    các bạn sẽ thấy quản trị viên mục Bình Luân Văn Học tên Zhang, với một người lấy nhiều bút hiệu bằng tên Hoa, dùng các Avatar mặc trang phục Trung Quốc, chứ không phải Việt Nam. Chen lẫn vào các cây bút tâm tình rất Việt, người Hoa không ngừng tìm cách đẩy vào các hình ảnh con người, văn hóa, thơ nhạc, hình ảnh Trung Quốc. Tôi tin rằng Việt Nam Thư Quán do chính công sức và tâm huyết của nhiều người Việt có lòng lập ra. Nhưng sự vô tư và hiếu khách, hiếu hòa của chúng ta không ngừng bị lợi dụng.
    Nếu chúng ta thực sự muốn giữ vững bản sắc dân tộc, thì hãy chú ý tới những điểm này. Và hãy giữ cho tiếng Việt ,chữ Việt, văn hóa Việt, tập quán Việt, tâm tình Việt, ý thức Việt, được phát triển mạnh mẽ.
    Tuy nhiên, trong tương lai gần, chúng ta sẽ phải tự vượt qua cái nhìn hạn hẹp về "Chủng tộc", để giang tay đón nhận tất cả đóng góp từ mọi người dân Việt Nam, bất kỳ chủng tộc nào, chỉ cần nhận là công dân của nước Việt Nam và hết lòng đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước dân tộc Việt.
    Vì ngay trong hiện tại, và tương lai rất gần, chúng ta có khối Người Việt gốc khắp thế giới, mà tiềm lực đóng góp cho sự thay đổi của dân tộc không nhỏ. Chúng ta cần biết yêu thương và đối xử không phân biệt chủng tộc, chỉ lấy NHÂN: Quyền làm Người là chính.
    Đó là cái nhìn DUY NHÂN của Ông bà tổ tiên Việt, trải vạn năm nay, luôn tiếp nhận người "đến" với chúng ta.
    Hãy lấy sức sống vạn năm lịch sử Việt
    Vươn vai lớn mạnh với năm châu.​
    _____
    * Tôi là học trò, đang đi học, nên các kiến thức về sử không chuyên môn, nếu chi tiết mang vào theo cái nhớ của tôi có nhiều sai lạc, xin các Thầy chỉ hộ.
    Được nguyenlytk21 sửa chữa / chuyển vào 23:37 ngày 14/03/2006
  4. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Cám ơn bạn Levan57 đã giúp đỡ sửa cho chữ Tri .
    Cám ơn bạn Hoàng đã góp ý cách viết cho đi vào trọng tâm .
    Xin có lời bình luận đoạn trích trên đây:
    1- Cái từ ngữ "nhiều tộc Việt" là một từ không khoa học, không
    có bằng chứng lịch sử, và là một từ ngữ mập mờ, không nên
    xài trong lý luận đàng hoàng. Không khoa học vì khoa học không
    có khái niệm nhiều tộc, mà chỉ có từng dân tộc riêng rẽ mà thôi .
    2- Trong lịch sử Trung Quốc, giống du mục hay đánh đuổi người
    Hoa nhất là "rợ Hung Nô" đã khiến Tần Thuỷ Hoàng xây đắp Vạn
    Lý Trường Thành . Người Hoa không du mục, nên mới xây dựng
    được đế quốc Hán rộng lớn, và đồng hoá các dân tộc khác trên
    đế quốc mà tạo thành dân tộc Hán . Trong các dân tộc khác đó
    có nhiều dân tộc từng được gọi là tộc trong Bách Việt . Trong cái
    gọi là Bách Việt, (không phải là dân tộc hay chủng tộc Việt như
    một số người không hiểu lịch sử và dân tộc), thì các nhóm
    người đã không cùng một nguồn gốc từ xa xưa . Những dân tộc
    trong Bách Việt mà còn đến ngày nay chưa thành người Hán
    thì có người ViệtNam, người Choang có dân số hàng triệu dân .
    Trong số người Bách Việt bị đồng hoá thành Hán có người
    Quảng Đông dân số hàng triệu dân . Xưa nay chưa từng ai nói
    3 dân tộc này là một bao giờ . Ngoài những nhóm lớn dân số
    hàng triệu kể trên, còn có các dân tộc ở cả Trung Quốc lẫn Việt
    Nam như Thái, Mèo, Nùng, vân vân, cộng đến mấy chục dân tôc.
    Cũng không bao giờ có thể nói những dân tộc này xưa chỉ là
    một dân tộc Bách Việt . Nếu là người ViệtNam, ai cũng hiểu chữ
    Bách có nghĩa là 100 . Vậy nói tộc Bách Việt phải chăng nói tộc
    100 dân tộc?
    3- Chuyện Thục Phán con vua Thục đời Xuân Thu Chiến Quốc
    làm vua nước ViệtNam chỉ là truyền thuyết, ít người tranh cãi
    mà chỉ cười khẩy bỏ qua mà thôi . Trong lịch sử chính thống
    không phải truyền thuyết (như các vua Hùng cũng là truyền
    thuyết) thì nước ViệtNam chỉ có sau đời Hai Bà Trưng . Nói rõ
    ra thì là thời Ngô Quyền .
    4- Người Lạc Việt không phải từ bắc xuống, mà là ở sẵn ở
    ViệtNam . Có lẽ bạn cũng không đọc sử Tàu như tôi, nhưng lại
    dám nói liều hơn tôi . Bạn nghe nói người Lạc Việt xưa ở tỉnh
    nào ngày nay ở Trung Quốc ? Nếu người Lạc Việt ở TQ đi xuống
    thì đi cả họ hay một nửa họ đã là người Hán ngày nay ?
    5- Bàn về cách nói, cùng thái độ nhìn nhận nguồn gốc người
    Việt:
    a- Thái độ và cách nhìn thứ nhất cho rằng người Việt vốn ở
    ViệtNam từ trước rất lâu, và tiếp nhận và đồng hoá những người
    di dân nơi khác đến, kể cả người Hoa .
    b- Thái độ và cách nhìn thứ hai cho rằng, người Việt vốn ở đất
    TQ từ trước, rồi di cư xuống ViệtNam, và đồng hoá những người
    bản địa vốn ở đây, và những người di dân nơi khác đến.
  5. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Thưa Bác Phù Thủy Bay,
    Thể theo lời yêu cầu của Bác, và để đáp lại các lần Bác rất tốt bụng đưa ra nhiều câu giải đáp thắc mắc của tôi trong nhiều chủ đề khác, tôi đã đi lục tìm ra tiểu sử Lý Đông A mang vào đây cho chúng ta cùng đọc nè.
    Tôi mong các bạn biết tôi giữ tư thế rất khách quan, khi đưa vào đây các tư tưởng hay của ai, không có nghĩa là tôi theo phe đảng gì với người ấy hay quen biết họ.
    Sơ Lược Tiểu Sử X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A​
    X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A tên thật là Nguyễn Hữu Thanh, sinh năm 1920, tuổi Canh Thân, mệnh Mộc, tại huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam. Ông thông hiểu về Dịch Lý, Phật Học, và Lịch Sử, v.v... khi mới 16 tuổi. Theo lời kể, ông được linh quang thần nhập thể vào lúc 16 tuổi, nên được khai mở trí tuệ: đọc rất mau, thâu tóm tư tưởng rất lẹ.
    Năm 1942, Ông đến thư viện Liễu Châu (Trung Hoa) để kiểm lại các sách viết về triết học, lịch sử, xả hội, khoa học Tây Phương và Ðông Phương, nghiên cứu địa lý Trung Hoa, đồng thời khảo sát thêm về lịch sử và văn minh Việt. Tại đây, Ông bắt đầu viết các sách thuộc bộ ?oÐại Việt Duy Dân Ðại Cương Thảo Án Quốc Sách Toàn Pho?, tức là các sách thuộc chủ thuyết Duy Dân Nhân Chủ. Sách Ông viết rất nhiều (khoảng 30 bộ) nhưng phần lớn không được phổ biến vì nhiều lý do, và một số bị thất lạc. Sách của Ông dùng nhiều từ ngữ Hán Việt, ý tưởng rất xúc tích, cách trình bày với dạng thức đặc biệt.
    Lý Ðông A khai triển văn hóa và truyền thống dân tộc kết hợp với các suy tư về sự kết cấu xã hội nhân loại và xã hội tự tính để lập thuyết. Một cách giản lược, lấy người làm trục, căn bản triết lý của chủ nghĩa Duy Dân có ba bình diện là ba thành phần biện chứng đưa đến một quan điểm thống nhất, đại đồng, chân xác về người:
    - Vũ trụ: duy nhiên, vô nguyên.
    - Nhân loại: duy nhân, nhất nguyên.
    - Dân tộc: duy dân, đa nguyên tương đối.
    Vũ trụ là một lãnh vực thuần túy khách quan...trong đó con người là sinh vật đặt thù luôn luôn có nổ lực vượt trên vận động tự nhiên để thành lập xã hội nguyên thủy là xã hội tự tính, từ đó con người mới xứng danh là người. Ý niệm xã hội là ý niệm căn bản của mọi quan điểm về người.
    Ngày 1 tháng 1 năm 1943, X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A sáng lập và là Thư Ký Trưởng Việt Duy Dân Ðảng để đấu tranh chống Pháp và chống Cộng. Vì thời cơ chưa đến với người Quốc Gia chân chính, nên sau trận Nga My (1945) và Hòa Bình (1946) đấu kháng với Cộng Sản, Ông tuyên bố giải tán Ðảng và biệt tích, lúc ấy Ông 26 tuổi. Sau năm 1946, người ta không còn ghi nhận những hoạt động nào của Ông, ngoài những lời đồn đãi là Ông đã bị Cộng Sản thủ tiêu như đã thủ tiêu lãnh tụ của các đảng phái cách mạng thời đó. Tuy nhiên các cơ quan tình báo Pháp và ngay cả Cộng Sản Việt Nam đã không có bằng chứng nào chứng tỏ là Ông đã bị sát hại cả.
    Nhà cách mạng Lý Ðông A đã quyết tâm đi làm cách mạng cứu nước giữ nòi bằng cả trái tim đầy máu nóng, một lòng yêu nước thương nòi nồng nàn. Các tác phẩm của Ông ngoài phần văn chương trác tuyệt và tâm huyết ngút trời đối với Quốc Gia Dân Tộc, còn là một hệ tư tưởng tuyệt vời cao sâu thực tiển, nhân ái, viễn kiến chính trị suốt dọc, làm nền tảng cho cuộc cách mạng phục hoạt sắp tới cho dân tộc Việt và là một cuộc cách mạng khuôn mẫu cho nhân loại sau này. Các tác phẩm của Ông đã được xuất bản : Ðạo Trường Ngâm, Huyết Hoa, Chu Tri Lục, Duy Nhân Cương Thường, Thiết Giáo, Việt Sử Thông Luận, và một số tài liệu.
    Tóm lại, lãnh tụ X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A được kể là một trong số ít triết gia Việt Nam, một nhà cách mạng nhân bản xã hội, một nhà chính trị đạo đức, một nhà đại thi hào của dân tộc.
    Gió Đáy thuộc Duy Dân Học Xã, xuất bản thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam tháng 9 năm 1969 (Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt)
    http://www.trelau.com/soluoctieusulda.htm
  6. Mr_Hoang

    Mr_Hoang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/12/2004
    Bài viết:
    8.879
    Đã được thích:
    10.411
    Mình có ý kiến: ở ý thứ nhất có lẽ bạn nguyen nên dùng chữ đất nước VN ở đây thì hợp lý hơn. Đất nước VN có 61 dân tộc anh em và dân tộc Kinh chiếm hơn 80% dân số là dân tộc chủ đạo. Dân tộc Kinh lấy Lạc Long Quân và Âu Cơ làm thủy tổ, tự cho mình là con rồng cháu tiên. Tiện đây hỏi luôn: bạn căn cứ vào đâu để kết luận là người Việt cổ nói tiếng Mường, dùng chữ Muờng ???
    Được Mr_Hoang sửa chữa / chuyển vào 04:52 ngày 15/03/2006
  7. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Vâng, xin ghi nhận ý kiến của Mr. Hoàng.
    Để trả lời câu hỏi về nguồn gốc tiếng Việt, mời Mr. Hoàng đọc tài liệu dưới đây:
    http://ngonngu.net/index.php?fld=tiengviet&sub=lichsu&pst=lstv_ntg
    Khái quát về sự hình thành và phát triển của tiếng Việt
    ? Nguyễn Thiện Giáp​
    Căn cứ vào những tài liệu mới được công bố gần đây, hiện nay có thể kết luận: Tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc nhóm Việt-Mường, tiểu chi Việt Chứt, nằm trong khối Việt Katu, thuộc khu vực phía đông của ngành Mon-Khmer, họ Nam Á.
    Trong nhóm Việt-Mường, ngoài tiếng Việt và tiếng Mường (Mường Sơn La, Mường Thanh Hoá, Mường Nghệ An) còn có tiếng Nguồn cũng được coi là ngôn ngữ bà con gần nhất với tiếng Việt.
    Trong tiểu chi Việt Chứt, ngoài nhóm Việt-Mường còn có nhóm Pọng Chứt gồm các ngôn ngữ Chứt, Pọng (bao gồm Mày, Rục, Sách, Mã Liềng, Arem) ở vùng núi các tỉnh phía nam khu IV và các tiếng như Ahơ (Phon Soung), Maleng (Pakadan), Thà Vựng ở Lào. Đây là những bà con xa hơn của tiếng Việt.
    Proto Việt Chứt, tức cái ngôn ngữ mẹ, chung cho cả nhóm Việt-Mường và Pọng Chứt, không tách trực tiếp từ proto Mon-Khmer mà tách ra từ khối proto Việt Katu. Thời gian chia tách này xảy ra cách đây trên 4000 năm, địa bàn cư trú ban đầu của cư dân nói tiếng proto Việt Chứt là vùng kéo dài từ khu vực miền núi Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị sang đến Trung Lào. Từ đó, một bộ phận cư dân đã vượt Trường Sơn, tràn ra miền Bắc, cư trú ở các vùng cao Nghệ?"Tĩnh, Thanh Hoá, Hoà Bình, Sơn La, Vĩnh Phú(1). Nếu bộ phận cư dân proto Việt Chứt ở lại quê hương cũ, vẫn giữ nguyên quan hệ tiếp xúc với cư dân Katu, Bana, Khmer thì bộ phận cư dân proto Việt Chứt di cư ra Bắc lại có những quan hệ tiếp xúc mới với những cư dân nói ngôn ngữ thuộc họ Thái-Kađai (như tổ tiên của người Tày, người Nùng,...). Sự tiếp xúc với Thái-Kađai rất sâu đậm, tạo ra một sự hoà nhập về nhiều mặt trong huyết thống, trong văn hoá vật chất cũng như tinh thần. Sự diễn biến mạnh mẽ của tiếng Việt, tiếng Mường theo hướng từ bỏ nhiều nét Mon-Khmer vốn có trong nguồn gốc của mình để chuyển thành những ngôn ngữ hoàn toàn âm tiết tính như ngày nay cũng bắt nguồn từ sự tiếp xúc với loại hình họ Thái-Kađai. Tiếp theo đó, một bộ phận cư dân Việt-Mường phía Bắc đã rời bỏ đồi núi, toả về đồng bằng, sinh sôi, phát triển mạnh ở vùng châu thổ sông Hồng. Đó là tiền đề cho việc hình thành cái nối của vùng Kinh sau này(2).
    Sự tiếp xúc với người Hán, tiếng Hán, văn hoá Hán đã xảy ra trước khi người Hán xâm lược, nhưng để lại dấu ấn sâu đậm vẫn là sự tiếp xúc trực tiếp trong suốt 1000 năm Bắc thuộc. Ảnh hưởng của tiếng Hán, nền văn hoá Hán không toả ra đồng đều trên lãnh thổ bị chiếm đóng. Ảnh hưởng đó ở vùng phía bắc sâu đậm hơn ở vùng phía nam, ở vùng đồng bằng sâu đậm hơn ở vùng núi. Chính vì vậy, sự khác biệt vốn đã có giữa nhóm Pọng Chứt và nhóm Việt Mường ngày càng rõ nét và cuối cùng đã phân hoá thành hai nhóm ngôn ngữ các đây từ 2000 đến 2500 năm. Trong nội bộ nhóm Việt-Mường về sau lại phân hoá thành tiếng Việt(3) ở miền châu thổ sông Hồng và tiếng Mường ở miền thượng du Hoà Bình, Sơn La, Phú Thọ. Sự phân hoá này diễn ra cách đây từ 1000 đến 1500 năm.
    Từ năm 939, Việt Nam giành được độc lập tự chủ. Mối quan hệ với tiếng Hán không còn là quan hệ trực tiếp như trước nữa. Mặc dù nhà nước phong biến Việt Nam vẫn duy trì việc sử dụng chữ Hán, coi chữ Hán là văn tự chính thức, việc tổ chức học hành, thi cử bằng chữ Hán ngày càng có quy mô, nhưng tiếng Hán không còn là sinh ngữ như trước nữa. Từ đây tiếng Việt diễn biến theo quy luật nội tại, nó còn bắt cả kho từ ngữ gốc Hán diễn biến theo quy luật của mình.
    Khi nước nhà giành được độc lập, người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm để ghi lại tiếng nói. Đây là một loại chữ được tạo ra theo nguyên tắc và trên cơ sở của tiếng Hán. Bên cạnh nền văn hiến dân tộc viết bằng chữ Hán, theo truyền thống Hán, còn có một nền văn hiến dân tộc viết bằng chữ Nôm ngày càng phát triển.
    Cũng từ đó, vai trò của tiếng Việt ngày càng phát triển mạnh mẽ. Mặc dù nó không được coi là ngôn ngữ chính thức dùng ở công văn, giấy tờ, học hành, thi cử, nhưng trong thực tế, nó vẫn trở thành ngôn ngữ có uy thế nhất trong toàn bộ lãnh thổ. Tác dụng của tiếng Việt bắt đầu toả ra mạnh mẽ đối với các vùng ngôn ngữ thiểu số. Lúc đầu chỉ là ở phía bắc, về sau, với đà nam tiến ồ ạt, liên tục của người Việt, ảnh hưởng đó ngày càng lan rộng. Bước đầu, nó lan truyền đến địa bàn khu IV, hình thành phương ngữ khu IV. Sau đó tiếng Việt lại nam tiến, tạo điều kiện hình thành một phương ngữ mới là tiếng miền Nam. Hai phương ngữ mới này có hoàn cảnh hình thành khác nhau, do đó có những đặc trưng khác nhau.
    Sự hình thành chữ quốc ngữ gắn liền với sự truyền giáo của các giáo sĩ phương Tây. Chữ quốc ngữ là một thứ chữ được xây dựng theo nguyên tắc ghi âm bằng chữ Latin. Loại chữ này được dùng phổ biến từ rất lâu ở châu Âu. Đến thế kỉ XVII, một số giáo sĩ phương Tây đem nguyên tắc ấy dùng vào việc ghi âm tiếng Việt, tạo ra một thứ chữ thuận lợi hơn đối với mục đích truyền đạo. Mấy thế kỉ tiếp theo, chữ quốc ngữ chỉ được dùng hạn chế trong những kinh bổn đạo Thiên Chúa.
    Sự áp đặt chế độ thuộc địa Pháp đưa đến việc bãi bỏ việc học, việc thi cử, việc dùng chữ Hán; đưa đến sự thắng lợi của chữ quốc ngữ. Buổi đầu nhân dân lạnh nhạt với chữ quốc ngữ, mặc dù một số trí trức "Tây học" đã ra sức cổ động cho nó(4). Thái độ lạnh nhạt ấy thay đổi từ khi hình thành các phong trào đấu tranh văn hoá có ý nghĩa chính trị như phong trào Đông Kinh nghĩa thục ở đầu thế kỉ XX. Những người lãnh đạo phong trào đưa việc dùng chữ quốc ngữ lên hàng đầu trong sáu biện pháp của bản sách lược gọi là Văn minh tân học sách (1907) và lên tiếng kêu gọi đồng bào vì tương lai của đất nước mà nên dùng thứ chữ tiện lợi ấy. Những tài liệu văn hoá bằng chữ quốc ngữ do phong trào này phát hành đã được phổ biến khá rộng. Mặt khác, sự tiếp xúc với tiếng Pháp, với nền văn hoá Pháp đã dẫn đến sự hình thành nền báo chí Việt Nam bằng chữ quốc ngữ, nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, sự đổi mới trong thơ ca, những tiếp thu về từ vựng, ngữ pháp.
    Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đưa lại ?ođịa vị ngôn ngữ chính thức của quốc gia? cho tiếng Việt. Từ đó, tiếng Việt đã phát triển nhanh chóng, toàn diện, có ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các ngôn ngữ thiểu số ở Việt Nam.
    Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn căn cứ vào tình thế ngôn ngữ, tức là thế tương quan giữa các ngôn ngữ, văn tự có sự tiếp xúc với nhau đã phân kì lịch sử phát triển của tiếng Việt như sau(5):
    A. Giai đoạn proto Việt - Có 2 ngôn ngữ: tiếng Hán (khẩu ngữ của lãnh đạo)
    - 1 văn tự: chữ Hán Vào khoảng thế kỉ VIII, X
    B. Giai đoạn tiếng Việt tiền cổ - Có 2 ngôn ngữ: tiếng Việt (khẩu ngữ của lãnh đạo) và văn ngôn Hán
    - 1 văn tự: chữ Hán Vào khoảng thế kỉ X?"XII
    C. Giai đoạn tiếng Việt cổ - Có 2 ngôn ngữ: tiếng Việt và văn ngôn Hán
    - 2 văn tự: chữ Hán và chữ Nôm Vào khoảng thế kỉ XIII?"XVI
    D. Giai đoạn tiếng Việt trung đại - Có 2 ngôn ngữ: tiếng Việt và văn ngôn Hán
    - 3 văn tự: chữ Hán, chữ Nôm và chữ quốc ngữ Vào khoảng thế kỉ XVII, XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX
    E. Giai đoạn tiếng Việt cận đại - Có 3 ngôn ngữ: tiếng Pháp, tiếng Việt và văn ngôn Hán
    - 4 văn tự: Pháp, Hán, Nôm, quốc ngữ Vào thời Pháp thuộc
    F. Giai đoạn tiếng Việt hiện đại - Có 1 ngôn ngữ: tiếng Việt
    - 1 văn tự: chữ quốc ngữ Từ năm 1945 trở đi
    __________
    (1) Có thể liên hệ với truyền thuyết về họ Hồng Bàng, về chuyện 50 người con theo mẹ ở lại vùng núi lập nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu và bức tranh về đời sống săn bắt, hái lượm của cư dân miền núi hồi đó.
    (2) Việc di cư này gắn liền với việc chuyển sang canh tác lúa nước. Nó được phản ánh trong sử sách qua việc Văn Lang trở thành Âu Lạc, quan việc Phong Châu nhường bước cho Cổ Loa.
    (3) Cư dân nói tiếng Việt ở vùng châu thổ sông Hồng còn được gọi là người Kinh. Kinh là một từ xưa kia vốn được dùng để gọi người Hán ở Kinh kì (Dẫn theo: Chu Xuân Diên. Cơ sở văn hoá Việt Nam. Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2002).
    (4) Trương Vĩnh Kí là chỉ bút Gia Định báo (1865?"1897) ?" tờ báo dùng chữ quốc ngữ sớm nhất ở Việt Nam. Ông cũng mở trường dạy chữ quốc ngữ. Các ông Trương Vĩnh Kí, Huình Tịnh Paulus Của là những người đầu tiên dùng chữ quốc ngữ để truyền bá học thuật và tư tưởng Âu-Tây, soạn Từ điển Việt?"Pháp và Từ điển Pháp?"Việt để người Việt học tiếp Pháp và người Pháp học tiếng Việt. Trương Vĩnh Kí đã in nhiều sách tiếng Việt bằng chữ quốc ngữ như:
    Kim Vân Kiều truyện (1875),
    Đại Nam quốc sử diễn ca (Sài Gòn, 1875),
    Gia Huấn ca của Trần Hi Tăng (Sài Gòn, 1882),
    Nữ tắc (Sài Gòn, 1882),
    Lục súc tranh công (1887),
    Phan Trần truyện (1889),
    Lục Vân Tiên truyện của Nguyễn Đình Chiểu (1889).
    (5) Nguyễn Tài Cẩn. Thử phân kì lịch sử 12 thế kỉ của tiếng Việt. Ngôn ngữ, số 10 (1998).
    --------------------------------------------------------------------------------
    Theo Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên). Lược sử Việt ngữ học (tập 1). Nxb Giáo dục, H., 2005, trang 15?"19.
    Đọc thêm:
    Khái quát về lịch sử tiếng Việt (Trung tâm KHXH&NV Quốc gia)
    7 giai đoạn phát triển của lịch sử tiếng Việt
    Vấn đề chữ viết nhìn từ góc độ lịch sử tiếng Việt (Trần Trí Dõi)
    http://ngonngu.net/index.php?fld=tiengviet&sub=lichsu&pst=lstv_ntg
  8. mltr_sg

    mltr_sg Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    404
    Đã được thích:
    0
    Xin lỗi, cho em chen ngang chút! Các bác đang bàn về nguồn gốc người Việt hay là Đọc Sử viết năm 1943 ạ?
  9. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Hic,
    Thưa Mod,
    khởi đầu là Đọc Sử viết năm 1943,
    tiếp sau đó là phần chất vấn thảo luận vặn vẹo vòng vèo đòi hỏi tài liệu qua tới nguồn gốc người Việt.
    Nếu Mod thấy cần tách hai chủ đề riêng ra, thì cho biết.
  10. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    "16 tuổi được linh quang thần nhập thể" . thôi khỏi nói được. Còn về nick Zhang hay Trương Thái Du thì trong diễn đàn này cũng có một thành viên dùng nick là American đánh cho tơi tả. Thành viên đó là ai thì bác tự tìm hiểu. Bản thân Zhang còn ko bảo vệ được luận điểm của mình đến nỗi phải bỏ cả diễn đàn mà đi nữa là.

Chia sẻ trang này