1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Du lịch Hải Dương .( topic khoá lại tránh buôn bán )

Chủ đề trong 'Hải Dương' bởi vanyeuminhem, 21/05/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    thêm danh sách khách sạn
    Khách sạn Hương Nguyên

    Khách sạn Hương Nguyên nằm trên quốc lộ 5.

    Là một trong 6 khách sạn đạt tiêu chuẩn để VĐV, HLV, BTC lựa chọn trong kỳ Seagames diễn ra trên địa bàn tỉnh. Gồm các đoàn: Thái Lan, Singapore, Myanmar
    Khách sạn Hoa Hồng
    Khách sạn Hoa Hồng (đường Hồng Quang), khách sạn Công đoàn(đường Chi Lăng): Dành cho phóng viên các hãng thông tấn, báo chí, phát thanh truyền hình trong nước và quốc tế.

    Khách sạn Phương Nguyên



    Khách sạn Phương Nguyên nằm trên quốc lộ 5. Là một trong 6 khách sạn đủ tiêu chuẩn để VĐV, HLV, BTC lựa chọn. Gồm các đoàn: Indonesia, Malaysia, Philippines
    Khách sạn Hoà Bình


    Khánh sạn Hoà Bình nằm trên đường Đền Thánh - thành phố Hải Dương.Là một trong 6 khách sạn đủ tiêu chuẩn để VĐV, HLV, BTC lựa chọn Gồm các đoàn: Việt Nam, Campuchia, Lào
    Khách sạn Đồng Xanh
    Tên Đơn Vị: Biệt thự và Vui chơi giải trí Đồng Xanh Địa chỉ: Số 1 Nguyễn Hữu Cầu-Phường Ngọc Châu-Thành Phố Hải Dương Điện thoại: 0320 845090 Giám đốc: Phan Thanh Phán Khách sạn Đồng Xanh nằm ở phía đông Thành phố Hải Dương, Diện tích khuôn viên rộng rãi thoáng mát, đội ngũ nhân viên trẻ, phục vụ nhiệt tình chu đáo. Là một trong 6 khách sạn đủ tiêu chuẩn để VĐV, HLV, BTC lựa chọn để nghỉ.

    Sản Phẩm-Dịch vụ:
    Khách sạn được xếp hạng: hai sao; có 20 phòng nghỉ, 1 loại phòng duy nhất, giá: 150.000-200.000đ; Phục vụ 24/24 giờ.
    Đối tượng phục vụ: Khách du lịch; Khách vãng lai; Khách cơ quan.
    Các dịch vụ đi kèm: Nhà hàng ăn uống, Sân Tennis, Bể bơi bốn mùa, Điện thoại, giặt là, đặt vé máy bay, Taxi.
    Phương thức thanh toán: Tiền mặt hoặc chuyển khoản

    Khách sạn Phương Đông.
    Khách sạn Phương Đông (trên đường 5 + Khách sạn ASEAN -đường Trần Hưng Đạo): Là nơi ăn, nghỉ của khách VIP (quốc tế) và khách mời của BTC SEA-games. Tel:0320 8922.23 Email: Fax: 0320. 893.459 Giám đốc: Nguyễn Đức Huy

    Thông tin tổng quát:
    + Số lượng phòng nghỉ: 21 phòng; Giờ phục vụ: 24/24; Khách sạn được xếp hạng: 1 sao; Loại phòng: 2 loại; giá mỗi phòng
    * Loại 1:150.000 (một trăm năm mươi nghìn)
    * Loại 2: 110.000 (Một trăm mười nghìn)
    + Đối tượng phục vụ: Khách du lịch, khách vãng lai, khối cơ quan...
    + Các dịch vụ đi kèm: Điện thoại, giặt là, bar, nhà hàng ăn, karaôkê, tắm xông hơi, masage, đặt vé máy bay, taxi, phương tiện đi lại.
    + Phương thức thanh toán: Tiền mặt hoặc chuyển khoản
    + Các thông tin khác: Nằm ngay cửa ngõ phía tây của Hải Dương, gần quốc lộ Diện tích rộng, khuôn viên rộng rãi thoáng mát, đội ngũ nhân viên trẻ đẹp tận tình chu đáo.

    Các chợ trong tỉnh.



    Hải Dương là một tỉnh nông nghiệp, năm trong vùng châu thổ đồng bằng Bắc Bộ. Từ xưa đã có hệ thống giao thông đường thủy thuận lợi, ngày nay hệ thống đường sông, đường bộ, đường sắt nối liền và tiếp giáp với 3 trung tâm kinh tế văn hoá lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, nên việc giao lưu hàng hóa có nhiều thuận lợi. Từ đó, chợ Hải Dương rất sầm uất, hàng hoá phong phú đa dạng, thưòng là giá cả phải chăng hơn một số tỉnh khác

    Hải Dương có hàng trăm chợ, phân bố tương đối đều khắp ở các huyện và các nơi đầu mối giao thông . Chợ có nhiều loại: Chợ tỉnh là chợ ở các thị xã lớn như chợ thị xã Hải Dương (chợ Lớn ).Chợ huyện, chợ phủ là chợ nằm ngay ở các thị trấn, nơi các cơ quan huyện đóng tại đó . Chợ khu vực (liên thôn, liên xã) thường nằm ở các đầu mối giao thông , nơi tập trung dân cư. Chợ làng hay chợ đình, chợ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt của cộng đồng làng xã. Chợ thường hòp ở bên đình làng, nên thường gọi là chợ đình, hoặc gần các bế sông, nên thường gọi là chợ bến, dân gian thường gọi chệch thành chợ búa. Chợ làng thường nằm ở những làng xa huyện xã tỉnh.
    Bảng thống kê chợ ở cuối TK XIX(1888)
    Bảng thống kê chợ năm 2000.
    Một số chợ lớn trong tỉnh :
    1- Chợ Thông
    Chợ Thông ở bên đường 20 thuộc làng Phạm Lâm, nôm gọi là làng Thông. Chợ ra đời từ TK XV-XVI, cùng với nghề dệt đũi tại đây.
    Chợ cũ nằm phía đông đường 20, cách làng một con sông nhỏ, có cây bắc theo kiểu thượng gia hạ kiều, bằng gỗ, 7 nhịp. Quá trình kháng chiến và biến đổi xã hội, chợ mất đất, trở nên chật chội, năm 1978, xã quyết định chuyển chợ ra vị trí hiện nay. Phía đông có sông Đò đáy, phía tây liền đường 20, rất thuận tiện cho giao thông thuỷ bộ.
    Chợ Thông cũ là một chợ lớn của tỉnh. Chợ có 4 dẫy quán dài lợp ngói, phân chia theo các mặt hàng: Tạp hoá, sồi đũi, vải lụa, lâm thổ sản, thực phẩm; khu ngoài trời bán trâu bò, lợn gà, thóc gạo, tôm cá, rau củ các loại. Xung qunh chợ còn có các cửa hàng thuốc nam , thuốc bắc và tạp phẩm. Chợ hiện nay rộng 2ha, tuy lớn nhưng phân khu không rõ ràng, mặt hàng phong phú hơn trước nhiều lần, nhưng không còn là chợ bán trâu bò, vắng bóng mặt hàng đũi truyền thống, nhưng thuốc nam thuốc bắc vẫn sầm uất như xưa.
    Chợ họp tháng 12 phiên, vào buổi sáng. Phiên chính vào các ngày 4, 9, 14, 19, 24, 29. Phiên xép vào các ngày 2, 7, 12,17, 22, 27. Phiên chính đông gấp 23 phiên xép và chỉ có phiên chính mới có lợn giống bán. Các ngày không có phiên, mọi việc trao đổi diễn ra tại phố Thông.

    2. Chợ Huệ Trì
    Chợ Huề Trì tại thôn Huề Trì, quen gọi là Huệ Trì thuộc xã An Phụ huyện Kim Môn. Chợ nằm ngay phía sau đình thôn Huề Trì là trung tâm của thôn. Xưa nay, chợ vẫn họp tại vị trí này. Chợ họp ngay sân đình nên còn có tên là chợ Đình. Thế kỷ XIX, phủ Kinh môn đặt tại đây nên còn có tên là chợ Phủ
    Chợ ra đời từ thời hậu Lê, nhưng sầm uất nhất là thời kỳ phủ lỵ Kinh Môn chuyển về đây (TK XIX) và nghững thập niên đầu TK XX. Chợ Huệ trì không những là trung tâm buôn bán trao đổi hàng hoá của các xã như : Thượng Quận, An Sinh , Phạm Mệnh, Hiệp Hoà, Hiệp Sơn, An Sơn mà còn là nơi trung chuyển hàng giữa các tỉnh miền biển, đồng bằng như Hải Phòng, Hải Dương với một bên là các vùng trung du như Kinh Môn, Đông Triều. Các mặt hàng hải sản như tôm, cá biển nước mắm có rất nhiều bán ở đây.
    Thời phong kiến trước đây, chợ họp ngay ở trong sân đình nên thường gọi là chợ Đình. Thóc, gạo, khoai, sắn và các mặt sạch sẽ được bán ở sân trước . Thịt, cá,lợn, gà và các mặt hàng khác dễ gây mất vệ sinh được bán ở phía sân sau và phía Tây đình .
    Chợ đông vui sầm uất vào những năm 40 của thế kỷ trứơc (XX). Dọc đường phía tây, có rất nhiều đại lý bách hoá, rượu, cơm, lâm sản .Trong đó có những tiệm lớn như Bảo Ninh , Cai Đá, các đại lý, cửa hiệu được tạo thành dẫy phố.
    Sau cách mạng tháng Tám , hưởng ứng phong trào bình dân học vụ, chợ đựơc mở hai cổng : cổng "sáng" và cổng" mù". Nhưng ai chưa biết đọc, biết viết thì phải qua lại cổng" mù ". Những ai đã biết đọc, biết viết thì được ra vào qua lại cổng ở cổng "sáng". Biện pháp này đã góp phần thúc đẩy phong trào bình dân học vụ tại địa phương.
    Từ ngày có chợ đến nay, vị trí chợ đã nhiều lần thay đổi. Vào những năm chiến tranh phá hoại, chợ được di chuyển lên núi về phía cuối của thôn Huệ Trì. Sau chiến tranh, chợ lại chuyển về chỗ cũ. Năm 1988, xã quyết định mở rộng chợ về phía sau đình, diện tích sấp xỉ 1 mẫu Bắc bộ. Chợ được phân bố thành nhiều khu vực theo nhóm hàng .
    -Khu vực hàng quán là một hàng bán đồ sắt, hiệu may, hiệu sửa xe đạp . Còn lại là quán nước, quán ăn nằm dọc 2 con đường liên xã.
    -Trong chợ có 4 dẫy quán, chủ yếu dành cho những hộ buôn bán tạp hoá
    -Khu vực bán thóc gạo ở phía tây bắc .
    -Khu vực bán hàng mây tre đan ở phiá đông bắc .
    -Khu vực bán rau ở phía đông .
    -Khu vực bán tỏi ở phía nam sát cổng chợ.
    Một tháng chợ Huê Trì họp 12 phiên vào buổi sáng các ngày 3, 5, 8, 10, 13, 15, 18, 20, 23, 25 ,28, 30. Vào TK XX do nhu cầu trao đổi hàng hoá và phục vụ nhu cầu sinh hoạt, nên ngoài phiên chính, họp chợ vẫn họp, kể cả buổi chiều, nhưng người và hàng hoá ít hơn.
    Vào những thập niên cuối TK XX, huyện Kim Môn có truyền thống trồng tỏi, nên chợ Huê Trì là một trong những trung tâm buôn bán tỏi của huyện. Vào tháng 11-12 âm lịch, có tới hàng trăm gánh tỏi mỗi phiên chợ. Cảnh mua bán tỏi diễn ra suốt ngày. Một số hộ chuyên thu mua gom sau đó thuê ôtô chuyển vào miền Nam, đồng thời chở hàng từ miền Nam đến chợ phân phối cho các đại lý.

    3. Chợ Cuối
    Chợ Cuối có tên chữ là Cối Xuyên thị, đến năm 1672, đời Lê Gia Tông đổi lại là Hội Xuyên thị, nôm gọi là chợ Cuối. Chợ do Nguyễn Chế Nghĩa lập từ đời Trần Hiển Tông. Hiện nay tại chợ vẫn còn bia ký thời Hoàng Định ghi lại việc lập chợ Cuối, mở chợ Cuối trên nền đất cũ . Đây là một trong ngững ngôi chợ lớn của tỉnh xưa cũng như nay.
    Thời nội chiến Trịnh- Mạc (1527-1598), chợ phải ngừng họp một thời gian dài ,dến năm 1598(Lê Quang Hưng), chợ lại được xây dựng trên nền đất cũ và phát triển thành trung tâm kinh tế của huyện Gia Phúc, khi huỵện lỵ chuyển từ An Tân (Gia Tân ) đến Cối Xuyên.
    Năm 1930, chợ được mở rộng, đường chợ được lát bằng đá xanh vuông. Chợ kéo dài từ bến Cuối đến Phố Rỗ. Một con đường cắt ngang từ giữa chợ đến quán Bung. Chợ có bán trâu, bò. Bến Cuối có cho thuyền nước mắm, mắm tôm từ Nghệ An ra. Có thuyền từ Hải Phòng, Hải Dương lên đong gạo. Từ khi ta làm Cống Câu, Cống Bình Lâu (đầu TK XX), thuyền bè không ra vào được.
    Chợ có vài chục cửa hiệu được xây gạch, lợp ngói của người Hoa Kiều bán tạp hoá, vải sợi, thuốc Bắc, có vài chục quán ngói, cột đá để thương nhân bán vải sợi, thực phẩm.
    Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1947-1954) chợ bị giặc Pháp đốt phá. Sau hoà bình lập lại(1954) nhân dân tự dựng lại chợ bằng tranh tre. Vị trí của chợ được chuyển dần sát cạnh đường 17.
    Năm 1988, chợ được mở rộng và xây dựng lại, có diện tích 1.300 m2, chia làm 3 khu A, B, C. Khu A có các cửa hàng mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã mua bán. Có 300 chỗ ngồi xây gạch, lợp ngói cho tư thương bán hàng .
    Năm 1993, hàng hoá không thiếu một thứ gì từ hàng điện tử đến các hàng cơ khí máy móc, vật liệu điện, dụng cụ điện, các máy móc nhỏ như bơm nước, máy tuốt lúa ...đến một số phương tiện giao thông như xe máy Đức, Nhật, xe đạp đủ loại. Khối lượng lương thực thực phẩm ở chợ bán ra tăng gấp 2-3 lần những năm 1980. Từ sau năm 1945 không còn chợ trâu. Chợ Cuối theo truyền thống trong tháng 6 phiên vào buổi sáng các ngày 2, 6, 12, 16, 22, 26, các ngày thường và các buổi chiều chợ vẫn họp nhưng ít khách.

    4. Chợ Ninh Giang
    Chợ Ninh Giang nằm về phái Nam thị trấn Ninh Giang, đây một thời là phủ lỵ, thị xã, một trung tâm kinh tế, chính trị lớn của tỉnh,
    Cư dân đầu tiên của thị trấn chủ yếu là người Hà Nam và một số người vùng lân cận như : Trại, Bói, Vé .Trong qúa trình chài lưới đánh cá trên sông
    Luộc đã về đây sinh sống. Sau này một số Hoa Kiều tị nạn cũng đến đây sinh sống khá đông. Họ dựng lên một khu phố mà dân địa phương gọi là phó Khách. Thời phong kiến người dân Ninh Giang không có ruộng nên không biết làm ruộng. Họ chủ yếu làm nghề buôn bán .Chợ ở đây hình thành khá sớm và sầm uất. Vì đây là trung tâm trao đổi buôn bán của 3 huyện thuộc tỉnh Ninh Giang (Hải Dương ), Vĩnh Bảo (Hải Phòng), Quỳnh Phụ (Thái Bình). Lại rất thuận lợi cả đường bộ lẫn đường sông.
    Thời Pháp Thuộc, bến Ninh Giang được mệnh danh là bến gạo, hàng nghìn tấn gạo ngon được thương nhân buôn từ các nơi về rồi chuyển xuống tàu thuỷ đi nơi khác. Hàng hoá các nơi khác lại theo tàu bè từ Nam Định , Hải Phòng ùn ùn đổ về đây . Hoạt động buuôn bán ở đây như là thành phố lớn: lương thực, thực phẩm, tạp hoá, hàng cơm, quán trọ, vật liệu xây dựng.Đặc biệt chợ có bán một loại bánh đặc sản của địa phương là bánh gai. Ngày nay bánh gai Ninh Giang đang đựoc khắp miền đất nước ưa chuộng. Và sản xuất loại bánh này đang dịch chuyển về các thành phố Hải Dương
    Chợ Ninh Giang ngày nay, nằm đúng trên vị trí chợ cũ, diện tích khoảng 1000 m2, cách tổ chức hàng quán tương đối khoa học .Cổng chợ có treo bảng nội quy ra chợ hàng ngày có hai nhân viên giữ trật tự.
    Phía trong chợ có 4 dãy hàng quán chính và một số quán phụ. Ngưòi bán ngồi thành hàng, rất thuận tiện. Chợ họp vào buổi sáng trong tất cả các ngày của tháng. Buổi chiều vẫn họp nhưng vắng khách, hàng bán buổi chiều chủ yếu là tạp hoá, thực phẩm tươi sống, hàng nước.
    Mặt hàng chính của chợ vẫn là lương thực thực phẩm , rau quả các loại. Nay chợ Ninh Giang vẫn còn nhiều ngươi bán lá chè tươi và những mặt hàng gần đây mới có ở chợ này, như đồ gỗ, con giống và cây giống .
    Hiện nay chợ bán hầu hết các mặt hàng mà thị trường của tỉnh có bán . Khối lượng hàng hoá tăng nhanh vê số lượng, gấp nhiều lần những năm 70 của thế kỷ trước.

  2. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    5. Chợ Bóng
    Chợ nằm trên đất làng Hậu Bổng, nôm gọi là làng Bóng, thuộc xã Quang Minh, huyện Gia Lộc, vì thế mà có tên là chợ Bóng. Chợ có từ thời nào chư rõ nhưng đến thế kỷ XIX đã được ghi trong lịch sử. Năm 1960, khu vực chợ cú quá chật chội, nen chính quyền địa phương di chuyến ra khu vức trạm Bóng, một trạm dịch thời phong kiến, nằm trên ngã tư đường 39 ngang và 192, vì thế mà còn có tên là chợ Trạm.
    Chợ họp một tháng 6 phiên chính vào các ngày 5, 10, 15, 20, 25, 30, các ngày còn lại chợ vẫn họp nhưng ít khách . Chợ Bóng là một chợ lớn vùng Thanh Miên, Ninh Giang, mặt hàng chủ yếu là thóc gạo, các loại rau mầu và hàng tạp phẩm và chủ yếu là bán lẻ cho người tiêu dùng, hình thức bán buôn không nhiều, xung quanh chợ cũng ít cưả hàng cửa hiệu. Vài năm gần đấy hàng quán có phát triển nhưng chủ yếu là hàng ăn, bách hoá và hàng phục vụ nông nghiệp. Tuy vậy vẫn chưa có cửa hàng lớn.
    Về giá cả, hàng lương thực, thực phẩm, rau quả thường rẻ hơn chợ Cuối 5-10%, ngược lại hàng bách hoá thường đắt hơn chợ Cuối từ 5- 10%

    6. Chợ Thái
    Nguyên ở làng An Thái qua nhiều lần di chuyển nay thuộc thôn Bất Nạo, xã Kim Anh, huyện Kim Thành. Chợ được ghi nhận từ TK XIX. Đây là loại chợ huyện vì ở sát huyện lỵ, lại gần ga tầu và bến sông nên rất thuận tiện cho việc chuyên chở hàng hoá. Trong kháng chiến chống Pháp, chợ họp cách ga Phú Thái 500m về phía nam, nay thuộc khu vực UBND huyện. Năm 1968, chuyển về thôn Bất Nạo để tránh máy bay Mỹ. Sau giải phóng miền Nam, chuyển về bên sông An Thành, gần cầu Thái, tức vị trí hiện nay.
    Chợ rộng chừng 2 mẫu ta, ngày nào cũng họp, nhưng phiên chính đông hơn đông gấp 2-3 lần phiên xép. Theo truyền thống, tháng có 9 phiên chính, họp vào buổi sáng các ngày: 1, 4, 7, 11, 14, 17, 21, 24, 27.
    Những mặt hàng chủ yếu lưu thông trong chợ là : Lương thực gồm có thóc, gạo, ngô, khoai, sắn.Về thực phẩm có thịt , cá tươi, cá khô, tôm, rau quả. Ngày phiên chính đều có bán lợn giống, gà, vịt, ngan, ngỗng.Trước đay, khi đồng rươi còn rông, sản lượng còn lớn, chợ Thái là một trong những chợ mua bán rươi lớn nhất vùng nước lợ. Vào những ngày chính vụ, rươi tập trung về đâu hàng ngàn thúng. Tư đây rương được chuyển lên tầu, lên ô tô đi các thàng phố lớn.
    Ngày nay chợ Thái rất đông vui tập trung nhiều hàng hoá đi Hải Phòng và từ Hải Phòng về Hải Dương. Chợ lại rất gần ga xe lửa, nên việc buôn bán có nhiều thuận lợi, hàng hoá chuyên chở đi nơi khác nhìn chung là nhanh hơn một số chợ khác trong tỉnh .

    7. Chợ Đồng Xá

    8. Chợ Đồn Lưu
    Huyện lỵ Kinh Môn từng di chuyển nhiều lần, theo lịch sử , thì lúc đầu phủ Kinh Môn ở Lê Xá (An Dương), rồi chuyển sang Cổ Dũng(Kim Thành). Đến năm Gia Long thứ 7(1812) phủ rời về làng Hà Tràng ( Giáp Sơn). Năm Minh Mệnh thứ 10(1830) về làng Huề Trì và đến năm Thành Thái thứ 11 (1899) thì phủ rời về địa điểm ngày nay, thị trấn An Lưu. Tai đây, người Pháp cho rằng có tiểu khí hậu tốt nhất vùng, điều ấy thì đương nhiên. Thị trán đặt trên khu đồi thấp, phía nam là đồng bằng, phía bắc có sông Kinh Thầy, nhưng quan trọng hơn cả là tại vị trí này, về mặt quân sự có thể khống chế cả đường bộ và đường thuỷ. đây nguyên là đất làng An Lưu, giặc đống đóng ở đây nên gọi là Đồn Lưu, cũng vì thế mà gọi là chợ Đồn Lưu.
    Thị trấn An Lưu có đường giao thông rất thuận lợi, bến sông là nơi giao nhận nhiều loại hàng hoá như lâm sản từ rừng Quảng Ninh về, hải sản từ Hải Phòng lên thị trấn còn có đường 181 nối Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh qua bến phà Thái, thị trấn An Lưu, nên nơi đây đã sớm trở thành trung tâm buôn bán của vùng Đông Bắc của tỉnh.
    Đầu thế kỷ XX chợ Đồn Lưu được hình thành do yêu cầu của trao đổi hàng hoá của 3 vùng Quảng Yên, Hải Phòng, Hải Dương. Những năm 30, 40 của thế kỷ XX, chợ Đồn Lưu, bộ mặt kinh tế, xã hội của huyện lỵ Kinh Môn đã là một trung tâm buôn bán sầm uất nhất ở vùng Đông Bắc tỉnh Hải Dương.
    Chợ Đồn Lưu họp hàng ngày lúc 5 giờ sáng, chợ đông nhất là lúc 8,9 giờ, chợ tan dần lúc 12h trưa và đến tận 17 giờ, 18 giờ (5-6 giờ tối ) mới tan hẳn. Chợ Đồn Lưu ngày nào cũng họp nhưng phiên chính vào các ngày 2, 7, 12, 17, 22, 27 như vậy cứ 5 ngày lại có một phiên chợ chính.
    Hàng hoá chủ yếu trong chợ là lương thực, thực phẩm, hàng lâm sản, tạp phẩm, các loại cây con giống, vải lụa, quàn áo may sẵn.
    Chợ có ban quản lý, cán bộ thuế, người bảo vệ chu đáo, an toàn.

    9. Chợ Cẩm Giàng
    Năm 1838, huyện lỵ Cẩm Giàng chuyển về đóng trên thôn Kim Quan. Thôn Kim Quan từ một thôn nhỏ, trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, quân sự của cả huyện. Bến sông Kim Quan trở thành một chợ hoạt động ngày mmột nhộn nhịp hơn (trên bến dưới thuyền). Sau khi giặc Pháp xâm lược nước ta, làm tuyến đường sắt Hà Nội-Hải Phòng, 1901, mở các tuyến đường bộ từ Cẩm Giàng đi Hà Nội-Hải Phòng, có ngả đường đi qua quán Gỏi đi Kẻ Sặt, Cẩm Giàng đi Bắc Ninh, Cẩm Giàng đi Thứa, đi Văn Thai.
    Năm 1954 sau khi thành lập thị trấn Cẩm Giàng chợ Rằng(chợ Kim Quan)thuộc quyền quản lý của thị trấn Cẩm Giàng
    Năm 1966 Mỹ ném bom tàn phá thị trấn Cẩm Giàng nhân dân ở đây phải sơ tán, chợ cũng phải sơ tán về họp ở thôn Lương Xá xã Lương Điền. Năm 1975, sau khi hoà bình lập lại chợ Cẩm Giàng lại trở về họp ở vị trí cũ (tức địa điểm chợ hiện nay).
    Chợ Cẩm Giàng ngày nào cũng họp, lúc thưa thớt, lúc đông đúc thoe thời vụ cuả nông dân trong vùng lân cận, là chợ vùng quê, mặt hàng chủ yếu là thóc, gạo, ngô, đỗ lạc và các loại rau màu khác. Các hàng tiêu dùng khác, vải, sợi,cũng có tương đối nhiều, tuy nhiên không có gì là đặc sản của địa phương. Nhìn chung khối lượng hàng hoá không nhiều, chưa đa dạng phong phú. Gần đây vào những năm 1990 hàng hoá có phong phú đa dạng hơn, đã thấy mặt hàng tiểu thủ công nghiệp địa phương mang tính truyền thống như mặt hàng gỗ Đông Giao.

    10. Chợ Văn Thái
    Chợ Văn Thái nằm cạnh nhánh sông nội đồng đổ ra sông Thái Bình, là ranh giới giữa Hải Dương và Bắc Ninh, nằm ở một vùng đông dân cư, nhiều cảnh vật, tiện lợi giao thông giữa miền xuôi và miền ngược, nên nó là một trong năm chợ lớn ccủa huyện Cẩm Giàng xưa. Đại Nam nhất thống chí ghi rõ năm chợ lớn của Cẩm Giàng là Hàn Giang, Văn Thai, Thạch Lỗi, Mao Điền (chợ phủ cũ) và Bình Lao.
    Khi xưa con sông Bùi chưa có cống Văn Thai (cống xây dựng năm 1924-1925) sông chảy đến phía bắc làng Văn Thai rồi xuôi theo hướng Tây Namqua giữa hai làng An Trang, Yên Vũ rồi đổ ra sông Thái Bình ở chỗ đền Chui mà trước kia mỗi khi thuyền bè từ sông này ra sông TháiBình đều tế lễ ỏ đền này để đi lại được an toàn. Nền chợ cũ hiện nay là khu vực trường phổ thông cơ sở, thuyền bè đi lại vào sông men theo phía Nam làng đến chợ (khi chưa có đê). Cũng vì vậy mà những thôn thuộc xã Cẩm Sơn xưa (trứoc năm 1840) ở bên kia sông, nay thuộc địa phận Lương Tài- Bắc Ninh. Khoảng năm 1910 khi làng Đầu mở chợ ở phía ngoài thuận tiện cho việc buôn bán hơn nên Văn Thai phải chuyển chợ ra Cầu Vồng để giữ chợ( một bên sông là chợ Đầu, một bên là chợ Văn Thai ).
    Năm 1924-1928 đắp đê sông Thái Bình, xây cống Văn Thai (Cống Văn Thai nay thuộc tỉnh Bắc Ninh quản lý) lấp mất đoạn sông này, thì chợ chuyển ra vị trí hiện nay để cho tiện bến.
    Chợ Văn Thai họp tháng 6 phiên vào các ngày 4, 9, 14 ,19 ,24 ,29 âm lịch. Chợ thường họp vào buổi sáng, buổi chiều người ta chuẩn bị hàng để từ đây lên chợ Chàng, Chũ Hà Bắc.
    Hàng hoá trong chợ :việc giao thông vận chuyển bằng đường sông thuận tiện, hàng hoá đến chợ Văn Thai có đủ loại; các hàng nông, lâm, hải sản
    từ Hà Bắc xuống từ Hải Phòng, Thanh, Nghệ lên, hàng vùng biển cũng được đổ về. Còn hàng của nội vùng lân cận chủ yếu là nông sản, thực phẩm.
    Từ khi xây cống Văn Thai và nhất là khi phương tiện buôn bán, chuyên chở bằng thuyền bè không còn phát triển nữa thì hàng hoá đến chợ Văn Thai rất nghèo nàn, kẻ mua người bán cũng thưa thớt ít nhộn nhịp hơn .
    ở vùng lân cận (kể cả bên Bắc Ninh ) xưa kia nhân dân làm vụ đông chủ yếu là rau cải, ớt, hành, ngô, khoai lang nên chợ Văn Thai có rất nhiều ớt, hành, ngô người ta mau buôn nhưng thứ này từ đây đi các nơi khác .
  3. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    11. Chợ Hương
    Chợ Hương đến nay không rõ được ra đời vào năm nào. Chợ Hương là một trong những chợ lớn nhất của huyện Bình Hà trước kia. Lúc bấy giờ khá sầm uất, nay bị thu hẹp lại, một phần do huyện lỵ chuyển đi chỗ khác (vào những năm 1977, 1978 hợp nhất huyện lỵ , huyện lỵ chuyển đi)
    Chợ cách sông Hương chừng 500 mét, cạnh đường 190 đường Thanh Hà đi Hải Dương , chiều dài chợ kháỏng 50-60 mét,rộng khoảng 20-30 mét. Trước đây có cácdẫy lán thường làm bằng tre, lợp rạ, có 7 dãy quán thô sơ. Nay đã được xây cất một số dẫy quán. Chợ họp cả ngày, vào atất cả các ngày trong tháng, Buổi sáng chợ dông hơn số người họp khoảng 300-500 người.
    Nằm ở vùng quê trù phú, thuần tuý nông nghiệp, nên hàng hoá ở chợ này chủ yếu là thóc gạo, rau quả (hồng xiêm vào tháng 2, 3 âm lịch).Trong đó có vải thiềuvào tháng 5-6 âm lịch.Đay là vùng có truyền thống và kinh nghiệm trồng avải lâu đời nên sản phẩm ở các chợ Thanh Hà cũ, trong đó có vải thiều chiếm ưu thế .Trong thời gian từ khảng tháng 5-6 âm lịch các nơi khác đổ về các chợ mua buôn loại hàng này. có ccả ngưòi nước ngoài cũng đến chợ mua vải. Ngoài ra ở chợ còn có bán tương đối nhiều các loại cam, chanh, dừa vải thiều )Tập tục mua bán ít thêm bớt cò kè, ít có việc lừa đảo.

    12. Chợ Mao Điền
    Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, lỵ sở của trấn Hải Dương còn đắp thành trên đất Mao Điền. Bên cạnh thành đã có một thị tứ nhỏ. Đó là chợ Mao Điền, còn gọi là chợ Phủ Dậu. Phủ là lỵ sở, còn Dậu là tên con sông chảy cạnh chợ (đó là sông Kẻ Sặt ngày nay)đoạn chảy qua làng Vân Dậu.
    Trứơc đây chợ Mao Điền trên bến dưới thuyền, to lắm, có đủ trâu bò, lợn, gà bán ở chợ, có cả hàng bè gỗ, tre nứa các loại
    Chợ Mao Điền nay chuyển về sát đường 5, cách vị trí cũ khoảng 1 km, ở vào giữa xã Mao Điền. Chợ ngày nay chỉ tiện đường bộ mà không tiện đường sông và chợ thu hẹp lại mang tính chất chợ của xã . Chợ có 3 dẫy quán hàng làm bằng tre lợp giấy dầu và lợp rạ. Một tháng chợ họp 11 phiên vào các ngày 1, 3, 11, 13, 16, 18, 21, 26, 28, họp từ sáng đến 10 giờ sáng là chợ tan. Ngày tết chợ rất đông có tới hàng ngàn ngưòi. Hàng hoá chợ Mao Điền nhiều nhất là các nguyên vật liệu làm nón. Khách mua và người bán chủ yếu là nữ giới, ngoài ra các mặt hàng nông sản thực phẩm cũng gống như ở các chợ khác trong tỉnh nhưng khối lượng hàng hoá này tấ ít so với hàng hoá chính là nguyên liệu làm nón.
    Quan hệ mua bán ở chợ Mao Điền thuần tuý, giá cả nguyên liệu làm nón theo giá gạo, nên người bán nói thách rất ít làm cho việc buôn bán diễn ra nhanh.
    Là một chợ nhỏ của xã, hàng hoá ít nên việc giao dịch lớn ở chợ hầu như không có mấy.
    Từ năm 1990 lại đây, các loại hàng hoá ở chợ Mao Điền có khối lượng tăng lên nhiều so với những năam trước 1980.

    13. Chợ Sặt
    Chợ gọi theo tên nôm của làng Sặt, tên chữ lầ Tráng Liệt, nên chợ Sặt còn gọi là chợ Tráng Liệt. Trước thế kỷ 17(1620), làng Sặt chưa theo Đạo Kitô, làng có đình chùa, chợ họp ở gần đình, nên còn có tên là chợ đình. Do ở vị trí thuận lợi giao thông thuỷ bộ, Chợ Sặt đã sớm trở thành nơi buôn bán tấp nập đông vui. Đầu thế kỷ 20 những người buôn bán ở đây đã lập ra lên phố Sặt có cửa hàng, cửâ hiệu. Năm 1958 phố Sặt tách ra khỏi sự quản lý của làng, lập thành thị trấn Sặt. Thị trấn Sặt có bến ô tô khách rất thuận tiện cho khách mua ngườibán ở nơi xa đến chợ. Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam-1975, thương nghiệp Bắc -Nam phát triển nhanh thị trấn Sặt nhanh chóng vươn lên thay hình đổi dạng, trở thành một thị trấn giầu có nhất nhì tỉnh Hải Dương .
    Phố Sặt kéo dài từ đầu cầu Sặt đến làng Tráng Liệt, giữa là phố chợ, chợ kề cạnh sông . Chợ Sặt rộng 150 mét, dài 180 mét, xung quanh xây tưòng gạch có 5 cửa ra vào, trong chợ có 7 dẫy quán nền lát gạch cao ráo. ngoài ra còn có nhiều lều quán nhỏ lợp rạ dựng bám vào tường bao. Hoạt động của chợ và phố không tách ròi nhau. có nhiều cửa hàng, cửa hiệu lớn nhỏ, đồ gỗ, đồ điện tử, ảnh , thuốc Nam, thuốc Bắc, cửa hàng ăn uống, cửâ hàngbánvật liệu xây dựng :xi măng, sắt thép cửa hàng bán sành sứ. Có cả hợp tác xã cơ khí, cửa hàng nhuộm.
    Tóm lại Chợ Sặt có đủ các mặt hàng phục vụ đời sồng, sản xuất. Chợ và phố Sặt tồn tại 3 hình thức kinh doanh, hay nói đúng hơn là ba thành phần kinh tế cùng kinh doanh : nhà nước, hợp tác xã và tư nhân. Các tư nhân kinh doanh có hiệu quả hơn. Các cơ sở của nhà nước và hợp tác xã xây dựng lớn hơn nhưng hàng hoá ít hơn,những năm trước trong cơ chế bao cấp thì các cơ sở quốc doanh và tập thể chủ yếu là phân phối . Nhữnh năm gần đây tuy không còn cơ chế bao cấp (1990-1993) nhưng các cửa hàng mậu dịch, bách hoá, hợp tác xã kinh doanh kém năng động nên hiệu quả cũng thấp, kém xa các doanh nghiệp tư nhân.
    Cho đến nay (1993) do kinh doanh, sản xuất phát triển, ở Sặt đã có nhiều doanh nghiệp tư nhân được thành lập có đầy đủ cơ sở pháp lý, đang sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
    Chợ Sặt họp 1 tháng 6 phiên chính vào các ngày 2, 7, 12, 17, 22, 27 và 6 phiên xép vào các ngày 4, 9, 14, 19, 24 và 29 (âm lịch). Chu kỳ họp của chợ Sặt từ xưa đến nay không thay đổi. Trong hệ thống hàng hoá của chợ Sặt thì có một số mặt hàng xưa nay vẫn có tiếng là bánh đa, giò, chả, thịt chó. Đó là những món ăn dặc sản không bao giờ quên mỗi khi khách có dịp qua nơi đây, dù chỉ một lần ăn những món đó .
    Trước cách mạng tháng Tám chợ Sặt, phố Sặt có hơn 10 ngàn ngưòi Hoa buôn bán, sau năm 1954 họ đi hầu hết, còn lại rất ít.
    Chợ Sặt và phố Sặt xưa và nay vẫn là trung tâm thương mại lớn của một vùng, ngưòi dân ở dây năng động, sắc xảo do có quá trình cọ sát với thương trường . Quan hệ mua bán ở đây không thuần tuý như các nơi khác, đôi khi người bán nói thách rất nhiều, người mua phải trả giá nhiều lần mới mua được, tình trạng này thường xảy ra với loại hàng có giá trị cao. Ban quản lý chợ có 7 ngưòi .Vé chợ thu được hàng tháng từ 13.000-17.000 đồng (thơì giá1984), trung bình mỗi vé chợ từ 1-2 đồng .
    Chợ và phố Sặt luôn luôn phát triển, nhát là trong cơ chế thị trường hiện nay, sự năng động phát triển ấy có thể nói rằng rất ít phố, chợ trong tỉnh có được.
    14. Chợ Mông
    Chợ Mông còn gọi là chợ Thái Mông. Đó là tên gọi của thôn Thái Mông. Thái Mông theo nghĩa đen của địa phương có nghĩa là tốt đẹp, giàu có . Chợ Mông nay không rõ có từ bao giờ. Chợ nằm kề con đường chạy dọc theo núi từ đò Vạn sang Huệ trì, sâng các xã phía Bắc núi An Phụ. Phía nam chợ giáp sông Hàn bến, đây là một nhánh của sông Kinh môn (nhánh này đến nay bị lấp nhiều đoạn). Đường Thiên lý cổ đi qua chợ chính là đường 186 ngày nay, đoạn qua sông Hàn Bến có đò dẫn lên chợ rồi qua đèo Ngà sang Lê Ninh. Như vậy Chợ Mông nằm ở giao điểm của các trục đường trong khu vực .
    Chợ Mông trước cách mạng là chợ miền núi, trong chợkhông có các dẫy quán, mà chỉ là một bãi đất rộng, cao, diện tích chừng 720 m2 (khoảng 2 sào Bắc bộ ). quanh chcợ có 5 cây đa cổ thụ 4 mùa che bóng mát .
    Chợ Mông họp 1 tháng 9 phiên vào các ngày âm lịch như :1, 4, 7, 11, 14, 17, 21, 24, 27. Chợ Mông họp vào buổi sáng đến 9-10 giờ đã tan chợ. Người và hàng hóa ở đây ít, chủ yếu là hàng tự sản xuất như sắn khoai, thoc gạo, lá chè tươi. Thực phẩm có gà vịt, tôm cá, ít thịt lợn hơn các chợ khác. Muốn mua những thứ hàng cần thiết khác hay hàng có giá trị hơn, nhân dân phải đi chợ Huệ Trì hay chợ Lai Khê. Quan hệ mua bán ở chợ Mông êm ái dễ chịu rất ít thách thức, dèm pha.
    Năm 1952 thực dân Pháp làm đường nhựa 186, nói đường số 5 với khu mỏ Đông Triều, chợ chuyển vào cạnh núi Thông (chỗ hiện nay). Đường 186 hoành thành, giao thông thuận tiện hơn, do đó Chợ Mông hàng hoá cũng xnhiều lên. Ngoài nông sản như hành tỏi, thóc gạo, lá chè tươi...còn có một số
    hàng quán ăn uống, khách qua chợ nhiều hơn làm cho Chợ Mông đông vui.
    Sau năm 1954 Chợ Mông( khu Chợ Mông) có cửâ hàng của nhà nước như cửa hàng bách hoá, lương thực thực phẩm, hoạt động kinh doanh phục vụ nhu cầu của nhân dân, bộ đội và các cơ quan trong suốt 40 năm. Đến nay các cửa hàng đó không hoạt động đựoc nữa vì không cạnh tranh được với thị trường
    Ban quản lý Chợ Mông gồm 3 người, quản lý và thu vé chợ hàng phiên trong tháng và làm nhiệm vụ trông xe đạp có thu tiền. Năm 1987 mỗi tháng thu nộp được 10.000 đồng (Giá gạo thời gian này là 400 đồng /kg).
    Chợ Mông đã từng phát triển và tồn tại lâu dài trong lịch sử Kim Môn. Khẳng định đây là thị trường không thể thiếu được của cư dân phía Bắc huyện Kim Môn xưa cũng như ngày nay.
  4. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    15. Chợ Nứa
    Chợ Nứa nằm kề phía Bắc đường 190 (Hải Dương , Thanh Hà) thuộc thôn Đông Phan xã Tân An. Theo truyền thuyết cuả nhân dân địa phương thì ở thời nhà Lý, đại quân của nhà vua trên đường đi dẹp giặc ở bể Ba La ? Khu vực bể Đông đã đăng trại ở đây. Do nhu cầu của nghĩa quân nhân dân đã mang lương thực, thực phẩm đến trao đổi. Sau khi nghĩa quân đi, nhân dân đã lấy nơi đó mà kéo đến tiếp tục trao đổi hàng hoá. Dần dần nơi đây trở thành chợ, gọi là "chợ Nứa", có người cho rằng khu vực ấy xưa có bãi nứa mọc (?). trước cách mạng tháng Tám chợ Nứa có tên gọi chợ "lục xã " tức chợ của 6 xã : Đông Phan, Long Động, Hoàng Lại, An Liệt, Thừa Liệt và Lôi Động. Ngày nay chợ Nứa là trung tâm trao đổi buôn bán ở khu vực phía Tây Thanh Hà.
    Chợ họp 1 tháng 6 phiên vào các ngày âm lịch : 5, 10, 15, 20, 25, 30. Chợ dài 70 mét, rộng 50 mét, có 6 dẫy quán bằng tre lợp rạ, trong chợ phân ra các khu chính là: khu vực bán lương thực, lợn giống, cành cây giống, hoa quả, vải quần áo, hàng xén, ăn uống, có khu bán đồ mây tre đan, mây tre cây, khu bán gà, ngan ngỗng , vịt; khu bán rau hành , tỏi, khu bán cua cáy, khu bán thịt lợn, khu bán lợn giống ...
    Lượng hàng hoá tuỳ theo mùa, năm được hay mất mùa mà hàng hoá nhiều hay ít, đắt hay rẻ. Ngày Tết chợ đông và lượng hàng nhiều gấp ba lần ngày chợ thường. Hàng hoá trong những ngày này chủ yếu là hàng phục vụ Tết.
    ở Chợ Nứa nói thách ít đối với ngưòi bán hàng nhìn chung nhân dân đến chợ chất phác thật thà, mua bán dễ chịu. Ban quản lý chợ do hợp tác xã nông nghiệp quản lý, tiền thu chợ cao, nhưng tu bổ chợ còn ít nên cơ ngơi chợ còn kém hơn một số chợ khác (thời điểm năm 84-85 thế kỷ XX).
    Chợ Nứa xưa nay vẫn là chợ bán nhiều giống cây trồng và nhiều giống con chăn nuôi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Trong điều kiện ngày nay chợ Nứa có ưu thế về mặt ấy.
    16. Chợ Huyện
    Chợ Huyện Nam Sách ra đời từ lâu đến nay không ai nhớ rõ. Có lẽ từ khi có phủ Nam Sách từ đời Trần thiết lập thì chợ cũng hình thành .
    Chợ Huyện Nam Sách cũng được chuyển từ phủ huyện cũ (thôn Ninh Khê, xã Thanh Quang hiện nay)về phủ mới ở thôn Cầu Giao, sát thôn Đồng Sớm. Đến cách mạng tháng Tám chợ chuyển về phố Nam Sách, họp dọc phố trên con đường 17. Năm 1960 chợ chuyển về chỗ ngày nay đang họp.
    Chợ Huyện Nam Sách rộng khoảng 5 mẫu Bắc bộ .Chọ có hai cổng chính ra vào, một từ đường 17 vào, một từ phía làng Nhân Lý vào. Chợ có 3 lối đi giữa 4 dây hàng quán. Tổng số có 135 gian quán hàng làm bằng tre lợp rạ. Số gian trên được phân chia cố định cho từng chủ hàng. Các dẫy này chủ yếu là hàng tạp phẩm, đồ sắt, đồ gỗ, hàng mây, tre,...Khu bán lương thực như thóc, gạo, ngô khoai, sắn ...đựoc bán ngoài trời. Có khu bán thịt, cá, rau quả, cá tôm, khu bán các loại gia súc, gia cầm như lợn gà, chó, mèo, ngan, ngỗng...
    Trong chợ còn có hợp tác xã mua bán của xã Thanh Lâm, một cửa hàng bách hoá tổng hợp của huyện, phưong tiện vận tải trong chợ chủ yếu là gồng gánh thô sơ, không có bến sông và phương tiện vận tải thuỷ đến chợ. Chợ huyện nằm ở giao lộ giữa đường 17 và đường 513 rất tiện lợi, nên xưa nay Chợ Huyện Nam Sách có tiếng là chợ lớn nhiều hàng hoá nhất vùng. Khách hàng đến chợ từ nhiều nơi khác nhau như Hà Bắc, Đông Triều, Quảng Ninh và dân ở các huyện lân cận.
    Chợ Huyện Nam Sách tháng họp 6 phiên vào các ngày âm lịch 5, 10, 15, 20, 25, 30. Chợ phiên rất đông người khoảng 3-4 ngàn người mỗi phiên. vào dịp Tết chợ đông gấp 3-4 lần chợ ngày thường. Thời gian họp từ 5-6 giờ sáng đến 10-11 giờ trưa. Hàng bán ở chợ nhiều và rẻ hơn một chút so với chợ khác. Giá gạo ngon ở thời điểm 1984 là 40 đ/kg, thịt thăn 140 đ/kg, gà 110 đ/kg, lợn giống đẹp 80 đ/kg...Người bán hàng chủ yếu là bà con nông dân, hàng họ tự làm ra không những giá cả phải chăng mà mua cũng dễ. Người bán nói thách ít.
    Hàng truyền thống là thóc, gạo, lợn giống, nên khách mua buôn mấy loại này thường tới huyện Nam Sách .
    Những năm gần đây ban quản lý chợ đựoc tổ chức và củng cố tốt hơn (năm 1984 có 16 ngưòi ). Việc thu ở chợ đã sử dụng xây mới, ccải tạo quán hàng, đường nội chợ tốt hơn. Năm 1984 đến nay đường đi đã lát gạch cao ráo, sạch sẽ, vệ sinh chung trong chợ đảm bảo, một số quán đã xây và đã có tường bao quanh chợ. Nhờ có chợ mà phố Nam Sách vẫn sầm uất phồn thịnh không mai một đi, khi trung tâm huyện đã chuyển về địa điểm mới (về gần ga Tiền Trungthuộc đất xã Đồng Lạc). Trong cơ chế thị trường và phố Nam Sách ngày càng phát triển. Hàng hoá đa dạng phong phú, thu hút đông đảo khách thập phương, trong tương lai chợ và phố Nam Sách sẽ trở thành một trong những nơi giầu có của tỉnh Hải Dương

    17. Chợ Sao Đỏ
    Tháng 10-1978, sau khi thị trấn Sao Đỏ được xây dựng thì Chợ Sao Đỏ là chợ lớn nhất của huyện Chí Linh cũng được hình thành. Sao Đỏ là tên nông trường Sao Đỏ là chợ lớn nhất huyện Chí Linh. Chợ họp ngay trung tâm thị trấn, cạnh ngã 3 của đường 18 A Bắc Ninh, Hòn Gai và đường 183 Hải Dương -Hà Bắc. Chợ Sao Đỏ nguyên là chcợ Phả lại trước đây chuyển về .
    Chợ có hai cổng vào, một từ đường 18 A dẫn vào, một từ đường 183 bao gồm hai phần ; một phần họp bên trong các dẫy nhà có mái che hay trong cá kiót nhỏ là nơi bán các loại hàng công nghệ phẩm như vải, quần áo may sẵn, đồ điện, điện tử, các loại tạp phẩm khác, dược phẩm...trong đó có kiốt bán các loại cầm thú của miền rừng núi Đông Bắc - một thứ sản vật coi như hàng hoá đặc biệt mà chỉ có Chợ Sao Đỏ Chí Linh mới có.
    Phần ngoài trời bán các loại rau xanh, các loại quả, củ như na mít, dọc tai chua...rồi đến sắn khoai lang, mía, hàng mây tre đan. Các loại gia cầm như gà vịt, ngan ngỗng ...Ngoài việc bán trâu bò còn có bán ngựa là những gia súc lớn mà hiện nay toàn bộ các chợ trong tỉnh không có nơi nào bán.
    Trước đây, Chợ Sao Đỏ họp một tháng 6 phiênvào các ngày 5, 10, 15, 20, 25, 30. Nhưng nay chợ họp cả 30 ngày trong tháng, vào những ngày phiên cũ đông hơn . Chợ họp kéo dài trong cả ngày, buổi sáng đông hơn buổi chiều .Ngày phiên chợ có tới 2000-3000 ngưòi.Vào dịp Tết chợ họp đông gấp 3-4 lần. Phưong tiện vận tải.Đến chợ chủ yếu bằng xe đạp vì các xã trong huyện xã chợ, nên nhân dân cần dùng đến xe đạp. Giá ở Chợ Sao Đỏ phần nào có đắt hơn giá ở một số chợ trong tỉnh vì lượng cung, cầu có chênh lệch. Chợ có phần hàng hoá chuyển đi Quảng Ninh và khách vãng lai đến mua. Tuy hàng có đắt hơn nhưng việc mua bán vẫn nhanh và thuần tuý .
    Ban quản lý Chợ Sao Đỏ đựoc tổ chức chặt chẽ, hoạt động có hiệu quả vì vậy tuy chợ mới được thành lập nhưng đã sớm được quy hoạch, xếp đặt tương đối tốt .
    18. Chợ Cháy
    Chợ Cháy dưới thời Lý Anh Tông, thôn Du La có người con gái rất xinh đẹp, cô gái đi đến đâu, đám mây trời đi theo che nắng cho cô. Cô thường thích xem vật và trai trẻ trong làng cũng thường xuyên tổ chức đánh vật cho cô xem .Tiếng lành đồn xa, tin cô gái đẹp đã lan dến kinh đô. Nhà vua tức tốc cho sứ giả về xem thực hư ra sao. Cô gái quê mùa lo sợ khi nghe có sứ giả về tìm mình, cô trốn ra đồng , sứ giả của triều đình cứ theo bóng râm mà tìm, rồi rước cô về kinh đô. Vua thấy cô đẹp liền phong làm hoàng hậu. Được vua yêu mến, sống trong cung cấm đầy đủ vàng bạc, hoàng hậu cũng không quên được làng quê. Nỗi nhớ quê thôi thúc hoàng hậu xin phép cho về thăm quê. Về quê, hoàng hậu bỏ tiền mở một cái chợ tại quê để nhân dân mua bán thuận tiện gọi là chợ Du la. Khi ở Kinh nàng đã có thai nhưng không biết, thời gian ở quê và xây dựng chợ khá lâu, cái thai trong bụng lớn dần. Lo sợ vua quở trách và nghi ngờ nên bà đã nhảy xuống giếng tự tử. Tin dữ về đến triều đình, nhà vua thương tiếc vô cùng và tức giận , sai lính về làng Du La đốt chợ chỉ vì nó mà vua mất người vợ yêu quý từ đó chợ Du la mang tên là chợ Cháy cho đến tận ngày nay .
    Chợ rộng 5.500m2. Ngay từ ngày Pháp thuộc chợ đã được xây dựng tương đói khang trang, kèo sắt, mái lợp xi măng. Ngày nay chợ còn một daỹ quán xây lợp ngói xi măng tấm lớn và hai dẫy quán bán mái. cùng với hai dẫy quán lợp ngói đất nung. Nền chợ được lát gạch sạch sẽ, mọi việc mua bán đều ở trong quán xây. Cảnh quan khu vực chợ khá đẹp và hấp dẫn. Cạnh chợ có đình làng và có đền thờ cô Hoàng Thị Hồng chợ gồm có 33 gian quán lớn nhỏ.
    Chợ họp 5 ngày một phiên vào các ngày 5, 10, 15, 20 , 25 , 30 âm lịch hàng tháng , tháng thiếu sẽ họp vào ngày 29. Chợ họp từ sáng đến trưa; ngày Tết chợ họp sang cả chiều. Thời kỳ chợ đông là nông dân nhàn rỗi và những ngày giáp tết.
    Hàng hóa ở chợ phần chủ yếu là nông sản ở các vùng lân cận mang bán . Có cả khách ở thành phố về chợ và các lái buôn mang hàng đi Hải Phòng. Chợ có nhiều hoa quả và cây giống phản ánh nghề làm vườn ở địa phương rất phát triển.
    Ban quản lý chợ hoạt động tốt, đảm bảo trật tự an ninh cho nhân dân về họp .
    19. Chợ Yên
    Chợ Yên có từ rất lâu đời, đến nay chưa có tài liệu tin cậy để xác định lịch sử hình thành của chợ. Ban đầu nó mang tên chợ La Tỉnh gọi theo tên thôn La Tỉnh . Đến đầu thời Nguyễn 3 thôn La tỉnh, Yên Nhân, Toại An(Toại Yên) vì vậy chợ La Tỉnh có tên là chợ Yên và tên đó tồn tại cho đến ngày nay.
    Chợ Yên đã thay đổi nhiều lần, chỉ từ cách mạng tháng Tám đến nay đã 3 lần thay đổi vị trí. Lúc đầu chợ họp dọc trục đường 191, từ sân đình La Tỉnh đến khu vực Văn chỉ và khu chùa. Lúc bấy giờ chợ đã chia thành từng khu vực riêng biệt: Khu hàng gà(nay khu ấy vẫn còn tên gọi), khu hàng lợn, hàng chiếu, hàng trâu...Tại thời điểm này chợ gắn liền với phố .
    Tiếp sau đó, chợ chuyển ra gần bến đò Vạn, họp trên khu đất rộng nay là sân vận động của xã. những năm 1960, do nhu cầu mở rộng bệnh viện và trường cấp 3 Tứ Kỳ, chợ được chuyển ra địa điểm mới ngay gần bến xe khách và tồn tại cho đến ngày nay .
    Chợ họp hẳn ra một khu riêng biệt có mương nước và tường xây bao quanh. Quán chợ đã được xây dựng kiên cố, các khu bán hàng được phân chia rõ ràng, thuận lợi. Khách đến chợ chủ yếu là người địa phương, ngoài ra còn có khách Thanh Hà, Hải Phòng, khách của thành phố Hải Dương hầu như phiên nào cũng có mặt.
    Các phiên chính của chợ là những ngày âm lịch trong tháng như 4, 8, 14, 18, 24, 28, các phiên phụ hay gọi là phiên xép họp vào các ngày 1, 11, 21 âm lịch. Phiên phụ chỉ khác các phiên chính là không có mặt hàng lợn giống, còn các mặt hàng khác vẫn đầy đủ như phiên chính, người họp vẫn đông. Ngoài ra, sáng nào cũng có người mua bán vật dụng thiết yếu hàng ngày. Buổi chiều chợ vẫn họp nhưng chuyển dịch lên phố huyện cho đến tối luc snào cũng đông.
    Hàng hoá ở chợ Yên rất phong phú và đa đạng, ngoài lương thực, thực phẩm , chợ còn có các mặt hàng truyền thống của địa phương như chiếu, cói, mây tre đan, cây giống, hoa quả..xưa còn bán cả trâu bò.
    Hàng chiếu cói ngồi thành dẫy dài, dủ các loại. Chiếu do Thanh Kỳ, Tứ Xuyên sản xuất là loại chiếu khá tốt. Mặt hàng này bán buôn là chủ yếu Khách buôn đa phần là người Nam Sách họ chuyên chở bằng xe đạp thồ thu gom hàng chuyển đi Quảng Ninh hay biên giới phía Bắc.
    Mây tre đan là hàng của thôn An Nhân xã Đông Kỳ - nơi có nghề đan lát truyền thống, xuất đi nhiều nơi trong nước mặt hàng này.
    Cây giống ở chợ có cam, chanh, hồng xiêm, vải thiều, quất hàng có đủ để bán buôn, bán lẻ đáp ứng kịp thời cho khách mua. Khách mua nhiều sẽ mời về tận nhà, giá được giảm một phần.

    20. Chợ Đại Tân
    Ngày xưa cả khu vực phía Đông Bắc huyện Chí Linh chỉ có một chợ là chợ Ngái ở thôn Chi Ngãi. Thời kỳ chống Pháp chợ di chuyển nhiều nơi, có một bộ phận về xã Hoàng Tân họp tại khu vực trường cấp I hiện nay. Thời kỳ chiến tranh phá hoại, chợ lại phân tán đi nhiều nơi, trong đó có một điểm họp tại điểm họp chợ ngày nay. Sau năm 1975 hoà bình, tất cả các điểm chợ phân tán tập trung về xã Đại Tân xây dựng chợ mới. Như vậy chợ Đại Tân ngày nay, tiền thân cua rnó là chợ Ngái.
    Chợ họp trên khu đất rộng đến 3 mẫu Bắc Bộ.Chợ có tường xây quanh, quán lợp ngói, phân chia thành các dẫy hàng.
    Phiên chính chợ họp một tháng 6 phiên vào các ngày 4, 9, 14, 19, 14, 29à. Mùa hè chợ họp rất sớm, từ 5-6 giờ đến 8-9 giờ sáng, mùa đông chợ họp từ 7giờ đến 9-10 giờ sáng là vắng. Riêng ngày Tết chợ mới họp kéo dài đến trưa.
    Là chợ của miền núi nên hàng hoá trong chợ ngoài nông sản, thực phẩm ra còn có các sản vật của rừng núi như giang, nứa, vỏ quạch, vỏ chay...chim rừng, thú rừng nhỏ.
    Chợ Đại Tân có nhiều hàng đi Quảng Ninh và ngược lại

  5. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    21- Chợ Thiên

    Danh mục chợ Hải Dương :
    1. Chợ Lớn - Thành phố Hải Dương
    2. Chợ Đại Tân, ( Chí Linh)
    3. Chợ Thiên ( Chí Linh)
    4. Chợ Sao Đỏ
    5. Chợ huyện(Nam Sách)
    6. Chợ Cháy,
    7. chợ Nứa,
    8. Chợ Hương(Ns)
    9. Chợ Mông (KM)
    10. Chợ Đồn Lưu
    11. Chợ Huề Trì
    12. Chợ Thái(Kim Thành)
    13. Chợ Đồng Xá
    14. Chợ Văn Thai(Cẩm Giàng)
    15. Chợ Mao Điền
    16. Chợ Sặt(Bình Giang)
    17. Chợ Cuối (Gia Lộc)
    18. Chợ Thông(Thanh Miện)
    19. Chợ Bóng
    20. Chợ Ninh Giang(Ninh Giang)
    21. Chợ Yên (Tứ Kỳ)

    Chợ Hải Dương Thế kỷ thứ XIX
    1. Chợ Ngái

    2. Chợ Thiên

    3. Chợ An Lưu

    4. Tổng Xá

    5. Dương Nham

    6. Trí Giả

    7. Kim Lôi

    8. Lê Xá

    9. Huề trì

    10. La Xá

    11. Lê Xá

    12. An Mộ

    13. Đông Quan

    14. Trần Thượng

    15. Cổ Phục

    16. Phú Thái

    17. Quỳnh Khê

    18. Măng (Xuân Mai)

    19. Lai Khê

    20. Lâm Xuyên

    21. Cẩm la

    22. Giải (Phù Tải)

    23. Miễu (Lan Can)

    24. Gương (Diên Tảo)

    25. Cháy ( Du la)

    26. Gọc (Bồ Dương)

    27. Nhân Lý

    28. Bối

    29. Yên Cư

    30. Miễu Yên

    31. Lạc Dục

    32. Sặt

    33. Tráng Liệt

    34. Ngọc Điểm

    35. Tiên Thiều

    36. Đồng Mũ

    37. Hoàng Xá

    38. Tào khê

    39. Đông Mộ

    40. Gia cốc

    41. Tiên Động

    42. La Ngoại

    43. Đông Cao

    44. ứng Mộ

    45. Đông Bổng

    46. Bóng (Hong Bổng)

    47. Đồng Tái

    48. Đoàn Mái

    49. Quát (Hạ Bì)

    50. Mũ(Ô Mễ)

    51. Nghĩa xá

    52. Mỗ (Mẫu Đoạn)

    53. Nghĩa Đan

    54. Bắc Đảo

    55. Phú Điền

    56. Thạch Khôi

    57. Bạc Trung

    58. Cậy(Kệ Gián)

    59. Cối

    60. Triệu Nội

    61. Bất Nạo

    62. La ngoại

    63. Gia Cốc

    64. Thọ Trương

    65. Thủ Pháp

    66. Hà Xá

    67. Tráng Liệt (sặt)

    68. Huyện(Thanh Lâm)

    69. Rồng (Điền Trì)

    70. Đột Lĩnh

    71. Trần Xá

    72. Chợ Mới

    73. Cổ Châu

    74. Phao Tân

    75. La Đôi

    76. Thanh Lỗ

    77. An Trú

    78. Lại Thượng

    79. Ngọc Dục

    80. Yên Xá

    81. Hoà Đang

    82. Thạch Lỗi

    83. Phí Xá

    84. Văn Thai

    85. An Dật

    86. Phú Lộc

    87. Kim Quang

    88. Đông Nam

    89. Trạm Thượng

    90. Lai Cách

    91. Ghẽ(Tràng Kỹ)

    92. Phong Cốc

    93. Lý Đổ

    94. Bằng Giã

    95. Hoàng Du


  6. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    Lễ Hội Làng Nghề
    Nghề chạm khắc đá Kính Chủ

    Đá là vật liệu sẵn có trong thiên nhiên, được con người chế tác làm công cụ lao động từ buổi bình minh của lịch sử. Trải qua hàng vạn năm, con người đã tích luỹ được tri thức và kinh nghiệm chế tác, tạo nên những nghệ nhân, những trung tâm chuyên sản xuất những sản phẩm bằng đá, trong đó có những tác phẩm vô, giá những công trình hùng vĩ, nay trở thành di sản văn hoá của nhân loại.

    Làng Kính Chủ, xã Phạm Mệnh, huyện Kinh Môn có nghề chạm khắc đá lâu đời, tác phẩm sớm nhất còn lại đến ngày nay là tấm bia bút tích Phạm Sư Mệnh, khắc năm thứ 144 triều Trần (1369) tại động Kính Chủ. Thợ đá Làng Kính Chủ có thể thực hiện hầu hết những công việc về chế tác đá như : Bắc cầu, làm quán, đục cối, tạc tượng, khắc bia, làm đá tảng, đá phiến... Trong suốt một nghìn năm theo đuổi nghề nghiệp, thợ đá làng Kính Chủ đã sản xuất biết bao công trình và sản phẩm bằng đá, trong đó có những sản phẩm trở thành di sản văn hóa tiêu biểu của dân tộc, đặc biệt là hàng vạn bia ký-những trang sử bằng đá vô cùng quý báu còn lưu lại đến nay. Nhiều công trình còn ghi rõ do thợ đá Kính Chủ thực hiện, trong đó có thành nhà Hồ ở Vĩnh Lộc Thanh Hoá, xây dựng năm 1400, bia chùa Đông Dương tự, chùa Côn Sơn...
    Qua hai cuộc chiến tranh, nghề chạm khắc đá ở Kính Chủ đã mai một nay đang phục hồi, nhưng chưa tương xứng với truyền thống mà các thế hệ trước đã có.
    Hồng lục - Liễu Tràng, trung tâm khắc ván in mộc bản



    Từ thế kỷ thứ III, dân tộc ta đã biết làm giấy từ vỏ dó và rong biển tạo điều kiện cho nghề in ra đời. Thế kỷ X, Đinh Liễn cho khắc Kinh Phật lên hàng trăm cột đá, di vật được khảo cổ học phát hiện. Khắc được chữ trên đá thì khắc chữ trên gỗ là việc làm đương nhiên. Phường Hồng Lục- Liễu Tràng khắc chữ Bản bộ kinh, bộ sử rành rành (Hải Dương phong vật khúc khảo thích- đầu TK XIX)

    Thế kỷ thứ XIV, Pháp Loa cho in hàng ngàn bộ kinh Phật, nhưng phải đến thế kỷ XV mới ra đời một làng chuyên khắc ván in cho triều đình và nhu cầu của xã hội, tương tự như nhà in Quốc Gia sau này. Đó là làng Hồng Lục và Liễu Tràng của huyện Gia Phúc, nay thuộc xã Tân Hưng, huyện Gia Lộc. Người có công xác lập nghề in ở đây là Thám hoa Lương Như Hộc. Ông đựơc tôn vinh là tổ sư nghề in của làng. Đây là làng nghề khắc ván in tồn tại suốt 6 thế kỷ, làng nghề khắc ván in duy nhất của Việt Nam dưới thời phong kiến. Nghề in ở Hồng Lục - Liễu Tràng đã phục vụ đắc lực cho sự nghiệp chính trị, văn hóa, giáo dục của đất nước, tiêu biểu là bộ Đại Việt sử ký toàn thư được khắc in vào cuối thế kỷ XVII . Các nghệ nhân ở đây không chỉ khắc chữ mà còn khắc tranh, trong đó có Bộ Đại bách khoa toàn thư bằng tranh do Hăngri ôgiê tổ chức thực hiện vào đầu thế kỷ thứ XX. Cuối thế kỷ XX máy in đã thay thế nghề in mộc bản, thợ khắc ván in chuyển dần sang khắc dấu đồng, dấu gỗ và phụ bản cho nhà in. Thợ khắc dấu của Hồng lục - Liễu Tràng có mặt ở hầu khắp các thành phố lớn trong nước để hành nghề.





  7. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    Chạm khắc gỗ Đông Giao



    Đông Giao thời phong kiến là một xã thuộc tổng Mao Điền, từ năm 1948 đến nay là một làng thuộc xã Luơng Điền, huyện Cẩm Giàng.

    Vẩy mũi chàng nên rồng nên phượng
    Thợ Đông Giao mẫu dạng đâu hơn.
    (Hải Dương phong vật khúc khảo thích)
    Nghề chạm khắc gỗ ở Đông Giao ra đời khoảng thế kỷ XVII, đến thế kỷ XIX, những thợ giỏi được triệu vào Huế để phục vụ trong cung đình. Thợ Đông Giao chuyên làm các đồ thờ và trang trí nội thất như ngai, ỷ, cửa võng, hương án, tủ, tạng, tràng kỷ, tượng gỗ....Thợ ở đây chỉ làm phần mộc, việc sơn, khảm, thiếp thì lại do làng nghề khác đảm nhiệm. Xưa thợ Đông Giao ít khi làm tại nhà vì không có vốn. Thông lệ hàng năm, sau ngày hội làng vào hạ tuần tháng giêng, từng nhóm thợ rời làng đi tìm việc. Đồ thờ và nội thất đều là mặt hàng kỹ nghệ vì vậy vật liệu phải chọn là gỗ tốt, bền, chắc, ít cong vênh. Qua hai cuộc chiến tranh nghề chạm khắc ở Đông Giao có mai một đến năm 1983, nghề được phục hồi và phát triển, có tới 97% số hộ tham gia nghề mộc với trên 400 thợ nam, nữ, già, trẻ. Nét mới ở đây là, ngày xưa phụ nữ đi theo các hiệp thợ để nấu cơm và làm việc nhẹ thì ngày nay, họ tham gia hầu hết các công đoạn của nghề chạm. Xưa mọi việc phụ thuộc vào thợ cả, nay đã hình thành những ông chủ đặt và thu mua hàng xuất khẩu. Hàng năm thợ Đông Giao không chỉ sản xuất hàng tại quê mà có hàng trăm thợ đi làm ở các trung tâm sản xuất hàng gỗ mỹ nghệ tại các doanh nghiệp ở các thành phố lớn cũng như các làng nghề. Sản phẩm của Đông Giao đã có mặt ở hầu khắp các làng xã và thành phố trong nước trở thành dấu ấn văn hoá và là một mặt hàng xuất khẩu sang nhiều nước, được khách hàng ưa chuộng.

    Đũi Thông

    Làng Phạm Lâm, nôm gọi là làng Thông thuộc xã Đoàn Tùng huyện Thanh Miện. Ruộng đất làng Thông vốn không nhiều, làm ruộng chỉ cốt giữ gia bản, mọi khoản chi tiêu đều phải dựa vào hai nghề : Đàn ông chuyên đi buôn thuốc Nam, thuốc Bắc, đàn bà chuyên dệt vải lụa.

    Mặt hàng vải dệt ở đây có : Vải mộc dệt bằng sợi bông, lụa tơ tằm dệt bằng tơ tằm loại tốt, sồi dệt bằng lụa tơ tằm sợi thô, xe đôi gọi là sồi xe. Mặt hàng nổi tiếng nhất làng Thông là Đũi. Đũi cũng dệt bằng tơ nhưng lấy từ kén tằm già, nhộng đã lột thành **** cắn tổ chui ra và và những lõi kén lấy hết tơ nõn. Như vậy Đũi được dệt từ nguyên liệu phế thải của lụa và sồi nhưng vẫn bền đẹp, nhiều người ưa dùng, từng nổi tiếng đất nước một thời .
    Làng Thông chỉ chuyên dệt không kéo được các loại sợi. Riêng sợi Đũi do làng Đào Lâm cung cấp. Hai làng cách nhau một con đường nhỏ nhưng làng nào việc nấy việc phân công lao động có từ những thế kỷ trước. Vào những năm 40 của thế kỷ thứ XX, nghề dệt ở đây cực thịnh có tới 80% gia đình có khung dệt hoạt động. Nhưng vì sản xuất hàng công nghiệp ngày càng phát triển hàng hoá ngày càng rẻ và nhiều nên nghề dệt ở Phạm Lâm thu hẹp dần và đến năm 2000 hầu như không còn hoạt động.
  8. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    Chỉ Phú Khê

    Tại các di chỉ khảo cổ học thời kỳ đồ đồng và sơ kỳ đồ sắt ở nước ta đã thấy kim khâu, dọi xe chỉ, chì lưới, dấu vết nhiều loại vải in trên đồ đồng, đồ gốm.

    Hình người trên trống đồng loại một cũng thấy trang phục được thêu thùa tỉ mỉ. Điều đó chứng tỏ trên 2000 năm trước, dân tộc ta đã biết dệt nhiều loại vải, xe chỉ may, đan lưới với óc thẩm mỹ cao. Phú Khê là một làng nhỏ ( năm 1983 có trên 400 khẩu ) thời Trần thuộc Hồng Lộ , thời Lê thuộc huyện Đường An nay là một thôn thuộc xã Thái học, huyện Bình Giang. Nghề xe chỉ ở đây có từ thời Trần, tồn tại và phát triển suốt 7 thế kỷ, lúc phồn thịnh, hầu như nhà nào cũng làm nghề. Sản phẩm gồm nhiều loại, nhưng chỉ có hai loại chính chỉ khâu và chỉ phục vụ cho nghề làm lưới của làng Vạc liền kề. Năm 1955 có 216 lao động xe chỉ hợp đồng cho nhà nước. Năm 1983 có khoảng 20 gia đình hành nghề chủ yếu xe chỉ phục vụ nghề làm lược của làng Vạc. Công nghiệp phát triển đã thay thế nghề xe chỉ thủ công tồn tại hàng nghìn năm lịch sử. Nghề xe chỉ Phú Khê nay không còn, nhưng hình ảnh và công cụ cũng như sản phẩm của họ cũng mãi mãi lưu giữ trong bảo tàng địa phương và quốc gia, chứng minh cho nền sản xuất thủ công của dân tộc một thời.
    Từ nón Ma Lôi đến nón Mao Điền

    Nón là một vật đội trên đầu che nắng che mưa và tán không phân biệt như mũ, thường làm bằng nan tre, lá cọ, lá dứa, bẹ nang, lông ngỗng..., vành bằng tre, khuôn bằng giang, khâu bằng sợi móc, sợi cước hay tơ dứa... sống ở miền nhiệt đới, nắng lắm mưa nhiều, nhân dân ta rất cần nón khi đi đường cũng như khi lao động ngoài trời. Người nông dân làm lụng quanh năm ngoài đồng, không thể thiếu nón và đội nón là một đặc điểm của nông dân và phụ nữ Việt Nam.

    Là vật dụng thiết yếu hàng ngày nên nón đã được dân tộc ta sáng tạo rất sớm và gồm nhiều chủng loại: nón cẩu diện, võ bửu, tam giang, phương đẩu... Thời Trần có loại nón đan bằng cật tre tại hương Ma Lôi, Lộ Hồng (nay thuộc Bình Giang) gọi là nón Ma Lôi. Trần Khánh Dư đã hạ lệnh cho quan quân đóng ở Vân Đồn đội nón Ma Lôi để phân biệt với người phương Bắc trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông.
    Ở Hải Dương hiện nay có nhiều nơi làm nón, nhưng tập trung nhất vẫn là làng Mao Điền xã Cẩm Điền huyện Cẩm Giàng sản xuất theo truyền thống nón Chuông (Hà Tây). Nghề được bắt đầu từ một người con gái làng Chuông lấy chồng Mao Điền, sau ngày miền Bắc giải phóng. Tuy là nghề phụ, nghề nông nhàn, năm 1983, ở Cẩm Điền có tới 600 hộ tham gia nghề khâu nón. chiếm 2/3 số hộ cuả thôn, mỗi năm cung cấp cho thị trường tới 20 vạn nón các loại, cung câp một phần quan trọng cho nhu cầu của nhân dân địa phương, giải quyết số lao động dư thừa và nông nhàn, thu một nguồn lợi không nhỏ cho tổng thu nhập của xã, góp phần đáng kể cho việc cải thiện đời sống cho mỗi gia đình. Hiện nay nghề khâu nón ở đây vẫn phát triển tốt.


    Bột lọc Quý Dương

    Quý Dương thời Lý- Trần gọi là Mỗ Đông, nôm gọi là làng Mỏ, thời Nguyễn thuộc tổng Tràng Kỹ, nay là một thôn của xã Tân Trường, huyện Cẩm Giàng, năm 1930 có 938 khẩu. Nghề làm bột lọc ở Quý Dương có từ đầu thế kỷ XX, khi thịnh đạt có tới 2/3 số hộ làm bột. Dụng cụ làm bột rất đơn giản gồm có bộ giã, bộ lọc, bộ phơi.

    Nguyên liệu là gạo tẻ hay gạo nếp loại tốt, đã giã trắng, giần sảy hết cám và bổi. Gạo được ngâm 2 tiếng trước khi cho vào cối giã. Quá trình lọc bột không thể thiếu lá vông vang. Những gia đình làm bột thường xuyên phải trồng vông vang trong nhà để tiện dùng.
    Bột lọc Quý Dương sau khi lọc, phơi khô được xắt thành hình thanh, không để tơi như bột mỳ, đây là thứ nguyên liệu phục vụ các nhà hàng làm bánh, làm các món ăn cao cấp ở khách sạn và làm nguyên liệu của công nghiệp để hồ vải sợi. Nghề làm bột lọc ở đây rất phát triển vào đầu thế kỷ XX, từ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946) bị đình đốn, sau ngày miền Bắc giải phóng, nghề được phục hồi và phát triển khá tốt. Đến kháng chiến chống Mỹ nghề này ngừng hoạt động.


    Lò vịt Đông Phan

    Vùng đồng chiêm trũng vùng đồng bằng châu thổ nhiều tôm, cá, cua, cáy, những thứ mồi nuôi vịt mau lớn, vịt con hai mươi ngày đã thể tự kiếm ăn. Nuôi vịt phải nuôi từng đàn 1-2 trăm con mới hiệu quả. Vì thế từ những thế kỷ trước ông cha ta đã biết ấp trứng vịt tạo ra những đàn vịt cùng thế hệ. Đây là một tiến bộ đáng kể trong chăn nuôi, việc ấp trứng vịt nhân tạo đã có từ lâu đời đến mức vịt đẻ ngày nay đã quên chức năng ấp trứng.

    Đất Đông Phiên tháng ngày hun trứng
    Dăm lò mới xây dựng xinh xinh.
    (Hải Dương PVKKT)
    Đông Phiên hay còn gọi là Đông Phan huyện Thanh Hà là một làng ấp trứng vịt cổ truyền, từ thế kỷ XIX đã được lịch sử ghi nhận. Theo gia phả dòng họ Nguyễn Sĩ, thì người đầu tiên khởi xướng nghề ấp trứng vịt ở đây quê ở Đoàn Ngụ, tỉnh Thanh Hoá. Sự tích đó đã được ghi trong quan viên Hoa ấp bia ký.
    Ấp vịt xưa là một nghề phụ bên cạnh nghề nông, lúc phát đạt nhất, Đông Phan cũng chỉ có trên dưới 10 lò với khoảng 100 người chạy trứng gọi là thợ chân sào (thợ kỹ thuật gọi là ông trùm). Buổi đầu người ta ấp vịt bằng phân trâu, sau thay bằng trấu rang, rồi thay bằng thóc rang. ấp 27-29 ngày, vịt nở hoàn toàn.
    Ngày vào lò phải tính phiên chợ, sao cho vịt nở trên một ngày là đến phiên, nếu để ngày thứ hai mới bán gọi là vịt thôi phiên .Chăn vịt đẻ, ấp trứng và bán vịt con là một khâu liên hoàn và cần vốn khá lớn đối với một gia đình nông dân, mọi người làm ăn buôn bán phải khớp nhau về thời gian và phải lấy chữ tín làm đầu. Chỉ cần một khâu trục trặc là hỏng cả quá trình sản xuất và thời vụ, sao cho vịt con ăn được thóc thì vừa đến mùa gặt để tận dụng thóc rơi vãi trên đồng và các loài thuỷ sản .Hiện nay lò vịt Đông Phan vẫn hoạt động tốt và sôi nổi quanh năm, vì ấp trứng không chỉ phục vụ chăn nuôi mà còn phục vụ nhu cầu trứng vịt lộn một mặt hàng được người tiêu dùng hiện nay ưa chuộng.




  9. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    Gốm Quao

    Từ thời đại đồ đá mới, cách ngày nay 6-7 nghìn năm, con người đã biết chế tạo ra đồ dùng bằng đất nung, tức đồ gốm, dù còn rất thô sơ nhưng có ý nghĩa to lớn trong lịch sử nhân loại ở chỗ đã sáng tạo ra những đồ dùng đa dạng, không có sẵn trong thiên nhiên, góp phần đáng kể vào việc cải thiện đời sống. ở Việt Nam, trong các di chỉ đồ đá mới ở Bắc Sơn đã có di vật bằng gốm.

    Kìa Xích Thổ, nọ làng Yên Khánh,
    Bán Lâm Xuyên khí mãnh cái lò.
    (Hải Dương PVKK)
    Kỹ thuật và mỹ thuật sản xuất gốm của Việt Nam không ngừng tiến bộ, nổi tiếng khu vực và thế giới, điển hình là Gốm Chu Đậu ở thế kỷ XV-XVI. Theo kết quả nghiên cứu của khảo cổ học, đến nay đã biết 14 trung tâm sản xuất đồ gốm trên đất Hải Dương, trong đó có gốm Quao, một truyền thống gốm không men.
    Quao là tên gọi thông tục của dân gian về làng Phì Mao thời Lý Trần, đến thời Lê trung hưng, đổi thành Lâm Xuyên, thuộc tổng An Điền, huyện Chí Linh, nay là một thôn của xã Phú Điền, huyện Nam Sách.
    Theo tư liệu khảo sát khảo cổ học, thì gốm Quao ra đời khoảng thế kỷ XV, hoạt động liên tục và tồn tại suốt 5 thế kỷ. Đầu thế kỷ thứ XIX là Gốm Quao hoạt động rất sầm uất, nửa làng có lò nung. Đầu thế kỷ thứ XX, làng Quao có 95% số hộ dân làm đồ gốm, 42 họ có lều lò, trên 100 bàn xoay hoạt động ngày đêm. Từ năm 1942, đắp đê sông Kinh Thầy, láp gốc sông Quao, đường vận chuyển nguyên liệu và thành phẩm trắc trở, làng gốm suy thoái dần. Năm 1983, cả làng chỉ còn 7 lều lò, 15 bàn xoay, 50 thợ chuốt. Đến nay chỉ còn một lò hoạt động.
    Nguyên liệu của gốm Quao khai thác trên sông Kinh Thầy, khu vực Kính Chủ. Sản phẩm chính là các loại nồi đất, vại nhỡ, lọ, hũ nhỏ, mầu hồng tươi, xương mịn, chắc, dễ nhận ra trong các chợ quê. Gốm Quao ngày nay đã thưa vắng trên thị trường thành thị cũng như nông thôn, do đồ nhôm và đồ nhựa phát triển, thay thế nhưng cống hiến của những thế hệ thợ gốm ở đây rất to lớn và những mảnh gốm Quao vẫn tồn tại trong trầm tích lịch sử của dân tộc.

    Gốm Cậy



    Cậy là tên nôm của làng Hương Gián và Kê Gián thuộc tổng Bình Dã thời Hậu Lê, thuộc tả ngạn sông Kẻ Sặt. Từ năm 1946, Cậy là một thôn thuộc xã Long Xuyên, huyện Bình Giang.

    Năm 1900, Hương Gián, Kệ Gián có trên 1800 khẩu. Bên cạnh nghề nông, làng Cậy làm nhiều nghề phụ, trọng tâm là sản xuất đồ gốm. Cậy là một điển hình về một làng sản xuất đồ gốm cổ truyền. Cả làng xây dựng trên những phế tích của lò gốm từ thế kỷ thứ XV, có nơi dầy tới 4-5m. Nhà xây san sát, đường làng ngõ xóm nhỏ hẹp, suốt dọc bờ sông nhà ngói nối tiếp nhau như một phố cổ, tre xanh la đà mặt nước, chợ bến lao xao, thuyền bè xuôi ngược. Điều kiện tự nhiên và xã hội tạo cho làng phát triển trên ba phương diện : Nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Về phương diện sản xuất gốm sứ, Cậy chỉ là một điểm trong tập đoàn sản xuất gốm ở thế kỷ XV-XVII dài trên 5 km theo tả ngạn sông Sặt và Đò Đáy
    Gốm Cậy buổi đầu nung theo lò cóc, rồi lò món, lò bầu. Sản phẩm gốm Cậy rất đa dạng , đại trà là bát, đĩa, âu, chậu, lọ bình, con giống, phục vụ tầng lớp bình dân, gốm mỹ nghệ cao cấp có nhưng không nhiều, xương gốm thô và dày. ở thế kỷ XIX, còn một loại sản phẩm độc đáo, đó là gạch Cậy . Đây chính là một loại bao nung cải tiến thành một sản phẩm hữu ích .
    Tồn tại suốt 5 thế kỷ, trải qua không ít thăng trầm, gốm Cậy vẫn tồn tại. Sản phẩm tuy chưa đạt tiêu chuẩn hàng cao cấp nhưng giá thành hạ, rất phù hợp với khả năng tiêu dùng của đại đa số nhân dân, nên ở những thế kỷ trước, gốm Cậy rất phát triển, chủ yếu phục vụ dân dụng, nội địa.
    Hiện nay gốm Cậy vẫn tồn tại tuy không phồn thịnh như xưa, nhưng sản phẩm rất đa dạng và phong phú như bát đĩa, bình lọ hoa, đồ sành, ngói cao cấp cổ truyền, phỏng chế đồ cổ, gốm mỹ nghệ...

    Vàng bạc Châu Khê

    Nghề chế tạo vật phẩm bằng vàng, bạc trên đất nước ta đã có trên ngàn năm, bắt đầu từ một vài nghệ nhân, rồi lan dần ra cả làng, tạo nên thành phường, thành phố.

    Làng Châu Khê tay vàng, tay bạc,
    Cân Bái Dương giữ mực trung bình.
    (Hải Dương phong vật khúc khảo thích)
    Lịch sử ghi nhận, đến thời Lê trung hưng, có 3 trung tâm sản xuất đồ mỹ nghệ bằng vàng, bạc là Châu Khê (Hải Dương), Đồng Xâm(Thái Bình), Định Công(Hà Đông). Do nhu cầu của nhà nước và xã hội, thợ 3 làng đến Thăng Long, quy tụ thành phường, lập nên thành phố, đó là phố Hàng Bạc, một chứng tích còn đến hôm nay. Nói là thợ ba làng quy tụ về đây, nhưng phần lớn là thợ và các cửa hiệu của người Châu Khê. Họ ở đây đông đúc đến mức như một làng Châu Khê thứ hai, với đủ thiết chế một làng xã, gọi là Châu Khê Hàng Bạc, cuối thế kỷ XIX, có trên 300 suất đinh hành nghề tại Hà Nội.
    Châu Khê là một làng cổ, thời Trần thuộc Hồng lộ, thời Nguyễn thuộc tổng Tông Tranh; từ năm 1946, là một thôn thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang. Châu Khê là cách gọi của dân gian, thực tế trong văn bia là Trâu Khê( ). Làng Châu Khê vẫn là một làng nông nghiệp, nhưng bên cạnh nông nghiệp, có hai nghề thủ công giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của dân làng là mỹ nghệ vàng bạc và vàng mã, nghĩa là vừa làm vàng bạc thật, vừa làm vàng giả. Mỹ nghệ vàng bạc có từ thời Lê Sơ, người khởi xướng là Lại bộ Thượng thư Lưu Xuân Tín, người được Lê Thánh Tông giao cho đúc bạc nén cho triều đình. Từ nghề đúc bạc nén phát triển thành mỹ nghệ vàng bạc. Nghề làm vàng mã ở đây có từ thời Nguyễn, nhưng đã bỏ từ sau Cách mạng tháng Tám. Còn mỹ nghệ vàng bạc tuy có lúc thăng trầm, nhưng đến nay phát triển tốt, không kém thế kỷ XIX. Thời kỳ kháng chiến, thợ Châu Khê chuyên sản xuất bật lửa và đèn pin phục vụ dân sinh và chiến trường. Từ ngày đổi mới, nghề nghiệp được phục hồi. Hiện tại ở Hà Nội, có trên 50 cửa hàng vàng bạc lớn của người Châu Khê.
    Thợ Châu Khê xưa chuyên làm các mặt hàng bằng vàng bạc và đúc bạc nén cho nhà nước. Đây là một nghề cổ truyền rất tinh tế, đòi hỏi độ chính xác và kỹ thuật cao, sử dụng nguyên liệu có giá trị rất lớn, trong đó có kim cương, vì thế được xã hội trọng dụng. Song, nếu tính kỷ luật và đạo đức kém thì rất dẽ bị pháp luật trừng trị.
    Hiện nay, kỹ thuật của thợ Châu Khê không ngừng được nâng cao, trang thiết bị được đổi mới, giảm lao động nặng nhọc mà năng suất lại cao. Về mặt hàng thì chưa bao giờ phong phú như hiện nay. Ngoài những mặt hàng bằng vàng, bạc, kim cương, còn có nhiều mặt hàng giả vàng bạc phục vụ cho nhu cầu trang sức của thời đại.

    Nghề thêu Xuân Nẻo

    Thêu là một nghề cổ truyền của dân tộc, phục vụ nhu cầu của vua chúa, quan lại, tư trang trong các nhà quyền quý, những công trình tôn giáo và tín ngưỡng.

    Thêu chỉ màu, thêu kim tuyến là một truyền thống lâu đời. Sản phẩm của những thợ thêu từ những thế kỷ trước đã trở thành di sản văn hoá hiện vật quý trong các bảo tàng. Đầu thế kỷ thứ XX, do nhu cầu của thị trường, một số thợ thêu tách khỏi nghề thêu truyền thống lâu đời chuyển sang thêu đăng ten, thêu hàng trắng là mặt hàng phương Tây ưa dùng. Nói đến thợ thêu người ta hay liên tưởng đến những cô gái mặt hoa da phấn, có đôi tay mềm dẻo tài hoa. Nhưng trong số những nghệ nhân nổi tiếng lại không ít đấng mày râu. Hơn thế người khởi xướng nghề thêu ở Xuân Nẻo lại là một thanh niên tuấn tú.
    Xuân Nẻo là quê hương của những người thợ thêu nguyên là một xã của tổng Nguyễn Xá thời Nguyễn, từ năm 1946 là một thôn của xã Hưng Đạo, huyện Tứ Kỳ, năm 1983 dân số là 1380 người. Người có công khởi nghiệp thêu thùa ở đây là ông Nguyễn Văn Thuật, sống vào đầu thế XX. Năm 1940, Xuân Nẻo đã trở thành một làng thêu có tới 50 gia đình có khung thêu. Trong kháng chiến chống Mỹ, nghề thêu bị đình đốn, sau ngày miền Bắc được giải phóng nghề thêu phục hồi và phát triển nhanh chóng. Năm 1983 có trên 1300 thợ lành nghề, làm hàng xuất khẩu cho phần lớn các nước Châu Âu và mang lại nguồn thu lớn cho dân làng. Mặt hàng thêu của Xuân Nẻo rất đa dạng, thêu tranh, thêu chữ , chăn gối , đăng ten. Hiện nay nghề thêu ren tồn tại nhưng không được như những năm 80 của thế kỷ trước.

  10. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    Thợ làm đình Cúc Bồ

    Cúc Bồ, quê hương của Khúc Thừa Dụ, một vị hào trưởng đất Hồng Châu, năm 905, nhân lúc nhà Đường suy yếu, ông đã dũng cảm, mưu trí, lãnh đạo nhân dân giành quyền tự chủ, sau ngót một ngàn năm Bắc thuộc. Cúc Bồ còn là quê hương của những người thợ làm đình nổi tiếng xứ Đông.

    Nói làm đình là nói công việc chính, công việc điển hình, thực tế thợ Cúc Bồ không chỉ làm đình chùa, mà còn làm các công trình kiến trúc gỗ, quy mô lớn và có yêu cầu điêu khắc tinh tế như : Chùa, quán, đền, miếu, văn chỉ, nhà thờ họ, dinh thự, tư thất vượt khỏi khuôn khổ của những ngôi nhà thông thường .
    Cúc Bồ xưa là một xã của tổng Bồ Dương, nay là một thôn của xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, phía bãi sông Luộc. Nghề làm đình ở đây ra đời từ cuối thế kỷ thứ XVI. Đầu thế kỷ XX có tới 7 hiệp thợ làm đình.
    Học nghề làm đình cũng như nghề mộc đều thông qua thực hành, không có sách vở trường lớp, bố dạy con, anh dạy em, bạn bè giúp đỡ nhau, tinh ý và chịu khó, sau 6-7 năm thì thành thợ. Làm đình là một nghề nặng nhọc, thường xuyên phải đục đẽo những cây gỗ lớn, rắn chắc đồng thời phải chạm khắc nhiều hoa văn, hình tượng theo những đề tài nhất định, đòi hỏi người thợ phải có sức khoẻ và năng khiếu thẩm mỹ, thiếu hai yếu tố này không thể thành thợ cả.
    Công cụ làm đình gồm hàng chục loại với vài chục kích cỡ khác nhau như : cưa, đục, chàng, bạt, vụm, khoan, tách, thước ...Theo kết cấu thông lệ, đình cổ độ dốc của mái được tính theo công thức nằm 4, dựng 3, chéo (mái) 5. Như vậy độ dốc là 36,5%. Kết cấu vì và đề tài trang trí rất phong phú. Có thể nói đình là một công trình thể hiện tinh hoa văn hoá và tính bền vững của cộng đồng người Việt trong các làng xã.
    Trải qua hai cuộc chiến tranh, nghề làm đình có mai một, thợ Cúc Bồ chuyển sang các nghề mộc thông dụng phục vụ các công trình xây dựng nhà nước và dân sinh. Tuy thế vẫn còn một hiệp thợ chuyên phục vụ việc tu sửa công trình văn hoá cổ có kết cấu gỗ cho nhà nước. Năm 1983, dân số của thôn có 2300 khẩu, có hơn 450 thợ mộc chuyên nghiệp, nay số thợ tăng gần gấp đôi, nghề làm đình có điều kiện phục hồi. Hằng năm cứ sau Tết Nguyên Đán, các hiệp thợ lại rời làng quê lên đường đến mọi miền đất nước để hành nghề, tạo nên những công trình văn hoá truyền thống .

    Thợ nhuộm Đan Loan

    Cách đây trên nửa thế kỷ, khi chế độ phong kiến còn tồn tại, sự giao lưu giữa các miền và quốc tế còn hạn chế, sắc phục của các dân tộc, các miền, các tầng lớp nhân dân và phẩm trật của quan lại dễ nhận ra qua hình thức và mầu sắc của trang phục. Mầu sắc của trang phục hình thành do nhiều yếu tố : Tâm lý dân tộc, truyền thống, tập quán, nguồn nguyên liệu, hoàn cảch , giao lưu văn hóa và quy định của pháp luật

    Hồng hồng, biếc biếc, xanh xanh
    Đan Loan, Ngọc Cục thị thành vẻ vang
    (Hải Dương phong vật khúc khảo thích)
    Mầu gốc của nguyên liệu dệt vải lụa đơn điệu, không thoả mãn nhu cầu sử dụng. Muốn có màu ưa thích thì phải nhuộm. Biết sử dụng nhiều màu, vậy là một bước tiến bộ về thẩm mỹ . Đó là cơ sở xã hội để ra đời nghề nhuộm. Nghề nhuộm trước hết phải làm cho vải bền chắc hơn, sau đó là đúng sắc độ chúng ta mong muốn. Nhuộm thâm thì có nhiều làng hành nghề và dân gian cũng có thể tự nhuộm, còn nhuộm mầu mới thấy một làng Đan Loan.
    Đan Loan, nôm gọi là làng Đọc, nguyên là một xã thuộc tổng Minh Loan thời Lê, từ năm 1946, là một thôn của xã Nhân Quyền , quê hương của danh nhân Phạm Đình Hổ.
    Làm thợ nhuộm không thể ngồi ở nhà chờ khách mà phải đến các chợ, các làng xã, phố phường nhận hàng, nhuộm tại chỗ. ở Thăng Long xưa có phố Thợ Nhuộm, đây là phố nhuộm thâm của làng Liêu xá, Liêu Xuyên (Hưng Yên), Vân Canh (Hà Tây), Hàng Đào mới là nơi nhuộm cao cấp, nhuộm nhiều mầu, được lịch sử ghi nhận từ thế kỷ XV. Cũng như Châu Khê, thợ Nhuộm Đan Loan lên Thăng Long hành nghề rất sớm, thế kỷ XVII, họ đã lập ra phường hàng Đào gồm 7 dòng họ của Đan Loan ( Vũ, Phạm, Lê, Dương, Bùi, Đào, Đoàn). Họ đã xây đền thờ ***** tại chợ Hoa Lộc ở Thăng Long. Người Đan loan tự hào về nghề nghiệp của mình :
    Thiên hạ thanh hoàng do ngũ thủ
    Triều đình chu tử tự ngô gia
    (Mọi nơi có màu xanh, màu vàng đều do tay ta làm ra,
    Chốn triều đình màu đỏ, màu vàng đều do tay ta mà có )
    Nghề nhuộm ở Đan loan tồn tại hơn 5 thế kỷ, làm đẹp cho đời và thu nhập cũng không nhỏ vì thế mà dân gian có câu: Tiền làng Đọc, Thóc làng Nhữ , chữ làng Chằm (làng Đọc tức Đan Loan, làng Nhữ tức Nhữ thị liền kề, làng có nhiều ruông tốt nên lắm thóc, còn làng Chằm tức làng Mộ Trạch có nhiều người đỗ đạt đại khoa).
    Vào những năm 80 của thế kỷ trước, người ta vẫn còn thấy những cô gái Đan Loan gánh đôi bì đi nhuộm ở các làng quê. Ngày nay sự phát triển của công nghiệp nhuộm đã thay thế nghề nhuộm cổ truyền .Thợ nhuộm Đan Loan đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, nhưng sự nghiệp của họ vẫn mãi mãi để lại dấu ấn thắm tươi trong lịch sử địa phương và dân tộc.

    Lược sừng Hà Xá

    Từ những thế kỷ trước Công nguyên, xương và sừng đã được con người chế tác thành công cụ lao động và đồ trang sức. Đồi mồi là một vật phẩm quý, bọn đô hộ thời Bắc thuộc thường bắt dân ta cống nạp. Theo Lê Quý Đôn thời Trần " Những thứ vòng đeo, nhà giàu dùng đồi mồi, còn lại người khác chỉ dùng xương và sừng". Kỹ nghệ chế tạo xương, đồi mồi ra đời sớm, đến thời đại phong kiến đã trở thành một nghề với quy mô gia đình rồi làng xã.

    Năm 1926, ông Vũ Huy Vực, người làng Hà Xá, huyện Bình Giang, 13 tuổi đã có năng khiếu thủ công mỹ nghệ, được gia đình cho theo học ở trường kỹ nghệ Hà Đông, chuyên về ngành mỹ nghệ sừng đồi mồi và sớm trở thành nghệ nhân trong lĩnh vực này. Từ ông Vực khởi xướng, Hà Xá có nhiều người theo học nghề mà thành thợ
    Đồi mồi là một loài rùa biển có nhiều ở phía Nam nước ta, nhất là Phú Quốc . Vẩy đồi mồi là một loại nguyên liệu quý của hàng mỹ nghệ . Mỗi con có 24 vẩy sườn, 14 vẩy lưng to và tốt nhất, ngoài ra còn có vẩy hông, vẩy cổ, vẩy diều, dầy từ 1-5mm; màu đỏ quỳ hay vàng hoa, lốm đốm đốm đen.
    Năm 1946, toàn quốc kháng chiến, nhưng vùng sâu của Bình Giang vẫn còn tự do. Tại Hà Xá (thuộc xã Thái Dương) đã thành lập một tập đoàn chuyên sản xuất lược sừng công việc sản xuất kinh doanh tồn tại được 4 năm, đến năm 1950, giặc càn quét phải dừng sản xuất. Năm 1955, nghề lại được phục hồi, đến năm 1957, có 4 gia đình và 70 lao động sản xuất, nguyên liệu chủ yếu bằng sừng trâu, móng trâu và đồi mồi, sản phẩm chính là lược và nhiều mặt hàng mỹ nghệ khác như : hộp thuốc lá, ống cắm bút, quản bút tẩu thuốc, quân cờ...Khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, nghề thủ công ở đây đình đốn .
    Sản xuất những sản phẩm bằng sừng và đồi mồi là một nghề cổ truyền và nhiều nghệ nhân có tài, nhất là mặt hàng mỹ nghệ dưới thời đại phong kiến, sản phẩm làm bằng đồi mồi chủ yếu phục vụ vua chúa và tầng lớp quan lại, nay là một mặt hàng phục vụ xã hội và xuất khẩu, mang lại nguồn lợi đáng kể. Nguyên liệu đồi mồi tuy hiếm nhưng biết nuôi thả thì vẫn có thể cung ứng cho nghề này phát triển. Còn sừng thì không thiếu và nghệ nhân vẫn còn, vì thế mà sản xuất đồ mỹ nghệ bằng sừng và đồi mồi của Hà Xá vẫn có có hội phục hồi.

    Chiếu Tiên Kiều

    Cói là một loại cỏ mọc nhiều ở vùng nước lợ, được dân tộc ta sớm phát hiện tính ưu việt của nó trong việc làm nguyên liệu sản xuất đồ gia dụng như : Đan bị, áo, vỉ buồm, võng, đánh gianh lợp nhà, làm dây buộc hàng...Sản phẩm quan trọng nhất của cói là chiếu, nó trở thành vật không thể thiếu trong mỗi gia đình Việt Nam giầu cũng như nghèo, thành thị cũng như thôn quê hàng ngàn năm trước, cho tới hôm nay, và mai sau, dù vải lụa có nhiều đi nữa, chiếu cói vẫn có vị trí xứng đáng trong đời sống gia đình Việt Nam.

    Tặng em đôi chiếu em nằm
    Đôi chăn em đắp đôi chằm em đeo.
    ( Ca dao )

    Hải Dương là một miền đất có vành đai nước lợ rộng lớn, phù sa mầu mỡ, khi chưa có đê, triều lên, nước ngập mênh mông, tạo điều kiện cho cói tự nhiên phát triển thành những cánh đồng ngút ngàn dọc các triền sông Thái Bình, Văn úc, Kinh Thầy ... Trên cơ sở nguồn nguyên liệu sẵn có, nghề dệt chiếu đã hình thành rất sớm. Chiếu cói trong các mộ cổ có niên đại trên dưới 2000 năm. Đến thế kỷ XIX, nhiều làng dệt chiếu chuyên nghiệp. đã được lịch sử ghi nhận như : Uông Thượng, Uông Hạ, Chu Đậu, Mặc Xá..., Đặng Xá (Nam Sách )Nga Hoàng (Cẩm Giàng ), Quảng Uyên, Chu Uyên (Tứ Kỳ) Lập Lễ, Hạ Vĩnh (Thanh Hà) mà điển hình là Tiên Kiều - Hà Đông (Thanh Hà )
    Từ thuở xa xưa, truyền thuyết cũng không đủ sức vượt thời gian để nói về buổi đầu dựng nghiệp, chỉ biết nghề dệt chiếu bắt đầu từ Tiên Kiều (xã Thanh Hồng) rồi lan ra cả tổng, cả khu, đến nay là vùng trọng điểm cói và chiếu của tỉnh.
    Từ cói hoang, người ta đã chọn và nhân giống thành cói trồng có chất lượng cao, trong đó có loại thân tròn, dài, sợi dẻo, dai gọi là cói cơm. Năm 1985, xã Thanh Hồng có 241 ha chuyên canh cói, 570 go dệt thì làng Tiên Kiều chiếm 490 go. Như vậy là hầu hết gia đình ở đây làm nghề dệt chiếubên cạnh nghề nông. Sản lượng chiếu của Thanh Hồng mà căn bản của Tiên Kiều năm 1985 là 80000 chiếc.
    Chiếu cói có nhiều ưu việt : giá trị sử dụng hơn nhiều loại vải trải giường nay đã biết, kể cả chiếu nilông, phù hợp với hoàn cảnh sinh thái Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, công nghệ sản xuất đơn giản, giá thành hạ, nguyên liệu có thể sản xuất nhanh với khối lượng lớn, độ bền khá. Sự có mặt của chiếu cói rộng khắp và tồn tại qua hàng nghìn năm đã khẳng định giá trị của nó. Nếu tận dụng khả năng ưu đãi của tự nhiên, tổ chức sản xuất khoa học, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mặt hàng, kinh doanh năng động thì nghề dệt chiếu của Tiên Kiều và khu vực Hà Đông và của Hải Dương sẽ phát triển và đạt hiệu quả cao về kinh tế và xã hội

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này