1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đông Chu liệt quốc

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Julian, 24/07/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Đông Chu liệt quốc

    Phùng Mộng Long​



    Đông Chu Liệt Quốc​




    Lời tựa​



    Tiểu thuyết trường thiên của Trung Hoa xuất hiện ở đầu đời nhà Minh , với bộ "Tam Quốc diễn nghĩa" , rồi đến bộ "Thuỷ Hử truyên" , rồi đến bộ "Tây Du Ký" .Ðến năm Gia Tĩnh thì xuất hiện bộ "Liệt quốc chí truyện" của Dư Thiệu Ngư gồm 8 quyển , 226 tiết , bắt đầu từ khi vua Trụ (nhà Thương) lấy Ðát Kỷ , đến khi nhà Tần thống nhất Trung Hoa .

    Sau đó vào cuối đời Minh , Phùng Mộng Long cải bộ "Liệt quốc chí truyện" , đổi tên là "Tân liệt quốc chí" , dài 108 hồi , bắt đầu từ đời Tuyên vương nhà Chu , cho đến đời Tần Thủy Hoàng .

    Vào khoảng đời Kiến Long nhà Thanh xuất hiện bộ "Ðông Chu liệt quốc chí" . Bản này dựa vào bản "Tân liệt quốc chí" mà sửa đổi lại chút ít và thêm vào rất nhiều những lời phê bình , chú thích của Sái Nguyên Phong .

    Năm 1995 , Nhà xuất bản Tác gia ở Bắc Kinh (Trung Hoa) phát hành bộ "Ðông Chu liệt quốc chí" dựa vào bản của Phùng Mộng Long . Những chỗ nào Sái Nguyên Phong sửa chữa "Tân liệt quốc chí" một cách sai lầm thì nhà xuất bản Tác giả khôi phục lại bản cũ , còn những chỗ nào mà cả Phùng Mộng Long và Sái Nguyên Phong đều sai lầm thì nhà xuất bản Tác giả đính chính lại một cách thận trọng .

    * *

    "Ðông chu liệt quốc chí" bao gồm một thời kỳ lịch sử dài hơn 400 năm (thế kỷ VI, V, IV, III trước công nguyên). Thời kỳ ấy bắt đầu từ khi Bình vương nhà Chu dời đô sang phía Ðông và kết thúc với cuộc thống nhất của Tần Thủy Hoàng . Sử cũng gọi thời kỳ ấy là đời Ðông Chu (chia làm hai giai đoạn là Xuân thu và Chiến quốc). Trong lịch sử Trung Hoa , đó là thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến phân quyền đến chế độ phong kiến tập quyền (có một thuyết cho rằng đời Xuân thu còn ở trong chế độ nô lệ) . Phùng Mông Long căn cứ chủ yếu vào các sách "Tả truyện" và "Quốc ngữ" của Tả Khâu Minh và sách "Sử ký" của Tư Mã Thiên và có tham khảo các sách "Công dương truyện" , "Chiến quốc sách" và hơn mười bộ sử khác nữa , để biên soạn Ðông Chu Liệt Quốc chí "Sử

    * *

    Tư tưởng toát ra trong suốt bộ tiểu thuyết này là tư tưởng "dân bản" của nhà nho : dân là gốc của nước , là sức mạnh của nước ; không phải vũ lực quyết định sự thành công hay sự thất bại mà chính là lòng dân . Trong truyện , những bậc anh hùng cứu nước (Huyền Cao , Tín Lăng quân , Lạn Tương Như , v.v...) những nhà trí thức chính trực (Ðổng Hồ , Lỗ Trọng Liên , v.v...); những người chấp chính có nhiệt tình với dân với nước (Quản Trọng , Tử Văn , Tôn Thúc Ngao,v.v...) đều được tác giả nhiệt liệt ca ngợi và đề cao .

    Mặt khác , tác giả miêu tả không dè dặt , không nể nang , cái bản chất xấu xa , bỉ ổi của giai cấp thống trị . Những mâu thuẫn sâu sắc giữa các tập đoàn thống trị , sự tranh giành quyền lợi giữa các cá nhân , gây nên vô số những cuộc chính biến và những cuộc tàn sát trong hơn bốn thế kỷ . Cũng không sao nói hết được sự dâm loạn vô sỉ ở chốn cung đình : quan hệ nam nữ bậy bạ giữa anh em ruột , giữa bố chồng và nàng dâu , con chồng và thứ mẫu ,v.v... (Tề Khương công và nàng Văn Khương , Vệ Tuyên công và nàng Tuyên Khương , Tấn Hiền công và nàng Tề Khương , v.v...) đều được tác giả kể lại và có thái độ phê phán . Sự ngu xuẩn của bọn thống trị thì được biểu hiện trong những nhân vật điển hình là Tống Tương công (dựng cờ nhân nghĩa , không chịu đánh giặc trong lúc giặc đang qua sông) , Vệ công (cho hạc làm quan) , Yên Khoái (bắt chước Nghiêu , Thuấn nhường ngôi) v.v... Tuẫn táng là một tập tục vô nhân đạo do sự ngu xuẩn của bọn đế vương sinh ra : Tề Hiều công chôn sống hơn hai trăm nội thị và cung nhân , để cho cha mình (chết rồi) có người hầu hạ ở dưới đất ; 177 người dân , trong đó có những người ưu tú (Tam Lương) cũng chịu một số phận như vậy ở đất Ung , táng địa của Tần Mục công ; Ngô vương Hạp Lư đánh bẫy hơn một vạn nam nữ để tuẫn táng cho con gái chết yểu của mình là Thắng Ngọc .

    Bên cạnh những tư tưởng tiến bộ , thì do sự hạn chế của thời đại , Phùng Mộng Long cũng không tránh khỏi những quan điểm tiêu cực , lạc hậu .

    Ở "Ðông chu liệt quốc" , tư tưởng chính thống và định mệnh rất phổ biến . Vua nhà Chu làm thiên tử là do mệnh trời , cho nên những nước chư hầu nào xưng vương đều bị coi là "tiếm" . Ðó là tư tưởng chính thống , xây dựng trên quan điểm định mệnh .

    "Ðông Chu liệt quốc" cũng đề cao "trung hiếu tiết nghĩa" phong kiến . Chữ "trung" ở đây là sự trung thành tuyệt đối của kẻ làm tôi , làm dân đối với cá nhân thiên tử là người được coi như chịu mệnh trời để cai trị thiên hạ . Trong "Ðông Chu liệt quốc" không thiếu gì chuyện vua bắt kẻ làm tôi phải chết , kẻ bề tôi phải vui lòng chết theo để được tiếng là "trung" . Chữ "hiếu" cũng cùng bản chất với chữ trung vì thiên tử được coi như là cha mẹ dân . Công tử Thọ và Cấp Tử nước Vệ vui lòng chết để khỏi trái đạo "hiếu" đối với một người cha tàn ác , bất công . Chữ "trinh" chữ "tiết" cũng được quan niệm một cách hẹp hòi , biểu hiện một quan hệ phụ quyền rất chặt chẽ . Người con gái nước Sở giặt vải ở bờ sông Lại Thủy đã nhảy xuống sông chết chỉ vì đã "trót" nói chuyện và cầm nắm cơm đưa tận tay cho Ngũ Tử Tư là một người trai nước Sở đương lánh nạn . Chữ "nghĩa" thì thường thường được xây dựng trên cơ sở ân oán cá nhân . "Sĩ vị tri kỷ giả tử" kẻ sĩ phải lấy cái chết đạ đền ơn người biết mình , nếu không thì không đáng gọi là kẻ trượng phu . Dự Nhượng huỷ hoại cả thân thể mình để đi báo thù cho Tri Bá ; Yêu Ly không những để cho người ta chặt tay mình đi , lại còn bằng lòng để cho người ta giắt cả vợ con mình để đền đáp ơn người tri kỷ . Những truyện như thế rất nhiều trong Ðông Chu liệt quốc . Do đó , nếu chữ "nghĩa" có thể đem lại đoàn kết để phục vụ chính nghĩa , thì nó lại hay bị giai cấp thống trị quí tộc lợi dụng mà mưu đồ lợi riêng .

    Nhiều nhà phê bình trước đây đã chỉ trích sự mê tín , ma quỷ bói toán , nhân quả , báo ứng , trong sách "Tả truyện" . "Ðông Chu liệt quốc" không những thừa kế sự mê tín ấy mà còn tăng cường nó lên . Ngay trong hồi thứ nhất đã có đến bốn năm chuyện huyền hoặc : đứa trẻ mặc áo đỏ dạy bài hát chẳng lành , những cung phi có thai bốn mươi năm , người con gái hiện hình ở trai cung , oan hồn của Ðậu Bá và Tả Nho đòi mạng , v.v... Về sau lại còn vô số những chuyện điềm tốt , điềm xấu , quỉ thần , đồng cốt , yêu quái , v.v... Những chuyện hoang đường như thế thường thấy chép trong nhiều truyện cổ nói chung .

    Tất nhiên ngày nay ta không tin những chuyện ấy là có thực mà hiểu rằng hoặc là do sự hạn chế của thời đại , tác giả "Ðông Chu liệt quốc" không thể có cái nhìn khoa học như chúng ta ngày nay đối với mọi vấn đề xã hội ; hoặc là ở dưới chế độ cũ mà vua chúa có uy quyền tuyệt đối , người cầm bút không thể nói ra sự thật nên phải mượn câu chuyện U vương nhà Chu mất nước ở mấy hồi đầu tiểu thuyết "Ðông Chu liệt quốc" , theo chúng tôi , đã được tô đậm màu sắc hoang đường , cũng không ngoàng Chu liệtý quốc", theo yếu ấy .

    Về nghệ thuật tính của "Ðông Chu liệt quốc" thì trước hết phải nói đến vấn đề kết cấu . Từ khi Bình vương nhà Chu dời kinh đô sang Ðông đến Tần Thuỷ Hoàng thống nhất đất nước là một thời kỳ hắc ám , hỗn loạn , vô cùng phức tạp , có vô số những cuộc chính biến , tàn sát ; vô số những cuộc chiến tranh hoặc nhỏ , hoặc lớn , hoặc giữa vài ba nước , hoặc giữa hàng chục nước ; vô số những chuyện thi thố tài năng ; vô số những nhân vật xấu , tốt ; vô số những đời sống tư nhân có liên quan với những sự kiện chính trị lớn nhỏ . Tất cả những cái đó , phải được tổ chức lại , tổng hợp lại như thế nào ; trọng tâm , trọng điểm phải đặt ở những chỗ nào , những lúc nào ; các hồi , các đoạn phải được phân phối như thế nào , để cho cái mớ sự kiện và nhân vật ấy trở thành một chuyện hoàn chỉnh ? "Xuân thu" , "Tả truyện" , "Công dương" , "Cốc lương" thì tự thuật các sự kiện ấy theo thứ tự năm tháng (biên niên) "Quốc ngữ" , "Chiến quốc sách" thì ghi chép theo từng nước . Tư Mã Thiên thì đã biên tả theo từng mục , loại . Phùng Mộng Long đã giải quyết vấn đề kết cấu của "Ðông Chu liệt quốc" một cách sáng sủa và tự nhiên , đứng trên quan điểm chính thống mà tự thuật những sự biến chính trị và quân sự trên còn đường thay đổi "thiên mệnh" từ nhà Chu đến nhà Tần , bắt đầu từ khi nước Trịnh lấn át thiên tử và trải qua sự nghiệp bá chủ của nước Tề , nước Tấn , nước Sở , nước Ngô , nước Việt , rồi đến chính sách "hợp tung" và "liên hoành" của Tô Tần , Trương Nghi và kết thúc bằng sự thống nhất của nước Tần . Với những điều kiện phiền phức như đã nói trên đây , người ta không có thể đòi hỏi thêm nữa , mà người ta chỉ có thể khen ngợi tác giả đã khái quát được những sự kiện vô cùng rối ren ấy đạ hiến độc giả một bức hoạ bao la về một thời kỳ lịch sử cổ đại rộng lớn của Trung Hoa .

    Một số nhân vật trong "Ðông Chu liệt quốc" được ngòi bút tác giả miêu tả rất sinh động , rất "nổi" . Ðọc "Ðông Chu liệt quốc" , không mấy ai quên được những nhân vật như Tín Lăng quân , Ngũ Tử Tư , Phạm Lãi , Lạn Tương Như , Kinh Kha , Chuyên Chư, Nhiếp Chính v.v... Chính là trên cơ sở những mâu thuẫn gay gắt của những sự kiện chính trị lớn, tác giả đã khéo thông qua ngôn ngữ và hành động mà xây dựng nên hình tượng nghệ thuật những nhân vật điển hình đó .

    Người Ðông Chu thì thế , đến việc Ðông Chu thì tác giả lại khéo có ngòi bút tự sự thật gọn gàng, sáng sủa và đồng thời lại còn rất khẩn trương , cảm động nữa . Có những sự kiện rất phức tạp , quanh co , mà tác giả chỉ cần nửa hồi để thuật lại một cách rất mạch lạc, trôi chảy, như đoạn viết về bốn họ tranh quyền nhau ở nước Tấn . Lại có những sự việc kéo dài trong đó quan hệ giữa các nhân vật biến hoá không ngừng , cục diện phát triển như đợt sóng , lên lên xuống xuống , tầng tầng lớp lớp , như chuyện Sái Túc nước Tống lập vua , chuyện Trung Nhĩ nước Tấn lánh nạn , chuyện Ngũ Tử Tư nước Sở báo thù v.v... Những đoạn ấy kéo dài nhiều hồi và ngòi bút tự thuật của tác giả đã khéo dẫn dắt người đọc một cách tài tình hết hồi nọ sang hồi kia , những người đi đường xa mỗi bước lại thấy hoa thơm cỏ lạ , mỗi lúc một thấy phong cảnh đổi mới đột ngột , bất kỳ .

    Lời văn "Ðông Chu liệt quốc" tuy không uyên thâm , điển nhã như Văn Tả truyện , văn Sử ký , nhưng có ưu điểm là cụ thể , rõ ràng , dễ hiểu . Nhiều đoạn rất hàm súc, nhiều đoạn lại rất tình tứ , nên thơ . Như đoạn viết về hai anh em công tử Thọ nước Vệ :

    "... Công tử Thọ liền bước sang thuyền Cấp Tử , rót một chén rượu để mời , nhưng chưa kịp nói gì thì nước mắt đã ứa ra , rỏ xuống chén rượu . Cấp Tử vội vàng đỡ lấy mà uống . Công tử Thọ nói : "Chén rượu này đã bẩn mất rồi !" Cấp Tử nói : "ấy , chính anh uống cái tình của em ở trong ấy !" Công tử Thọ gạt nước mắt nói : "Chén rượu hôm nay là chén rượu vĩnh biệt của anh em ta . Nếu anh nghĩ đến tình em thì xin gắng uống cho thật nhiều...".

    Và đoạn tả Lộng Ngọc thổi sáo đêm trăng :

    "... Lộng Ngọc ở trên lầu cuốn rèm lên ngắm cảnh , thấy trời tạnh mây trong , trăng sáng như gương , gọi thị nữ đốt một nén hương , rồi đi lấy cái ống sinh làm bằng ngọc bích , đến bên cửa sổ mà thổi . Tiếng sinh véo von vọng lên vòm trời , gió hây hây thổi , bỗng nghe như có người họa lại, khi gần khi xa . Lộng Ngọc không khỏi băn khuăn , bèn ngừng lại , không thổi nữa , có để nghe xem sao . Tiếng họa cũng im đi , nhưng dư âm còn lẽo đẽo không dứt . Lộng Ngọc bâng khuâng trước gió , như một người vừa đánh mất vật gì . Chốc đã nửa đêm , trăng xế hương tàn , nàng đem ống sinh để trên đầu giường , gắng gượng đi nằm .

    * *

    Ở cuối đời Minh , sau bộ "Ðông Chu liệt quốc chí" còn xuất hiện hơn hai mươi bộ tiểu thuyết lịch sử , như "Nam Bắc sử diễn nghĩa" , "Tổng truyện" , "Tây Hán diễn nghĩa" , "Lưỡng Tấn diễn nghĩa" , v.v... Về giá trị văn học và phạm vi ảnh hưởng thì "Ðông Chu liệt quốc chí" đứng đầu các bộ tiểu thuyết ấy , theo sự nhận định của các nhà phê bình xưa và nay .

    Trân trọng giới thiệu bộ tiểu thuyết "Ðông Chu liệt quốc" với các bạn đọc .

    Cao Xuân Huy
  2. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Hồi 1
    Nghe trẻ hát, tôi trung bị giết.
    Trải lòng ngay , Ðỗ-Bá thác oan.​
    Từ lúc vua Trụ mất nước Võ-vương lập lên nhà Châu, dân chúng sống trong cảnh thái-bình thịnh trị.
    Các triều vua kế tiếp như Thành-vương, Khương-vương, đều nhờ lấy đức trị dân, lại được các bậc trung thần như : Châu-công , Thiệu-công, Tất-công, Sử-Dật, hết lòng phò tá, lên cơ-nghiệp vững-bền.
    Qua đến đời vua thứ tám là Di-vương, cơ-nghiệp nhà Châu bắt đầu suy-yếu.
    Ðến đời vua thứ chín là Lệ-vương lại càng nhu-nhược hơn. Trong nước nổi loạn, nịnh-thần thí vua, toan tiếm ngôi may nhờ có Châu-công và Thiệu-công, đồng tâm hiệp lực, lập Thái-tử Tịnh lên kế vị.
    Thái-tử Tịnh lên ngôi xưng hiệu là Tuyên-vương , trong thì lo sửa sang triều-chính chiêu-đãi hiền-thần, ngoài thì lo vỗ an bá-tánh, vì thế các bậc hiền-tài lúc bấy giờ như Phương-Chúc, Thiệu-Hổ, Doãn-kiết-phủ, Châu-Bá, Trọng-sơn-phù, đều dốc lòng bảo giá . Tuyên-vương đem lại thái bình cho nhà Châu được mười chín năm thì giặc Khương-nhung dấy-loạn, vua phải ngự-giá thân-chinh.
    Thế giặc quá mạnh, Tuyên-vương thua luôn may trận, quân-sĩ hao hụt rất nhiều, bèn trở về Thái-nguyên kiểm-điểm dân số để mộ thêm binh lính.
    Khi đi ngang qua một khu phố nhỏ gần Kiểu-kinh có một bầy trẻ xúm nhau vỗ tay hát :
    Thỏ lên, ác lặn non mờ ,
    Túi cơ cung yểm bơ phò nước non.
    Vua nghe câu hát lấy làm tức giận, truyền quân vây bắt.
    Bọn trẻ cả sợ chạy tán loạn, chỉ bắt được có hai đứa.
    Vua quát hỏi :
    - Ai bày cho chúng bay hát như thế ?
    Hai đứa trẻ run lẩy bẩy, cúi đầu tâu :
    - Cách đây ba hôm, có một đứa nhỏ mặc áo đỏ, đến tại chợ nầy dạy chúng con hát. Nhưng chẳng biết vì sao, cùng một lúc, cả trẻ con trong khu phố đều biết các câu hát ấy.
    Vua lại hỏi :
    - Hiện bây giờ thằng bé mặc áo đỏ ấy ở đâu ?
    Hai đứa bé đáp :
    - Chẳng biết nó đi đâu , từ ấy đến nay chúng con không còn gặp nó nữa.
    Vua Tuyên-vương cau mày, suy nghĩ rồi truyền đuổi hai đứa bé ấy đi . Lại khiến quan Tư-thị loan-báo khắp khu-phố cấm không cho con nít hát như thế nữa. Nếu đứa trẻ nào còn hát cha mẹ nó phải chịu tội. Kế đó vua ngự-giá về cung.
    Sáng hôm sau, lâm triều bá quan vào chầu đủ mặt, vua bèn thuật lại câu hát ấy, và hỏi có ai đoán được hư thiệt không ?
    Quan Lễ-Bộ Triệu-hổ quỳ tâu :
    - Tâu Bệ-hạ, cây yểm là thứ cây dâu núi, dùng làm cung , còn cơ là loại cỏ dùng đan giỏ đựng tên. Cứ theo câu hát ấy mà bàn thì chắc trong nước sẽ bị nạn binh-đao !
    Tuyên-vương đưa mắt nhìn các quan cận-thần hỏi ý-kiến.
    Quan Thái-tế Trọng-sơn-phủ quỳ tâu :
    - Theo ý Ngu-thần thì cung tên biểu hiệu cho binh-đao, nay Bệ-hạ đang muốn kiếm dân, bắt lính đánh dẹp rợ Khương, điềm ấy e ảnh hưởng không lành đến dự-tính của Bệ-hạ.
    Tuyên-vương gật đầu hỏi lại :
    - Thế thì thằng con nít mặc áo đỏ là ai ?
    Thái-sư Bá-dương-phụ tâu :
    - Chúng con nít mặc áo đỏ thuộc hỏa, còn sao Huỳnh-hoặc cũng thuộc hỏa. Ấy là ông trời muốn răn vua, nên khiến sao Huỳnh-hoặc biến ra đứa trẻ đó .
    Tuyên-vương nghe nói cho là phải, bèn phán :
    - Vậy bây giờ trẫm tha tội cho Khương-nhung, rút quân ở Thái-nguyên về, truyền đốt tất cả số cung tên lưu trữ trong kho, như thế có tránh được điềm họa kia chăng ?
    Dương-phụ lại quỳ tâu :
    - Hạ-thần xem thiên văn thấy điềm dữ ứng tại cung vua, chớ không can chi đến bờ cõi. Hơn nữa, luận theo câu hát "thỏ lên, ác lặn" có nghĩa là âm thạnh, dương suy, hạ thần e rằng việc nước sẽ do tay đàn bà quấy rối.
    Tuyên-vương nói :
    - Trong cung có Khương-hậu là kẻ hiền-đức, cai quản tam-cung, lục-viện. Mỗi một cung phi đều do tay Khương-hậu chọn lựa, làm sao có thể xảy ra tai họa ấy được ?
    Dương-phụ tâu :
    - Tâu Bệ-hạ, ý trong câu hát không phải là việc bây giờ, xin Bệ-hạ cứ thi nhân, bố đức, may ra việc dữ trở nên lành , còn cung tên trong kho chẳng nên đốt làm chi.
    Tuyên-vương nghe xong, lòng rất nghi-hoặc, bèn bãi chầu lui vào hậu cung, đem các việc thuật lại cho Khương-hậu nghe.
    Khương-hậu tâu :
    - Tâu Bệ-hạ, điềm dữ vừa ứng, trong cung lại có việc lạ lùng, thần-thiếp định tâu cùng Bệ-hạ.
    Tuyên vương ngơ-ngác hỏi :
    - Chẳng hay trong cung lại có việc gì chẳng lành sao ?
    Vừa rồi trong cung có một phi-tần của Tiên-vương để lại, tuổi ngoài năm mươi, có thai đã bốn mươi năm trời, đêm qua lại sanh ra một gái.
    Tuyên-vương giật mình hỏi :
    - Ðứa con gái ấy bây giờ ở đâu ?
    Khương-hậu nói :
    - Thần-thiếp cho là quái-thai, nên đã sai người đem vứt xuống sông Thanh-thủy, cách đây vài mươi dậm.
    Vua cho là chuyện lạ, bèn đòi người cung-phi già đó đến hỏi tự sự .
    Người cung-phi già được lệnh, đến quỳ móp xuống đất, tâu rằng :
    - Tiện tỳ được nghe nói vào đời Hạ-kiệt, tại Bao-thành có thần-nhân hóa ra hai con rồng sa xuống giữa sân triều, nhả nước dãi ra rồi kêu vua Kiệt nói : "Ta là hai vị Ðế-vương của Bao-thành đây " . Vua Kiệt cả sợ, muốn giết hai con rồng ấy, song quan Thái-sư bói quẻ và tâu rằng : Thần nhân hạ giáng, ắt có điềm lành , xin Bệ-hạ hãy lấy nước dãi mà để dành. Vì nước dãi là tinh-khí của rồng, để dành trong cung ắt đặng hưởng phúc . Vua Kiệt nghe theo truyền đem mâm vàng hứng lấy nước dãi, đựng vào một chiếc hộp son, cất kỹ trong kho. Vừa cất xong thì trời nổi mưa, hai con rồng bay đi mất. Từ ấy đến nay đã hơn sáu trăm bốn mươi bốn năm, qua nhà Hạ, đến nhà Ân, rồi đến nhà Châu ta thêm nữa mà vẫn chưa ai dám mở hộp ấy. Ðến đời Tiên-vương , chiếc hộp ấy có hào quang rực rỡ, quan giữ kho trông thấy tâu lại với Tiên-vương. Tiên-vương truyền đem sổ bộ tra cứu, mới hay trong hộp đó đựng nước dãi rồng, bèn truyền mở ra xem. Rủi thay Tiên-vương sơ ý làm rơi chiếc hộp xuống đất, nước dãi đổ lai láng rồi hóa thành một con giãi nhỏ chạy tung tăng khắp sân triều. Nội-thị theo đuổi bắt con giãi kia chạy vào cung rồi biến mất. Lúc đó tiện-tỳ mới lên mười hai tuổi. Vì đạp nhằm đầu con giãi ấy mà thọ thai. Tiên-vương lấy làm lạ, đem tiện tỳ giam vào lãnh cung. Ðến nay hơn bốn mươi năm trời mới sanh ra một gái ! Nội-thị không dám giấu, vào tâu với Hoàng-hậu. Hoàng-hậu cho là quái-thai nên đã đem vất xuống sông, xin Bệ-hạ rộng lòng tha cho tiện-tỳ khỏi tội.
    Tuyên-vương nghe xong, lo lắng thở đài, phán :
    - Ấy là việc đời trước, có can chi đến ngươi mà phải sợ sệt.
    Nói xong, vội sai nội thị đến bờ sông Thanh-thủy xem đứa bé ấy thể nào.
    Một lát sau, nội thị trở về tâu :
    - Tâu Bệ-hạ, đứa bé ấy đã trôi đi đâu mất tích.
    Nhà vua an lòng, trở vào hậu cung an nghĩ.
    Sáng hôm sau vua cho vời quan Thái-sư Dương-phụ đến kể việc nước miếng rồng cho Dương-phụ và bảo :
    - Nay đứa bé ấy đã chết rồi, khanh hãy chiếm một quẻ xem oan nghiệt đã dứt chưa ?
    Dương-phụ vâng mạng, gieo quẻ rồi dâng lời đoán cho Tuyên-Vương xem.
    Lời đoán rằng :
    - Cười cười khóc khóc, dê mắc lưới, ngựa sa lầy. Sợ thay ! Sợ thay ! Nước non tang-tóc.
    Vua không hiểu ý, hỏi lại Dương-phủ tâu rằng :
    - Dê chỉ về Mùi, ngựa ứng về Ngọ. Cười cười, khóc khóc nói về chuyện vui buồn. Quẻ nầy ứng qua năm Ngọ, năm Mùi sẽ có chuyện vui buồn đó. Theo dự đoán của hạ thần, tuy yêu-quái ra khỏi cung nhưng chưa trừ đặng.
    Tuyên-vương nghe tâu, mặt buồn dàu-dàu, hạ chiếu truyền rao khắp dân chúng, ai tìm ra đứa con nít ấy, bất kỳ sống thác đều được thưởng ba trăm tấm lụa, ngược lại ai giấu diếm mà nuôi, sẽ bị xử-tử toàn gia.
    Vua truyền giao việc nầy cho quan Thượng-đại-phu Ðỗ-bá xem xét.
    Lại ra lệnh cho quan Ðại-phu Tả-nho nghiêm cấm khắp nơi, từ thành-thị đến thôn quê không ai được làm cung bằng gỗ yểm và giỏ tên bằng cỏ cơ. Ai trái lệnh được quyền bắt chém.
    Nhân-dân nghe lệnh, nhất nhất tuân theo. Duy có các miền xa vắng, lệnh của nhà vua chưa được ban bố, nên cách hai ngày sau có một người đàn bà xách mấy cái túi tên bằng cỏ cơ, và một người đàn ông vác mấy cây cung bằng gỗ yểm đến chợ bán.
    Quân tuần trông thấy áp lại bắt, nhưng người đàn ông lanh chân chạy thoát.
    Chúng dẫn người đàn bà vào nạp cho quan Ðại-phu Tả-nho .
    Tả-nho nghĩ thầm :
    - Hai vật nầy đúng theo lời hát của lũ trẻ rồi . Vả lại, quan Thái-sư bảo là có nữ họa, thế thì người đàn-bà nầy là mối họa lớn của quốc-gia, ta phải vào triều phục chỉ.
    Nghĩ như vậy, Tả-nho giấu việc người đàn ông bỏ trốn , chỉ dắt người đàn bà vào triều tâu nạp .
    Nhà vua truyền đem tội nhơn xử-tử, và đem tất cả các túi tên ra chợ đốt đi để răn dân chúng.
    Trong lúc đó, ngươi đàn ông kia hoảng vía chạy trối chết , không hiểu cớ gì quan quân lại đón bắt vợ chồng mình. Mãi đến ngày hôm sau, anh ta mới biết lệnh cấm, và nghe đồn người đàn bà bán giỏ tên bị xử tử, lòng nóng như đốt, anh ta than thầm :
    - Ôi ! vợ ta đã bị giết rồi, giờ đây ta biết nương tựa vào đâu ! đau đớn thay .
    Than rồi, anh ta khóc rống lên, nhưng sợ khóc lớn quan quân hay được, bèn tìm nơi vắng vẻ để khóc cho thỏa lòng .
    Anh ta đi lần đến mé sông Thanh-thủy, đôi mắt đỏ ngoe , dòng châu lả chả , bỗng thoáng thấy đàng xa có bầy chim kêu rả-rít, xúm nhau ngậm một chiếc chiếu cuốn tròn , nổi trên sông, mà đem vào bờ.
    Lấy làm lạ, anh ta chạy đến giở chiếc chiếu ra xem, thì thấy trong đó gói một đứa bé gái vừa mới lâm bồn (1).
    Anh ta nghĩ thầm :
    - Con ai đem bỏ như vầy. Ðã không chết mà lại có bầy chim cứu nạn, ắt là một quí-nữ. Ta đem về nuôi để ngày sau nhờ cậy .
    Nghĩ như vậy bèn cỡi áo gói đứa bé ôm vào mình, rồi thẳng đường sang Bao-thành lánh nạn.
    Từ khi giết người đàn-bà bán giỏ cung bằng cỏ cơ, Tuyên-vương cho rằng điềm họa trong nước đã diệt được, nên không còn lo ngại gì nữa. Tuy nhiên, cứ cách vài năm nhà vua lập đàn tế-lễ nơi Thái-miếu (2) , ăn chay nằm đất để cầu phúc.
    Năm ấy vào năm thứ bốn mươi ba, vua ngủ nơi trai-cung (3) , trống canh hai vừa đổ, xảy có một người con gái, dung nhan đẹp đẽ từ phía Tây xăm xăm đi lại.
    Vua cả giận nghĩ rằng :
    - Ðàn bà con gái sao dám đến chỗ chay cấm , bèn quát lên một tiếng hô nội thị đến bắt.
    Vua gào rát cổ, mà vẫn không thấy một tên nội-thị nào.
    Người đàn bà kia cứ ung-dung đi vào Thái-miếu, góp nhặt các bài-vị bó thành một bó, rồi bước ra cười ba tiếng, khóc ba tiếng, đoạn chậm rãi tiến về hướng Ðông (4) .
    Vua bèn rượt theo, bỗng giật mình thức dậy mới biết là chiêm-bao, trong lòng kinh hãi, đòi Thái sư Bá-dương-phụ đến hỏi.
    Bá-dương-phụ tâu rằng :
    - Lời đồng-dao (5) cách đây ba năm Bệ-hạ đã quên rồi sao ?
    Hạ-thần tiên đoán nhà Châu sẽ bị nữ-họa. Nay yêu-khí chưa dứt, mà người đàn bà ấy lại khóc ba tiếng, cười ba tiếng, thì đúng theo quẻ hạ thần đã tiên đoán vậy.
    Tuyên-vương lo lắng hỏi :
    - Ngày trước trẫm đã giết người đàn bà bán giỏ cung bằng cỏ cơ rồi, như thế chưa trừ đặng câu đồng-dao ấy hay sao ?
    Bá-dương-phụ tâu .
    - Tâu Bệ-hạ, đạo trời mầu nhiệm lắm, đâu phải dễ gì giết một người đàn bà hèn mọn kia mà có thể làm biến-đổi được thiên-cơ (6) .
    Vua nghe nói lòng buồn rã rượi, ngồi đứng không an, giây lâu sực nhớ đến việc ba năm trước có sai Ðỗ-bá truy tầm đứa bé thả trôi sông, sao đến nay chưa nghe kết quả , bèn đòi Ðỗ-bá vào hỏi .
    (1) Lâm bồn : mới sanh.
    (2) Thái-miếu : nơi thờ-phượng các Tiên-vương.
    (3) Trai-cung : nhà chay .
    (4) Ấy là điềm ứng cho nhà Châu phải dời qua hướng Ðông.
    (5) Ðồng-dao : câu hát của con nít .
    (6) Thiên cơ : máy trời, sự mầu nhiệm của tạo hóa.

    Ðỗ-bá quỳ tâu :
    - Tâu Bệ-hạ, hạ-thần hết sức tìm kiếm, nhưng chẳng thấy. Khắp trong dân gian cũng không ai tìm được xác, chứng tỏ quái-thai kia đã bị chìm mất tích rồi. Vả lại Bệ-hạ đã xử-tử người đàn bà bán cung, thì lời đồng-dao đâu còn linh-ứng ? Nếu cứ tra xét thì e động đến dân-tình .
    Tuyên-vương cả giận mắng :
    - Ðã không làm được việc, lại không phục-chỉ , rõ là một đứa khi quân.
    Bèn sai võ-sĩ dẫn Ðỗ-bá ra pháp-trường xử trãm.
    Giữa lúc đó, quan Hạ-đại-phu Tả-nho, vốn là bạn thân của Ðỗ-bá, thấy vội quỳ móp trước sân triều can gián :
    - Tâu Bệ-hạ, đời vua Nghiêu bị lụt chín năm, đời vua Thang nắng hạn đến bảy năm, mà chẳng hề sanh biến loạn. Nay chỉ vì giết không được một đứa con nít mà Bệ-hạ xử-tử một đại thần e các lân-bang chê cười, xin Bệ-hạ xét lại.
    Tuyên-vương mặt giận phừng phừng, nói :
    - Nếu vì tình bạn mà can gián, thì ngươi qua đã trọng bạn khinh vua .
    Tả-nho tâu :
    - Vua phải bạn trái thì nên theo vua. Bạn phải vua trái thì nên theo bạn . Tội Ðỗ-bá không đáng gì, mà Bệ-hạ đem giết, thiên hạ sẽ cho Bệ-hạ là bất minh. Hạ thần biết mà không can gián, thiên-hạ sẽ cho Hạ-thần là bất trung. Nếu Bệ-hạ giết Ðỗ-bá, hạ thần xin cùng chết.
    Tuyên-vương nói :
    - Trẫm chém Ðỗ-bá như chém cỏ rác, ngươi chớ nhiều lời làm chi .
    Nói xong, nạt võ-sĩ đem Ðỗ-bá ra chém.
    Còn Tả-nho về đến nhà cũng tự-vận mà thác.
    Người sau, cảm lòng trung nghĩa, lập miếu nơi Ðồ-lăng mà thời gọi là miếu Tả-tướng-quân.
    Con trai Ðỗ-bá là Thấp-thúc trốn qua nước Tấn , lành đến chức Sĩ-sư, sau con cháu đổi ra họ Phạm.
    .
    Khi Tuyên-vương nghe tin Tả-nho tự vận, lòng hối-ngộ, ăn ngủ không yên, mà sanh bệnh, bỏ cả việc triều chính.
    Khương-hậu thấy vậy cũng không dám phàn nàn.
    Một hôm, vào tiết mùa thu, Tuyên-vương muốn đi săn bắn để giải muộn bèn truyền Doãn-kiết-phủ và Thiệu-hổ sắm sửa xe giá lên đường. Hai bên tiền hô, hậu ủng thẳng đến Ðông-giao .
    Ðến nơi, vua truyền hạ trại, và dặn dò quân-sĩ không được đạp phá mùa màng, làm chấn động lê dân. Ðoạn truyền lịnh hễ ai bắt được nhiều thú rừng sẽ được trọng thưởng.
    Quân-sĩ đua nhau bủa vây khắp chốn. Lòng vua rất đẹp .
    Chẳng bao lâu, mặt trời đã gác non Ðoài, vua truyền bãi cuộc săn bắn.
    Quân sĩ tuân lệnh bao nhiêu phi-cầm tầu thú đều buộc trói sẳn sàng hộ giá về cung.
    Ði chưa dược ba bốn dặm đường, nhà vua mặt mày bỗng xây xẩm , rồi trước mắt thoáng thấy một cổ xe nhỏ từ đàng xa tiến đến.
    Trên xe có hai người, tay cầm cung tên, hô lớn :
    - Bệ-hạ vẫn được mạnh giỏi chứ .
    Tuyên-vương nhìn kỹ thấy hai người đó là Ðỗ-bá và Tả-nho, thất kinh gọi kẻ tả-hữu hỏi thì chẳng ai thấy gì hết.
    Chiếc xe nhỏ kia cứ lởn vởn mãi trước mắt, vua cả giận hét :
    - Phản thần ! Dám đến đây phạm giá sao ?
    Nói xong, rút bửu kiếm ra chém.
    Bỗng nghe có tiếng Ðỗ-bá và Tả-nho mắng lại .
    - Hôn quân, đã không biết sửa mình còn chém người vô tội !
    Hôm nay khí số hôn quân đã mãn , hãy lo mà đền mạng cho sớm .
    Dứt lời, trương cung nhằm ngay ngực nhà vua bắn tới.
    Tuyên-vương hét lên một tràng thất thanh rồi té xỉu xuống.
    Các quan hộ giá xúm lại đỡ dậy, lo thuốc men cứu chữa.
    Nhà vua ôm ngực rên la cho đến lúc về tới cung.
    Ai náay đều sợ sệt, nhìn nhau không biết nguyên do nào xảy ra như vậy.
  3. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Hồi 2​

    Bao-quýnh chuộc tội, dâng gái đẹp.
    U-vương đốt lửa diễu chư-hầu.​

    Từ khi săn bắn ở Ðông-giao về, Tuyên-vương lâm bệnh nặng , đêm nào chợp mắt cũng thấy Ðỗ-bá và Tả-nho đến đòi mạng
    Biết mình không thể sống được lâu, bèn cho đòi Doãn-kiết-phủ và Thiệu-hổ đến để thác cô .
    Hai người nầy vào quỳ dưới long-sàng hỏi thăm căn bịnh. .
    Vua khiến nội-thị đỡ dậy và nói :
    - Trẫm nhờ sức của hai khanh mới ở ngôi đặng bốn mươi sáu năm, chẳng ngờ hôm nay lâm bịnh nặng, không thể sống được nữa, Thái-tử là Cung-niếc tuổi tuy đã lớn mà tánh-tình ngu-muội, xin chư khanh hãy hết lòng phò tá kẻo hư cơ-nghiệp.
    Hai người cúi đầu lãnh mạng, bái tạ lui ra.
    Vừa đến cửa cung xảy gặp quan Thái-sử Bá-dương-phụ bước vào.
    Thiệu-hổ hỏi :
    - Có phải ngài đến để thăm Bệ-hạ không ? Bịnh tình Bệ-hạ rất nguy kịch, khó mà sống đặng.
    Doãn-kiết-phù nói :
    - Trước kia là tiếng hát rao, nay lại đến hồi quỷ hiện, vận nước thật khó an toàn.
    Bá-dương-phụ nói :
    - Ðêm qua tôi có xem thiên-văn, thấy yêu-tinh phục nơi sao Tử-vi. Quốc gia còn gặp nhiều tai biến nữa.
    Thiệu-hổ nói :
    - Tuy trời định hơn người, song người cũng có thể thắng mạng trời. Các ông cứ nói theo thiên-đạo mà bỏ nhân-lực sao ! Cả triều thần không đủ sức chống lại mọi tai biến ư ?
    Ba người nhìn nhau, mỗi người riêng một ý nghĩ, rồi ai về nhà nấy.
    Ðêm hôm ấy Tuyên-vương băng-hà.
    Khương Thái-hậu bèn ra ý chỉ triệu các vị lão-thần Doãn-kiết-phủ và Thiệu-hổ xuất lãnh bá quan, phò Thái-tử Cung-niếc vào làm lễ cử ai, rồi tức vị trước linh-cữu, xưng hiệu là U-vương , lập con gái Thân-bá lên làm Hoàng-hậu, lập con trai là Nghi-cựu lên làm Thái-tử, phong Thân-Bá làm Thân-hầu.
    Sau khi Tuyên-vương chết, bà Khương-hậu buồn rầu vô cùng, chẳng bao lâu cũng tạ thế.
    Còn U-vương lại là một ông vua bạo ngược, háo sắc. Mặc dù trong tang chế, ngày nào cũng ăn uống rượu chè, đắm say vật-dục đến nỗi bỏ bê cả việc triều-chánh.
    Thân-hầu ngày ngày can gián không được, buồn giận lui về nước Thân tá túc.
    Bấy giờ khí số nhà Châu cũng đã sắp tàn, nên khiến các vị lão thần như Doãn-kiết-phủ, Thiệu-hổ, đều lần lượt quy-thiên.
    U Vương lại dùng Quách-công, Tế-công, và con của Doãn-kiết-phủ là Doãn-cầu lên làm bực Tam-công.
    Ba người nầy đều là những kẻ dua nịnh tham quyền, cố-vị còn Trịnh-hữu-bá là người trung-trực vua lại không tin dùng.
    Một hôm, thiết-triều tại Kỳ-sơn , có quan thủ-thần vào tâu :
    - Tâu Bệ-hạ, chẳng biết cớ gì sông Kinh, sông Hà, sông Lạc cùng động đất một lúc.
    Không một chút lo lắng, U-vương mỉm cười nói :
    - Núi lở đất động là việc thường, nhà ngươi tâu với trẫm làm gì ?
    Nói xong, liền di-giá về cung
    Quan Thái-sử Bá-dương-phụ cầm tay quan Ðại-phu Triệu-thúc-Ðái than rằng :
    - Thuở trước sông Ỷ , sông Lạc cạn , nhà Hạ mất ; sông Hà cạn , nhà Thương hư ; nay cùng một lúc ba sông đều động một lượt ấy là trời muốn lấp nguồn, nhà Châu khó tránh khỏi tai biến.
    Triệu-thúc-đái hỏi :
    - Theo dự đoán của ngài thì bao giờ mới xảy ra tai biến ấy ?
    Bá-dương-phụ đánh tay xem lại, rồi đáp :
    - Nếu vua biết răn mình, chuộng hiền lánh dữ thì trong khoảng mười năm, bằng ngược lại họa sẽ tới gấp không chừng.
    Thúc-đái nghe nói thở dài, cầm tay Dương-phụ, nói :
    - Nay Thánh-thượng chẳng kể việc quốc-chính , xa những tôi trung gần gũi nịnh thần , chẳng lẽ chúng ta khoanh tay ngồi ngó trong lúc nước nhà bại vong. Vậy chúng ta phải can gián, dù được hay không cũng tròn bổn phận.
    Bá-dương-phụ cũng thở dài rồi lắc đầu nói :
    - Dù chúng ta có làm gì cũng vô ích .
    Trong lúc hai người nói chuyện có kẻ rình mò nghe được , thuật lại với Quách-công.
    Quách-công sợ nếu để Thúc-đái can gián ắt lòi chuyện gian-nịnh của mình, bèn thẳng vào hậu cung tìm lời sàm tâu rằng :
    - Bá-dương-phụ và Triệu-thúc-đái chê bai triều-đình, làm cho dân chúng hoang-mang.
    U Vương nói :
    - Chúng là những đứa ngu dốt biết chi mà bàn luận. Thói thường, những kẻ ngu dốt thường học đòi hay xét-nét đến công việc của thiên-hạ , khanh để ý làm gì cho bận tâm.
    Quách-công nghe nói thì cúi đầu lui ra, mặt mày hớn hở.
    Cách vài ngày sau, quan trấn thủ núi Kỳ-sơn lại dâng biểu về tâu rằng :
    - Ba sông đều cạn, núi Kỳ-sơn lại lở, đè chết dân chúng rất nhiều .
    U Vương không thèm để ý đến, sai bọn nội giám đi tìm gái đẹp sung bổ vào cung.
    Triệu-thúc-đái nóng lòng, dâng biểu can rằng :
    - Sơn băng, thủy kiệt là biểu-hiệu của thiên tai. Vả lại Kỳ-sơn là nơi dựng nghiệp đế vương nay lại bị lở đi thì không phải việc nhỏ . Lẽ ra phải chọn hiền tài, để chung lo cứu nước thì Bệ-hạ lại chọn mỹ-nữ để vui riêng, hạ thần lấy làm hổ thẹn .
    Nhà vua chưa kịp nói, thì Quách-công đã quỳ tâu :
    - Tâu Bệ-hạ, đất Phong, đất Kiều là chỗ đóng đô còn Kỳ-sơn cũng như chiếc giày rách lâu đời đã bỏ đi, thì việc núi long đất lở có can hệ gì. Ấy là Thúc-đái có ý khi-quân, mượn cớ để phỉ-báng triều đình, xin Bệ-hạ rộng xét.
    U-vương nói :
    - Lời Quách-công nói rất phải, Thúc-đái đã có ý khi-quân, trẫm không thể nào dung thứ.
    Nói rồi vua bèn cách chức Triệu-thúc-đái đuổi về quê.
    Thúc-đái ngửa mặt lên trời than :
    - Nguy bang bất nhập, loạn bang bất cứ . Tuy-nhiên, ta không khỏi đau lòng nhìn nhà Tây-châu mất nước .
    Than rồi bèn dắt cả gia-quyến trở về nước Tấn.
    Lúc ấy có quan Ðại-phu Bao-hướng vừa ở Bao-trung về, nghe tin Thúc-đái bị đuổi, bèn vội vã vào triều can gián rằng :
    - Tâu Bệ-hạ, nước nhà đang xảy ra nhiều điềm tai biến, Bệ-Hạ lại đuổi cả các tôi hiền, thì lấy ai phò xã tắc.
    Vua cả giận, truyền bắt Bao-hướng hạ ngục.
    Từ ấy không còn ai dám ngăn cản nữa.
    Ðây nhắc qua việc người bán cung lúc trước, sau khi vớt được đứa bé, bèn trốn về Bao-thành ẩn-náu. Nhưng vì nghèo khó nuôi đứa bé không nổi, mới đem cho một nhà giàu, hiếm con, là Tư-đại đặt tên đứa bé là Bao-tự.
    Nàng Bao-tự tuổi vừa mười bốn mà cao lớn như một thiếu-nữ mười sáu, mười bảy sắc đẹp tuyệt trần, mắt phượng, mày ngài,
    đáng bậc khuynh-thành, khuynh-quốc. Nhưng vì ở chốn thôn quê, dẫu sắc-nước hương-trời cũng không ai biết tới.
    Một hôm, Hồng-đức là con của Bao-hướng, nhơn thâu thuế làng đi qua đấy, thấy Bao-tự đang gánh nước.
    Hồng-đức đứng sững sờ, chắc lưỡi khen thầm :
    - Làng quê mùa như vầy, sao lại có người đẹp đến thế !
    Bỗng chàng lại sanh ra một ý nghĩ :
    - Cha ta bị tù nơi Kiểu-kinh đã ba năm, mà vua chưa tha. Nay, nếu được nàng nầy đem dâng cho vua, ắt vua tha tội.
    Bèn hỏi thăm tên họ rồi trở về nhà thưa với mẹ :
    - Phụ thân con vì tánh ngay thẳng mà trái ý vua, chứ không làm gì nên tội. Nay vua đang tuyển gái đẹp, mà con gái nhà Tư-đại lại đẹp vô ngần, nếu chúng ta mua được đem dâng cho vua, chuộc tội cho phụ thân, ấy là kế của Táng-nghi-sanh cứu Văn-vương ngày xưa đó.
    Mẹ Hồng-đức nói :
    - Nếu kế ấy mà thành-tựu, đem lại sự sum-họp gia-đình, thì mẹ đâu có tiếc gì vàng bạc .
    Ðược lời Hồng-đức cả mừng, đem ba trăm tấm lụa đến nhà Tư-đại hỏi mua nàng Bao-tự.
    Việc mua bán không khó khăn lắm, vì Bao-tự là con nuôi, nhà Tư-đại đâu có mến tiếc làm chi.
    Hồng-đức đem về, hương xông xạ ướp thay đổi xiêm-y, dạy cho biết những phép tắc cần thiết, rồi dẫn đến Kiểu-kinh tìm cách lo lót với Quách-công nhờ bảo tấu.
    Quách-công thấy vàng bạc, lòng mừng rỡ vào triều tâu với U Vương rằng :
    - Bao-hướng ngỗ-nghịch oai trời, tội đáng muôn thác. Nay có con va là Hồng-đức, chẳng nài khó khăn tìm kiếm khắp nơi mới được một mỹ nhân tên Bao-tự, đem đến dâng cho Bệ-hạ để chuộc tội cha, xin Bệ-hạ nghĩ tấm lòng hiếu thảo mà lượng xét.
    U Vương nghe tâu cả mừng truyền dẫn Bao-Tự vào bệ-kiến .
    Bao-Tự bước vào quỳ lạy trước ngai.
    U-vương xem thay mặt rồng ngây ngất, nhìn mãi không thôi !
    Qua một lúc, vua mới sực tỉnh, nghĩ thầm :
    - Ðã biết bao nhiêu cung nữ tuyển lựa, nhưng chưa hề có người nào chim sa cá lặn như vầy.
    Bèn hạ chỉ tha Bao-hướng và cho phục-chức . Lại truyền dẫn Bao Tự vào một biệt cung, không cho Thân-hậu hay.
    Ðêm ấy U-vương say tình cá nước. Và, từ đó chẳng lúc nào rời Bao-tự. Khi xem trăng, khi sánh nguyệt, khi đối ẩm, lúc ca xang , say sưa mãi nơi cung Quỳnh-đài, chẳng thiết gì đến việc triều chính .
    Có khi đến mười ngày cũng không thấy vua lâm triều. Trăm quan đều thở than, lo lắng.
    Có người đem chuyện vua mê-say Bao-tự nói với Thân-hậu hay.
    Thân-hậu tức giận, một hôm dẫn bọn cung-nga đến cung Quỳnh-đài xem hư thiệt .
    Vừa đến nơi, Thân-hậu thoáng thấy U-vương đang cùng với Bao-tự kề vai trửng-giỡn.
    Thân-hậu bước vào Bao-tự vẫn ngồi im, liếc mặt đưa tình nhìn vua chứ không đứng dậy chào đón.
    Thân Hậu tức không dằn được, chỉ vào mặt mắng :
    - Loài tiện tỳ mi ở đâu dám đến đây làm nhơ nhớp chốn cung vi ?
    Vừa nói, vừa muốn xốc tới.
    U-vương sợ Thân-hậu làm hỗn vội đứng dậy, cản lại, và nói :
    - Ðây là mỹ-nhơn của trẫm mới dùng, chưa định ngôi thứ nên chưa kịp đến ra mắt hậu, xin hậu chớ chấp nhứt làm chi.
    Thân-hậu mắng nhiếc một hồi rồi hậm-hực lui ra.
    Bao-tự hỏi U-vương :
    - Tâu Bệ-hạ chẳng hay người ấy là ai mà hung-dữ lắm vậy ?
    U Vương nói :
    - Ấy là Hoàng-hậu đó. Ngày mai khanh phải đến làm lễ ra mắt.
    Bao-tự làm thinh, rồi ngày mai cũng chẳng đi chào Hoàng-hậu .
    Từ khi biết rõ sự tình, Thân-hậu lòng buồn rười rượi ngày tối than thở mãi trong cung.
    Thái-tử Nghi-cựu thấy thế quỳ tâu :
    - Tâu mẫu-hậu, mẫu-hậu đã làm chúa tể nơi tam cung lục viện , oai quyền như thế, chẳng hay còn điều chi bất bình mà buồn bã .
    Thân-hậu đỡ con dậy, hai hàng nước mắt ràng rụa, nói :
    - Con ơi ! phụ-vương con đắm say con Bao-tự, không kể gì đến mẹ nữa. Thân mẹ dù có bị bạc bẽo cũng chẳng sao, duy có giang san sự-nghiệp sau nầy ắt phải tan tành vì tay con khốn nạn đó.
    Thái-tử nghe nói vừa buồn, vừa giận, cầm tay Thân-hậu nói :
    - Xin mẹ chớ có sầu bi. Ngày mai là ngày Sóc (mồng một), phụ-vương con thế nào cũng lâm triều , chừng ấy mẹ sai bọn cung-nữ qua nơi Huỳnh-đài bẻ phá bông hoa , dụ Bao-tự ra khỏi cung , con sẽ đánh cho một trận trả thù cho mẹ. Dẫu phụ-vương con có trách mắng, con xin cam chịu.
    Thân-hậu lắc đầu nói :
    - Con chớ nên nóng nảy như thế, để thủng-thỉnh mà liệu, kẻo lâm vào độc-kế của con dâm-phụ đó.
    Thái-tử Nghi-cựu hậm-hực ra về.
    Sáng hôm sau, quả nhiên U-vương lâm-triều.
    Nghi-cựu bèn sai một số cung-nhân qua nơi Quỳnh-đài, chẳng nói chi hết cứ việc vác cây đập phá bông hoa.
    Bọn thế nữ trong đài trông thấy thất kinh chạy ra cản lại và la lớn rằng :
    - Hoa nầy vốn của Chúa-thượng trồng, để cho Bao-nương ngoạn cảnh chớ nên phá phách mà tội chẳng nhỏ.
    Bọn cung-nhân vẫn không ngừng tay, ứng tiếng đáp :
    - Bọn ta vâng lịnh Ðông-cung Thái-tử đến bẻ hoa nầy về dâng cho Chánh-hậu, ai dám cản trở sao !
    Hai đàng cãi vả om-sòm, làm cho Bao-tự đang mơ-màng giấc điệp, bỗng giật mình thức dậy, bước ra xem thấy bông hoa tơi tả
    Bao-tự cả giận, toan bước tới đánh bọn cung-nữ, chẳng dè Thái-tử núp gần đấy, nhảy tới trợn mắt hét :
    - Nghiệt-phụ mi là người chi, danh dự gì mà dám xưng là nương-nương, chẳng kiêng ai hết, nay ta làm cho mi thấy cái nương-nương của mi.
    Nói dứt lời, Thái-tử nắm đầu Bao-tự tát cho mấy cái .
    Bao Tự đau quá ré lên.
    Bọn cung-nữ sợ hãi, đồng quỳ móp xuống đất thưa :
    - Xin Thái-tử hãy khoan-dung, kẻo phiền lòng Chúa-thượng
    Thái-tử Nghi-cựu chưa hả giận, nhưng sợ đánh sảy tay bèn buông Bao-tự ra , rồi chỉ vào mặt nói :
    - Nếu mi còn ngạo-nghể ta sẽ không bao giờ để cho mi sống yên.
    Nói xong quay gót trở về Ðông cung.
    Bao-tự biết Thái-tử đánh trả thù cho mẹ, nên phải dằn lòng nhẫn nhục trở vào, nằm vật trên giường than khóc.
    Bọn cung-nga thế nữ đồng xúm lại khuyên giải :
    - Bề nào cũng còn có Chúa-thượng, nương-nương khóc lóc làm chi.
    Bao-tự nằm khóc sụt sịt mãi cho đến lúc U-vương bãi triều bước về Quỳnh-đài, nàng mới khóc rống lên .
    U-vương vội vã bước vào hỏi :
    - Tại sao ái-khanh dung mạo như thế nầy ? Chẳng hay có điều gì xảy đến, hãy nói cho trẫm rõ.
    Bao-tự cứ khóc mãi không nói. Ðợi cho U-vương năn nỉ đôi ba phen, nàng mới nghẹn ngào thốt ra lời :
    - Hôm nay Thái-tử dẫn một tốp cung-nhân đến hái phá trông hoa dưới đài. Mặc dầu hành động ngang tàng ấy, thiếp cũng chẳng làm nói Thái-tử lại xông vào đánh thiếp. Nếu chẳng có cung-nga can giáng ắt mạng thiếp chẳng còn .
    Nói xong lại khóc rống lên nữa .
    U-vương đã rõ ngọn-ngành , vừa vỗ về Bao-tự, vừa nói :
    - Ái khanh ơi ! Chỉ vì ái-khanh không chịu ra mắt Chánh-hậu, nên Chánh-hậu giận, sai Thái-tử làm như vậy chứ không phải tại Thái-tử đâu, ái-khanh chớ hiểu lầm mà trách nó .
    Bao-tự làm ra mặt giận nói :
    - Thái-tử vì mẹ mà báo thù, Thánh-thượng cũng vì Chánh-hậu mà che chở tội lỗi. Dầu thiếp có chết đi cũng chẳng tiếc. Song, từ khi hầu-hạ Thánh-thượng đến nay, thiếp đã có mang hai tháng. Vậy xin Thánh-thượng cho thiếp ra khỏi cung để bảo tồn giọt máu của Thánh-thượng.
    U-Vương mặt mày buồn bã, đỡ Bao-tự dậy, nói :
    - Thôi, ái-khanh chớ buồn bã mà đau lòng Trẫm. Trẫm sẽ xét xử công-minh .
    Rồi, nội trong ngày hôm ấy, vua truyền chỉ rằng : Thái-tử Nghi-Cựu bạo động vô-lễ, chẳng biết điều thảo thuận, nên phải đưa qua nước Thân cho Thân-hầu dạy dỗ, còn những quan Thái-phó, Thiếu-phó nơi Ðông-cung, dạy dỗ chẳng nghiêm, nên thảy đều bị cách chức.
    Thái-tử Nghi-cựu được lệnh vội vã vào cung kêu nài, nhưng U-vương đã biết trước, dặn quan giữ cửa không cho vào.
    Thái-tử chẳng biết làm sao, đành lên đường qua nước Thân cư-trú.
    Còn Thân-hậu, luôn mấy hôm không thấy con vào thăm trong lòng lo lắng, sai bọn cung-nữ dò hỏi, mới hay Thái-tử đã bị đầy sang nước Thân rồi một mình bơ vơ, ngày ngày nhớ con gào thét thảm-thiết.
    Lần hồi ngày tháng thoi đưa, Bao-tự lâm-bồn sanh đặng một trai.
    U-vương yêu-mến vô-ngần, đặt tên là Bá-phục. Và, cũng từ ngày ấy, U-vương có ý phế con đích lập con thứ, song chưa có cơ hội thuận-tiện
    Quách-thạch-phù (tức Quách-công) dò biết ý vua bèn thương-nghị với Doãn-cầu, rồi thông-tư với Bao-tự rằng:
    - Thái-tử hiện bị đày ra khỏi nước, vậy phải lập tự cho Bá-phúc. Bên trong cậy có nương-nương, bên ngoài chúng tôi giúp sức, lo chi việc ấy không thành .
    Bao-tự bắt được tin, lòng mừng khắp khởi, vội phúc đáp ngay :
    - Ta cậy nhờ hai khanh hết lòng bảo bọc , nếu Bá-phục đặng nối ngôi thì việc giàu sang trong thiên-hạ, ta quyết không bao giờ phụ.
  4. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Hồi 3​
    Kiểu-kinh, quân Khuyển-nhung tác-loạn,
    Ðông-lạc, Châu-bình-vương dời đô.​

    Từ ngày Thân Hầu dâng biểu can vua, lòng nơm-nớp lo âu chẳng biết ý vua như thế nào, vội sai quân đi thám thính.
    Quân về báo :
    - U Vương sai Thạch-phủ làm đại-tướng, dẫn binh sang nước Thân vấn tội.
    Thân-hầu thất-kinh, hội các tướng tá thương-nghị.
    Thân-hầu nói :
    - Nước ta đã nhỏ mà binh lại ít làm sao cự cho lại binh vua
    Quan Ðại-phu Lữ-chương quỳ tâu :
    - Tâu Chúa-công, tuy nước ta là một chư hầu nhỏ, song Thiên-tử vô đạo, ngoài thì bỏ trung dùng nịnh, trong thì phế chánh, lập thứ , làm lắm điều bạo ngược. Nay nước Tây-nhung binh ròng, tướng mạnh, lại giáp ranh với nước Thân , xin Chúa-công gởi thư cầu cứu , mượn binh kéo về Kiểu-kinh đặng cứu Chánh-hậu, bắt vua phải nhường ngôi cho Thái-tử, ấy là noi theo gương Y-doãn, Châu-công đó.
    Thân-hầu khen phải, bèn khiến người đem một xe vàng lụa mang qua nước Tây-nhung mượn quân, lại hứa rằng, nếu phá được Kiểu-kinh thì bao nhiêu vàng bạc trong kho tự ý muốn lấy bao nhiêu cũng được.
    Nhung-chúa được thư, nghĩ thầm :
    - Thiên-tử bất chánh, Thân-hầu là vị quốc-cựu lại viết thư đến cầu cứu, ta đem quân dựng lại ngôi Thái-tử, đó là thuận lẽ trời, rất hợp với ý ta.
    Nghĩ rồi sai Mãng-tốc và Bột-đình, làm tả hữu tiên-phuông, điểm binh mười vạn, kéo đến Kiểu-kinh. Còn Nhung-chúa thống lãnh đạo trung quân đi sau làm hậu-vệ.
    Ðến nơi, Nhung-chúa đốc quân vây thành kín mít.
    Quân vào báo. U-vương thất-kinh nói :
    - Cơ bắt mật, họa tiên phát. Ta chưa kịp cất quân đi đánh mà giặc đã đến vây thành, biết làm sao bây giờ ?
    Quách-thạch-phủ quỳ tâu :
    - Xin Bệ-hạ sai người đền phong-hỏa-đài đốt lửa lên, tất nhiên các chư hầu đem quân đến cứu. Chừng ấy trong đánh ra ngoài đánh vô ắt quân giặc không còn đường trốn thoát.
    U-Vương nghe lời, sai người đến Ly-sơn đốt lửa cháy ngất trời mà chẳng thấy binh của chư hầu nào đến cả. Chỉ thấy binh của Thân-hầu kéo đến hiệp với binh của Nhung-chúa vây thành càng chặt hơn .
    U-vương thấy chư-hầu không đến, binh giặc công-phá rất gấp, bèn bảo Quách-thạch-phủ :
    - Thế giặc mạnh yếu chưa rõ. Khanh ra đánh thử, rồi trẫm sẽ chọn binh mạnh mẽ mà tiếp ứng.
    Quách-thạch-phủ tuy sợ sệt nhưng phải tuân hành, dẫn binh xe hai trăm cỗ khai thành tiến ra.
    Trông thấy Quách-thạch-phủ, Thân-hầu chỉ vào mặt, nói với Nhung-chúa :
    - Ấy là đứa khi quân hại nước , đừng để nó chạy thoát.
    Nhung-chúa quay lại hỏi các tướng tá :
    - Ai dám ra bắt thằng giặc đó chăng ?
    Bột-đình vung đao, vỗ ngựa đến thưa :
    - Tôi xin lấy đầu tên phản-tặc đó.
    Dứt lời, bay ngựa đến đánh với Quách-thạch-phủ.
    Ðánh chưa đặng mười hiệp Bột-đình chém Quách-thạch-phủ một đao rơi đầu .
    Nhung-chúa thừa thế, cùng với Mãng-tốc, đốc quân đến chém giết quân của U-vương vô số, rồi kéo vào thành, đốt phá nhà cửa lửa cháy mịt mù.
    Thân-hầu cũng không biết làm sao ngăn cản được hành động ấy.
    Trong thành cả loạn, U-vương tính thế không xong, bèn chở Bao-tự và Bá-phục lên xe nhỏ, rồi mở cửa sau thoát ra khỏi thành.
    Quan Tư-đồ Trịnh-bá-hữu chạy theo kêu lớn rằng :
    - Xin Bệ-hạ chớ sợ, có hạ-thần theo bảo giá đây .
    Nói xong, đẩy xe U-vương, thẳng đến Ly-sơn .
    Ði dọc đường gặp Doãn-cầu, hơ-hải chạy đến tâu :
    - Tâu Bệ-hạ, Khuyển-nhung đốt hết cung thất , chở hết vàng bạc trong kho. Còn Quách-công đã tử trận rồi.
    U Vương run rẩy hối Trịnh-bá-hữu đẩy xe đi cho mau.
    Khi đến Ly-sơn , Trịnh-bá-hữu lại đốt phong-hỏa-đài lên, khói bay ngất trời xanh, mà cũng không thấy chư hầu đến cứu.
    Chẳng bao lâu, quân Khuyển-nhung tràn tới, vây dưới chân núi đông nghẹt.
    U Vương và Bao-tự đều thất kinh, nhìn xuống chân núi rnà khóc ròng.
    Trịnh-bá-hữu tâu :
    - Việc đã gấp rồi, hạ thần xin liều mình bảo-giá, đưa Bệ-hạ ra khỏi vòng vây, qua bên nước tôi rồi liệu bề khôi phục.
    U Vương nói :
    - Bởi trẫm chăng nghe lời thúc-phụ nên mới đến nỗi này. Nay trẫm chỉ còn nhờ ở tay thúc-phự mà thôi .
    Trịnh-bá-hữu bèn khiến người nổi lửa đốt Ly-cung đi, đặng gạt Khuyển-nhung, rồi phò U-vương xông xuống núi.
    Trịnh-bá-hữu cầm xà mâu đi trước mở đường , Doãn-cầu phò mẹ con Bao-tự theo sau U-vương.
    Ði chưa đặng bao xa, gặp viên cận tướng của Khuyển-nhung là Cổ-lý-xích xốc đến đón đường.
    Trịnh-bá-hữu cả giận, hươi xà mâu rước đánh.
    Hai đàng đánh chưa đặng mười hiệp Cổ-lý-xích cự không lại bị Trịnh-bá-hữu đâm nhào xuống ngựa.
    Ðàng sau, binh sĩ lại ó lên, Trịnh-bá Hữu quay nhìn lại, thấy Bột-đình đem binh truy-cản.
    Quân Khuyển-nhung quá mạnh, Trịnh-bá-hữu chỉ có một mình không làm sao cự cho nổi, đánh đỡ một hồi, bị tên bỏ mạng !
    Còn xe của U-vương bị Mãng-tốc bắt lại đem nạp cho Nhung-Chúa
    Nhung-chúa rút đao chém U-vương và Bá-phúc. Còn Bao-tự, vì thấy xinh đẹp, nên Nhung-chúa không chém bắt về nơi trướng mà giao hoan, thù lạc.
    Doãn Cầu quá sợ hãi núp trong xe, bị quân Khuyển-nhung trông thấy, kéo cổ ra mà chém .
    Giữa lúc đó, Thân-hầu thấy lửa dậy trong cung liền đem binh vào chữa, và thả Thân-hậu ra. Ðoạn đi tìm U-vương, song không thấy đâu cả.
    Bỗng thấy Nhung-chúa đem binh vào thành cười hả hê nói :
    - Tôi đã giết hôn quân rồi.
    Thân-hầu kinh ngạc, nói :
    - Tôi muốn đem binh vấn tội để răn vua không ngờ lại xẩy ra cơ hội nầy. Chúng ta không làm sao tránh khỏi mang tiếng về sau.
    Nói rồi sai người khâm liệm, làm lễ an táng U-vương.
    Chôn cất xong, Thân-hầu trở về Kinh sư, bài tiệc đãi đằng Nhung-chúa để tạ ơn, và lấy vàng lụa trong kho sắp lên mười xe, để làm quà tiễn hành đưa Nhung-chúa về nước.
    Nhưng không ngờ Nhung-chúa lấy việc giết U-vương làm công-trạng, không chịu đem binh về, cứ lần-quần nơi Kinh-thành ăn uống, chơi bời, phá-phách nhân dân. Ai nầy đều oán-trách.
    Thân-hầu không biết làm thế nào, túng phải làm thư sai người đem đến ba xứ chư hầu: Tấn-hầu Cơ-cừu nước Bắc-lộ, Vệ-hầu Cơ-hòa nước Ðông-lộ, và Tần-hầu Dinh-khai nước Tây-lộ.
    Lại sai người qua bên nước Trịnh, đem việc Trịnh-bá-hữu bị tử-trận tin cho Thái-tử Quật-đột (con của Trịnh-bá-hữu) đem quân qua báo thù.
    Thái-tử Quật-đột tuổi mới mười ba, mà mình cao tám thước, sức mạnh phi-thường, lại thông-minh tài trí ít người sánh kịp.
    Ngày kia, nghe được tin cha tử trận đau xót không cùng, liền mặc tang phúc, đem ba trăm cỗ xe trận sang Kiểu-kinh báo thù.
    Nhung-chúa hay tin kiểm điểm binh mã, đề phòng dự chiến .
    Vừa đến nơi Thái-tử Quật-đột muốn ra quân, nhưng Công-tử Thành can rằng :
    - Binh ta đường xa mới đến, còn mệt mỏi, nếu đánh e khó thắng. Xin cứ an-dinh hạ trại, chờ binh các nước chư-hầu kéo đến, hiệp sức công phá thì mới thành công đặng.
    Quật-đột nói :
    - Binh quý thần tốc . Nếu đợi lâu chễnh-mảng lòng quân. Vả lại, nhơn lúc binh Khuyển-nhung đang bê trể, không đánh để trả thù cha còn đợi chừng nào.
    Nói xong, thúc quân ra trận, đến trước cửa thành kêu Nhung-Chúa mắng rằng :
    - Hỡi tên giặc Mọi ! Hãy đem đầu mà nạp cho ta để đền lại tội phản-phúc !
    Trên thành không ai ra ứng đáp.
    Quật-đột tức giận, truyền quân công phá.
    Trong lúc quân sĩ đang phá thành rất hăng, thì bỗng nghe một hồi thanh la nổi lên vang dậy nơi phía rừng rậm, rồi một đạo quân kéo ra (đó là đạo binh của Nhung-chúa sai phục sẵn ở đó) .
    Quật-đột vội vàng xua binh đón đánh.
    Trong lúc hai bên đang xáp trận, trong thành lại có tiếng thanh la nổi lên, cửa thành mở rộng, trong thành xông ra một đạo binh nữa.
    Quật-đột bị hai đạo binh của Bột-đình và Mãng-tốc đánh ép lại một lượt, làm cho binh sĩ rối loạn bỏ chạy.
    Quật-đột cũng hoảng vía, giục ngựa chạy dài. Chạy đến ba mươi dặm mới dám an-dinh hạ trại.
    Quật-đột bị thất trận trở về than-thở với Công-tử Thành rằng :
    - Bởi ta không nghe lời nên mới mang thảm-bại, nay liệu làm sao ?
    Công tử Thành đáp :
    - Từ đây đến Bộc-dương không xa , Vệ-hầu là người từng trải, vậy xin chúa-công hãy đến đó cầu cứu người, rồi hiệp binh tấn công một lượt mới thắng nổi.
    Quật-đột nghe theo khiến đẩy xe sang Bộc-dương thành.
    Ði được vài ngày, bỗng thấy một đạo binh mã cờ xí rộn ràng, cầm đầu là một vị chư-hầu mặc áo gấm, buộc đai vàng, tóc xanh râu bạc, giống như một vị tiên thần giáng thế. (Người đó là Vệ-công, tên Cơ-hòa, tuổi đã chín mươi).
    Quật-đột mừng rỡ, dừng binh lại, kêu lớn :
    - Tôi là Thái-tử nước Trịnh, tên Quật-đột, bị Khuyển-nhung xâm phạm Kinh-sư, giết cha tôi, tôi đem binh vấn tội, chẳng ngờ lại bị thua, phải đến đây cầu cứu ngài.
    Vệ-công xuống ngựa thủ lễ và nói :
    - Thái-tử hãy an lòng. Tôi nguyện đem binh giúp đỡ. Vả lại tôi có nghe binh Tấn và Tần cũng sắp đến đây thì có lo chi không trừ được lũ giặc đó !
    Quật-đột cúi đầu cảm tại rồi hiệp binh cùng với Vệ-công kéo đến Kiểu-kinh.
    Ðến nơi binh hai nước chư-hầu Trịnh, Vệ hạ trại cách Kinh-thành hai mươi dặm , lại sai quân đi thám thính tin tức nước Tần và nước Tấn.
    Quân thám thính về báo :
    - Phía Tây có tiếng chiêng trống vang trại, lại có một ngọn cờ thêu chữ "Tần" rất lớn .
    Vệ Công nói :
    - Nước Tần tuy là một nước Phụ-dung (nước phụ chư-hầu, phái cống hiến và nghe theo lệnh nước chư-hầu) ít binh mã, song binh tướng rất tinh nhuệ, đã làm cho rợ Khuyển-nhung lắm phen khiếp sợ.
    Nói vừa dứt lời thì lại có tin báo :
    - Quân nước Tấn cũng đã kéo đến đóng nơi phía Bắc.
    Vệ Công mừng rỡ, nói :
    - Quân hai nước Tần, Tấn đã kéo đến thì còn lo gì đại sự chẳng thành.
    Bèn sai người sang mời Tần-công và Tấn-công đến hội kiến.
    Trong giây phút, hai vị chư hầu ấy đều đến trại Vệ-công đàm-đạo.
    Thấy Quật-đột mặc tang phục Tần-công và Tấn-công hỏi :
    - Chẳng hay người ấy là ai vậy ?
    Vệ Công đáp :
    - Ðó là Thái-tử Quật-đột, con của Trịnh Bá đó .
    Ðoạn kể lại chuyện U-vương và Trịnh-bá-hữu bị chết.
    Hai vị chư hầu Tần, Tấn ngậm ngùi thương tiếc.
  5. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Vệ-công nói :
    - Nay lão phu đã già yếu, đến đây cũng chỉ vì nhiệm-vụ thần-tử . Vậy trăm việc xin ủy thác cho hai ngài định liệu, chẳng hay hai ngài đã có kế hoạch nào chưa ?
    Tần-công đáp :
    - Quân Khuyển-nhung chẳng qua tham tiền mê sắc mà tác loạn kinh-thành. Nay binh ta mới đến chắc chúng chưa kịp đề phòng. Vậy đêm nay chia quân làm ba mặt, Ðông, Nam, Bắc, mà đánh vào một lượt, còn phía Tây để cho Trịnh Thái-tử đem quân mai phục . Làm như thế ắt trọn thắng.
    Vệ-công khen là diệu kế. Mỗi người trở về lo việc điểm quân.
    Lúc bấy giờ, Thân-hầu ở trong thành hay được có binh bốn nước đến, trong lòng mừng rỡ, lén bàn với Chu công-huyến rằng :
    - Bốn nước đã hiệp binh, thế nào cũng chia làm bốn đạo công phá. Vậy ta chờ họ phá thành sẽ mở cửa ra ứng tiếp.
    Ðoạn bàn với Nhung-chúa sai Bột-đình chở vàng bạc lụa là vệ nước để bớt vây cánh. Lại khiến Mãng-tốc kéo binh Khuyển-nhung ra ngoài thành cự địch.
    Nhung-chúa đâu rõ kế của Thân-hầu, ngỡ thiệt nên làm theo.
    Mãng-tốc kéo binh ra khỏi thành đóng trại nơi cửa phía Ðông đợi rạng ngày sẽ giao chiến, không dè qua đến canh ba, binh Vệ đến cướp trại, túng thế phái bỏ chạy.
    Binh ba nước ồ lên phá thành một lượt Thân-hầu vội vã mở tung bốn cửa thành cho quân ngoài tràn vào.
    Nhung-chúa đang ngủ say, hay được tin kinh hãi vội lên ngựa chạy ra cửa phía Tây gặp đạo binh phục của Quật-đột chận lại.
    Hai đàng rước đánh. Ðương khi nguy cấp xảy có đạo binh thua của Mảng-tốc kéo đến giải vây, nên Nhung-chúa mới chạy thoát được .
    Quật-đột không đuổi theo, kéo quân vào thành hội với các nước .
    Lúc bấy giờ Bao-tự đang ngủ, giật mình thức dậy thấy Nhung-chúa bỏ chạy, lại nghe bốn mặt thành quân sĩ ó vang, muốn theo Nhung-chúa song không kịp, túng thế phải rút gươm tự vẫn.
    Ôi thôi ! Hồng nhan một kiếp, cánh hoa sắc nước hương trời mới dựa hơi đông-phong đã phải dập vùi dưới làn mưa bão, không kẻ xót thương.
    Người sau có bài thơ trách Bao-tự như sau :
    Một kiếp hồng-nhan một nụ cười !
    Phong-đài khói tỏa chửa mờ phai.
    Nụ cười còn mãi rung trong gió,
    Nhung-khuyển, U-vương ai hỡi ai !
    Ngày ấy Thân-hầu đặt tiệc khoản-đãi.
    Trong lúc đang ăn-uống Vệ-công buồn bã buông đũa nói :
    - Nước biến, vua mất, chúng ta còn vui sướng gì mà ngồi ăn uống ?
    Các chư-hầu nghe nói đều đứng dậy vòng tay thưa rằng :
    - Chẳng hay hiền hầu có điều chi dạy bảo chăng ?
    Vệ Công nói :
    - Nước không thể để một ngày không có vua. Nay Thái-tử còn ở bên nước Thân vậy phải rước về mà tôn lên Thiên-tử.
    Tần tương-công nói :
    - Hiền-hầu nói rất phải, chúng ta nỡ nào ăn uống vui vầy mà quên nhiệm vụ trọng đại đó sao !
    Quật-đột nói :
    - Tôi chưa có công cán chi, xin nguyện qua nước Thân rước Thái-tử cho.
    Vệ-công cả mừng, rót rượu khuyên mời rồi lập tức viết biểu chương và sửa sang xe giá đi đón Thái-tử. Các chư-hầu đều xin đem quân theo hộ tống.
    Quật-đột nói :
    - Việc nầy không phải là việc đi đánh giặc, chẳng cần phải nhiều quân. Chỉ một đạo quân của tôi đây cũng đủ rồi.
    Hôm sau, Quật-đột lên đường sang nước Thân.
    Lúc bấy giờ Thái-tử Nghi-cựu đang ở nước Thân , ngày ngày buồn bực, không biết Thân-hầu ra đi đã lâu lành dữ thế nào, xảy có quân vào báo rằng :
    - Trịnh Thái-tử đem biểu-chương đến rước Thái-tử về Kiểu-kinh.
    Thái-tử Nghi-cựu nghe nói, lật đật ra rước vào, giở biểu ra xem mới hay U-vương đã thác về tay Khuyển-nhung, liền khóc oà.
    Quật-đột tâu :
    - Xin Thái-tử lấy giang sơn, xã tắc làm trọng, trở về tức vị cho an lòng dân.
    Thái-tử nói :
    - Nay ta đã mang danh bất-hiếu với thiên hạ, lẽ ra không nên trở về trị nước, nhưng chẳng lẽ không nể lời các trấn chư hầu .
    Nói rồi bèn sửa soạn lên xe trở về Kinh.
    Về đến nơi, thấy các trấn chư hầu đã dẫn binh ra cách thành ba mươi dặm đón tiếp.
    Thái-tử vào thành, thấy cung điện hoang-tàn sập đổ, lòng bùi-ngùi ứa lệ, rồi phụng-mệnh Thân-hầu làm lễ cáo miếu mà lên ngôi, xưng hiệu Châu-Bình-vương.
    Các chư-hầu và bá-quan triều bái tung hô.
    Bình-vương cầm tay Thân-hầu phán rằng :
    - Trẫm là người đã bị phế, mà còn đặng hưởng nghiệp tổ tông như vầy cũng là nhờ ở Quốc-cựu.
    Nói xong, bèn phong chức Thân-hầu làm Thân-công.
    Thân-hầu tâu :
    - Tâu Bệ-hạ, Kiểu-kinh không mất là nhờ có quân các chư-hầu kéo về giải tỏa. Hạ thần đã không ngăn cản nổi Khuyển-nhung để làm hại Tiên-vương thì thật là đắc tội.
    Nói rồi từ chối không nhận.
    Bình-vương lại gia phong cho các trấn chư-hầu và phong hàm-ân cho Trịnh-bá-hữu rồi yết bản phủ-dụ nhân-dân.
    Ngày thứ, vua Bình-vương lưu Vệ-công làm Tư-đồ, Quật-đột làm Khanh-sĩ tại triều, Chu-công-huyền làm Thái-tử cùng coi việc nước . Riêng Thân-hầu và Tần-tương-công vì đất nước giáp ranh với Khuyển-nhung nên phải cáo từ ra về.
    Thân-hầu thấy Quật-đột tướng mạo khôi ngô, thông minh xuất-chúng, bèn đem con gái mình là Khương-thị gả cho Quật-đột.
    Nhắc qua Nhung-chúa, từ ngày kéo quân vào Kiểu-kinh đã thuộc đường thuộc nào, tuy bị các chư-hầu đánh bại song quân sĩ còn đông, lại nghĩ đến công lao khó nhọc mà không được hưởng gì, thì giận lắm, xua quân vào đánh phá chiếm một nữa đất Kỳ-phong làm chỗ trú quân để xâm lấn Kiểu-kinh.
    Bình-vương thấy đất Kiểu-kinh trong mấy tháng giặc giả tàn-phá, cung thất bị hư, phong-cảnh tiêu-điều, có ý muốn dời đô sang Lạc-ấp, bèn triệu các quan hỏi ý-kiến.
    Các quan cùng tâu :
    - Lạc-ấp là nơi trung-tâm của thiên-hạ, nên trước đây Tiên-vương đã ra công sửa sang rất vững chắc, gọi là Ðông-đô. Năm nào ở đó cũng có hội chư-hầu. Nay nếu Bệ-hạ muốn dời đô sang đó thì tiện lắm.
    Vệ Công nghe các quan tâu, thở dài, rồi cúi đầu tâu :
    - Tâu Bệ-hạ, hạ-thần đã hơn chín mươi tuổi, được Bệ-hạ tưởng tình cho dự vào quốc-sự, nay nếu các quan luận như vậy mà hạ thần không nói e mang tội bất trung . Vả chăng Kiểu-kinh là nơi lập nghiệp đế, bốn bề núi sông hiểm-trở, còn Ðông-đô tuy là giữa úm nước, nhưng trống trải, không làm sao tránh nổi mũi giặc.
    Bình-vương nói :
    - Trẫm cũng biết Kiểu-kinh là nơi Tiền-vương lập nghiệp, lẽ ra phải gìn giữ không nên bỏ phế, song hiện nay Khuyển-nhung cướp lấn nơi Kỳ-phong, thế rất hung-hăng. Trong cung, các kho tàng bị cháy, nếu sửa sang e tốn công của muôn dân. Cực chẳng đã trẫm mới dời đô qua đó mà thôi.
    Vệ-công tâu :
    - Khuyển-nhung là lũ sài-lang chẳng nên cho nó vào nước . Bởi Thân-hầu tính liều, mượn binh của nó chẳng khác nào mở cửa rước kẻ cướp vào, cho nên cung-thất phải tan, Tiên-vương bị hại . Nay Bệ-hạ nên coi đó là một mối thù, quyết lòng rửa hận, bắt Khuyển-nhung mổ mật đem tế nơi Thái-miếu để làm gương. Nếu Bệ-hạ tránh kẻ thù thì kẻ thù sẽ tìm Bệ-hạ mà tới. Thuở trước Ngu Thuấn làm vua ở nhà tranh thềm đất, vua Ðại-võ ở cung thấp hẹp mà không tưởng là xấu, xin Bệ-hạ xét lại.
    Chu-công-huyến quỳ tâu :
    - Tâu Bệ-hạ, lời luận của quan Tư-đồ không đúng với quyền biến. Trước kia Tiên-vương bỏ việc quốc-chính, làm rối đạo cang-thường mà sanh giặc. Việc ấy đã lỡ rồi không phải nói làm chi . Nay Bệ-hạ muộn bỏ hết những cái gì xấu xa lúc trước, làm cho mọi người ai cũng thấy rằng Bệ-hạ là tượng trưng cho một sự kiến-quốc mới mẻ, thế thì việc dời đô rất có ảnh-hưởng tốt trong lòng bá tánh.
    Vệ Công lắc đầu, tâu :
    - Tâu Bệ.hạ, thắng giặc phải căn cứ ở lòng người, mà còn hãy dựa trên sức mạnh, nghĩa là phải giữ được những chỗ hiểm yếu . Nay Thân-hầu đem Khuyển-nhung vào nước đặng thì cũng có thể dẹp nó đặng. Xin Bệ-hạ sai sứ hỏi người xem có kế nào hay chăng ?
    Lúc đang thương nghị, bỗng có tin Thân-hầu sai người đem văn biểu đến.
    Bình-vương mở ra xem, thấy trong văn biểu viết như sau :
    Giặc Khuyển-nhung đem quân xâm lấn nước Thân, xin Bệ-hạ nghĩ tình đem binh cứu ứng, kẻo nước Thân khó bề giữ nổi.
    Xem biểu xong, Bình-vương nói :
    - Thân-hầu lo phận mình chưa xong, làm sao lo việc trẫm . Thôi, ý trẫm đã quyết các khanh khá tuân lời
    Ðoạn truyền quan Thái-sư chọn ngày dời đô.
    Vệ Công tâu :
    - Nay vì tránh giặc mà Bệ-hạ dời đô, e lòng dân không tránh khỏi ly-tán. Vậy xin Bệ-hạ cho phép hạ-thần đăng bảng cho nhân dân hay đã.
    Vua nhậm lời. Vệ-công bèn đăng bảng truyền-dụ dân chúng ai-muốn theo qua Ðông-đô thì sắm sửa mà đi.
    Kế đó quan Chúc-sử làm văn biểu cáo với nhà Thái-miếu, rồi quan Lễ-bộ phò thần chủ bảy miếu lên xe đi trước.
    Tần-tương-công nghe tin vua thiên-đô liền thân hành đem quân hộ giá.
    Dân gian già trẻ dìu đắt nhau theo vua chẳng biết bao nhiêu.
  6. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Hồi 4​
    Tần-văn mộng thấy con trời
    Trịnh-chúa nhìn thương mẹ dưới hầm​

    Khi Bình-vương đến Lạc-dương thấy phong cảnh tốt tươi, dân cư trù mật không kém gì Kiểu-kinh, trong lòng mừng rỡ.
    Kinh-đô định xong, cả chư hầu đều dâng biểu chúc mừng, duy chỉ có nước Sở chẳng thấy đến.
    Bình-vương nổi giận muốn khởi binh vấn tội.
    Quần thần can rằng :
    - Nước Sở chẳng tuân vương-hóa đã lâu, xưa Tuyên-vương phải lắm phen chinh phục. Từ đó cứ hàng năm đem cống hiến một xe thanh-mao để dùng đặt rượu mà tế tự. Lệ ấy cũng chỉ cho có chừng đó thôi. Nay Bệ-hạ mới dời đô, lòng người chưa định, nếu đem binh chinh phạt e khó thắng. Xin Bệ-hạ chờ cho binh hùng tướng mạnh sẽ tính đến việc đó cũng chẳng muộn chi.
    Bình-vương nghe nói cũng đổi giận làm vui, không tính việc chinh Nam nữa.
    Kế đó Tần-vương-công cáo từ về nước.
    Bình-vương nói :
    - Nay đất Kỳ-phong bị giặc Khuyển-nhung chiếm giữ, quấy rối dân lành. Nếu nhà ngươi đánh đuổi được thì ta cho đất ấy để đền đáp lại công hộ giá thiên đô .
    Tần tương công bái mạng lui về, sắm sửa binh mã lo kế đánh đẹp Khuyển-nhung.
    Chẳng bao lâu, giặc Khuyển-nhung bị giết sạch , tướng Khuyên Nhung là Bột-đình và Mãng-tốc đều tử-trận, còn Nhung-chúa trốn ra giãi đất hoang nơi phía Tây mà tạm trú.
    Ðất Kỳ-phong sát nhập vào nước Tần, rộng rãi hơn ngàn dặm .
    Từ ấy nước Tần trở nên đại-quốc .
    Thu nhận đất Kỳ-phong chẳng bao lâu thì Tần tương-công mất, con là Tần văn-công lên kế vị .
    Một hôm, Văn-công nằm mộng, thấy một con trăn lớn, từ trên trời sa xuống, trong giây phút lại hóa ra một đứa bé kêu Văn công nói :
    - Ta là con trời sai xuống báo cho nhà ngươi được biết : Nhà ngươi sẽ làm Bạch-đế giữ nghiệp nơi phía Tây .
    Nói rồi biến mất.
    Văn-công đem việc ấy hỏi Thái-sử Ðôn.
    Quan Thái-sử tâu :
    - Sắc bạch là sắc của phía Tây. Ấy là điềm trời cho Chúa-công làm chủ khắp phương Tây đó. Vậy phải tạ ơn trời đất.
    Văn-công bèn lập miễu nơi Phu-ấp mà thờ, lại giết con trâu trắng để tế.
    Kế đó, có người ở xứ Trần-thương săn được một con thú, hình thù giống heo, nhưng lông cứng mà nhọn, đánh không chết. Họ không biết con gì, bèn đem dâng cho Văn-công. Nhưng, khi đi đến nữa đường thì gặp hai đứa trẻ chỉ con vật ấy nói : Con thú nầy tên con Vị , thường ở dưới đất , hay ăn óc người chết. Hễ đánh nhắm óc nó thì nó chết.
    Con vật liền đáp rằng :
    - Hai đứa con nít nầy là Trĩ-tinh hiện lên . Hễ bắt đặng con trống thì làm Vương, bặt đặng con mái thì làm Bá.
    Hai đứa trẻ nghe con vật nói, liền biến mất.
    Con thú cũng biến theo .
    Người đi săn kinh hãi, lật đật báo cho Văn-công hay.
    Văn-Công liền lập miễu nơi núi Trần-thương để thờ Trĩ-tinh.
    Thuở ấy tại núi Chung-nam có cây Tử lớn, Văn-công muốn đốn về xây cất cung-điện, nhưng cưa không đứt, búa chặt không vô. Ai nấy lấy làm lạ.
    Một đêm kia, có người nằm ngủ dưới gốc cây nghe một bầy quỷ đến chúc mừng cây ấy.
    Lại có tiếng hỏi :
    - Nếu Tần-vương khiến người bỏ tóc xõa, và lấy chỉ đỏ quấn xung quanh thân cây thì liệu làm sao ?
    Sáng hôm sau người ấy đem câu chuyện báo lại cùng Văn công .
    Văn-công khiến người làm y như vậy.
    Quả thật, thân cây bị cưa ngã. Nhưng cây vừa ngã xuống thì một con trâu xanh ở trong thân xông xa, chạy thẳng xuống sông Ung-thủy. Từ đó, dân chúng thỉnh thoảng lại thấy trâu xanh hiện lên.
    Văn-công sai kỵ-sĩ đón đánh nhưng trâu xanh quá mạnh, không làm sao đánh nổi.
    Kỵ-sĩ bèn bỏ tóc xõa mà đánh, trâu xanh mới chịu chạy xuống nước.
    Văn-công bèn chế ra cờ ngũ-sắc để nơi quan-trung, lại lập miễu mà tế vị thần trâu ấy.
    Lúc bấy giờ, vua Huệ-công nước Lỗ nghe nước Tần tế-lễ trời, bèn sai Thái-tế Nhượng đến xin vua Bình-vương cho phép mình được tế giao và tế lễ.
    Bình-vương không cho.
    Huệ-công nói :
    - Tổ ta là Châu-công, có công lớn với nhà vua, vả lại lễ nhạc do tổ ta bày chế, nay con cháu dùng thì có hại chi. Hơn nữa, Thiên-tử đã không cấm nước Tần sao lại cấm nước Lỗ
    Bèn không kể đến mạng vua, cứ tế giao, tế lễ như nhà vua vậy.
    Vua Bình-vương biết việc ấy nhưng không dám nói.
    Từ đấy nhà Châu ngày một suy yếu. Các nước chư-hầu chuyên quyền, xâm bờ lấn bờ cõi nhau, gây rối rắm trong khắp thiên-hạ.
    Nói về Trịnh Thế-tử là Quật-đột, từ khi cha chết, lên kế-vị, tự xưng hiệu là Trịnh võ-công.
    Nhân khi nhà Châu suy-yếu, chiếm cả đất Quốc và đất Khoái, làm thành một nước lớn.
    Trịnh-võ-công và Vệ võ-công đều kiêm chức khanh-sỉ tại triều nhà Châu.
    Qua năm Bình vương thứ mười ba, Vệ võ-công thất-lộc, còn một mình Trịnh võ-công bình-chánh, lúc thì về nước Trịnh, lúc lại ở nơi triều Châu.
    Vợ Trịnh võ-công là Khương-thị sanh đang hai trai, con lớn đặt tên Ngộ-sanh, con thứ đặt tên là Ðoạn.
    Ngộ sanh vì lúc nhỏ bị đẻ ngược nên Khương-thị không ưa, còn Ðoạn thì hình dung tuấn-tú mặt mũi khôi-ngô, lại có sức khỏe lạ thường, nên được Khương-thị yêu-mến lắm.
    Một hôm, Khương-thị ngỏ ý với chồng :
    - Nếu Ðoạn mà được nối ngôi Chúa-công sau nầy thì hơn Ngộ-sanh gấp bội.
    Trịnh võ-công nói ;
    - Lớn nhỏ đều có thứ bậc, chẳng nên xáo trộn luân thường. Vả chăng Ngộ-sanh có lầm lỗi gì mà lại bỏ chánh lập thứ ?
    Bèn phong Ngộ-sanh làm Thế-tử, còn Ðoạn thì phong một chỗ nhỏ ở Cung-thành nên gọi là Cung thúc-đoạn.
    Việc ấy làm cho Khương-thị không vui.
    Sau đó, Võ-công qua đời Ngộ-sanh lên tức vị, xưng hiệu là Trịnh trang-công, rồi cũng thế chức cha mà làm Khanh-sĩ nơi triều nhà Châu.
    Khương-thị phu-nhân thấy Cung-thúc-đoạn chẳng có quyền chi, lòng buồn bã, nói với Trịnh trang-công :
    - Con nối nghiệp cha, làm chủ nước Trịnh, đất rộng mấy trăm dặm ngoài mà lại để cho em một chỗ đất nhỏ mọn vậy mà đành lòng sao ?
    Trang công thưa :
    - Ý mẫu-hậu dạy thế nào, xin cho con biết.
    Khương-thị phu-nhân nói :
    - Nếu quả con thương tình ruột thịt thì việc gì mà không lấy đất Chế-ấp phong cho em.
    Trang-công thưa :
    - Chế-ấp là nơi hiểm-địa, Tiên-vương đã có lời di-chúc, không nên đem phong cho ai, trừ chỗ ấy ra mẫu-hậu muốn chỗ nào con cũng xin vâng lời .
    Khương-thị phu nhân nói :
    - Nếu vậy thì phong cho Ðoạn đất Kinh-thành.
    Trang-công làm thinh, không nói :
    - Nếu không bằng lòng thì tốt hơn con nên đuổi em con ra khỏi nước để kiếm cách dung-thân.
    Trang-công bùi-ngùi, nhìn mẹ nói :
    - Thưa mẫu-hậu, con đâu dám làm thế .
    Ngày hôm sau Trịnh trang-công cho đòi Cung-thúc vào triều phong đất Kinh-thành.
    Quan Ðại-phu Tề-Túc can rằng :
    - Tâu Chúa-công, Kinh-thành đất rộng dân đông chẳng kém gì Vinh-dương, nếu phong cho Cung-thúc-đoạn ắt sanh hậu hoạn !
    Trịnh trang-công nói :
    - Lịnh của mẹ ta, lẽ nào ta dám cãi .
    Bèn phong cho Cung-thúc nước Kinh-thành.
    Cung-thức bái lĩnh rồi lui ra, vào cung từ biệt Khương-thị .
    Khương-thị đuổi hết kẻ tả hữu ra, rồi nói nhỏ với Cung-thúc :
    - Anh con không nghĩ tình cốt nhục bạc đãi con đã lâu . Hôm nay sở-dĩ con được phong đất Kinh-thành là nhờ có mẹ nài nỉ lắm mới được. Nay con đến Kinh-thành phải thao luyện binh mã dự bị cho sẵn, lúc nào có cơ-hội, mẹ sẽ tin con hay, kéo binh về mà lấy Trịnh. Mẹ làm nội-ứng thì cái ngôi của Ngộ-sanh sẽ về tay con không khó !
    Cung-thúc lãnh mạng, từ tạ qua Kinh-thành.
    Từ ấy người ta gọi Ðoạn là Thái-thúc Kinh-thành
    Thái-thúc lại đòi hai quan Tể, trần ở hai vùng Tây bỉ và Bắc bi đến dụ rằng :
    - Ðất của hai ngươi chưởng-quản, nay đã thuộc về đất phong của ta rồi, vậy từ nay thuế-vụ phải đem đến đây mà nạp, còn việc binh tình phải nghe lệnh ta điều khiển.
    Hai quan Tế thầy Thái-thúc là con cưng của Quốc-mẫu, nên không dám cãi lịnh.
    Thái-thức lại thường giả cách đi săn để luyện tập binh-sĩ, gồm thâu cả binh của Tây bỉ và Bắc bỉ, rồi lại cướp luôn cả đất Yên và đất Lâm-giêng .
    Quan Tể hai xứ nầy thấy rõ hành động bội phản , lén về triều tâu cùng Trịnh-trang-công hay.
    Trịnh-trang-công nghe tâu, mỉm cười, làm thinh không nói gì cả .
    Bỗng có người bước ra, nói lớn :
    - Tâu Chúa-công, tội của Ðoạn đáng chém đầu, sao Chúa-công nỡ ngồi yên ?
    Trịnh-trang-công xem lại, người vừa nói đó là Công-tử Lữ, liệu là Tử-phong, làm chức Thượng-khanh, bèn hỏi rằng :
    - Khanh có ý kiến gì hay chăng ?
    Công-tử Lữ tâu :
    - Thái-thúc-đoạn ỷ trong có quốc-mẫu yêu vì, ngoài cậy có đất Kinh-thành là nơi hiểm-yếu, luyện tập binh mã, mưu chiếm đoạt nước Trịnh. Xin Chúa-công cho tôi đem quân đến đó bắt Ðoạn đem về trị tội.
    Trịnh-trang-công suy nghĩ một lúc, rồi nói :
    - Thái-thúc tuy vô-đạo, song tội lỗi chưa rõ rệt. Nếu giết nó không khỏi đau lòng mẹ ta. Hơn nữa, trong tình ruột thịt, ta sẽ bị người ngoài dị nghị là bất nghĩa, bất hiếu .
    Công-tử Lữ cúi đầu tâu :
    - Tâu Chúa-công, nếu trọng tình ruột thịt mà không quyết đoán được quốc-sự e không tránh khỏi tai họa.
    Trịnh-trang-công nói :
    - Nếu Thái-thúc cố-ý bội phản, thì thế nào mỗi ngày sẽ mỗi lộng hành thêm. Chừng ấy tội lỗi đã rõ ràng nếu trừng trị cách nào mẹ ta cũng không nói gì đặng.
    Công-tử Lữ bùi ngùi, tâu :
    - Kiến thức của Chúa-công rất xa, tôi không thế nào sánh kịp. Song chỉ e thế lực của Thái-thúc mỗi ngày một to khó mà trừ được.
    Trịnh-trang-công hỏi :
    - Thế thì bây giờ phải làm thế nào để mẹ ta khỏi oán trách ta là vô đạo
    Công-tử Lữ tâu ;
    - Ðã lâu Chúa-công không vào triều nhà Châu ấy bởi Chúa-công lo việc Thái-thúc. Nay phải giả cách vào chầu vua Châu để cho Thái-Thúc tưởng Kinh-đô bỏ vắng, tất đem binh đến đây chiếm đoạt. Tôi xin đem quân phục sẳn ở đất Kinh-thành, đợi Thái-Thúc cử quân đi, lén vào chiếm giữ. Còn Chúa-công cũng đem một đạo quân theo đường tắt mà đánh ập lại, thì Thái-thúc dù có cánh bay lên trời cũng không trốn thoát.
    Trịnh-trang-công nói :
    - Kế ấy rất hay, song chớ nên tiết lậu ra ngoài.
    Công-tử Lữ bái tạ lui ra.

  7. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Ngày thứ Trịnh-trang-công thăng điện, nói dối rằng mình bận sang chầu vua Châu, giao việc triều chính cho Tề-Túc . Khương-thị hay đặng tin ấy cả mừng, viết mật thư sai người tâm-phúc đem đến Kinh-thành trao cho Thái-thúc. Trong thư ước hẹn nội trong sơ tuần tháng năm phải hưng binh về lấy nước Trịnh.
    Lúc đó vào hạ tuần tháng tư, Công-tử Lữ đã sai người phục nơi yếu lộ, nên bắt được người đem thư ấy.
    Công-tử Lữ bèn giết quách, rồi mang thư đem về dâng cho Trịnh-trang-công.
    Trịnh-trang-công rất đau lòng, nhưng không thể vì tình máu mủ mà dung kẻ phản nghịch, bèn phong bức thư ấy lại như cũ, rồi sai người tâm phúc của mình đem đến Kinh-thành giao cho Thái-thúc .
    Ðược thư, Thái-thúc phúc đáp hẹn ngày mồng năm tháng năm động binh và dặn Khương-thị đến ngày đó phải dựng một cây bạch kỳ trong thành để biết chỗ tiếp-ứng.
    Trịnh-trang-công xem thư phúc-đáp, nghĩ thầm :
    - Thế nầy thì mẹ đừng trách con là vô đạo .
    Ðoạn vào từ biệt Khương-thị, dối rằng mình đi qua Châu, rồi kéo binh ra khỏi thành đến đóng nơi Lâm-giêng.
    Công-tử Lữ cũng lén đem hai trăm cỗ xe chiến qua phục gần Kinh-thành.
    Thúc-đoạn, từ khi tiếp được thư đó liền sai con là Công-tôn-hoạt qua nước Vệ mượn binh, rồi lấy cớ trở về Kinh-đô để coi việc quốc chính, mà kéo quân ra đi.
    Công-tử Lữ sai người thám thính, hay tin Thúc-đoạn đi rồi bèn kéo quân vào thành, nồi lửa lên làm hiệu, chiêu tập bá tánh kể rõ tội mưu-phản của Thúc-đoạn. Do đó cả thành bá tánh đều oán ghét Thúc-đoạn vô cùng.
    Còn Thúc-đoạn kéo quân ra đi chưa đầy nữa buổi, thấy Kinh-thành lửa bốc nghịt trời, biết là có biến, vội đem quân trở về cứu viện .
    Về đến nơi, thầy Kinh-thành bị chiếm, lòng đầy căm tức, xua quân vây thành công phá.
    Chẳng ngờ, Trịnh-trang-công lại kéo quân đến đánh, làm cho Thúc-đoạn không biết đường nào mà chạy, túng thế phải kéo binh đến đất Cung là chỗ được phong trước kia để cố-thủ.
    Trịnh-trang-công dẫn binh đến phá thành .
    Cung thành chỉ là một ấp nhỏ, làm sao cự lại binh triều, chẳng bao lâu thành bị phá.
    Thúc-đoạn thấy thế đã cùng, ngữa mặt lên trời than rằng :
    - Mẹ ta đã gạt ta, ta còn mặt mũi nào thấy anh ta nữa .
    Nói rồi rút gươm tự vận.
    Trịnh-trang-công vào thành ôm thây Thúc-đoạn khóc rống lên một hồi, nói :
    - Bởi em làm lếu nên tình huynh đệ phải chia lìa.
    Nói rồi lục trong mình Thúc-đoạn thấy phong thư của Khương-thị gởi hãy còn, bèn lấy gói chung với bức thư trả lời của Thúc-đoạn, rồi sai người đem về kinh-đô giao cho Tề-túc trình lại cho Khương-thị.
    Trịnh-trang-công lại còn ra lệnh đưa Khương-thị sang đất Dĩnh mà tá túc, và thề rằng :
    - Nếu không phải chốn cửu tuyền chẳng bao giờ còn thấy mặt nhau nữa.
    Phong thư về đến kinh-đô, Khương-thị mở ra xem, lòng thẹn thùng khôn xiết, liệu mình chẳng còn mặt mũi nào thấy mặt Trịnh-trang-công nữa, bèn lìa khỏi cung môn, ra nơi đất Dĩnh.
    Trịnh-trang-công trở về cung, không thấy mẹ, lòng buồn bã nghĩ thầm :
    - Ta đã ép lòng mà để em chết, nay còn nỡ nào lìa mẹ sao đành ! Nhưng đã trót lời thề, biết liệu sao !
    Quan trấn Dĩnh-ấp là Dĩnh-khảo-thúc là một người chí-hiếu, nghe tin Trịnh-trang-công đem mẹ đi an trí, lòng bất mãn, nói với người rằng :
    - Dù mẹ có tội lỗi đến đâu, con cũng không nên bất hiếu. Chúa-công làm như thế thật là trái đạo !
    Bèn nghĩ ra một kế, bắt mấy con chim cú đem vào dâng cho Trịnh-trang-công.
    Trịnh-trang-công hỏi là chim gì ?
    Khảo-thúc tâu :
    - Tâu Chúa-công, đây là giống chim cú. Giống chim nầy ban ngày dẫu một vật lớn như trái núi vẫn không trông thấy, còn ban đêm dầu vật nhỏ bằng sợi tóc cũng thấy rõ. Thật là một giống vật chỉ thấy được sự nhỏ mà không thấy được sự lớn. Hơn nữa, lúc còn nhỏ chim mẹ kiếm mồi cho ăn, lúc lớn lên nó không biết gì đến chim mẹ nữa, tlật là giống chim bất hiếu, nên bắt nó mà ăn thịt.
    Trịnh-trang-công nghe nói, ngồi lặng thinh.
    Chợt lúc đó có người đem thịt dê lại dâng cho vua nhắm rượu.
    Trịnh-trang-công cắt một miếng ban cho Khảo-thúc.
    Khảo-thúc liền chọn những nơi ngon cắt gói lại một gói, cất vào túi áo.
    Trịnh-trang-công lấy làm lạ hỏi :
    - Khanh để dành chi vậy ?
    Khảo-thúc tâu :
    - Tâu Chúa-công, mẹ tôi đã già mà trong nhà lại nghèo khó , ít bao giờ được ăn miếng ngon vật lạ. Nay được Chúa công ban thưởng, nếu không dành cho mẹ tôi thì tôi không làm sao yên lòng được .
    Trịnh-trang-công nói :
    - Ngươi thật là một người con chí hiếu. Tiếc rằng trẫm không thể bằng ngươi được.
    Khảo-thúc giả bộ ngơ ngác, hỏi :
    - Quốc-mẫu vẫn được mạnh giỏi cớ sao Chúa-công lại tỏ ý buồn bã ?
    Trịnh-trang-công đem câu chuyện Thúc-đoạn bội phản, và đày Khương-thị ra đất Dĩnh, nay hối hận, nhưng mắc phải lời thề không làm sao trông thấy mặt mẹ.
    Khảo-thúc nghe xong, buồn bả tâu :
    - Thúc-đoạn đã mất, tình cốt nhục chia lìa, nay chỉ còn Quốc-mẫu mà Chúa-công lại bộ bể phụng dưỡng e lỗi đạo làm con Nếu Bệ-hạ đã lỡ lời thề, tôi xin dâng kế , có thể trông thấy mặt mẹ mà khỏi phạm lời thề đó.
    Trịnh-trang-công mừng rỡ hỏi :
    - Người có kế gì hãy giúp trẫm.
    Khảo-thúc tâu :
    - Chúa-công truyền đào đất đến tận thạch, rồi làm một cái nhà dưới hầm mà rước Quồc-mẫu đến đó. Chúa-công coi như đó là chốn suối vàng . Hai mẹ con sẽ cởi mở được nỗi lòng nhớ nhung trắc tị mà không trái lời thề.
    Trịnh-trang-công y tâu, bèn sai Khảo-thúc đem năm trăm tráng dân khoẻ mạnh đến Khúc-vĩ; đào một cái hầm, dưới núi Ngưu-tì, sâu hơn sáu mươi trượng, làm một ngôi nhà gác trên mặt suối và đặt thang dài.
    Khảo-thúc bái mạng, trước tiên trở về đất Dĩnh yết kiến Khương-thị, nói rõ lòng hối hận của Trịnh-trang-công, muốn rước Quốc-mẫu về phụng-dưỡng, sau đó, mới đến Ngưu-tì lo việc đào suối.
    Chẳng bao lâu công việc hoàn thành. Khảo-thúc liền đưa Khương-thị đến Ngưu-tì và viết biểu dâng cho Trịnh-trang-công hay.
    Trịnh-trang-công đến nơi thấy mẹ, vội sụp lạy, nói :
    - Ngộ-sanh nầy bất hiếu, xin mẫu-hậu dung tha .
    Khương-thị buồn vui lẫn lộn, ứa nước mắt, nói :
    - Ðó là lỗi của mẹ con đâu có tội gì .
    Nói xong, đỡ Trịnh-trang-công dậy.
    Hai mẹ con ôm nhau khóc sướt mướt.
    Trịnh-trang-công cõng mẹ lên thang rồi đưa về cung.
    Người nước Trịnh trông thấy, ai nay chấp tay lên trán, khen vua là người chí hiếu.
    Ấy cũng nhờ có Dĩnh Khảo-thúc mà mẹ con Trịnh trang-công mới đoàn tụ được.
    Trịnh-trang-công cảm ơn Khảo-thúc , phong cho Khảo-thúc làm đến chức Ðại-phu, hợp với Công-tôn-yết mà chưởng-quản việc binh quyền.
    Về sau Phan tiên-sinh có thơ khen Khảo-thúc như vầy :
    Lời thề đã lở giữa muôn dân,
    Lỗi đạo đành cam với mẫu thân
    Ví chẳng mưu cao người Khảo-thúc
    Trang-công đâu dễ vẹn nhân luân.
  8. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Hồi 5​
    Châu, Trịnh hai nước gởi con tin,
    Lỗ, Tống một lòng đi chinh phạt.​

    Nhắc lại con trai Thúc-đoạn là Công-tôn-hoạt đi viện binh nước Vệ về đến nữa đường, hay được tin cha mình bị giết, bèn trở lại nước Vệ khóc với Huệ-hoàn-công, tỏ bày việc Trịnh-trang-công giết em, đày mẹ.
    Vệ-hoàn-công nghe nói cả giận, trách Trịnh-trang-công là vô-đạo bèn hưng binh đánh nước Trịnh .
    Trịnh-trang-công hay được tin bèn hội quần thần mà thương nghị.
    Công-tử Lữ tâu :
    - Nhổ cỏ không tận rễ, thường bị nảy chồi. Công-tôn Hoạt đã trốn thoát lại còn đem binh nước Vệ về đánh ấy là vì Vệ-Hầu không rõ hành vi của Thúc-đoạn, nên mới giúp Công-tôn Hoạt đó. Xin Chúa-công viết thư gởi cho Vệ-hầu kể rõ cớ sự, ắt Vệ-hầu phải kéo binh về.
    Trịnh trang-công khen phải, vội viết thư sai sứ đem qua nước Vệ .
    Tiếp được thư, Vệ-hoàn-công mở ra xem .
    Thư rằng :
    Ngộ-sanh kính dâng Vệ-hiền hầu nhã giám.
    Nhà tôi bất hạnh, anh em sát hại lẫn nhau, thật lấy làm xấu hổ với lân quốc. Nhưng xét kỷ, em tôi là đoạn đã lợi dụng lòng hiếu hữu của tôi mà sanh điều phản phúc. Tôi vì sự nghiệp tiền-nhân, buộc lòng phải chịu cảnh cốt nhục tương tàn . Mẹ tôi vì quá thương Ðoạn, nên phải tránh ra Dĩnh-ấp, nay tôi đã cho người rước về phụng-dưỡng , lẽ ra Công-tôn Hoạt phải biết tội cha, đem mình sửa lỗi , lại chạy sang quý quốc viện binh mà phản-loạn . Hiền-hầu không tỏ nên giúp kẻ tôi loàn. Xét mình chẳng có tội chi, xin Hiền-hầu chớ nghe lời Công-tôn Hoạt khiến hai nước bất hòa, sanh việc binh đao , thì thật tôi lấy làm may-mắn !
    Vệ-hoàn-công xem thư xong, giật mình nói :
    - Thúc-đoạn bất nghĩa, gây nên tai họa. Nay ta lại nghe lời giúp Công-tôn Hoạt hóa ra ta giúp kẻ nghịch sao !
    Nói rồi lập tức sai người đi rút quân về.
    Nhưng lúc đó Công-tôn Hoạt đã đánh chiếm được đất Lâm-giêng.
    Trịnh trang-công nổi giận khiên Cao-Cừ-Di đem ba vạn binh rồng đến đánh.
    Công-tôn Hoạt cô thế lại phải chạy trở lại nước Vệ .
    Công-tử Lữ thừa thắng đuổi theo đến tận biên-giới nước Vệ.
    Vệ-hoàn-công thấy thế đem lòng lo lắng, bèn họp quần thần lại thương nghị.
    Công-tử Chu-hu bàn rằng :
    - Nước tràn thì lấy đất ngăn, giặc đến thì lầy quân chống , xưa nay đã vậy, lựa phải bàn bạc làm chi ?
    Quan Ðại-phu Thạch-thác tâu :
    - Tâu Chúa-công. sỡ-dĩ quân Trịnh đến đây là vì ta giúp cho Công-tôn Hoạt đánh Trịnh. Nay Chúa-công không có ý giúp Công-tôn Hoạt nữa thì chỉ cần biên thư phúc đáp mà xin lỗi, quân Trịnh ắt rút về .
    Vệ hoàn-công khen phải, khiến Thạch-thác viết thư gởi cho Trịnh trang-công.
    Thư rằng :
    Hoàn-công nước Vệ, xin phúc đáp Trịnh Hiền-hầu nhã giám.
    Tôi quá nghe lời Công-tôn Hoạt, ngỡ Hiền-hầu vô đạo, giết em, giam mẹ nên mới cất quân giúp Hoạt.
    Nay được rõ tội ác của Thúc-đoạn lòng hối-hận vô cùng, tôi đã rút quân về nước. Nếu Hiền-hầu rộng xét, tôi xin bắt Công-tôn-Hoạt đưa về Trịnh để hai nước được giao hảo như xưa.
    Thư xong, sai người đem đến dâng cho Trịnh trang-công. .
    Trịnh trang-công đọc thơ mừng rỡ, nói :
    - Vệ-hầu đã biết lỗi ta chớ nên sanh-sự nữa.
    Bèn sai người ra biên-ải, bảo Công-tử Lữ rút binh về.
    Khương-thị nghe tin, sợ Trịnh trang-công giết Công-tôn-Hoạt, bèn đến năn-nỉ với Trịnh trang-công tha-tội cho Hoạt.
    Trang-công nễ lời mẹ, và thấy Hoạt bị cô thế, không làm gì nổi nữa, nên viết thư cho phép Công-tôn-Hoạt ở ngay bên nước Vệ để coi việc phụng thờ Ðoạn .
    Từ ấy Công-tôn-Hoạt ở bên nước Vệ cho đến trọn đời.
    Nói về Châu-bình-vương đã lâu không thấy Trịnh trang-công về triều, nhân lúc Quách-Công là Kỵ-phù đến chầu, lại nói năng lưu-loát lấy làm vừa ý phán rằng :
    - Bấy lâu cha con Trịnh-bá bỉnh-chánh, nay chẳng biết ý gì không thấy về triều. Vậy trẫm có ý muốn trao chức Khanh-sĩ cho khanh để lo việc nước, ý khanh thế nào ?
    Quách-Công quỳ tâu :
    - Trịnh trang-công không đến, ắt trong nước có việc. Nếu Bệ-hạ dạy hạ-thần quyền thế, Trịnh trang-công không những oán Bệ-hạ mà còn oán hạ-thần nữa. Hạ thần chẳng dám vưng mạng.
    Châu bình-vương ép uổng , nhưng Quách-công nhứt thiết chối từ và xin về nước.
    Trịnh trang-công tuy không qua triều Châu, song vẫn có người ở kinh-sư dò la tin tức. Mỗi việc gì xảy ra , Trịnh trang-công đều hay biết .
    Bởi vậy, khi nghe được tin, Trịnh-trang-công lập tức sửa sang xe giá đến Lạc-dương ra mắt Bình-vương, và tâu rằng :
    - Hạ thần đội ơn Bệ-hạ, cha truyền con nối, giữ chức Khanh-sĩ lo việc quốc-chánh, nay hạ thần xét mình bắt tài, muốn từ chức lui về Trịnh, giữ phận chư-hầu.
    Bình-vương nói :
    - Ðã lâu khanh không vào triều, lòng trẫm trông mong. Nay được gặp khanh chẳng khác cá gặp nước, sao khanh lại nói thế ?
    Trịnh trang-công tâu :
    - Vì trong nước không may gặp biến, nên bỏ việc đã lâu. Hạ-thần lại được nghe Bệ-hạ có ý phú việc quốc chánh cho Quách-công . Hạ-thần trộm nghĩ tài đức hạ-thần không sánh Quách-công, nếu giữ lấy chức vị, e mang tội với Bệ-hạ.
    Bình-vương nghe Trịnh trang-công, lòng hổ thẹn, vội nói :
    - Trẫm nghe nước Trịnh sanh biến, nên nhờ Quách-công bỉnh-chánh vài hôm để chờ khanh đến. Nhưng Quách-công từ chối mãi, vả trẫm cũng đã cho về nước. Khanh chờ nghi ngờ.
    Trịnh trang-công tâu :
    - Tâu Bệ-hạ, việc nước là của nhà vua không phải việc riêng của kẻ hạ-thần thì quyền xử-dụng cũng do nhà vua định đoạt. Nay Quách-công có đủ tài năng giúp nước, xin Bệ-hạ cứ dùng. Hạ thần sẽ từ chức để khỏi mang tiếng tham quyền cố vị.
    Bình-vương thấy Trịnh trang-công nghi kỵ , lòng buồn bã nói :
    - Trẫm trao việc nước cho cha con khanh chắp-chưởng đã bốn mươi năm, lẽ ra tình vua tôi không đến nỗi vì chuyện nhỏ mọn đó mà tổn thương. Khanh cứ nghi nan, trẫm biết làm sao giải nỗi lòng của trẫm.
    Trịnh trang-công lòng chưa hả giận, tâu :
    - Tâu Bệ-hạ, nhậm chức hay từ chức đó là bổn phận của hạ-thần. Hạ-thần tự xét mình trước nhiệm vụ chứ đâu dám khinh mạng .
    Bình-vương nói :
    - Muốn cho khanh được thấy lòng quý mến của trẫm, trẫm sẽ cho Thái-tử Hổ sang ở bên nước Trịnh làm con tin.
    Trịnh trang-công nghe nói, vập đầu tâu :
    - Tâu Bệ hạ, xin Bệ-hạ đừng dạy như thế mà hạ thần phải mang tiếng hiếp vua.
    Bình-vương nói :
    - Không phải thế ! Vì khanh có tài chính-trị, trẫm muốn cho Thái-tử sang đó du học để hấp-thụ những phong-hóa tốt lành của nước Trịnh. Nếu khanh từ chối thì quả lòng khanh đã hờn trẫm đó.
    Trịnh trang-công nhất định chối từ, quần thần thấy thế quỳ tâu :
    - Tâu Bệ-hạ, nếu Bệ-hạ không để con tin thì chẳng lấy gì để giải mối nghi ngờ của Trịnh Bá, còn Trinh-bá nhận con tin thì trái đạo vua tôi. Chi bằng hai bên cùng giao con với nhau thì tránh được nghi ngờ, mà tiếng tăm cũng trọn vẹn.
    Bình-vương khen phải .
    Trịnh trang-công mới sai Thế-tử Hốt đến ở làm con tin nhà Châu, còn Thái-tử Hổ nhà Châu thì lại sang nước Trịnh.
    Ðược ít lâu Bình-vương băng hà.
    Trịnh trang-công và Châu-công Hắc-kiên cùng coi việc nước, bèn cho Thế-tử Hốt về Trịnh, và rước Thái-tử Hổ về Châu kế vị.
    Thái-tử Hổ nghe vua cha mất, trong lòng phiền nảo, tự nghĩ mình không được ở nhà hầu hạ thuốc men trong lúc lâm chung nên về đền triều phát bịnh nặng rồi tạ thế.
    Con Thái-tử Hổ là Lâm lên nối ngôi tức là Châu hoàn-vương .
    Các nước chư-hầu hay tin đều tựu đến chịu tang và làm lễ chúc mừng tân vương .
    Quách-công Kỵ-Phủ đến trước, lo việc lễ bộ, đâu đó rất đàng hoàng khiến cho mọi người phải khâm phục.

Chia sẻ trang này