1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Dự án Hans Lippershey kỷ niệm 400 năm ra đời của kính thiên văn : Kính thiên văn không gian

Chủ đề trong 'Thiên văn học' bởi Hero_Zeratul, 09/05/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hero_Zeratul

    Hero_Zeratul Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2003
    Bài viết:
    1.575
    Đã được thích:
    0
    Dự án Hans Lippershey kỷ niệm 400 năm ra đời của kính thiên văn : Kính thiên văn không gian

    Kính thiên văn không gian​
  2. Hero_Zeratul

    Hero_Zeratul Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2003
    Bài viết:
    1.575
    Đã được thích:
    0
    Bản dịch bài viết : Space Telescopes
    "Space Telescope,", Microsoft® Encarta® Online Encyclopedia 2008
    http://encarta.msn.com © 1997-2008 Microsoft Corporation. All Rights Reserved.
    http://encarta.msn.com/encyclopedia_761587629/Space_Telescope.html
    I. Giới thiệu chung
    Kính thiên văn không gian (space telescope) là kính thiên văn hay các thiết bị dò tìm thiên văn được triển khai trên các vệ tinh nhân tạo, các tàu vũ trụ hoặc các thiết bị khác hoạt động ngoài tầng khí quyển của Trái Đất. Ví dụ tiêu biểu nhất là kính thiên văn không gian Hubble (Hubble Space Telescope, HST) hoạt động trên quỹ đạo xung quanh Trái Đất từ năm 1990. Từ những năm 1960 cho đến nay, đã có hàng chục kính thiên văn không gian được sử dụng với mục đích nghiên cứu các thiên thể, các hiện tượng trong không gian.
    Các quan sát do kính thiên văn không gian tiến hành đã tạo ra một cuộc cách mạng trong nhận thức của nhân loại về vũ trụ, đóng góp rất lớn vào sự phát triển của các ngành thiên văn, vật lý, vật lý thiên văn, khoa học hành tinh, vũ trụ học. Với sự phát triển của công nghệ, những khả năng của kính thiên văn không gian liên tục được mở rộng. Song song với đó, các kính thiên văn mặt đất cũng càng ngày càng nhạy hơn, mạnh hơn, và đã có thể vượt được một số kính thiên văn không gian thuộc thế hệ đầu tiên.
    Kính thiên văn không gian có một số lợi điểm hơn so với kính thiên văn mặt đất. Vì không bị ảnh hưởng bởi tầng khí quyển nên các kính thiên văn không gian cho cái nhìn rõ nét hơn rất nhiều. Hơn nữa, các kính thiên văn không gian không bị ảnh hưởng bởi sự ô nhiễm ánh sáng, nên có thể quan sát tốt hơn các thiên thể mờ. Thêm vào đó, các kính thiên văn không gian có thể quan sát toàn bộ thiên cầu, trong khi các kính thiên văn dưới mặt đất chỉ có thể quan sát tốt một phần nào đó của thiên cầu, tuỳ thuộc vào địa điểm.
    Các kính thiên văn không gian cũng không bị hạn chế về dải sóng quan sát. Chúng có thể hoạt động ở bất cứ dải sóng nào. Do tầng khí quyển của Trái Đất ngăn cản hoặc làm suy giảm một số dải sóng nên các kính thiên văn không gian đã thực sự mở thêm một số ?ocánh cửa? mới, cho phép có cái nhìn toàn diện hơn về vũ trụ.
    Các kính thiên văn không gian rất đa dạng và phong phú, từ những vệ tinh cỡ nhỏ với mục đích chính là khảo sát ở mức thô toàn bộ thiên cầu cho đến những ?ođài thiên văn không gian? tập trung tìm hiểu một nhóm thiên thể xác định. Các kính thiên văn không gian cỡ lớn đòi hỏi sự điều khiển rất phức tạp từ các nhà khoa học dưới mặt đất trong quá trình chọn và định hướng chúng vào các thiên thể cần quan sát.
    (Còn tiếp)​
    Được Hero_Zeratul sửa chữa / chuyển vào 15:52 ngày 09/05/2008
  3. Hero_Zeratul

    Hero_Zeratul Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2003
    Bài viết:
    1.575
    Đã được thích:
    0
    II. Một số kính thiên văn không gian đầu tiên
    Gần một thế kỷ trước, Konstantin Tsiolkovsky và Hermann Oberth đã nhận thấy những lợi thế của việc triển khai các kính thiên văn lên không gian. Tuy nhiên, phải chờ đến sau Thế chiến thứ II, khi mà công nghệ tên lửa phát triển đủ mạnh, giấc mơ về một nhánh thiên văn học phát triển dựa trên các kỹ thuật không gian mới dần dần trở thành hiện thực.
    Chương trình Ariel của Anh đã phóng vệ tinh thiên văn đầu tiên. Tháng 4 năm 1962, vệ tinh Ariel-1 được phóng thành công với mục đích khảo sát sự phát xạ sóng tử ngoại và tia X của Mặt Trời. Chiếc kính thiên văn không gian tiếp theo là OAO-2 thuộc chương trình ?oCác đài thiên văn hoạt động trên quỹ đạo? (Orbiting Astronomical Observatory, OAO) của NASA. OAO-2 được phóng lên không gian vào tháng 12 năm 1968, hoạt ở các dải sóng : hồng ngoại, tử ngoại, tia X và tia gamma. Những vệ tinh hoặc đài thiên văn không gian đầu tiên đó đã khởi nguồn cho các kính thiên văn không gian mạnh hơn, hiện đại hơn sau này.
    (còn tiếp)​
    Được Hero_Zeratul sửa chữa / chuyển vào 15:30 ngày 10/05/2008
  4. Hero_Zeratul

    Hero_Zeratul Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2003
    Bài viết:
    1.575
    Đã được thích:
    0
    Tôi nhận thấy có sai khác trong phần II của bài viết trên Encarta so với một vài tài liệu khác tìm được, ví dụ so với 1 bảng liệt kê trên website của ESA:
    http://www.esa.int/esaMI/Space_Year_2007/SEMWQSMPQ5F_0.html
    Tuy nhiên, trong giai đoạn thu thập và dịch tài liệu, tôi sẽ cố gắng dịch nguyên ý các tài liệu tìm được. Việc tra cứu chéo, và đưa ra 1 số ý kiến, nhận định cá nhân (nếu có thể) sẽ được thực hiện trong giai đoạn tổng hợp sau này.
  5. Hero_Zeratul

    Hero_Zeratul Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2003
    Bài viết:
    1.575
    Đã được thích:
    0
    III. Các loại kính thiên văn không gian
    Kính Hubble là một ví dụ tiêu biểu của các kính thiên văn không gian phục vụ cho những mục đích chung chung với dải sóng quan sát trải dài từ hồng ngoại cho đến tử ngoại. Tuy nhiên, đa số các kính thiên văn không gian khác chỉ tập trung vào quan sát một dải sóng nhất định. Dựa theo độ dài của bước sóng, sóng điện từ được chia thành các nhóm chính như sau (theo chiều giảm dần) : vô tuyến, vi sóng, hồng ngoại, khả kiến, tử ngoại, tia X, tia gamma. Vì sóng vô tuyến có thể dễ dàng xuyên qua tầng khí quyển nên đa số các đài thiên văn vô tuyến được đặt dưới mặt đất.
    A. Kính thiên văn không gian vi sóng (microwave space telescope)
    Các kính thiên văn không gian loại này thường được sử dụng để nghiên cứu, khảo sát giai đoạn đầu của vũ trụ (giai đoạn mới hình thành sau Bigbang)
    B. Kính thiên văn không gian hồng ngoại (infrared space telescope)
    Bầu khí quyển của Trái Đất phát ra tia hồng ngoại, được gọi là ?osự phát hồng ngoại nền? (infrared background glow), gây ảnh hưởng đến các quan sát dưới mặt đất. Hơn nữa, hơi nước trong khí quyển cũng hấp thụ tia hồng ngoại. Các kính thiên văn hồng ngoại hoạt động trên không gian tránh được cả hai điều bất lợi trên, do đó có khả năng quan sát được những nguồn bức xạ hồng ngoại rất yếu.
    C. Kính thiên văn không gian khả kiến (visible-light space telescopes)
    Đặc điểm của các kính thiên văn không gian hoạt động tại bước sóng khả kiến là có khả năng cho các hình ảnh rõ nét. Các kính thiên văn đặt dưới mặt đất bị ảnh hưởng bởi bầu khí quyển nên hình ảnh sẽ bị nhòe hơn. Các kính thiên văn không gian loại này chủ yếu được sử dụng để quan sát các thiên hà, sao, hành tinh và các thiên thể khác trong hệ Mặt Trời.
    D. Kính thiên văn không gian tử ngoại (ultraviolet space telescopes
    Một số ngôi sao nóng nhất, hoạt động mạnh nhất trong vũ trụ có thể quan sát tốt tại bước sóng tử ngoại. Những nguồn phát sóng tử ngoại phổ biến trong vũ trụ là : bầu khí quyển của các ngôi sao trẻ, bề mặt của các sao lùn trắng và nhân của các thiên hà hoạt động.
    D1. Kính thiên văn không gian tia X (X-ray space observatory)
    Bầu khí quyển của Trái Đất hấp thụ hầu hết các tia X đến từ vũ trụ. Những tia X này chủ yếu có nguồn gốc từ những vụ nổ supernova hoặc được phát ra từ nhân các thiên hà hoạt động. Các hệ sao đôi cũng có khả năng phát ra tia X nếu một trong các thành viên của nó là một ngôi sao lùn trắng hay sao neutron. Khí từ ngôi sao đồng hành sẽ bị ngôi sao lùn trắng hoặc ngôi sao neutron hút và đốt nóng lên đến hàng triệu độ.
    D2. Kính thiên văn không gian tia gamma (Gamma-ray space observatory)
    Nghiên cứu các tia gamma các nhà khoa học trả lời được nhiều câu hỏi hóc búa về những tiến trình hay hiện tượng phát ra năng lượng rất cao trong vũ trụ. Bên cạnh đó, các kết quả quan sát tia gamma đến từ vũ trụ còn cung cấp các ?omanh mối? về cấu trúc và động lực học của thiên hà, bản chất của các pulsar, quasar, hố đen, sao neutron cũng như nguồn gốc và lịch sử của vũ trụ.
    (Hết)​
    Được Hero_Zeratul sửa chữa / chuyển vào 15:32 ngày 11/05/2008
  6. Hero_Zeratul

    Hero_Zeratul Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2003
    Bài viết:
    1.575
    Đã được thích:
    0
    Sau khi dịch xong bài viết về Kính thiên văn không gian trên Encarta, tôi nhận thấy đây chỉ là một bài viết phổ biến kiến thức thông thường. Bài viết có ít thông tin cũng như số liệu, đồng thời bố cục trình bày có chỗ không được chặt chẽ.
  7. Hero_Zeratul

    Hero_Zeratul Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2003
    Bài viết:
    1.575
    Đã được thích:
    0
    Bản dịch bài viết: ?oA Brief History of the Hubble Space Telescope?
    Gabriel Okolski , "A Brief History of the Hubble Space Telescope,", NASA History Division, http://history.nasa.gov/hubble/index.html
    Trong hơn 15 năm qua, kính Hubble đã và đang cung cấp cho các nhà khoa học, cho công chúng các bức ảnh tuyệt diệu về không gian xa thẳm. Kính Hubble là một trong những công cụ khoa học hiện đại nhất mà con người đã đưa lên quỹ đạo. Kính Hubble giúp cho nhân loại có được những khám phá quan trọng về các hành tinh, các vì sao, các thiên hà và về vũ trụ. Nhờ vào những nỗ lực phi thường của các nhà khoa học, các kỹ sư, kính Hubble còn giúp cho chúng ta có được cái nhìn sâu về quá khứ và dự đoán được một phần tương lai của vũ trụ.
    1. Tại sao lại phải sử dụng kính thiên văn không gian
    Mặc dù kính Hubble mới được đưa lên quỹ đạo từ năm 1990, những tiền đề và chuẩn bị cho nó đã có từ trước đó rất lâu. Những mô tả chi tiết về một đài thiên văn không gian hoạt động tại bước sóng khả kiến đã được bắt đầu từ sau thế chiến thứ II. Năm 1946, Lyman Spitzer, lúc đó đang là giáo sư và nghiên cứu viên tại đại học Yale, đã chỉ rõ những lợi thế của một kính thiên văn không gian so với các đài quan sát đặt dưới mặt đất. Trong bài báo ?oAstronomical Advantages of an Extra-Terrestrial Observatory?, Spitzer đã nhấn mạnh sự bẻ cong và sự hấp thụ một phần ánh sáng từ các ngôi sao của bầu khí quyển của Trái Đất. Dù có chính xác và hiện đại đến đâu thì các kính thiên văn mặt đất cũng không thể giải quyết triệt để hai vấn đề này, trong khi các kính thiên văn không gian tránh được hết các bất lợi trên. Hơn nữa, bầu khí quyển còn ngăn chặn các tia X đến từ vũ trụ, do đó các đài thiên văn mặt đất không thể quan sát được. Điều này cũng hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến các kính thiên văn không gian.
    Trong thời gian dạy ở trường Princeton, Spitzer được bổ nhiệm làm chủ tịch hội đồng khoa học chuyên trách về vấn đề xây dựng các kính thiên văn không gian cỡ lớn của viện Hàn lâm quốc gia Hoa Kỳ. Trong cuộc họp đầu tiên năm 1966, hội đồng đã bàn và nghiên cứu rất chi tiết về các khả năng sử dụng kính thiên văn không gian cỡ lớn. Năm 1969, hội đồng đã hoàn thành báo cáo ?oScientific Uses of the Large Space Telescope? với mục đích thúc đẩy quá trình xây dựng các kính thiên văn không gian cỡ lớn. Báo cáo nhấn mạnh ?omột thiết bị như vậy sẽ có những đóng góp đặc biệt quan trọng cho nhận thức của nhân loại về vũ trụ?.
    (còn tiếp)​
    [​IMG]
    Giáo sư, Tiến sĩ Lyman Strong Spitzer, Jr (26/06/1914 ?" 31/031997)​
  8. Hero_Zeratul

    Hero_Zeratul Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2003
    Bài viết:
    1.575
    Đã được thích:
    0
    2. Mọi việc đã được tiến hành như thế nào ?
    Để có thể biến ý tưởng thành hiện thực, một điều không thể thiếu là sự trợ giúp của NASA, cơ quan duy nhất có khả năng thực hiện các đề xuất của viện Hàn lâm quốc gia. Trong những năm 1960, Wernher von Braun đã cùng với nhóm nghiên cứu của ông tại trung tâm không gian Marshall tiến hành tìm hiểu những vấn đề đặt ra đối với một chiếc kính thiên văn không gian cỡ lớn. Vào giữa những năm 1960, NASA và những nhà thầu của cơ quan này đã tiến hành những nghiên cứu về tính khả thi của dự án. Mặc dù ban đầu có những bất đồng trong nội bộ NASA về việc liệu có nhất thiết phải tiến hành các nghiên cứu về tính khả thi trước hay có thể chuyển ngay sang khâu chế tạo, tuy nhiên, vào thời điểm đó, chương trình Tàu Con Thoi (Space Shuttle program) đã được phê duyệt, mở ra thêm nhiều hướng mới trong quá trình chế tạo và vận hành một chiếc kính thiên văn không gian (và do đó, cần phải có những tìm hiểu và phân tích kỹ hơn). Năm 1971, George Low, phó giám đốc NASA, đã phê chuẩn việc thành lập nhóm ?oNghiên cứu khoa học về kính thiên văn không gian? với nhiệm vụ tiến hành các tìm hiểu, phân tích về sự khả thi của dự án.
    Với sự tham gia của NASA, bước tiếp theo là phải có được nguồn tài chính. Theo dự tính ban đầu, tổng chi phí sẽ vào khoảng 400 đến 500 triệu USD, một con số rất lớn. Năm 1975, khoản dự toán này đã bị từ chối. Không nản lòng, NASA và các nhà thiên văn hàng đầu như Lyman Spitzer, John Norris Bahcall đã tiến hành nhiều chiến dịch vận động quy mô lớn cho dự án. Tổ chức Nghiên cứu không gian châu Âu (ESRO), tiền thân của ESA, đã được mời thực hiện khâu sản xuất các tấm pin mặt trời với chi phí thấp và tham gia vào các giai đoạn quan sát, nghiên cứu sau này. NASA muốn tận dụng các hợp tác quốc tế để có thể giảm chi phí cho dự án xuống mức mà quốc hội có thể phê chuẩn. Năm 1975, ESRO đã chấp nhận đề nghị của NASA. Đường kính của gương chính cũng đã được giảm từ 3 mét xuống còn 2.4 mét. Nhờ đó, chi phí cho dự án giảm xuống còn khoảng 200 triệu USD, bằng khoảng một nửa so với ban đầu. Năm 1977, chương trình ?oKính viễn vọng không gian cỡ lớn? (Large Space Telescope program) đã được quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn.
    Năm 1978, quá trình thiết kế chiếc kính bắt đầu được tiến hành. Tập đoàn Perkin-Elmer chịu trách nhiệm chế tạo gương chính cùng với hệ thống quang học. Tập đoàn Lookheed Martin đảm nhận việc chế tạo tàu vũ trụ cùng với các hệ thống hỗ trợ. Một số công ty châu Âu chế tạo các tấm pin mặt trời. Rất nhiều công nghệ tiên tiến hàng đầu đã được áp dụng, trong đó có hệ thống mài laser điều khiển bằng máy tính áp dụng trong quá trình chế tạo gương chính.
    Theo kế hoạch ban đầu, kính thiên văn sẽ được phóng lên không gian vào năm 1983. Tuy nhiên, thời điểm này đã bị hoãn lại. Chiếc gương chính đã được chế tạo xong vào năm 1981, tuy nhiên, hệ thống quang học phải đến năm 1984 mới hoàn thành và kéo theo là quá trình lắp ráp toàn bộ chỉ hoàn thành vào năm 1985. Tuy nhiên, năm 1983 cũng đã có nhiều mốc sự kiện quan trọng. Dự án đã nhận được sự tài trợ của viện Kính thiên văn Khoa học Không gian, đại học John Hopkins. Cũng trong năm này, tên của nhà thiên văn vĩ đại Edwin P. Hubble đã được chính thức dùng để đặt cho chiếc kính thiên văn.
    (còn tiếp)​
    [​IMG]
    Giáo sư, Tiến sĩ John Norris Bahcall (30/12/1934 ?" 17/08/2005)​
  9. Hero_Zeratul

    Hero_Zeratul Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2003
    Bài viết:
    1.575
    Đã được thích:
    0
    Phóng lên không gian, những tấm ảnh mờ và sự sửa chữa tuyệt diệu
    Tháng 12 năm 1985, kính thiên văn Hubble được chế tạo thành công. Thời gian phóng dự kiến vào tháng 10/1986. Tuy nhiên, mọi việc đã không diễn ra như vậy. Ngày 28/01/1986, trong 1 buổi sáng lạnh lẽo, tàu con thoi Challenger đã phát nổ trên bầu trời Florida chỉ hơn 1 phút sau khi phóng, toàn bộ phi hành đoàn hi sinh. Tai nạn này đã làm khiến cho kế hoạch phóng của Hubble bị lùi lại. Năm 1988, đội tàu con thoi của NASA đã khôi phục lại hoạt động. Điều mà bao nhiêu người trông đợi đã trở thành hiện thực, ngày 24/04/1990, tàu con thoi Discovery đã triển khai thành công kính Hubble lên không gian.
    Ban đầu, có 5 thiết bị quan sát được triển khai trên kính Hubble :
    1. Wide Field/Planetary Camera (WF/PC),
    2. Goddard High Resolution Spectograph (GHRS),
    3. Faint Object Camera (FOC),
    4. Faint Object Spectograph (FOS)
    5. High Speed Photometer (HSP)
    Sau vài tuần vận hành, các nhà khoa học thấy rằng các bức ảnh của kính Hubble bị nhòe. Mặc dù tình trạng bị nhoè ảnh là chấp nhận được, và các bức ảnh này vẫn cho phép các nhà khoa học có được những kết quả phân tích đáng kể, tuy nhiên, đó vẫn là một khiếm khuyết so với các yêu cầu đặt ra ban đầu. Quá trình tìm hiểu cho thấy có hiện tượng quang sai cầu đối với gương chính. Nguyên nhân gây ra hiện tượng này là do sai số của thiết bị trong qúa trình chế tạo dẫn đến cạnh của gương được mài hơi phẳng hơn 1 chút. Các kỹ sư đã nhanh chóng bắt tay vào khắc phục sự cố cho kịp với lần bảo trì thứ nhất năm 1993.
    [​IMG]
    Tàu Discovery triển khai kính Hubble​
    (còn tiếp)​
  10. Hero_Zeratul

    Hero_Zeratul Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2003
    Bài viết:
    1.575
    Đã được thích:
    0
    Hệ thống được chế tạo để khắc phục lỗi trên được gọi là COSTAR (Corrective Optics Space Telescope Axial Replacement). COSTAR là một hệ thống quang học cho phép triệt tiêu các quang sai cầu. Tháng 12 năm 1993, phi hành đoàn tàu con thoi Endeavour đã tiến hành lần bảo trì thứ nhất đối với kính Hubble (nhiệm vụ STS-61). Các nhà du hành đã 5 lần thực hiện các hoạt động ngoài phi thuyền (EVA), gắn COSTAR vào kính viễn vọng, thay Wide Field/Planetary Camera bằng một camera mới hơn (Wide Filde/Planetary Camera 2) (1). Các tấm pin mặt trời cũng được lắp thêm và 4 con quay hồi chuyển được thay thế. Nhiệm vụ bảo trì được thực hiện thành công, kính Hubble có đầy đủ các ?onăng lực? của một kính thiên văn hoạt động ngoài không gian, công chúng bắt đầu được biết đến những bức ảnh ?otuyệt diệu? ?ochưa từng có? về các ngôi sao, thiên hà, tinh vân và những thiên thể khác trong không gian xa thẳm.
    Những lần bảo trì sau đó tiếp tục nâng cao những khả năng của kính Hubble. Tháng 2 năm 1997, phi hành đoàn STS-82 lắp thêm lên kính thiên văn 2 thiết bị mới :
    + Near Infrared Camera and Multi-Object Spectrometer (NICMOS)
    + Space Telescope Imaging Spectograph
    Trong lần bảo trì thứ 3 (3A, tháng 12 năm 1999, nhiệm vụ STS-103), toàn bộ 6 con quay hồi chyuển và một trong số 3 cảm biến dùng để điều chỉnh hướng đã được thay thế. Lần bảo trì gần đây nhất (3B) được thực hiện vào tháng 3 năm 2002, phi hành đoàn tàu Columbia đã gắn thêm Advanced Camera for Surveys (ACS) vào kính thiên văn. Thiết bị mới này cung cấp hình ảnh nét hơn với trường nhìn rộng hơn và có khả năng tập hợp dữ liệu nhanh hơn Wide Field/Planetary Camera 2. Các tấm pin mặt trời và hệ thống làm lạnh của NICMOS cũng đã được thay thế.
    [​IMG]
    Hai bức ảnh chụp thiên hà M-100 trước và sau khi kính Hubble được gắn thêm COSTAR​
    (còn tiếp)​
    ====
    Ghi chú
    (1) Các thiết bị được gắn thêm lên kính Hubble đều có khả năng tự hiệu chỉnh quang sai cầu của gương chính, không cần phải thông quan COSTAR.
    Được Hero_Zeratul sửa chữa / chuyển vào 20:09 ngày 22/05/2008
    Được Hero_Zeratul sửa chữa / chuyển vào 17:10 ngày 29/10/2009

Chia sẻ trang này