1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Du lịch Hải Dương .( topic khoá lại tránh buôn bán )

Chủ đề trong 'Hải Dương' bởi vanyeuminhem, 21/05/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    Giầy dép da Tam Lâm



    Tam Lâm là tên ba làng :Phong Lâm, Văn Lâm, Trúc Lâm, tục gọi làba làng Trắm, thuộc huyện Tứ Kỳ thời Hậu Lê cuối thế kỷ XIX, cắt chuyển về Gia Lộc nay thuộc xã Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc.

    Không phải đến hôm nay, dù đời sống được cải thiện, thúc đẩy phong trào ngói hoá ở nông thôn mà ngay từ trước Cách mạng, đến Tam Lâm đã thấy như một làng ngoại thị, đường làng rộng rãi, lát đá, đình chùa, đền miếu uy nghi, nhiều nhà xây gạch lợp ngói theo kiểu mới, một số gia đình kẻ biển, đề tên ở cổng, ở ngõ như những cửa hiệu ở thành phố, tạo nên một làng quê trù phú theo kiểu tân thời. Trong các gia đình, trên bàn thờ gia tiên, đều có ảnh truyền thần của ông bà. Nhìn kỹ một chút, chúng ta đều thấy các cụ đi giầy sơn then. Phải chăng những ngưòi thợ ở đây thể hiện sự trân trọng nghề nghiệp của mình cùng với những hình ảnh thiêng liêng ấy .
    Nghề đóng giầy dép da Tam Lâm ra đời cách ngày nay 5-6 thế kỷ. Buổi đầu kỹ thuật thuộc da của ta còn kém so với sản phẩm cùng loại được nhập khẩu, thợ và klhách hàng của chúng ta mong muốn có những mặt hàng da bằng hoặc vượt chất lượng của các nước láng giềng. Vào đầu thời Mạc, tiến sĩ trẻ Nguyễn Thời Trung người bản xã đi sứ Minh, ông mang theo ba người thợ giỏi của làng là Phạm Thuần Chánh, Phạm Đức Chính, Phạm Sĩ Bân cùng đi tìm cách học tập, nâng cao kỹ thuật thuộc da và các sản phẩm bằng da lên một bước mới.
    Do hoàn cảnh kinh tế và xã hội ở những thế kỷ trước, nhu cầu các mặt hàng bằng da chủ yếu ở đô thị và tập trung vào mùa đông, vì vậy thợ đóng giầp phần lớn phải ra phố hành nghề. Đầu thế kỷ XX , các mặt hàng về da đã khá phong phú : Giày Chi long, Tân Long, Gia Định, dép một, dép cong, yên, cương ngựa, ghệt, gối, thảm ,ví, cặp, bóng....Từ khi giao lưu với phương Tây các loại hình và nhu cầu càng lớn. Thợ Tam Lâm có mặt ở các thành phố lớn từ Bắc chí Nam, thậm chí ra nước ngoài hành nghề, kỹ thuật không kém thợ tiêu biểu của thế giới. Tại Hà Nội, thợ Tam Lâm quây quần thành phường, gọi là phường Hài Tượng ở tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương, rồi phát triển sang đất Tả Khanh, lập ra phố Hàng Da và tồn tại cho đến ngày nay. Các cửa hiệu lớn như Đức Mậu, Vĩnh Thái, Tú Liêu chủ hiệu đều là người Tam Lâm hoặc chuyên gia kỹ thuật.
    Thợ Tam Lâm tự hào về nghề nghiệp truyền thống của mình đã góp phần quan trọng vào đời sống xã hội và quốc phòng. Họ mong muốn có một xưởng giày hiện đại mọc lên trên quê hương mình. Niềm mơ ước ấy nay đã thành hiện thực. Tại thành phố Hải Dương đã có những xí nghiệp giầy da hiện đại được xây dựng và hoạt đông có hiệu quả. Hiện nay xuất khẩu giầy da và các mặt hàng bằng da là một mũi nhọn chủ lực của đất nước. Thành công đó có phần đóng góp của người thợ Tam Lâm.

    Giần Sàng Thị Tranh

    Giần sàng thì làng nào cũng có người đan được, nhưng đan tốt và cả làng cùng làm một nghề thì chỉ có Thị Tranh, một làng quê ở ngã ba sông Cửu Yến thuộc miền đồng bằng châu thổ, đất đai phì nhiêu, làng xã kế cận ngã ba sông, có điều kiện phát triển thương nghiệp. ở đây từng có lò gốm, chuyên sản xuất các loại chậu sành, nhưng mặt hàng nổi tiếng xưa nay vẫn là giần sàng. Nghề thủ công này gắn bó, hoà hợp với cuộc sống nông thôn đã từ nhiều thế kỷ.

    Giần sàng là hai dụng cụ gia đình bằng tre, hình tròn, đường kính xấp xỉ 50 cm đan lóng đôi, mắt vuông, có hai nan bua, vuông góc ở giữa. Giần sàng đan giống nhau, kích thước như nhau chỉ khác ở độ lớn của nan và khoảng rộng của các mắt. Chức năng chính chính của sàng là để sàng thóc đã xay, tách trấu và thóc còn sót lại ra khỏi gạo xay. Giần dùng để dần gạo đã giã, tách cám bổi và tấm ra khỏi gạo. Người Việt từ khi biết ăn và trồng lúa nước đã có nhu cầu về giần sàng, nhất là từ khi sáng tạo ra cối xay và cối giã.
    Gia đình Việt Nam xưa nay vốn đông người, một gia đình tám khẩu thì ngày ngày phải xay thóc giã gạo, nghĩa là ngày nào cũng phải dùng đến giần sàng. Tuy phải dùng đến hàng ngày nhưng rất bền, do không phải dãi dầu mưa nắng, luôn khô ráo, làm xong để trên gác bếp. Nếu đan bằng tre già, nức kỹ, có thể dụng trên 10 năm. Trước đây, ngoài chức năng chủ yếu, giần sàng nhiều khi còn được dùng như một cái mâm. Trong một số gia đình nông dân nghèo, hoặc trong những ngày ăn uống đông người ở nông thôn, người ta dùng giần sàng làm mâm. Bạn bè khi đã ăn uống với nhau trên giần sàng là đã thể hiện sự thông cảm với nhau lắm, dân gian thường nói: Yêu nhau bốc bải giần sàng là vậy. Con gái đến tuổi lấy chồng là phải tập giần sàng, đây là một tiêu chuẩn biểu thị sự khéo tay, chăm chỉ, đảm đang của con gái nông thôn. Nhiều bà mẹ rất khắt khe với con gái về công việc này. Con gái về nhà chồng thì giần sàng gạo là công việc sớm tối, hàng ngày. Công việc ấy theo đuổi đến tận cuối đời. Hình ảnh người mẹ sàng gạo bên đứa con nhỏ đã trở thành biểu tượng của hạnh phúc ở nông thôn.
    Giần sàng là thứ gia dụng không thể thiếu của gia đình nông dân Việt Nam. Năm 1983, chỉ một thôn Thị Tranh với 97 hộ, mỗi tháng đưa ra thị trường tới 3000 bộ giần sàng. Nay công nghiệp phát triển, thay thế một phần lao động thủ côngcủa người nông dân, cối xay, cối giã, giần sàng đã dần dần trở thành hiện vật bảo tàng để mãi mãi chứng minh cho nền văn minh lúa nước của người Việt trong lịch sử.

    Giường chõng tre Bùi Xá

    Giường, chõng, tràng kỷ, chạn bát, giại tre là đồ dùng phổ biến và thân thuộc của mỗi gia đình nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Đóng giường , chõng tre thì làng nào cũng có thợ, nhưng đóng đúng kiểu truyền thống và đẹp như một mặt hàng mỹ nghệ thì không nhiều, thường tập trung ở một số làng, trong đó có Bùi Xá, một trong bốn làng của xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang.

    Nghề đóng giường chõng tre của Bùi Xá có từ bao giờ không ai trả lời được, những nghệ nhân cao tuổi nhất cũng chỉ biết, khi lớn lên, đã thấy cả làng làm thợ. Thợ ở đây không có phường hội, không có khoán ước, không giữ bí mật. Mọi người học tập lẫn nhau, con nối nghiệp cha, đời này qua đời khác thành nghề cổ truyền bên cạnh nghề nông truyền thống. Một nghề không được vua quan chú ý nhưng thiết thực đối với nông thôn, thậm chí cả một bộ phận thành phố xưa, thiếu nó, làng xóm như mất đi một nét đẹp dân dã, một hệ thống đồ dùng thực dụng mà như trang trí mỹ thuật, phù hợp với sinh thái và hoàn cảnh, thiếu nó, làng xóm mất đi một làn điệu dân ca bay bổng ,đã đi vào tiềm thức, tâm hồn của dân tộc, một yếu tố xây dựng nên bản sắc văn hoá Việt Nam .
    Những người thợ ở đây hoạt động rất linh hoạt, có vốn thì mua tre về đóng các mặt hàng, mang ra chợ bán. không có thì nhận đóng theo yêu cầu của khách hàng. Vào những tháng nông nhàn, họ gồng gánh đồ nghề đến các làng nhận đóng tại chỗ. Tre thì làng nào cũng sẵn, giường chõng tràng kỷ nhà nào cũng cần, chu đáo thì đóng thêm vài cái giại dựng trước hiên, cái chạn bát kê ở đầu hè. Nhà có thợ hàng xóm đến xem, vừa ý thì đón thợ về nhà, chỉ mất tiền công, còn nguyên vật liệu chỉ có mây tre thôi, những thứ này thì hầu như nhà cũng có, thợ ra vườn vừa ý cây nào chặt cây ấy.Tre ngâm rồi đóng thì tốt hoặc đóng rồi ngâm cũng không sao. Cần nhất là tre già và đặc, vừa tầm cỡ, còn thẳng hay vẹo thì không quan trọng, thợ có mẹo sử dụng toàn bộ một cây tre, từ gốc đến ngọn, kể cả những tay tre lớn vào sản phẩm của mình một cách hợp lý và đẹp mắt với một bộ đồ nghề đơn giản và gọn nhẹ hơn nhiều so với thợ mộc .
    Sau ngày miền Bắc được giải phóng(1954), nghề đóng giường chõng tre ở Bùi Xá cực thịnh, khả năng sản xuất không đủ nhu cầu của thị trường. Giường chõng tre nếu chọn tre đạt yêu cầu, ngâm đủ chín, đóng đạt yêu cầu kỹ thuật, sử dụng hợp lý, có thể sử dụng tới 50-60 năm. Hiện nay nông thôn đã ngói hoá, nhiều gia đình xây nhà tầng , đời sống được cải thiện một bước đáng kể, do thiếu hiểu biết về văn hoá dân tộc, nhiều người sính giường ghế gỗ, kim loại, có khi rất cồng kềnh tốn kém mà phần mỹ thuật và thực dụng không hẳn đã hơn hàng tre. Không ít người đã xa lánh cái giường tre như xã lánh cái nghèo hèn truyền thống để lao vào cuộc sống xa xỉ mà quên đi nơi họ sinh ra từ chiếc giường tre giản dị, thân thuộc và bền lâu như tình làng nghĩa xóm .
    Giường chõng tre mất dần trong cuộc sống ở làng quê thì ở một số nhà hàng, khách sạn, nhà riêng của một số văn nghệ sĩ, những đồ dùng bằng tre lại được phục hồi và nâng cao như một bảo tàng dân tộc học của thời kỳ hiện đại, một nét đẹp văn hoá truyền thống được nhiều người trân trọng.

  2. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    Rượu Phú Lộc

    Rượu là một sản phẩm được con người phát hiện rất sớm và biết chưng cất cách ngày nay hàng nghìn năm và mau chóng trở thành một loại thực phẩm phổ biến toàn thế giới với hàng trăm loại khác nhau, được giới mày râu hưởng ứng và đón nhận rất nồng nhiệt.

    Theo Chiến quốc sách thì : " Bà Nghi Địch là người cất rượu tặng vua Vũ" mà vua Vũ sống ở thế kỷ thứ 21 trước công nguyên như vậy cách đây 41 thế kỷ đã có rượu ? . Từ khi có rượu, con người thường sử dụng nó một cách thái quá, tôn sùng như một mỹ vị, một vật tượng trưng cho tinh tuý trời đất, nó không còn thuần tuý là một loại nước uống có chất kích thích, dùng khai vị trong bữa ăn và dẫn liệu của ngành dược. Lúc vui cũng như lúc buồn, người ta thích uống rượu để tăng thêm sự phấn chấn, hăng hái hoặc quên đi những nỗi buồn bực cực nhọc, phiền muộn. Rượu trở thành những thứ không thể thiếu trong các buổi lễ hội của phương Đông cũng như phương Tây mà người xưa nói " Vô tửu bất thành lễ". Trong một bài phú của Châu Dương thời Hán đã viết : Rượu thì " Dân thường uống cho vui, quân tử dùng để làm lễ". ở Châu Âu, rượu vang nguyên chất được coi như máu của chúa và được dùng trong những buổi lễ của thiên chúa giáo, vì vậy gọi là rượu lễ. ở nước ta, từ nhiều thế kỷ trước, dùng rượu trong những ngày giỗ tết, đám cưới, đám tang đã trở thành tập quán và trong các buổi tế lễ ở đình làng bao giờ cũng có tiết mục dẫn rượu.
    Rượu thì làng nào cũng có thể tự sản xuất nhưng nấu khó thơm ngon, tinh khiết và trở thành một nghề của cả làng thì mỗi tỉnh cũng chỉ có một vài nơi, ở những nơi ấy thường có bài thuốc men và xử lý nguyên liệu riêng, tạo nên hương vị và chất lượng khác nhau, người sành rượu dễ phân biệt. Những loại rượu như thế thường được gọi theo tên làng sản xuất như : Rượu Vân (Bắc Ninh), Chung Xá, Lạc Đạo (Hưng Yên) , nhưng nổi tiếng xưa nay mà nhiều người đã biết, kể cả chuyên gia một số nứơc là rượu Phú Lộc.
    Phú Lộc là một xã thuộc huyện Cẩm Giàng thời phong kiến, nay là một thôn của xã Cẩm Vân có nghề nấu rượu cổ truyền. Năm 1983, Phú Lộc có 320 mẫu ruộng mà có tới 2600 khẩu. Tuy cả làng vẫn làm ruộng nhưng chỉ giữ gia bản, còn nguồn sống chủ yếu nhờ vào nấu rượu, nuôi lợn và buôn bán nhỏ. Nghề nấu rượu của Phú Lộc tuy lúc thăng lúc trầm nhưng vẫn tồn tại và phát triển trên suốt 6 thế kỷ qua.
    Rượu Phú Lộc trong suốt tinh khiết, mùi thơm, uống ngọt giọng, không xốc, nồng độ thường rất cao, trung bình 50 độ, loại đặc biệt có thể lên tới 60o,rót ra chén có bọt bám vào thành, châm lửa bắt cháy ngay, dùng ngâm thuốc rất tốt. Phú Lộc có bài thuốc men đặc biệt và nguyên liệu chủ yếu dùng gạo nếp hoa vàng nên chất lượng rượu có tiếng xưa nay và trở thành đặc sản của địa phương. Để có được đặc sản ấy, người Phú Lộc đã phải tích luỹ kinh nghiệm hàng thế kỷ và có ý thức giữ gìn danh tiếng sản phẩm của riêng mình. Rượu Phú Lộc hiện nay đang có điều kiện phát triển và có mặt trên thị trường trong và ngoài tỉnh, nhất là các cửa hàng khách sạn.

    Nghề lấy rươi ở vùng nước lợ

    Tục ăn rươi có từ rất sớm, và sành ăn nhất là người Hà Thành. Mắm rươi từ lâu đã là một đặc sản, muộn nhất cũng phải từ thời Lê trung hưng đã trở thành vật tiến cống nhà vua.

    Trong lịch sử, rươi được con người đặc biệt quan tâm, vì nó là vật giàu chất đạm vào bậc nhất, lại dễ bắt, dễ chế biến, dễ ăn. hơn hai thế kỷ trước, nhà bác học Lê Quý Đôn đã sưu tầm, nghiên cứu các sách nói về con rươi. Các sách của Trung Hoa gọi con rươi là Hoà trùng, tức con sâu lúa. Thời giặc Phiên (Ngô Tam Quế - TK XVII) đánh thuế Hoà trùng thu được hàng ngàn lạng vàng. Lê Quý Đôn nhận xét rằng, thứ Hoà trùng ấy ở nước Nam ta gọi là Thổ Hà (tôm đất ) tức con rươi. Lịch sử triều Nguyễn gọi rươi là Đại Hoà trùng. Sách sinh vật học hiện đại, xếp rươi vào họ Nereidac của lớp giun nhiều tơ(Polychaete) và cho biết, khi phân tích cơ thể rươi có 11% đạm, 3,2% mỡ, 1,1%kali, 84% nước và một số chất khác.
    Tại nước ta, rươi sống ở vành đai nước lợ, từ Thanh Hoá đến Quảng Ninh. ở Hải Dương, các huyện Kinh Môn, Kim Thành, Thanh Hà, Tứ Kỳ, trước đây rất nhiều rươi và rươi ngon có tiếng .
    Một năm có hai mùa rươi, nghĩa là hai chu kỳ sinh sản của loại động vật thân mềm này. Rươi lên vào tháng 9, tháng 10 âm lịch, gọi là rươi mùa, rươi lên vào tháng 4,tháng 5, gọi là rươi chiêm. Rươi chiêm xưa ít người ăn, sợ mùa hè dễ đầy chướng sinh bệnh. Thường thì người ta chỉ ăn rươi mùa. Rươi mùa có hai nước chính, mỗi nước kéo dài khoảng ba ngày. Tháng chín đôi mươi tháng mười mùng năm là những ngày rươi thường lên rộ. Những ngày ấy gió đông, trời ẩm, lắc rắc vài hạt mưa, gọi là mưa rươi. Nếu hai nước trên không có vì lý do thời tiết không bình thường thì những con nước sau thế nào rươi cũng lên. Rươi lên vào buổi chiều, gọi rươi hoa, chúng bơi khắp mọi nơi với đủ màu. Rươi lên ban đêm gọi là rươi xâm, đây mới là nguồn thu chính của những người đánh xăm rươi.
    Xăm rươi đóng bằng bả rươi. Bả rươi dệt bằng sợi gai thô, khổ rộng non một gang tay, khoảng 16 cm. Xăm có nhiều cỡ, lấy chồng ở tai xăm để xác định độ lớn. Về hình thức giống như cái đáy đánh cá ở sông, chồng càng nhiều xăm càng lớn. Một xăm sông đánh một đêm, gọi là được có tới 20-25 thúng rươi, trước cách mạng, có giá tương đương một con trâu. Rươi đựng bằng thúng, một thúng chứa đầy khoảng25 kg. Thúng rươi là một thứ bao bì chỉ dùng một lần và có những làng chuyên đan thúng rươi. Mỗi năm trong vành đai nước lợ của của Hải Dương trước đây có thể thu được vài nghìn thúng rươi, một nguồn thực phẩm không nhỏ.
    Một nguồn thuỷ sản nước lợ to lớn, giàu chất đạm, dễ phát triển, dễ khai thác, trở thành một đặc sản của địa phương và đất nước đã không được quan tâm bảo vệ đúng mức. Gần nửa thế kỷ qua, đồng rươi thu hẹp dần, đến nay chỉ còn vài phần trăm so với tự nhiên đã ban phát cho đất nước. Khi đắp đê chống bão lụt đã không có biện pháp đồng bộ để bảo vệ nguồn thuỷ sản, trong đó có đồng rươi. ở Hải Dương chỉ còn vành đai nước lợ nhỏ hẹp theo các triền sông của huyện Kim Môn, Kim Thành, Thanh Hà, Tứ Kỳ. Tới đây các nhà khoa học chắc chắn sẽ quan tâm đến con rươi, phục hồi nuôi thả đồng rươi, để cùng với lúa gạo, rươi sẽ là nguồn thu đáng kể và nguồn đạm động vật phục con người, đồng thời cũng là lập lại hệ sinh thái hài hoà vốn có, khi có rươi sẽ có nhiều tôm cá, có chim muông và để mãi mãi Tháng chín đôi mươi tháng mười mùng năm là ngày hội của cư dân vùng nước lợ.

    Thợ đấu Nga Hoàng

    Nga Hoàng thời phong kiến là một xã thuộc huyện Lương Tài, phủ Thuận An, đạo Kinh Bắc, thời Nguyễn là một xã thuộc tổng Bằng Quân, huyện Cẩm Giàng. Nga Hoàng là vùng đất ven sông, phần lớn là triều bãi, đến mùa mưa thường bị ngập, làng mạc chỉ còn là những đốm tre xanh chơi vơi giữa biển nước phù sa của sông Thái Bình, từ nhà nọ sang nhà kia, đều phải đi bằng thuyền.

    Ruộng phần lớn chỉ cấy một vụ chiêm. Đất thổ cư không muốn ngập lụt phải đào ao vật lên thành gò đống. Đó là nguồn gốc ra đời của nghề đào mò và rất thành thạo nghề sông nước : Bơi lội, lặn ngụp, chuyên chở bằng thuyền và chài lưới.
    Nghề thợ đấu của Nga Hoàng đã ra đời từ những thế kỷ trước. Họ đã tham gia nhiều công trình xây thành, đắp luỹ, đào sông, đắp đê, hàn khẩu, từ thời đại phong kiến như : Lấp một nhánh sông Thái Bình để bắc cầu Phú Lương vào năm 1898, Ngăn sông Ngọ Dương (Kiến An) để chống nước mặn, làm cống Văn Thai năm 1925, làm âu thuyền cầu Cất , hàn khẩu các lần vỡ đê. Sau ngày miền Bắc được giải phóng, tham gia đắp đập Cầu Xe, Bá Thuỷ, An Thổ, Neo, Lực Điền, Kênh Cầu...tham gia các đội hộ đê vào mùa mưa bão.
    Một nhóm đào mò thường có 4 người: Một người đào, một người mò đất, một người chở đất bằng thuyền, một người chuyển đất vào nơi cần đắp. Mỗi hòn đất thường nặng từ 40-50 kg. Công cụ rất đơn giản : Cần một mai đào đất hay một kéo cắt đất, một thuyền nan dài khoảng 2,5m, rộng khoảng 1,4m, trọng tải 300 kg, một tấm ván dài khoảng 3-4m dùng làm cầu trượt. Thợ Nga Hoàng có thể đào khô nhưng năng suất không cao bằng đào mò, ở mức nước thích hợp, độ sâu không quá1,2m, có thể đạt 13m3/ công. Đây là năng suất phi thường với lao động thủ công.
    Trong quá trình lịch sử, sông ở đồng bằng châu thổ, thợ đấu Nga Hoàng đã có đóng góp đáng kể vào việc đắp đê, kề sông, đào cừ, xây dựng những công trình quân sự và dân dụng. Năm 1961, Hải Dương được cờ thi đua khá nhất 5 năm liền của Hồ Chủ Tịch. Ngày 16.9.1961, tại sân vọng cung, Bác Hồ về thăm và động viên phong trào thuỷ lợi ở Hải Dương, đội thuỷ lợi của Nga Hoàng nhiều người được Bác tặng huy hiệu. Trong lúc chuyện vui Bác đề nghị nên đổi tên Nga Hoàng thành Phượng Hoàng để có thể bay cao bay xa hơn nữa.

  3. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    Chài Lưới Hạ Bì

    Cách đây nửa thế kỷ, chài lưới là nghề chính của cư dân Hạ Bì. Từ thế kỷ XVII Hạ Bì đã là một làng chài nổi tiếng, nơi ra đời của Yết Kiêu, một người có tài bơi lội phi thường, một gia thần trung thành và mẫn cán của Trần Hưng Đạo, ông tổ của binh chủng đặc công nước Việt Nam.

    Cư dân Hạ Bì có hai nghề : Chài lưới đánh bắt cá và đan lưới cung cấp cho thị trường. Hạ Bì ở tả ngạn sông Đò Đáy rất thuận tiện cho nghề chài lưới. Người Hạ Bì sống trên sông nước nơi nào thuận tiện cho chài lưới của mình thì tới , tạo thành một tập đoàn đánh cá của người cùng quê gọi là hà chài. Đến đầu thế kỷ XX, Hạ Bì đã có 9 nhà chài.
    1. Hà Cả ở tại làng Quát
    2. Hà Lại Thượng ở hạ lưu sông Đò Đáy thuộc các xã Bắc Xương, Thông Kênh, Phạm Trấn(Gia Lộc)
    3. Hà Lại Trung khu vực đò Bía
    4. Hà Vĩnh khu vực sông Ràm .
    5. Hà Kênh Trang ( thuộc khu vực Vĩnh Bảo)
    6. Hà Tăng Thịnh ( nt )
    7. Hà An Bài( Cầu Nghìn, Thái Bình)
    8. Hà Kênh Tre, thành phố Hải Dương
    9. Hà Tán Võng( Trùng Khánh- Gia lộc ) .
    Những Hà trên lại phát triển thành những hà phụ nhỏ hơn như : An Vệ, Đáy Hống, Đáy Gồm, Tân Thành, Song Động...
    Dân chài Hạ Bì đi đánh cá khắp nơi, mỗi khi lên bờ phơi lưới, nghỉ ngơi, mua bán, thường bị bọn hào lý sách nhiễu. Sau kháng chiến chống Nguyên, Yết Kiêu đã xin trièu đình cho mỗi hộ chia ba thước đất (72m2) để phơi chài lưới. Ân huệ đó tồn tại đến thời Nguyễn.
    Ngư dân Hạ Bì đi đến đâu, ngụ trên sông nước ở đó, cuộc sống phiêu bạt quanh năm, mọi sinh hoạt đều ở trên thuyền, ở quê cũng không có nhà cửa. Tuy vậy, hộ khẩu vẫn do làng quản lý. Hằng năm vào dịp giỗ, tết, họ vẫn chèo thuyền về quê. Khi có người quá cố cũng phải mang về làng chôn cất. Mặc dầu mỗi năm chỉ về làng hai ba lần nhưng ngôi thứ, luật lệ vẫn phải theo làng. Từ sau cải cách ruộng đất, các gia đình ngư dân đều có ruộng, việc đánh bắt cá tự nhiên ngày càng cạn dần, vì thế ngư dân bỏ nghề sông nước sang làm ruộng.
    Nghề chài lưới Hạ Bì khá phát triển vào những thập niên đầu thế kỷ XX. Ngoài những người đi đánh bắt cá số còn lại ở làng đều tham gia nghề đan chài lưới. Từ sáng sớm làng xóm đã vang tiếng xa quay, đường làng sợi dăng ngang dọc, cách đây 30 năm nguyên liệu đan chài lưới chủ yếu bằng tơ và gai, nay hầu hết dùng sợi nilong. Sản phẩm của Hạ Bì gồm : Đáy, chài, lưới túi, lưới đồng, lưới mè... Đến những năm 80 của thế kỷ trước, nghề đan chài lưới của Hạ Bì đã thu hẹp dần, vì nguồn thuỷ sản của thiên nhiên đã cạn kiệt, hậu quả của việc đánh bắt không đi đôi với bảo vệ môi trường. Ngư dân chuyển lên bờ làm ruộng là việc đương nhiên.



    Cân Bái Dương

    Thời Hậu Lê, Bái Dương là một xã tam thôn: Bái Dương, Mậu Thìn, An Thái. Từ sau Cách mạng tháng Tám, Bái Dương là một thôn của xã Lương Điền, huyện Cẩm Giàng. Bái Dương thuộc vùng đất cổ, bên đường thượng kinh của xứ Đông xưa, tiện đường thuỷ, có thể đi khắp miền châu thổ dễ dàng.

    Nghề làm cân có từ thời Hậu Lê, bắt đầu ở thôn An Thái, sau chuyển về thôn Bái Dương. Nghề phát đạt nhất vào thời Nguyễn. Họ là nhưng người tham gia lập nên phố Hàng Cân ở Hà Nội. Khi Pháp xâm lược, nghề làm cân cổ truyền suy giảm dần. Cân theo kiểu tây chiếm lĩnh thị trường, hơn nữa , việc cân, đong, đo, đếm nhà nước quản lý, không thể sản xuất tự do.
    Mặt hàng cân của Bái Dương gồm có:
    Cân tạ: Dọc cân làm bằng gỗ lim, có hai mặt. Mặt tạ chia nhỏ thành từng yến để cân các vật nặng. Mặt yến chia nhỏ đến từng cân.
    Cân yến: Tương tự như cân tạ nhưng mặt yến chia đến cân, mặt cân chia đến lạng.
    Cân đĩa: Loại cân này chỉ cân những vật nặng một yến trở xuống. Cân như một đôi quang gánh, hai đầu có hai cái đĩa, một cái đựng quả cân, một cái để vật cần cân, trục thăng bằng ở chính giữa.
    Cân tiểu ly, về hình thức tương tự như cân yến, cân tạ, nhưng rất nhỏ, dùng để cân các vật nhỏ, quý hiếm như: Vàng, bạc, kim cương, ngọc trai...Dọc cân thường làm bằng gỗ mun, ngà voi, xương trâu bò. Các hoa cân thường nạm bạc. Quả cân ban đầu dùng đá cuội, tiến bộ hơn thì làm bằng đồng hoặc gang đúc. Đơn vị trọng lượng của ta ngày xưa khác cân tây. 1 tạ bằng 10 yến, 1 yến bằng 10 cân, 1 cân bằng 16 lạng, 1 lạng bằng 10 đồng cân, 1 đồng cân bằng10 lai, 1 lai bằng 10 ly...Một tạ ta bằng 60,4kg. Hiện nay hệ thống đo lường này chỉ được sử dụng trong việc mua bán vàng bạc, đá quý và thuốc nam, thuốc bắc, còn thị trường nói chung sử dụng hệ cân đong đo đếm của phương tây đã quốc tế hoá. Cân Bái Dương hiện nay không còn thị trường hay đúng hơn là thị trường rất hẹp, nghệ nhân còn nhưng sản xuất thì hoàn toàn đình trệ.

    Thúng Đan Giáp

    Thúng là đồ đựng cổ truyền của người Việt. Trong xây dựng, thúng dùng để đội sỏi cát, đá...Trong một số nghề thúng được dùng như một loại bao bì như: Thúng đựng rươi, đựng cá, đựng muối...Cùng với bồ, thúng còn được dùng phổ biến trong nghề buôn chuyến, nhất là ở các chợ quê.

    Lại có loại thúng sơn để gánh nước hoặc bán cá giống. Cao cấp hơn, thúng được đan óng chuốt, sơn hoặc nhuộm mầu, có nắp đậy để đựng đồ tư trang của các bà các cô giầu có thuở xưa. Hiện nay, tuy có nhiều đồ đựng cao cấp, nhưng thúng cổ truyền vẫn được dùng phổ biến trong dân gian và thúng cao cấp vẫn được bày bán trong các cửa hàng mỹ nghệ tại những thành phố lớn. Thúng có nhiều cỡ, nhiều loại như: Thúng cái, thúng nhì, thúng ba, thúng con, thúng khảo ...
    Đan và cạp thúng không dễ, và không phải làng xã nào cũng có truyền thống, mà mỗi tỉnh chỉ tập trung ở một số làng. Trong số những làng có nghề đan thúng cổ truyền, đan Giáp là làng có truyền thống lâu đời, sản xuất đại trà, nay vẫn duy trì và phát triển.
    Đan Giáp thời phong kiến là một xã, từ năm 1955 là một thôn thuộc xã Thanh Giang, huyện Thanh Miện. đây là quê hương danh tướng Vũ Văn Dũng của nghĩa quân Tây Sơn. Năm 1991, Đan Giáp có 450 hộ thì có tới 400 hộ đan thúng. Trung bình mỗi hộ có thể đan 3 đôi thúng một ngày, như vậy mỗi tháng nông nhàn có thể đưa ra thị trường 36.000 đôi thúng các loại. Đan Giáp sản xuất hai loại thúng: thúng cái đựng được 20 kg thóc, thúng con đựng khoảng 15kg; đan bằng tre goá, theo lóng ba(cất ba đè ba) và lóng nia( cất 4, đè 3, cất 2; dân gian thường nói là cất tứ cất nhì thù thì đè ba). Thúng dù đan theo kiểu gì thì trên thị trường dân gian vẫn có thể nhận được đặc điểm của từng làng nghề.
    Hiện nay các loại bao đay và nilông phát triển, cạnh tranh với thúng trên một số lĩnh vực, nhưng không thể thay thế hoàn toàn chức năng của thúng trong đời sống nông thôn Việt Nam, vì thế nghề đan thúng của Đan Giáp vẫn tồn tại và đứng vững trên thị trường, như câu ca dao vẫn lưu truyền:
    Đồng Lại bánh đúc gạo xay,
    Trở về Đan Giáp ta quẩy nghề đan.
    Vũ Xá chẻ nứa đan vàng,
    Ba làng ba việc cơ hàn không lo.(1)

    Dậm Phương Diệm

    Người Việt từ xa xưa đã có nhiều hình thức đánh bắt tôm, cá như : chài, lưới, vó, đơm, đăng, chắn...Nhưng có một cách đánh đơn giản, phổ biến và hiệu quả, đó là đánh dậm. Làm ra những công cụ này có những làng chuyên nghiệp: Chài lưới Hạ Bì, vó gai Đỗ Thượng, lờ đó Thủ Sĩ, còn Phương Diệm chuyên sản xuất ra chiếc dậm cổ truyền. Dậm là một ngư cụ độc đáo của các nước Đông Nam á, Việt Nam là nước sử dụng nhiều nhất.

    Thời phong kiến, Văn Diệm là một thôn thuộc xã Văn Lý, từ năm 1956, là một thôn của xã Hưng Thái, huyện Ninh Giang. Nghề đan dậm ở đây có từ bao giờ không tài liệu nào ghi được, chỉ biết cách đây trên một thế kỷ đã là một làng đan đậm. Năm 1991, thôn có trên 300 hộ thì có tới trên 90% tham gia nghề cổ truyền này. Trước năm 1963, dậm được đan bằng tre goá. Từ khi dân làng đi khai hoang ở Hà Bắc đã phát hiện một loại vật liệu mới rất phù hợp với việc đan đậm, đó là cây dùng, một loại tre dóng dài, dễ chẻ lan, lại dẻo và dai. Từ đó đến nay, tre dùng đã thay tre goá, người đầu tiên thay thế nguyên liệu này là ông Phạm Văn Khánh. Chất lượng của dậm phụ thuộc nhiều vào nan. Nan đều và dẻo thì dậm bền và đẹp. Đan dâm rất đơn giản, thực hiện theo lóng đôi, cất hai đè hai, nhịp sau tiến lên một nan. Dậm lớn mất 500 nan, dậm nhỏ khoảng 420 nan. Thợ đan giỏi một ngày có thể được 3 mê, bình thường chỉ đạt được một mê. Tuy là một cái dậm đơn giản những cũng có sự phân công lao động chuyên sâu, tuy cả làng đan dậm nhưng chỉ có vài gia đình chuyên đánh cạp. Dậm rất cồng kềnh không thể bán dậm cạp sẵn như một số ngư cụ khác. Người ta mang mê và cạp ra chợ bán, người mua có thể tự cạp lấy hoặc nhờ người bán lên cạp giúp, việc nức và tra cán do người mua phải làm. Dậm Phương Diệm chủ yếu bán buôn, tại làng, ít khi bán lẻ. Đan dậm là một nghề phụ của Phương Diệm nhưng mang lại nguồn thu đáng kể cho dân làng.
    Dậm là một dụng cụ đánh bắt thuỷ sản thô sơ, cổ truyền, phù hợp với cuộc sống thôn dã. Đánh dậm là một thú vui của thiếu niên nông thôn. Hiện nay nền nông nghiệp của đất nước đang phát triển, từng bước công nghiệp hoá, đồng ruộng được quy hoạch, mặt nước cũng được khoanh vùng nuôi thả thuỷ sản, diện tích đánh dậm tự do giảm dần, nhu cầu về dậm có giảm nhưng vần còn, vì vậy làng nghề Phương Diệm vẫn được duy trì.

  4. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    Bánh gai Ninh Giang

    Bánh gai Ninh Giang từ đầu thế kỷ trước đã là một đặc sản nổi tiếng của Hải Dương, nay đang là một mặt hàng ăn khách.

    Thị trấn Ninh Giang từng là một trung tâm thương nghiệp phồn thịnh ở đầu TK XX, nơi buôn bán thóc gạo và các loại nông sản nổi tiếng ở đồng bằng Bắc bộ. Thị trấn Ninh Giang từng là trị sở của phủ Hạ Hồng thời Lê Sơ, thời kỳ Pháp xâm lược là thị xã; trong kháng chiến chống Pháp, năm 1952, là tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh Linh ; sau ngày niềm Bắc được giải phóng bị hạ cấp thành thị xã. Bánh gai Ninh Giang ra đời từ nhiều thế kỷ, lý giải sự ra đời của loại bành này có nhiều truyền thuyết khác nhau. Dưới đây là một trong những truyền thuyết ấy. Từ thời Trần, làng Hạ Bì đã có nghề chài lưới rất phát đạt. Nghề chài lười thường đi liền với nghề đan lưới. Lưới xưa chủ yếu đan bằng sợi gai. Gai buổi đầu khai thác từ thiên nhiên, sau phải trồng mới thoả mãn nhu cầu sử dụng. Trên con đường chài lưới, họ trú ngụ ở ngã ba sông Tranh, gần trấn lỵ Ninh Giang. Vào một năm mất mùa, mọi thứ rau, quả thường dùng đã kiệt, họ đem lá gai nấu với cơm, kết quả không ngờ, cơm lá gai ăn thơm và ngon. Từ nấu cơm, họ làm thành bánh, qua nhiều năm cải tiến, thành một đặc sản mang tên nơi phát sinh ra nó. đến nay cả nước cũng chỉ có một Ninh Giang có loại bánh đặc biệt này.
    Thành phần của bánh gai Ninh Giang hiện nay gồm: Gạo nếp, Lá gai, đỗ xanh, đường kính, cùi dừa già, mỡ khổ, vừng, hạt sen, bí đao. Bánh gói bằng lá chuối khô. Làm bánh có 3 công đoạn: Làm quả, làm nhân, gói và hấp bánh. Hiện nay tại quê chỉ có khoảng 10 gia đình làm bánh, còn phần lớn đã chuyển ra thành phố Hải Dương hành nghề. Năm 1994, có 25 đơn vị và gia đình đăng ký kinh doanh bánh gai như Vĩnh Thịnh, Bảo Ngọc, Liên Hương...Bánh gai Ninh Giang nay đang là thời kỳ phồn thịnh.

    Bún Đông Cận

    Bún là món ăn chế biến từ gạo, món ăn cổ truyền quen thuộc của người Việt Nam. Từ xa xưa trong các chợ quê hay chợ tỉnh thành bao giờ cũng có hàng bún. Bún không chỉ là một thứ quà sáng mà còn được sử dụng như một thức ăn chính thay cơm trong những ngày mùa màng ở nông thôn và những tiệc chiêu đãi ở thành phố. Bún mềm và có men chua kích thích tiêu hoá. Vì vậy, khi lao động mệt nhọc, người ta thích ăn bún hơn ăn cơm.

    Bún có nhiều cách ăn : bún với mắm tôm chua, bún vịt, bún gà, bún sườn, bún thịt chó, bún riêu cua, nổi tiếng nhất là bún thang phố Hiến, bún riêu lác bạc Thanh Hà. Tuy là món ăn dân dã, nhưng chất lượng cao và hương vi khó quên.
    Làm bún là nghề tuy không khó khăn lắm nhưng không phải nhà nào cũng làm được và có truyền thống. ở Hải Dương có nhiều nơi sản xuất bún nhưng tập trung và nổi tiếng nhất là ở Đông Cận. ở đây có tới 95% gia đình biết làm bún và sản xuất thường xuyên. Có thể nói : Đông Cận là làng bún cổ truyền. Ngoài làng bún Đông Cận còn có làng bún Làng Rào (Nam Sách), Xuân Nẻo(Tứ Kỳ), Đông Hào (Ninh Giang).
    Đông Cận nguyên là Đông trang thời Lê sơ, cuối thế kỷ XVIII, đổi thành xã Đông Cận. Thời phong kiến, Đông Cận là một xã, sau Cách mạng tháng Tám, là một thôn của xã Tân Tiến, huyện Gia Lộc.
    Nghề làm bún rất đơn giản, vài ba cái vại to (50 lít) cối giã gạo, khuôn, dây lọc bột, túi lọc, mâm, thúng đựng bún, chén (đĩa)vắt con bún. Kỹ thuật làm bún cũng không khó lắm, muốn có bún ngon phải từ nguyên liệu, cách lọc, pha chế.
    Nguyên liệu làm bún là gạo, nhất là gạo để lâu, dân gian gọi là gạo kho thì dễ làm. Trung bình 1 kg gạo được 2 kg bún. Ngày xưa bún bán theo con, như cái vẩy ốc. Con bún hay lá bún được vắt trên một đĩa nhỏ, người làm bún gọi là cái chén. Con bún được xếp vào thúng, lót lá chuối tươi, gánh đi chợ bán lẻ. Bún ngon nhất là ăn với mắm tôm hoặc riêu cua, riêu cá như bán bánh đúc. Vào vụ gặt, người ta đổi bún lấy thóc thường rất chạy.
    Hiện nay thị trường bún rộng mở, bún không chỉ theo các cô gái đi chợ gần như xưa mà còn lên xe, theo các chàng trai đến các chợ thị trấn, thị tứ xa vài chục cây số, thị trường lớn nhất của bún Đông Cận là thành phố Hải Dương. Chưa bao giờ nghề làm bún của Đông Cận lại phát triển như hiện nay. Có tới 95% gia đình làm bún, mỗi ngày đưa ra thị trường hàng chục tấn bún. Nghề làm bún kéo theo nghề nuôi lợn, người ta lãi ở nghề làm bún một phần, còn phần không nhỏ ở nghề nuôi lợn. Khi đời sống của nhân dân được nâng cao thì nhu cầu về bún càng lớn ,do ăn bún rẻ lại dễ tiêu hoá, hợp khẩu vị nhiều người và tiện lợi. Điều quan tâm của nghề này là vệ sinh trong từng công đoạn, nhất là khi ngâm nước lạnh và khi bún ở thị trường.

    Bánh Đa Kẻ Sặt

    Ở Hải Dương hầu như ở huyện nào cũng có người làm bánh đa nhưng chỉ là bánh đa nấu và nướng thông thường. Riêng có Kẻ Sặt có loại bánh đa nổi tiếng trở thành một loại đặc sản như bánh gai Ninh Giang, bánh đậu xanh Hải Dương.

    Kẻ Sặt thời phong kiến là một xã thuộc tổng Thị Tranh. Kẻ Sặt là tên nôm của làng Tráng Liệt. Năm 1958, tách một phần xã Tráng Liệt, lập thị trấn Kẻ Sặt.
    Bánh đa Kẻ Sặt là loại bánh đa ngọt, bánh đa cao cấp, thành phần nguyên liệu gồm : Gạo tẻ loại tốt, vừng loại tốt, trước đây thường mua loại vừng ở miền núi, hạt mẩy và nhỏ, chỉ bằng 1/3 hạt vừng đồng bằng, nhưng chất lượng cao. Đường kính hoặc đường cát tinh khiết. Lạc chọn loại già, mẩy, nhân to. Dừa loại già, cùi dầy. Gừng tươi loại già. Bánh đa được làm theo tỉ lệ nguyên liệu : Gạo 10, đường 4, vừng 1, lạc và dừa 1,5 và vài lát gừng giã nhỏ làm gia vị.
    Bánh đa Kẻ Sặt đầu thế kỷ XX rất nổi tiếng và ăn khách, người ta không chỉ bán tại quê mà còn bán buôn đi nhiều thành phố, thị xã. Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, ngghề làm bánh đa ngọt sa sút. Sau hoà bình lập lại, 80% dân Kẻ Sặt di cư vào Nam , vì đây là dân công giáo toàn tòng. Đến năm 1991, bên cạnh nghề nông có tới 30% số hộ làm nghề buôn bán và tiểu thủ công nghiệp. bánh đa ngọt chưa tìm được thị trường nên chỉ có 4 gia đình làm bánh bằng 2% số hộ hiện có. Hiện nay, đời sống của nhân dân đã được cải thiện, khách sạn, nhà hàng phát triển nếu tiếp thị tốt và cải tiến về mặt sản xuất, bánh đa Kẻ Sặt hoàn toàn có cơ hội phục hồi và phát triển như bánh đậu, bánh gai.

    Bánh Đậu xanh Hải Dương



    Biết chế biến ra các món ăn tinh khiết hợp khẩu vị là một phương diện văn hoá, hơn thế nữa còn là biểu hiện văn minh của mỗi địa phương, mỗi dân tộc. Hiện nay báo ảnh nhiều nước thường dành một trang in mầu trang trọng giới thiệu các món ăn tiêu biểu của dân tộc mình. ở nước ta, tục chế biến các món ăn truyền thống hình thành từ rất sớm, nhất là các loại bánh.

    Truyền thuyết cho hay, tục làm bánh chưng, bánh dày đã có từ thời Hùng Vương. Chế biến các loại bánh từ lâu đã trở thành nghề nghiệp cuả nhiều gia đình trong từng địa phương. Trong số đặc sản của tỉnh Đông xưa phải kể đến bánh đậu xanh của thành phố Hải Dương. Nguyên liệu để chế biến nên loại bánh này không phải khai thác từ đâu xa mà lấy ngay từ hoa mầu của đồng nội, hương vị của vườn quê. Thành phần của bánh cũng đơn giản : Đậu xanh, đường kết tinh, mỡ lợn, tinh dầu của hoa bưởi. Những nguyên liệu này đều phải chọn lọc chế biến tinh khiết. Bốn nguyên liệu trên pha trộn với nhau theo một tỉ lệ hợp lý, vượt tỉ lệ đó bánh sẽ kém chất lượng. Giấy gói bánh, mầu sắc của nhãn phải nghiên cứu để bánh giữ được lâu và tôn vẻ đẹp của bánh : Bánh từ lâu đã được đóng theo quy ổn định : 10 khẩu mỏng xếp 5 hàng (8,5 x 3,2 x1,1cm) nặng 45 gam, gần đây đã có những cải tiến, nhưng quy cách của khẩu không thay đổi. Bánh đậu xanh Hải Dương ra đời tại thị xã Hải Dương vào đầu thế kỷ 20, nổi tiếng có hiệu Bảo Hiên, Cự Hương, Mai Phương. Mai Hoa.... Bánh đậu xanh Hải Dương nhãn hiệu rồng vàng đã có mặt ở hầu hết các tỉnh Bắc kỳ bốn lần tham gia hội chợ đều được giải. Người Hải Dương xa nhà nhìn thấy bánh đậu xanh như nhìn thấy quê hương, lòng rạo rực nhớ quê. Khách muôn phương thấy bánh đậu xanh lại nhớ lại một thành phố nhỏ êm đềm, cư dân thuần hậu, giữa đồng bằng châu thổnơi ấy có đường sắt, đường bộ, đường thuỷ đi qua. Những người luống tuổi hôm nay vẫn còn trong ký ức hình ảnh và hương vị bánh đậu xanh Bảo Hiên và Cự Hương xưa: Chủ hiệu Bảo Hiên là bà Nguyễn Thị Nhung, mở hàng làm bánh từ đầu thế kỷ khoảng năm 1922, khi tuổi còn đôi mươi. Làm bánh đậu là nghề bà được thừa kế gia đình từ thủa nhỏ . Tuy chồng mất sớm để lại một đàn con nhỏ. Bà Nhung vẫn đảm đương một cửa hiệu có trên 30 thợ, làm việc một ngày 2 kíp, sản xuất hàng tạ bánh mỗi ca. Buôn bán lấy lòng tin làm đầu. Sáng sáng hàng chục khách đến nhận hàng, chỉ cần ghi số lượng, chiều tối hoặc ngày sau thanh toán. Khi bánh mất phẩm chất bị huỷ ngay để giữ gìn tín nhiệm. Nguyên liệu mỗi lần nhận hàng toa tầu đường kính kết tinh loại tốt từ Tuy Hoà ra, từng thuyền lớn chở đậu xanh từ Lục Nam xuống và hàng tạ mỡ khổ từ lò mổ chở tới. Tinh dầu hoa bưởi thì nhà tự chưng cất lấy.Cửa hiệu tấp nập hoạt động nhịp nhàng suốt ngày đêm. Mọi việc từ kỹ thuật, giao dịch quản lý, kế toán, điều hành công nhân.. chỉ có một phụ nữ với một quyển sổ, một bàn tính cùng đàn con líu ríu bên mình.Với bàn tay tài hoa và khối óc năng động ấy, bánh đậu xanh Hải Dương nổi tiếng, rồi trở thành đặc sản và hiệu Bảo Hiên Rồng Vàng trở thành một hiệu lớn của tỉnh Đông.
    Cùng với Bảo Hiên, bánh đậu xanh Cự Hương cũng rất nổi tiếng về chất lượng tuy sản lượng không lớn. Cự Hương có hai loại bánh : bánh ướt và bánh khô chất lượng đều cao. Bánh Cự Hương đã từng sản xuất tại Hà Nội, nhưng khi xa đất mẹ bánh đậu thật khó phát huy. Kháng chiến bùng nổ, rồi chiến tranh kéo dài, thị trường bánh đậu bị thu hẹp dần. Hoà bình lập lại bánh đậu xanh Rồng Vàng vào tổ chức sản xuất công tư hợp doanh rồi tiến lên quốc doanh. Qua nhiều năm tồn tại bánh đậu xanh không thiếu trên thị trường, trong đó có nhiều loại bánh kém phẩm chất với những nhãn hiệu và giấy bao gói khác nhau, tiếng tăm và hương vị của nó chỉ còn trong ký ức .
    Từ năm 1986, đất nước có nhiều đổi mới, một nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần được quan tâm và thừa nhận. Nền kinh tế quốc gia như nắng ấm đầu xuân tạo cho trăm hoa đua nở. Trong bối cảnh ấy, bánh đậu xanh Hải Dương được phục hồi và phát triển. Người tiên phong trong mặt hàng này là ông Đoàn Văn Đạt, nguyên một quân nhân về mất sức, học hành có hạn, ông từng trải làm nghề thợ mộc, nuôi lợn, làm bánh quy bằng bột sắn, tuy gian nan nhưng đều thành công.
    Hiện nay trên địa bàn thành phố Hải Dương có trên 50 nhà hàng bánh đậu xanh, trong đó có những nhà hàng nổi tiếng như : Bảo Hiên, Nguyên Hương, Bảo Long, Bá Tiến, Hoà An, Minh Ngọc, Quê Hương...
    Trên đây chưa kể những cơ sở sản xuất theo thời vụ, sản xuất mà chưa đăng ký hoặc có chi nhánh ở các thành phố lớn trong nước. Dọc các phố lớn trong thành phố Hải Dương và nhất là dọc tuyến đường cao tốc Hà Nội- Hải Phòng qua thành phố Hải Dương, bánh đậu bày bán đầy ắp các của hàng. Nhiều thế nhưng không ế. Trong một năm mùa xuân và mùa đông hàng bán chạy hơn cả. Nhất là vào dịp tết, những nhà hàng nổi tiếng thường không đủ bánh bán.
    Thành phần của bánh đến nay chưa có gì thay đổi, nhưng công cụ sản xuất và vệ sinh công nghiệp, bao nhãn và phương pháp quảng cáo đã đạt trình độ cao, điển hình là nhà hàng Nguyên Hương, qua kiểm nghiệm của cơ quan có trách nhiệm, xác định, nếu bánh làm tốt, có thể sử dụng được trên 100 ngày, đây là điều kiện để bánh đậu mở rộng thị trường.
    Chiếc bánh đậu xanh nhỏ bé, giản dị nhưng đã mang tiếng thơm của tỉnh Đông đến muôn nơi và mang về cho quê hương một nguồn thu không nhỏ. Hiện nay đã có một số nhà hàng doanh thu trên 10 tỷ một năm.

  5. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    Danh mục làng nghề cổ truyền



    1- Chạm khắc đá Kính Chủ Huyện Kinh Môn
    2- Khắc ván in Hồng Lục- Liễu Tràng Gia Lộc
    3- Chạm khắc gỗ Đông Giao Cẩm Giàng
    4- Đũi Thông Thanh Miện
    5- Chỉ Phú Khê Bình Giang
    6- Lược Vạc Bình Giang
    7- Từ nón Ma Lôi đến nón Mao Điền Cẩm Giàng
    8- Bột lọc Quý Dương Cẩm Giàng
    9- Lò vịt Đông Phan. Thanh Hà
    10- Gốm Quao Nam Sách
    11- Gốm Chu Đậu Nam Sách
    12- Gốm Cậy Bình Giang
    13- Vàng Bạc Châu Khê Bình Giang
    14- Thêu Xuân Nẻo Tứ Kỳ
    15- Thợ làm đình Cúc Bồ Ninh Giang
    16- Nhuộn Đan Loan Bình Giang
    17- Lược sừng - đồi mồi Hà Xá Bình Giang
    18- Chiếu Tiên Kiều Thanh Hà
    19- Giầy dép da Tam Lâm Gia Lộc
    20- Giần sàng Thị Tranh Bình Giang
    21- Giường chõng tre Bùi Xá Bình Giang
    22- Rượu Phú Lộc Cẩm Giàng
    23- Nghề lấy rươi vùng nước lợ
    24- Thợ đấu Nga Hong Cẩm Giàng
    25- Chài lưới Hạ Bì Gia Lộc
    26- Cân Bái Dương Cẩm Giàng
    27- Thúng Đan Giáp Thanh Miện
    28- Bánh gai Ninh Giang Ninh Giang
    29- Dậm Phương Diệm Thanh Miện
    30- Bún Đông Cận Gia Lộc
    31- Bánh đa Kẻ Sặt Bình Giang
    32- Bánh đậu xanh Hải Dương TP Hải Dương

    Lược Vạc

    Trong các ô hàng xén ở chở tỉnh cũng như ở chợ quê người ta vẫn thấy khuông ô lược, trong đó có loại lược tre nẹp sơn then, răng nhỏ, liền xít bằng cật tre lành hanh, hom làm bằng xương trắng bóng. Đó là lược của một làng duy nhất của đất nước làm ra, đó là làng Vạc. Vạc là tên nôm của làng Hoạch Trạch, thời Hậu Lê là một xã thuộc huyện Đường An nay là một làng thuộc xã Thái Học, huyện Bình Giang.

    Nghề làm lược tre ở vùng này có từ TK XVII do tiến sĩ Nhữ Đình Hiền cùng vợ là Lý Thị Hiệu trong một lần đi sứ Trung quốc đã học được nghề làm lược tre về lập nên làng nghề, sau khi qua đời được tôn làm ông Tổ của nghề lược Hoạch Trạch. Hơn ba thế kỷ, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn, dân làng chưa bao giờ bỏ nghề lược như nghề nông cổ truyền của mình vậy .
    Nguyên liệu làm lược gồm 5 loại :
    Tre làm răng là cật tre lành hanh một loại tre rừng lớn gần bằng tre gai, mỏng mình nhưng dầy cật, không nhỏ như giang nhưng không giòn như nứa, cứng vừa phải, chải tóc không gẫy mà vẫn ăn da đầu. Nẹp bằng tre vầu sơn bằng sơn ta. Chỉ ken bằng sợi bông, do làng Phú Khê sản xuất. Hom răng lược ngoài cùng bằng xương trâu do làng Chằm (Mộ Trạch) sản xuất. Sản phẩm chính của lược Vạc là lược bí dùng để chải gầu và chấy.
    Năm 1983, làng Vạc có 650 hộ tham gia sản xuất lược, chiếm 95% số hộ của làng, mỗi năm sản xuất trên 6 triệu lược các loại. Hiện nay nghề làm lược ở đây vẫn ổn định tuy thu nhập không cao.


    Hội hát trống quân Tào Khê- Đào Xá

    Đào Xá nguyên là một làng của tổng Ngọc Cục, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương, cuối TK XIX, cắt chuyển về huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Đào Xá ở hữu ngạn sông Cửu Yên êm đềm, lắng đọng nhiều truyền thuyết, vang vọng những bài ca dân gian. Đối ngạn là làng Tào Khê của huyện Đường An, phía bắc giáp làng Phù ủng, quê hương danh tướng Phạm Ngũ Lão.

    Truyền thuyết kể rằng, ngày xưa Đào Xá mở hội, dân làng đón một gánh chèo về hát ở sân đình. Khi vào hát, mới có hai nhân vật ra giáo đầu đã lăn ra, "chết ngay", các cụ cho là "Thánh vật", từ đó hội làng chỉ mời các cặp hát ca trù của Tào Khê. Có lẽ từ đó mà hai làng có mối quan hệ mật thiết. Theo sự tích làng Tào Khê, vào thời Trịnh Sâm, có một bà phi tên là Nguyễn Thị Mỹ, con gái cụ Nguyễn Danh Quán, người làng Tào Khê, hát hay đứng đầu các ca công trong phủ chúa, chuyên dậy các cung nữ hát ca trù,được chúa ban ân tứ cho thu tiền hát xướng cửa đình của trấn Hải Dương. Năm 1780, bà qua đời, linh cữu được chuyển về quê, nơi mai táng sau này trở thành vùng đất cấm, cây cối um tùm như rừng, dân gian gọi là Mưỡu Tào. Tào Khê xưa nay nổi tiếng về hát ca trù và trống quân, thời nào cũng có nghệ nhân xuất sắc.
    Hằng năm, cứ vào dịp trung thu, Tào Khê và Đào Xá lại mở hội hát trống quân qua sông Cửu Yên từ chập tối cho đến quá nửa đêm, kéo dài suốt tuần trăng. Người đến xem và nghe hát chật hai bờ sông, phải kể đến con số hàng nghìn, đủ mọi tầng lớp. Đông nhất vào 9 - 10 giờ đêm. Bề rộng của sông Cửu Yên chỉ xấp xỉ 30m, rất phù hợp cho lối hát đối qua sông. Tào Khê và Đào Xá là hai làng quê giữa một vùng văn hiến, quê hương của nhiều nhân tài xuất chúng, trong đó có thơ văn (1). Những bài ca đối đáp có các loại: Hát chào, hát mời, hát gọi, hát đố, hát yêu đương, hát ca ngợi quê hương. Hát trống quân là loại hát đối đáp, là một bộ phận của hát đúm, nam hát với nữ, những lứa tuổi ngang nhau hát với nhau, người ta chia ra từng nhóm, mỗi nhóm cử vài người có giọng tốt để hát, còn lại tập trung sáng tác để kịp thời đối đáp với đối phương. Thông thường mỗi nhóm có một hai người có khả năng sáng tác, thuộc Truyện Kiều, ca dao và những truyện nôm khuyết danh để vận vào mà sáng tác. Khi vào cuộc chơi, người ta thường giao ước với nhau qua lời hát giáo đầu, tránh dùng những lời thô tục hoặc sống sượng như:
    Trống quân trống quýt trống còi,
    Ta không lấy nó, nó đòi lấy ta.
    Mà người ta thường mở đầu bằng câu:
    Tháng tám anh đi chơi xuân,
    Đồn đây có hội trống quân anh vào.
    ---------------------------
    1). Đào Xá là quê hương giáo sư Phạm Huy Thông, một nhà khoa học tài danh, một nhà thơ nổi tiếng đầu TK XX. Tào Khê nay thuộc xã Thúc Kháng, quê hương của nhiều vị đại khoa và tác gia nổi tiếng như Phạm Quý Thích, Vũ Tông Phan, Phạm Quỳnh,...

    Lễ hội ở xứ đạo Kẻ Sặt

    Làng Tráng Liệt nôm gọi là Kẻ Sặt, TK XVI thuộc huyện Đường An, phủ Thượng Hồng , trấn Hải Dương, nay thuộc thị trấn Kẻ Sặt , huyện Bình Giang. Theo lịch sử Thiên chúa giáo, cha cố đầu tiên đến đấy truyền đạo vào năm 1523. Số người theo đạo Thiên chúa ở đây phát triển khá nhanh nên đến năm 1630 đã lập thành giáo xứ Kẻ Sặt.

    Hiện nay, giáo xứ Kẻ Sặt thuộc địa phận huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương. Kẻ Sặt lại nằm giữa hai địa phận Hà Nội, Bắc Ninh nên giáo dân ở Hưng Yên, Bắc Ninh, Hà Nội đều có thể về Sặt dự lễ hội, tạo cho lễ hội nơi đây đông vui vào bậc nhất vùng tả ngạn sông Hồng.
    Xứ đạo Kẻ Sặt cũng như những xứ đạo khác, công tác tổ chức bao giờ cũng chặt chẽ và cụ thể. Đứng đầu giáo xứ là Cha cả, dưới Cha cả có Trùm cả, dưới Trùm cả có ông Trương bà Trương phụ trách từng việc. Để giúp cha xứ hành đạo còn có Ban hành giáo. Giáo dân các khu được tổ chức như sau:
    Hội tràng hạt, tập hợp giáo dân từ 35 tuổi trở lên.
    Hội chân kiệu, mỗi khu một hội.
    Hội nghĩa binh, làm nhiệm vụ an ninh.
    Hội phường trống: Nam từ 11-15 tuổi
    Hội ca đoàn: Làm nhiệm vụ ca hát, tuổi từ 18-30
    Hội kim nhạc: Phụ trách về lễ nhạc, nhạc cụ chủ yếu là kèn đồng.
    Mỗi hội có một tổ trưởng , hàng năm bầu lại một lần.
    Mỗi năm, giáo xứ có 4 mùa lễ hội:
    Lễ giáng sinh tức lễ Nô-el vào ngày 25-12
    Lễ phục sinh vào tháng 2 hoặc 3 tuỳ theo năm nhuận hay không.
    Lễ dâng hoa vào tháng 5 tháng 6
    Lễ cầu hồn vào ngày 1 tháng 11. Trong 4 lễ của một năm chỉ có lễ giáng sinh là lễ trọng.
    Để chuẩn bị cho lễ Giáng sinh, con chiên đi làm ăn ở các nơi đều về quê mừng sinh nhật Chúa và đoàn tụ gia đình, tạo nên không khí nhộn nhịp náo nức. Nhà nhà tổng vệ sinh, đường phố ngõ xóm trang trí đèn hoa, các cửa hàng bày bán quà Nô-el, nhà thờ được tu chỉnh.
    Ngày 23, toàn thể giáo dân tập trung làm lễ đài ở nhà thờ lớn, tu tạo hang đá Bê-lem, nơi chúa ra đời, dựng cây thông Nô-el, làm ngôi sao chiếu mệnh của chúa treo giữa hai tháp nhà thờ.
    Ngày 24, rước tượng chúa từ Nhà thờ Lớn về Nhà thờ thánh An-tôn để chuẩn bị cho lễ rước đêm Noel. Các hội ca đoàn, hội kèn, đội thánh ca được tập hợp luyện tập chuẩn bị cho lễ trọng. Ngày lễ trọng, giáo dân nghỉ ngơi, vì ngày đó theo kinh thánh, phần xác chỉ cầu nguyện cho phần hồn. Mọi nhà tổ chức ăn mừng, mặc những bộ quần áo đẹp nhất, trong sinh hoạt chỉ làm những điều thiện.
    Tối 24, các ngả đường về Kẻ Sặt nườm nượp khách hành hương. Trong đó không chỉ có giáo dân mà không ít người bên lương. Họ đến đây để thưởng thức không khí hội hè. Từ 18-23 giờ, giáo dân và khách hành hương xem biểu diễn văn nghệ trước nhà thờ lớn. Trong nhà thờ hội tràng hạt, hội giáo dân cầu kinh. 23 giờ đêm, lễ Nô-el bắt đầu. Giáo dân tập trung ở nhà thờ thánh An-tôn, chuẩn bị rước tượng Chúa hài đồng. Sau khi hát thánh ca mừng chúa, lễ rước kiệu bắt đầu. Kiệu rước được chăng đèn kết hoa rực rỡ. Đoàn rước vừa đi vừa cầu kinh. Trước kiệu, có hai thiếu nữ mặc quần áo trắng , vừa đi vừa rắc hoa trước kiệu. Đi sau kiệu là cha xứ, mặc lễ phục trắng, khoác áo choàng đen, đội mũ linh mục mầu đỏ, hai bên có 4 chú giúp việc. Đi đầu đoàn rước có một tiểu đồng xách lư xích trầm thơm ngát, tạo nên không khí thiêng liêng trịnh trọng. Đi sau cha xứ là hàng ngàn giáo dân trang phục chỉnh tề, bước đi thong dong, trật tự và kính cẩn. Khi đoàn rước về đến Nhà thờ lớn, 3 quả chuông cùng dóng lên vang rền chào đón hoà với nhạc điệu hùng tráng của dàn kèn trống đẩy không khí lễ hội lên đỉnh của cao trào. Đúng 24 giờ, tượng Chúa được đặt vào bàn độc. Chuông trống ngừng lại, giáo dân ngồi xuống ghế, trật tự, yên lặng. Cha xứ bắt đầu giảng kinh trong không khí thiêng liêng trầm lắng. Giảng kinh xong, thánh ca vút lên trữ tình, tỏ lòng biết ơn Chúa đã cứu vớt chúng sinh. 1 giờ ngày 25, lễ giáng sinh kết thúc trong tiếng chuông, tiếng nhạc hùng tráng mừng một mùa giáng sinh yên vui, hạnh phúc. Nghiên cứu lễ hội thiên chúa giáo, chúng ta sẽ thu được những kinh nghiệm quý báu trong công tác tổ chức và ý thức trách nhiệm của từng thành viên trong lễ hội.

  6. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    Hội Đền Tranh

    Đền Tranh hay đền Quan lớn Tuần Tranh thuộc xã Tranh Xuyên, tổng Bất Bế , huyện Vĩnh Lại thời Lê và Nguyễn, đầu TK XX thuộc thị xã Ninh Giang. Đây là một ngôi đền lớn thờ nhân vật mang tính huyền thoại theo tín ngưỡng dân gian, hằng năm có hai mùa lễ hội lớn vào tháng 2 và tháng 5. Khoảng năm 1960, đền Tranh bị giải hạ để lấy đất xây dựng công trình khác.

    Đồ tế tự được chuyển về một ngôi miếu nhỏ ở phía nam thôn Tranh Xuyên, xã Đồng Tâm, cách di trích cũ khoảng 300m về phía bắc. Năm 1995, đền được phép khôi phục. Công trình hiện nay khá hoành tráng với kinh phí xây dựng ngót một tỷ đồng do nhân dân công đức. Đền Tranh xưa lập ban thờ như thế nào nay chưa có cứ liệu nghiên cứu. Đền hiện nay có 11 ban thờ:
    1- Ban thờ Phật
    2- Ban thờ Thánh mẫu
    3- Ban thờ Ngọc hoàng Thượng đế
    4- Ban thờ Ngũ vị tôn ông
    5- Ban thờ Tứ phủ chầu bà ( Thiên phủ, Địa phủ, Thuỷ phủ, Nhạc phủ)
    6- Ban thờ Quan lớn Tuần Tranh
    7- Ban thờ Sơn trang.
    8- Ban thờ Động chúa sơn lâm
    9- Ban thờ Thành hoàng: Quý Minh và Vũ Đô Mạnh
    10- Ban thờ Mẫu địa
    11- Ban thờ Đức thánh Trần
    Đền Tranh là nơi tập trung và phong phú nhất về tín ngưỡng dân gian mà điển hình là nhân vật huyền thoại Quan Lớn Tuần Tranh. Nghiên cứu thấu triệt từng nhân vật được thờ ở đây là điều không đơn giản.
    Đền Tranh một năm có ba mùa lễ hội. Hội tháng 2, từ ngày 10-20 / 2, trọng hội vào 14 - ngày sinh của quan lớn Tuần Tranh, đây là hội chính hàng năm. Hội tháng 5, từ ngày 20-26 / 5, trọng hội vào 25 - ngày hoá của Đức thánh. Lễ hội đền Tranh có quy mô rộng lớn, thu hút khách nhiều tỉnh phía Bắc, một trong những hội lớn của Hải Dương, có sức hấp dẫn lạ thường, đặc biệt với các bà các cô ở các thành phố, bởi thế khách rất đông và lộng lẫy. Không chỉ trong những ngày hội (thường kéo dài tới 7 ngày) mà những ngày thường cũng không ít khách đến lễ và không thể thiếu tiết mục hát chầu văn. Chúng ta biết rằng, một ngôi đền mới được khôi phục và chưa được xếp hạng mà đã có ngót một tỉ đồng công đức là vấn đề không bình thường.
    Phần hội ở đây rất giản dị, đặc biệt phần lễ thì vô cùng phong phú và hấp dẫn. Những lời khấn ở đây hầu hết được viết thành thơ và được thể hiện bằng điệu chầu văn rất mượt mà , sôi nổi.Có thể nói, lễ hội đền Tranh là lễ hội hát chầu văn. Dưới đây là một trong những bài chầu văn tại đền, hiện nay:

    Đọc:
    Chính quán quê nhà Ninh Giang,
    Danh lam thắng tích một toà ngôi cao.
    Lẫm liệt tung hoành uy gia,
    Trừ tà sát quỷ nổi danh tướng tài.
    Cảnh Thiên thai Quan Tuần ngự giá,
    Bộ tiên nàng thứ tự dâng huê.
    Chầu thôi lại trở ra về,
    Truyền quân dâng nước Thuỷ tề mênh mông.
    Cảnh am thanh nhiều bề lịch sự,
    Vốn đặt bầy tự cổ vu lai.
    Có phen xuất nhập trang đài,
    Đào lan quế huệ xum vầy xướng ca.
    Phú:
    Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,
    Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,
    Triều đình ra lệnh tiến binh,
    Thuyền bè qua bên sông Trang rợp trời.
    Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
    Tước phong hầu truy tặng Đại vương,
    Bảng vàng thánh thọ vô cương
    Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.
    Đấng anh hùng cổ kim lừng lẫy,
    Khắp xa gần đã dậy thần cơ,
    Cửa sông đâu có phụng thờ,
    Ninh Giang lại nổi đền thờ Tuần Tranh.
    Gương anh hùng muôn đời soi tỏ,
    Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,
    Bao phen đắp luỹ xây thành,
    Khắc miền duyên hải, sông Tranh nức lòng.
    Thơ:
    Sông Tranh ơi hỡi bến sông Tranh,
    Non nước còn ghi trận tung hoành,
    Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,
    Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh.
    Ai về qua bến sông Tranh,
    Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.
    Dẫu rằng nước chảy hoa trôi,
    Bến sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi.
    Loa đồng hỏi nước sông Tranh,
    Thanh long đao năm xưa cứu nước, anh hùng là ai?
    Sông Tranh đáp tiếng trả lời,
    Chỉ có thanh long đao Quan đệ ngũ, chính người trong phủ Ninh Giang
    Oán:
    Nhưng nào ngờ đâu khi đất trời thay đổi,
    Người anh hùng cổ mang nặng xiềng gông.
    Ngày hai nhăm tháng năm, Quan lớn bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng (1)
    Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân.
    Trước cung điện, triều đình xét hỏi,
    Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.
    Quan lớn Tuần oan vì ong **** lả lơi,
    Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.
    Bắt đày chốn sơn cùng, thuỷ kiệt,
    Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.
    Gió lạnh sương sa vì đời bội bạc,
    Sự ngay gian đảo lộn trắng đen.
    Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,
    Lỡ hại người trong lúc phong ba.
    Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,
    Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng.
    Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ,
    Nợ trần hoàn quyết trả cho xong.
    Tháng hai vừa tiết trung tuần,
    Thử lòng ông lão, mộng trần ứng ngay.
    Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ,
    Đôi bạch xà tựa cửa hôm mai.
    Trí đã quyết khỏi vòng cương toả,
    Hay đâu còn mắc nợ oan khiên.
    Ngài vừa hay có lệnh ban truyền,
    Quan quân tầm nã khắc miền sông Tranh.
    Thà thác vinh còn hơn sống nhục,
    Cho sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn. (2)
    ------------------------------------
    1). Kỳ Cùng là sông Kỳ Cùng nay thuộc thị xã Lạng Sơn, tại đây cũng có đền thờ Quan lớn Tuần Tranh.
    2). Tư liệu do Ban quản lý Đền Tranh cung cấp.

    Lễ hội Đình Vạn Niên

    Đình Vạn Niên thuộc thôn Vạn Niên , xã Nạm Nhuế, tổng Trắc Châu, hưyện Thanh Lâm thời Lê- Nguyễn. Nay thuộc thị trấn Nam Sách.

    Đình thờ Thành hoàng là Nguyễn Quý Minh, người có công trong sự nghiệp bảo vệ đất nước ở TK XVII.
    Đình được xây dựng vào cuối TK XVII, đầu XVIII khá hoành tráng , theo kiểu tiền nhất hậu đinh. Trải qua nhiều cuộc chiến tranh và biến động xã hội, di tích kiến trúc ở TK XVII vẫn còn đến nay, vì vậy được nhà nước xếp hạng từ năm 1992.
    Theo thần tích và truyền thuyết, Nguyễn Quý Minh người làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh. Nhà nghèo , cha mẹ mất sớm nhưng ông chịu khó học hành, thi đỗ đại khoa, được vua sai cầm quân đánh giặc. Một lần về Thanh Lâm dẹp loạn, giặc dựa vào đầm lầy , lau sậy um tùm hiểm trở chống trả quyết liệt, quân triều đình đánh mãi không xong. Nguyễn Quý Minh thấy ở ven sông chỗ giếng Nghè ngày nay, có một ông già cất vó bè sống trong túp lều đơn sơ, bèn hỏi kế phá giặc. Không ngờ ông già cất vó rất hiểu quân giặc ,vẽ cho đại tướng sơ đồ vị trí trại giặc, nơi tiến nơi lui. Quý Minh cả mừng, hô quân xông trận, một lần dẹp tan. Chiến thắng trở về tìm người cất vó để trả ơn thì không thấy nữa. Về sau, trong lễ kỷ niệm Thành hoàng hằng năm, nhân dân thường tái hiện chiến thắng của tướng quân, gọi là trò xông hệ. Bên cạnh hình tượng oai hùng của tướng quân, không thể thiếu ông già cất vó bè.
    Lễ hội Đình Vạn Niên có nhiều trò vui và lễ nghi truyền thống, ở đây chỉ trình bầy trò rước Xông hệ theo phong tục cổ truyền.
    Hàng năm, vào 12 tháng giêng, nhân dân Vạn Niên tồ chức lễ hội trọng thể để nhớ ơn công lao của Thành hoàng và giáo dục con cháu tinh thần thượng võ. Phần lễ được tiến hành công phu, hấp dẫn. Trước ngày mở hội, các vị chức dịch trong làng chọn một vị cao niên dung mạo quắc thước, có uy tín đóng vai Anh dũng đại tướng quân Nguyễn Quý Minh. Thanh niên trai tráng từ 12-14 người , đóng quân sĩ, trang phục chỉnh tề.
    Trước lễ rước phải tập dượt, gọi là ngày tập ngơi. Người ta bày đỉnh hương, treo cờ thần, rước long đình, hương án từ đình trong ra đình ngoài, quét dọn, trang hoàng. Người đóng Đại tướng quân phải trai giới một tuần mới được nhập vai. Đại tướng cưỡi ngựa, có tiểu đồng giữ cương. Ông đánh trống khẩu phát lệnh. Đội quân trong đám rước chít khăn đầu rìu bằng nhiễu tím, thắt lưng xanh đỏ, tay cầm gươm, múa võ theo nhịp trống. Đi đầu đoàn rước là đoàn trống, thanh la, lão bạt, âm thanh rộn rã, tưng bừng. Tiếp theo là đoàn rước long đao, bát bửu, bạch mã oai phong. Đoàn rước đi từ đình đến nghè thì dừng lại. Các bô lão trang phục chỉnh tề, tế ba tuần rượu, đọc sắc phong, kể công trạng của tướng quân, rồi quay về đình tổ chức trò xông hệ.
    Tại đình, lão tướng điều hành thế trận. Các trai đinh thực hiện nghiêm theo khẩu lệnh và trống lệnh. Sân đình vang lên tiếng xông hệ., tương ứng với các động tác đâm gươm, múa kiếm, phất cờ, hừng hực khí thế giết quân thù. Kiệu của tướng quân đi đến đâu, pháo nổ đến đó. Hai người lính cầm đuốc xông vào đình, đi vào các góc tối như tìm bắt ai đó rồi đi ra, gọi là Xông hệ, có ý tưởng truy quét tàn quân giặc. Trò diễn kết thúc khi nào chiếm được Thành của giặc. Khi đó, tướng quân đánh trống thu quân. Bấy giờ đội hình nam thanh, nữ tú trang phục lộng lẫy trình diễn tiết mục tế an vị trong âm thanh của đàn trống nhịp nhàng. Sau trò diễn xông hệ, là các trò vui dân gian.
    Hội đình Vạn Niên kéo dài tới 7 ngày. Có thể nói đây là hội thể thao, văn hoá sôi nổi, lành mạnh, thể hiện lòng biết ơn tổ tiên, phát huy truyền thống giữ nước.
    Nay lễ hội đình Vạn Niên vẫn còn, nhưng trò xông hệ chưa tổ chức được, phần vì kinh phí, phần vì không có pháo hạn chế không khí của trò diễn.

    Lễ hội Chùa Giám

    Nghiêm Quang tự, dân gian quen gọi là chùa Giám, tại xã An Trang, thời Trần thuộc huyện Thiện Tài, thời Lê và Nguyễn thuộc huyện Lương Tài, phủ Thuận An. Cuối TK XIX, cắt chuyển về huyện Cẩm Giàng. Từ năm 1955, thuộc xã Cẩm Sơn.

    Tương truyền , chùa Nghiêm Quang có từ thời Lý, đến cuối TK XVII, chùa được tôn tạo với quy mô lớn theo kiểu nội công ngoại quốc. Các công trình bố cục theo một trục dọc, hướng tây, gồm: Tam quan, tiền đường, tam bảo, nhà phẩm, nhà tổ, hai bên là hành lang. Phía bên trái là nghè Giám. Những công trình này được xây dựng công phu với tư duy nghệ thuật cao. Tuy bị chiến tranh tàn phá nhưng những công trình chính vẫn còn đến nay như: Tiền đường, tam bảo, nhà phẩm, nghè Giám, do vậy được nhà nước xếp hạng từ năm 1974.
    Năm 1971, do yêu cầu giải phóng dòng chảy, xã Cẩm Sơn phải di chuyển về địa điểm mới cách xã cũ 7km về phía tây. Chùa Giám cũng được nhà nước cho di chuyển về địa điểm mới, tôn tạo hoàn chỉnh như trước chiến tranh, nhưng quay hướng nam. Đây là một kỳ công của ngành Văn hoá và nhân dân địa phương.
    Chùa Giám, Đền Bia và Đền Xưa là ba di tích quan hệ mật thiết đến cuộc đời và sự nghiệp của Đại danh y Tuệ Tĩnh. Lễ hội chùa Giám là một hình thức kỷ niệm Đại danh y.
    Lễ hội chùa Giám trước Cách mạng không lớn, chỉ có quy mô làng xã. Chỉ từ khi di tích được xếp hạng và vai trò của Tuệ Tĩnh được đề cao, hội mới lớn dần lên. Năm 2001, được tổ chức với quy mô quốc gia. Hội do Bộ Y tế, Hội Đông y Việt Nam và chính quyền địa phương tổ chức.
    Từ khi về địa điểm mới, hội được tổ chức trong ba ngày, từ 13-15.2. Tuy hội chỉ diễn ra trong 3 ngày nhưng công tác chuẩn bị phải làm trước hàng tháng. Ban tổ chức do UBND xã trực tiếp chỉ đạo.
    Ngày 13.2, rước tượng Tuệ Tĩnh từ chùa về nghè, đặt tại gian giữa. Lễ rước trịnh trọng theo nghi thức cổ truyền. Dân các nơi đến dự hội suốt 3 ngày có tới hàng vạn lượt người. Hàng quán chật kín hai bên đường trục của xã. Trên sân hội trường và sân chùa , các trò vui dân gian diễn ra suốt 3 ngày đêm.
    14.2, là ngày trọng hội, trời thường mưa. Buổi sáng tiến hành lễ tế danh y tại nghè. Đội tế gồm 17 cụ có khả năng về tế lễ , có uy tín và ngoại hình tốt. Sau khi tế tất, bắt đầu đến hội rước. Đoàn rước thường rất đông, gồm nhiều đội hình
    Đi đầu là đội múa kỳ lân, làm nhiệm vụ cổ động và dẹp đường.
    Thứ hai là đội hình thanh niên đồng phục, cầm vòng hoa, vừa đi vừa múa như trong hội thể thao
    Thứ ba là đội rước hồng kỳ
    Thứ tư là đội trống
    Thứ năm, đội rước ảnh Bác Hồ
    Thứ sáu là đội siêu đao, chấp kích, bát bửu
    Thứ bẩy là kiệu thuốc nam
    Thứ tám là đoàn tế nam.
    Thứ chín là đoàn tế nữ.
    Thứ mười là kiệu rước tượng Tuệ Tĩnh đặt trên đòn bát cống, có lọng che hai bên.
    Thứ mười một là đoàn tăng ny, phật tử, trang phục theo nhà phật. Tiếp đó là đoàn các già làng và thập phương. Cuối cùng là dân chúng.
    Tại nghè Giám ngày thường cũng như ngày hội đều có phòng khám bệnh và cắt thuốc nam, thuốc bắc.
    Lễ hội chùa Giám là lễ hội truyền thống được mở rộng và nâng cao, lễ nghi truyền thống và văn hoá hiện đại kết hợp hài hoà, hiệu quả.




    Các tin khác

    Lễ hội Đền Sượt (24/09/2003)
    Lễ hội Đền Quát (24/09/2003)
    Lễ hội Chùa Trông (24/09/2003)
    Lễ hội Chùa Muống (24/09/2003)
    Lễ hội Đền Cuối (24/09/2003)
    Hội pháo đất Minh Đức (24/09/2003)
    Lễ hội chùa Minh Khánh (24/09/2003)
    Lễ hội Côn Sơn (24/09/2003)
    Lễ hội đền Kiếp Bạc (24/09/2003)
    Trò vui dân gian trong những ngày hội (24/09/2003)
    Lễ hội Đình Bầu (24/09/2003)

  7. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    Lễ hội Đền Sượt

    Thanh Cương linh từ hay Quang liệt miếu, nôm gọi là đền Sượt, ở tại làng Thanh Cương , phường Thanh Bình , Thành Phố Hải Dương, thờ Vũ Hựu , một danh tướng thời Lê sơ, quê tại làng Thanh Cương. Khi qua đời (16.11 năm Tân Tỵ-1521)được tôn là Thượng đẳng phúc thần, Minh quốc linh ứng, Hiển Hựu đại vương và Thành hoàng làng.

    Đền Sượt được xây dựng từ sau khi Vũ Hựu qua đời. Công trình hiện còn mang dấu ấn kiến trúc TK XIX. Di tích đã được nhà nước xếp hạng năm 1992. Lễ hội đền Sượt tổ chức vào 10.3 hàng năm , kỷ niệm ngày sinh của Đại vương. Hội kéo dài tới 20.3
    Trong những ngày lễ hội có tục đánh bệt tức đánh hổ. Đây là trò diễn dân gian độc đáo.
    Quá trình chuẩn bị lễ hội
    Trước khi vào hội, đinh tráng từ 18-54 tuổi đều phải sắm gậy đánh bệt.
    -Gậy cho dân đinh dài 7 thước ta (1 thước= 40cm).
    -Gậy cho 5 người trực tiếp đánh hổ, dài 4 thước.
    -Gậy cho nữ đồng trinh múa trước hàng quân, dài 1,2 thước.
    Nấu rượu Hoàng tửu để tiến lễ Đại vương.
    Nuôi lợn để lễ Đại vương.
    1.3 Làng họp tại đền bàn việc tổ chức lễ hội.
    Ban khánh tiết chuẩn bị nước mộc dục.
    9.3, ông hành văn lập ban thờ để chuẩn bị rước văn tế về nhà.
    Đinh tráng tập trung làm lễ cáo yết , mở cửa đền.
    Các giáp chuẩn bị làm bánh dầy, cỗ chay, cỗ mặn, mổ lợn cho ngày trọng hội. Giã bánh giầy ở đây là một mỹ tục , được cả làng hưởng ứng, gọi là Hội giã bánh.
    Sáng 10.3, rước cỗ ra đình. Khoảng 7 giờ, làm lễ mộc dục.
    11.3, làm lễ bái yết, 4 giáp tế yết tại đền, mỗi giáp làm một mâm cỗ. Bưổi tối tổ chức hát chèo.
    12.3, tế xuân, làng giết một con trâu đực, đặt trên giá. Tế lễ xong, chia theo suất đinh của cả làng.
    13.3, các ông đám và ông hoá (1) làm lễ tại đền. Lễ có gỏi cá, xôi, rượu
    Rước văn từ đền về nhà ông hành văn.
    14.3, chuẩn bị tạ rằm, mỗi giáp làm thịt một lợn cấn khoảng 50kg
    --------------------
    1). Ông Đám là người của một giáp đăng cai hộ năm đó; Ông Hoá là người của giáp cử ra thu lễ trong những ngày hội.
    15.3, tổ chức rước văn từ nhà ông hành văn ra đền.
    16,17, 18.3, làm cỗ hát tại đình, 6 người một mâm.
    19.3 , Chuẩn bị lễ tạ
    20.3, lễ tạ, tổ chức rước Đức thánh từ đình , qua lăng về đền. Hôm ấy tổ chức thả cây đám ở ao đình. Cây đám (2) nổi và trôi về phía xóm nào thì xóm đó năm ấy may mắn, cây đám chìm thì là điềm không may.

    Lễ hội Đền Quát

    Đền Quát tức là đền thờ Yết Kiêu, một gia nô trung thành của Trần Hưng Đạo, tại tả ngạn sông Đò Đáy(sông Quát) thôn Hạ Bì , xã Yết Kiêu , Gia Lộc. Nguyễn Hữu Thế , hiệu là Yết Kiêu là con ông Nguyễn Hữu Hiệu, quê tại Hạ Bì. Mẹ là Vũ Thị Duyên, người làng Lôi Động, huyện Thanh Hà.

    Sinh trưởng trong một gia đình ngư dân nghèo, cha mất sớm, từ nhỏ Phạm Hữu Thế đã phải lặn lội sông nước kiếm ăn và nuôi mẹ. Truyền thuyết kể rằng, năm 15 tuổi, trong một lần đi gánh nước, ông thấy hai con trâu trắng húc nhau trên bờ sông. Vốn có sức khoẻ, ông dùng đòn ống đánh trâu. Chúng hoảng sợ bỏ chạy. Ông nhặt được hai cái lông trâu, đặt xuống nước , nước rẽ làm đôi. Ông cho đó là lông trâu thần, liền nuốt vào bụng. Từ đó thân thể ông cường tráng, trí dũng phi thương, bơi lội dưới nước như đi trên đất bằng.
    Giai thoại trên chỉ là một cách lý giải về sức khoẻ và tài trí của Nguyễn Hữu Thế được rèn luyện qua thực tế cuộc sống. Do có biệt tài bơi lội, Nguyễn Hữu Thế được tuyển vào làm gia nô cho Trần Hưng Đạo. Ông lập công lớn trong hai cuộc khánh chiến chống Nguyên, được lịch sử ghi nhận như một danh tướng. Dân chài quê ông vốn nghèo nàn, một tấc đất phơi chài cũng không có nên trước khi qua đời, ông đề nghị vua Trần cho mỗi hộ dân chài làng ông 3 thước (72m2) đất làm nơi phơi chài lưới không mất thuế. Nhà vua y cho. Luật ấy được thi hành đến triều Nguyễn.
    Sau khi Yết Kiêu qua đời, nhân dân lập đền thờ và được tôn làm Thành hoàng, tổ chức lễ hội kỷ niệm ông vào 15 tháng giêng. Thông lệ , hội bắt đầu từ 10-20 tháng giêng. Trước cách mạng, Hạ Bì có 8 giáp và 9 hà chài. Mỗi hà làm ăn một phương, chỉ đến tết và lễ hội mới về làng.
    Lễ hội tại đình
    10/1, mở cửa đền làm lễ mộc dục.
    11/1, mỗi giáp mổ một con lợn cúng thành hoàng. Cúng xong, thịt chia làm 5 phần, chia theo thứ bậc khác nhau.
    12-14/1, làm cỗ trực nhật do những người có phẩm hàm trong làng đăng cai, cứ 6 người một mâm, mỗi ngày từng người thay nhau sắm cỗ.
    15/1, thi cỗ hộp (1)của những ông cai đám.
    Bắt đầu vào hội , thần tượng Yết Kiêu được rước từ miếu từ đền về đình. Đoàn rước có múa tứ linh, đòn bát cống rước tượng Yết Kiêu và phu nhân. Trong những ngày hội sân đình có các trò diễn dân gian.
    Lễ hội dưới sông
    Đây là lễ hội độc đáo vá hấp dẫn. Thông lệ , hội diễn ra trong ba ngày, từ 16-18/1. Ngay những ngày đầu hội, thuyền các hà chài đã trở về tập kết san sát bên sông. Sáng 16, khi mọi việc đã chuẩn bị xong, tượng Yết Kiêu và phu nhân được rước ra bờ sông, đặt trên bệ cao , nhìn ra sông nước, ddể các ngài "duyệt" con cháu thao diễn thuỷ chiến. Các hà chài dự bơi trải đều phải đến lễ trước thần tượng Thành hoàng, mong ngài phù hộ cho cuộc sống trên sông nước trong năm may mắn.
    --------------------
    1). Cỗ hộp là loại cỗ đặc biệt của Hội đền Quát, gồm có xôi nén, gà luộc, chuối, rượu, chè kho, do những giai ngoại có tài làm cỗ thực hiện.


    Ngày 16 bơi chiềng , biểu diễn cho khách xem đồng thời cũng là tập dượt.
    Ngày 17, bơi phân loại
    Ngày 18, bơi tranh giải nhất, nhì, ba.
    ngày 19, tiết tục tế lễ tại đình
    Ngày 20, kết thúc hội, các hà chài tạm biệt cố hương, trở về các con sông quen thuộc quăng chài, thả lưới, theo cuộc sống thường nhật, hẹn xuân sau trở về.
    Hội đền Yết Kiêu nay vẫn được duy trì, đây là nơi có truyền thống bơi trải xuất sắc của tỉnh.

    Lễ hội Chùa Trông

    Chùa Trông nguyên có tên là Chùa Tông, Đại Nam nhất thống chí ghi là đền thờ Minh Không thiền sư, họ Nguyễn, tự Chí Thành. Thời phong kiến thuộc xã Hán Lý, tổng Văn Hội, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng. Từ năm 1947, Hán Lý là một thôn thuộc xã Hưng Long, huyện Ninh Giang.

    Chùa Trông do Minh Không thiền sư xây dựng từ thời Lý (TK XI). Chùa thờ Phật và đức thánh Nguyễn Minh Không.
    Nguyễn Minh Không sinh 14/9 năm Bính Dần , thời Lý, nguyên có tên là Nguyễn Chí Thành, quê xã Đàm Xá , huyện Trường An (Ninh Bình), quê ngoại ở Hán Triền tức Hán Lý hiện nay. Minh Không là một nhà sư nổi tiếng ở thời Lý., khi viên tịch (26.3 năm Giáp Tuất) được thờ ở nhiều nơi, trong đó có chùa Trông.
    Chùa Trông được xây dựng từ thời Lý, đến thời Nguyễn , quan thượng thư Thượng Đoàn tôn tạo theo kiểu nội công ngoại quốc gồm : Tam quan nội, tam quan ngoại, tắc môn, giải vũ, nhà mẫu, chùa kiểu chữ đinh, đền Đức Thánh kiểu chữ đinh rất đồ sộ. Công trình đã bị tàn phá trong kháng chiến chống Pháp, chỉ còn lại hệ thống tam quan và một số cổ vật. Tam quan chùa Trông là công trình kiến trúc nghệ thuật lớn ở thời Nguyễn. Chùa hiện nay đã được khôi phục nhưng chưa được như xưa.
    Hội chùa Trông bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của thiền sư Nguyễn Minh Không từ thời Lý. Đây là lễ hội lớn nhất vùng Hạ Hồng xưa và đã được ghi vào lịch sử dân tộc. Hội kéo dài 16 ngày, từ 15/3-1/4.
    Ngày 15/3, lễ thỉnh kinh, rước nước, tổ chức rước kiệu rất trịnh trọng ra sông Luộc lấy nước cúng.
    Ngày16, lễ rước Thành Hoàng và tế tại chùa.
    Lễ hội chùa Trông là lễ hội chung của hai làng Hào Khê và Hán Lý, vì xa xưa nguyên là một làng. Sau khi chia tách, mỗi làng có một đình. Đình Hán Lý thờ thành hoàng là Đường Cát đại vương , một vị tướng của Khúc Thừa Dụ có công đánh giặc Đường ở TK X. Đình Hào Khê thờ thành hoàng là Lý Chiêu Hoàng, vua cuối cùng của triều Lý. Như vậy ngày hội phải tế 3 vị, gồm hai thành hoàng và một thiền sư. ở đây chỉ có tế nam, trang phục theo truyền thống gồm 3 mạnh bái, 16 bồi tế. Tên huý kiêng các từ: Minh, Lệ, Chiêu, Ứng.
    Quy trình tế gồm ngũ tuần:
    Tuần nhất: Dâng hương hoa.
    Tuần nhị: Dâng đăng trà.
    Tuần tam: Dâng quả thực.
    Tuần tứ: Đọc chúc văn.
    Tuần ngũ: Lễ Tất
    Sau lễ đức Thánh và nhị vị Đại vương là các trò vui dân gian kéo dài ba bốn ngày.
    20/3, Lễ rước xuất Đông nhập Tây. Lễ này có từ khi xây dựng tam quan. Cổng phía Bắc ghi 3 chữ Bắc địa đầu-nghĩa là làng Hán Lý ở phía bắc. Cổng phía Nam ghi 3 chữ Nam thiên động- làng Hào Khê là động ở phía nam. Đoàn rước gồm: Kiệu bát hương, kiệu Đức thánh, hai kiệu Thành hoàng, kiệu Thánh mẫu. Kiệu này do nữ thanh đồng khiêng. Đoàn rước đi qua cổng phía đông, đi quanh hai làng , về cổng phía tây.
    Tối 25/3, mỗi giáp một mâm cỗ cúng tại đền Đức thánh, đọc kệ kể tiểu sử của Người.
    26-30/3, tế lễ Đức thánh và Thành hoàng. Sau tế có lễ dâng hương do một đội múa gồm 16 người thực hiện trước tượng Đức thánh theo điệu Hoa chúc, Giao liên, mô phỏng múa cung đình. Trong những ngày lễ hội có các trò diễn dân gian
    Sáng 1/4, tổ chức rước Thành hoàng về các đình, kết thúc hội.
    Phần chia cỗ: Nếu tế bằng trâu bò, thì thủ biếu tiên chỉ một nửa, còn lại chia ba, một phần biếu già làng từ 60 tuổi trở lên, một phần biếu chức sắc, một phần biếu những người hành văn. Thịt chia theo đầu người từ hương ẩm trở lên.
    Hội chùa Trông bao giờ cũng mời đại biểu chùa Hoa Vân đền Tân La ( Quỳnh Phụ, Thái Bình). Đền Tranh, đền Trung Hoà ( Ninh Giang) . Trong những ngày hội, nhân dân Đào Phố, xã Hồng Phúc thường rước Thành hoàng lên chùa Trông dự cho hết hội, gọi là rước chạ.
    Hội chùa Trông nay vẫn đông vui, nội dung khá phong phú không kém hội xưa.

    Lễ hội Chùa Muống

    Chùa Muống tên tự là Quang Khánh tự, trước Cách mạng thuộc xã Dưỡng Mông, tổng Phù Tải, nay là một thôn thuộc xã Ngũ Phúc , huyện Kim Thành. Chùa ở tả ngạn sông Văn úc.

    Tương truyền, vào thời Lý Công Uẩn, dân đến khai khẩn vùng đất Dưỡng Mông, buổi đầu khai phá , đất chua phèn, chỉ có rau muống là nguồn thức ăn chính. Sau khi đất được cải tạo, trồng được hoa mầu và cây lương thực, cư dân đông đúc, lập thành làng. Để nhớ những ngày đầu gian khổ sống nhờ rau muống, những già làng đề nghị đặt tên là Dưỡng Mông, còn nghĩa là nhờ cây rau muống mà tồn tại.
    Chùa Quang Khánh là một trong những ngôi chuà được xây dựng sớm ở đất Kim Thành, đến thời Trần do sư Tuệ Nhẫn, một môn đệ của thiền phái Trúc Lâm chủ trì xây dựng hoành tráng. Đến thời Nguyễn chùa có trên 120 gian, có tài liệu ghi là 124 gian, 32 tháp sư, hàng trăm pho tượng cổ và nhiều bia ký có giá trị .Chùa được quy hoạch trên khuôn viên rộng 15.000m2. Quang Khánh là ngôi chùa lớn và nổi tiếng của Hải Dương. Lê Thánh Tông hai lần viếng thăm đều có thơ khắc vào bia đá. Năm 1947, do chiến tranh, chùa bị phá huỷ hoàn toàn. Sau ngày miền Bắc giải phóng, chùa bắt đầu được khôi phục, đến nay cũng chỉ đạt một phần nhỏ của kiến trúc cũ. Riêng hệ thống tháp vẫn được bảo tồn như xưa.
    Tuệ Nhẫn nguyên là Vương Thiên Huệ, hiệu Quán Viên, pháp hiệu Tuệ Nhẫn, biệt hiệu là Thánh tổ Non Đông, quê tại Dưỡng Mông. Cha mất sớm nhưng Thiên Huệ có ý chí từ nhỏ, rất chăm chỉ học hành, thấu triệt các sách. 19 tuổi di tu ở chùa Báo Ân, thụ giới sư Nghĩa Trụ, Chân Giám . Tuệ Nhẫn là một cao tăng đồng thời còn là một lương y. Ông có công xây dựng nhiều chùa lớn như: Vĩnh Nghiêm (Chí Linh), Siêu Loại (Bắc Ninh), Đông Khê, Do Nha (Hải Phòng)Ông đã chữa khỏi mắt cho vua Trần Minh Tông. Nhà sư viên tịch ngày 27 tháng giêng, năm ất Sửu, Khai Thái thứ hai(1325). Tuệ Nhẫn không chỉ là một vị cao tăng mà sau khi mất còn được tôn làm Thành hoàng làng.
    Hội chùa Muống bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của sư Tuệ Nhẫn, như vậy hội đã có truyền thống từ đầu TK XIV, mang hai yếu tố Thần và Phật. Thông lệ , hội bắt đầu từ 24-26 tháng giêng, 26 là ngày trọng hội.
    Ngày 24 làm lễ nhập tịch, cỗ chay gồm hoa quả, bánh dầy, bánh nếpSư sãi tụng kinh cả đêm, không khí thật sôi nổi.
    Ngày 25, theo lệ là ngày rước bánh dầy quanh chùa trước khi đưa vào tiền đường thờ Thánh tổ. Đây là một nghi thức mong mùa màng bội thu
    Ngày 26, lễ tập ngơi, thực chất là một cuộc tập dượt chuẩn bị cho ngày đại lễ. Trong ngày tổ chức tập rước kiệu, chuẩn bị chu đáo các thứ cho trọng hội, buổi tối , các sư làm lễ mộc dục.
    Ngày 27 là ngày trọng hội, khách đến dự rất đông từ sáng sớm. Lễ rước thực hiện như ở các đền và đình làng, gồm có bát biểu, tàn , long, đòn bát cống rước tượng Thánh tổ Non Đông, Thánh phụ, Thánh mẫu. Đoàn rước diễu xung quang chùa rồi ra tam quan làm lễ, xong lại chuyển vào chùa để các thần tượng được an vị. Hội kết thúc vào đêm 27.
    Hội chùa Muống là lễ hội lớn của Hải Dương, thu hút hàng vạn người tham gia.
    Hội chùa Muống hiên nay vẫn được duy trì tuy không được như xưa. Một số thuần phong mỹ tục vẫn tồn tại như: vào những ngày hội, các cụ bà phân công nhau đứng hàng dài trước cửa chùa, bưng cơi trầu, niềm nở mời khách thập phương, gây thiện cảm từ đầu cho khách đến dự hội.

  8. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    Lễ hội Đền Cuối

    Đền Cối Xuyên nôm gọi là đền Cuối, thời Trần thuộc trang Cối Xuyên, năm 1672, đổi thành Hội Xuyên, sau Cách mạng thuộc xã Nghĩa Hưng, nay thuộc thị trấn Gia Lộc, huyện Gia Lộc. Đền Cối Xuyên thờ Nguyễn Chế Nghĩa, một danh tướng thời Trần , từng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Hội đền Cuối bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của Nguyễn Chế Nghĩa(27.8). Hội diễn ra trong 3 ngày, từ 26-28.8 .

    Trước vào đám 3 ngày, các thôn Cuối, Đại, Rỗ làm lễ tảo mộ tại khu lăng Đại vương. Trong 3 ngày vào đám không tổ chức rước kiệu vì kiệu đã được rước từ đầu tháng giêng. Ba làng Đại Liêu, Hội Xuyên, Vĩnh Dụ đều tổ chức rước Kiệu vào bãi Bái Quan để tế lễ, hôm sau lại rước về làng. Trong những ngày hội, có nhiều loại cỗ cúng Đại vương. Làng có 12 giáp , mỗi giáp làm một loại cỗ. Đây là một điển hình của hội đền Cuối.
    Trong 3 ngày lễ hội, ngày đầu cúng bằng cỗ ngũ quả , bày theo kiểu Thượng tam long, hạ tứ linh. Những ngày sau cúng bằng các loại cỗ.
    Cỗ đường: Gồm các loại bánh như: Bánh dầy , bánh cốm , bánh phu thê, bánh trôi, bánh chay, bánh nướng, bánh do, bánh bột lọcTrên mặt bánh dán chữ thọ bằng giấy hồng điều. Bánh cốm, bánh gio, bánh bột lọc gói bằng lá chuối tươi, buộc lạt nhuộm đổ.
    Cỗ thầu: Gồm các loại thịt: luộc, nấu đông, giò , nem, chả, nem chạo, ninh, mọcCác món đều đựng trong bát lớn.
    Cỗ tam sinh: Về tam sinh mỗi nơi quan niệm một khác, ở đây tam sinh là lợn, gà ,ngan hoặc ngỗng. Ba con vật này làm thịt xong, để thịt sống, tạo dáng như còn sống, trang trí giấy hồng điều, cúng thần xong, chia cho các giáp làm cỗ.
    Cỗ bò thui: Ngày thứ ba, mổ bò, thui. Thui xong, mang cả con bò và chậu tiết vào tế thần. Tế xong , giáp đăng cái khiêng bò về làm cỗ, chia phần.
    Ngoài các loại cỗ là trò vui dân gian như đấu vật, đập niêu, đặc biệt là trò đánh thó hay còn gọi là đánh gậy. Đây là võ thuật truyền thống có từ thời Trần mà Nguyễn Chế Nghĩa là người rất điêu luyện. Đánh thó được thực hiện hai người một , cùng lứa tuổi với cây gậy dài chừng 1,7m. Trò chời này nhằm duy trì truyền thống thượng võ từ thời Trần, đồng thời còn là một nghi lễ.
    Hiện nay hội làng cuối vẫn được duy trì, nội dung khá phong phú nhưng các loại cỗ không còn như xưa.
    Hội pháo đất Minh Đức

    Trong các trò chơi dân gian, pháo đất có lịch sử khá sớm, tồn tại trên phạm vi rộng ở đồng bằng Bắc bộ ,trọng tâm là hai huyện Tứ Kỳ và Ninh Giang. Tại xã Minh Đức, trò chơi pháo đất được toàn dân hưởng ứng và trở thành lễ hội mùa xuân hàng năm, thường tổ chức vào tháng 3, không có ngày cố định.

    Minh Đức là một vùng đất cổ, có con người cư trú từ đầu công nguyên. Vào TK XVII, có ông Nguyễn Thế Mỹ là một tướng quân có nhiều công trạng với triều Lê. Ông đã hưng công tôn tạo chùa Đông Dương có quy mô 54 gian khá hoành tráng. Công trình tuy bị hư hại trong kháng chiến chống Pháp, nhưng còn nhiều cổ vật có giá trị nên đã được xếp hạng quốc gia.
    Hội pháo đất của Minh Đức theo truyền thuyết có từ thời Hai Bà Trưng. Hội diễn ra từ tháng giêng đến tháng tư âm lịch, kết hợp với hội chùa và đình đám của các làng. Sau khi tế lễ Thành hoàng xong là bắt đầu hội thi pháo. Trước hết các xóm thi với nhau, chọn đội mạnh thi đấu ở cấp xã. Xã chọn đội mạnh thi đấu với các xã của huyện. Để có thể thắng cuộc, pháo thủ phải là người khoẻ , nắm chắc kỹ thuật từ khâu chọn đất, luyện đất, nặn pháo và đánh pháo.
    Pháo nặn hình bầu dục, bằng đất luyện kỹ, dầy khoảng 4cm, dài từ 80-100cm, rộng từ 40-60cm. Tiếp theo là lên khung pháo, vê mép hay còn gọi là mông con. Nặn xong, lấy que tre rạch một đường xung quanh mông con và một gạch ngang tạo thành mõm pháo, rồi lấy tay miết lại. Khi đánh cần chọn 2-3 người phục vụ cho một người đánh, vì pháo khá nặng, mỗi quả tới 30-40kg. Người gieo pháo gọi là pháo thủ. Pháo thủ đứng thế hai chân mở rộng bằng vai, nâng pháo lên ngang vai, kẹp tay vào nách cho vững, lấy đà đập pháo về phía trước vào bàn gieo pháo. Bàn gieo pháo là một khoảng sân nhỏ đập phẳng, hơi nghiêng về phía pháo thủ. Nay bàn gieo pháo làm bằng bê tông, đến hội mang ra dùng, hết hội cất đi để năm sau dùng tiếp. Ngày xưa pháo thủ đóng khố cởi trần, nay mặc quần dài, áo cộc tay. Khi đánh pháo, đồng đội reo hò cổ vũ rất sôi nổi để tăng sức mạnh và niềm tin cho pháo thủ.
    Cách tính điểm: Pháo nổ nhưng không văng mông con hoặc có văng nhưng không đạt kích thước quy định (40cm), mông con văng ra nhưng đứt đoạn gọi là pháo bị bổ. Pháo đánh xuống không có tiếng kêu gọi là pháo xịt. Tất cả những trường hợp trên đều không được tính điểm.
    Trường hợp được tính điểm: Pháo nổ văng hết mông con, mông con ra đến đâu đo đến đó (lấy mõm xa nhất). Trong một lần đánh hay tổng số các lần đánh, người nào có số đo mông con dài nhất người ấy thắng
    Đánh pháo đất là một nghệ thuật, chỉ có người nông dân suốt đời gắn bó với đất , hiểu ngọn ngành từng thớ đất mới hy vọng trở thành pháo thủ giỏi. Giải thưởng thường rất giản dị. Xưa thường là 5 chai rượu Ông cụ, nay tuỳ theo quy định của từng xã và của từng năm. Trò chơi pháo đất hiện nay có ở xã Quang Khải (Tứ Kỳ), Nghĩa An, ứng Hoè, Bồ Dương, Hồng Thái, Kiến Quốc (Ninh Giang). Các xã này thường tổ chức đấu giao hữu nhưng sôi nổi nhất vẫn là Minh Đức.
    Lễ hội chùa Minh Khánh

    Chùa Minh Khánh còn có tên là chùa Hương Đại hay chùa Hương ở thôn Bình Hà , huyện Thanh Hà. Bình Hà nguyên là trang Bình Kha thời Lý, đến TK XIII, Trần Nhân Tông đổi thành Hương Đại, nay thuộc thị trấn Thanh Bình, huyện Thanh Hà.

    Hội chùa Minh Khánh bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của Trần Nhân Tông(1/11âl). Hội bắt đầu vào ngày 30/10, kết thúc vào chiều 1.11, nhưng công tác chuẩn bị thực hiện trước đó hàng tuần không chỉ của Bình Hà mà của 5 xã kế cận. Thông lệ, chiều 29.10 làm lễ mộc dục, rước sắc từ đình Ngự Dội về chùa để mở hội. Hội có tục thi mâm ngũ quả và 5 loại bánh: Bánh dầy, bánh mật, bánh ít, bánh tày, bánh gấc. Sáng 30/10, các giáp rước cỗ và bánh về chùa cúng Vua và đức Phật, tổ chức trò diễn dân gian. Chiều 1.11, tế lễ xong, chấm giải cỗ , bánh, rước sắc về đình Ngự Dội, kết thúc hội.
    Trước Cách mạng, xã chia làm 12 giáp, đại diện cho 12 dòng họ. Mỗi giáp có 21 mẫu, 9 sào, 10 thước ruộng họ. Hoa lợi của ruộng họ được dùng vào việc họ và lễ hội. Trong những ngày hội, ông đám chịu trách nhiệm về các loại bánh và mâm ngũ quả.
    Mâm ngũ quả có tới trên 10 đề tài khác nhau như: Cửu long tranh châu, Cửu long bảo tháp, Long phượng kình quyền, Lưỡng long hồi đáp; Thượng tam long, hạ tứ linh; tử tòng mẫuđược tạo bằng các loại hoa quả của địa phương. Qua bàn tay nghệ nhân, mâm ngũ quả trở thành những hình tượng sinh động. Đây là phong tục độc đáo của một vùng hoa trái trù phú gắn liền với tục thờ vua còn duy trì đến nay.
    Hội chùa Hương và tục thi mâm ngũ quả cùng năm loại bánh đang được bảo tồn, duy trì và phát huy. Hiện nay, nghệ nhân am hiểu nghệ thuật cổ truyền phần lớn đã qua đời. Lớp trẻ không được hướng dẫn đến nơi đến chốn nên hình tượng tứ linh thường không sinh động, ngô nghê và thiếu tính nghệ thuật.
    Hội chùa đồng thời cũng là hội chợ của một vùng, vì chùa liền với chợ
  9. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    Lễ hội Côn Sơn



    Côn Sơn là một di tích và danh thắng được lịch sử ghi nhận từ bẩy thế kỷ trước. Đây là chốn Phật tổ của thiền phái Trúc Lâm Việt Nam, nơi Đại tư đồ Trần Nguyên Đán dựng Thanh Hư động, vào thời Long Khánh(1373-1377), nơi Nguyễn Trãi sống thuở niên thiếu và những năm tháng cuối đời.

    Côn Sơn thời Trần thuộc xã Chi Ngại, huyện Phượng Sơn (Phượng Nhãn), phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc. Đầu TK XVIII, được cắt chuyển về huyện Chi Linh, trấn Hải Dương. Sau Cách mạng tháng Tám, thuộc xã Cộng Hoà , huyện Chí Linh .
    Côn Sơn một năm có hai mùa hội,
    Hội mùa xuân bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang(22/1). Hội mùa thu bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của Nguyễn Trãi (16/8). Hội xuân có từ sau khi Huyền Quang qua đời(1334), hội thu hình thành từ năm 1962, thực sự trở thành hội lớn từ năm 1980, khi Nguyễn Trãi được tôn vinh là Danh nhân văn hoá thế giới.
    Quy mô hội thời Trần chưa rõ, từ thời Lê đến trước năm 1945, hội xuân không lớn nhưng giữ vai trò quan trọng của Phật giáo Việt Nam nên đã được Đại Nam nhất thống chí ghi nhận. Hội không chỉ của tín đồ Phật giáo mà còn dịp du xuân của thanh niên. Hội bắt đầu vào rằm tháng giêng, kết thúc vào 22 tháng giêng. Nay hội kéo dài suốt tháng giêng nhưng trọng hội vẫn vào ngày 18. Hội thuần tuý về tôn giáo. Các cụ bà đến đây tụng kinh niệm Phật, thanh niên leo núi du xuân. Buổi tối có các trò diễn dân gian. Hội xuân tuy là hội chùa nhưng khách đến chủ yếu là thanh niên, nên có thể nói Hội xuân Côn Sơn là hội của thanh niên. Hội khá đông, mỗi năm có tới hàng chục vạn khách, tuy thế số khách sang Kiếp Bạc rất ít , chỉ bằng 1/5 khách của Côn Sơn
    Hội thu trùng với hội Kiếp Bạc, đây là một thứ hội kép, hội liên danh Côn Sơn -Kiếp Bạc, bởi hai di tích chỉ cách nhau 6km và đường qua lại khá thuận tiện. Trong số khách đến Hội Kiếp Bạc có tới 2/3 sang Côn Sơn, ngược lại , khách đến hội thu Côn sơn đều sang Kiếp Bạc. Như vậy khách đến hội thu Côn Sơn chỉ bằng 2/3 lượng khách của Kiếp Bạc. Hội thu Côn Sơn kéo dài suốt tháng 8, trọng hội là ngày 18 , mặc dầu giỗ Nguyễn Trãi vào ngày 16.
    Hội xuân và hội thu Côn Sơn là hai lễ hội bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của danh nhân, nhưng tính kỷ niêm rất mờ nhạt mà chỉ nặng về du lịch và tín ngưỡng.
    Hội xuân và hội thu Côn Sơn rất lớn nhưng ở đây không có truyền thống hội chợ. Hàng quán tuy có nhưng chủ yếu phục vụ ăn uống và lưu niệm mà thôi.



    Lễ hội đền Kiếp Bạc



    Lễ hội Kiếp Bạc là lễ hội có quy mô quốc gia. Nó được hình thành từ sau khi Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo qua đời, đến nay, hội ngày càng đông, giữ vai trò to lớn trong đời sống văn hoá và tín ngưỡng của dân tộc, vì vậy được các triều đại quan tâm, bảo tồn, phát huy.

    Mỗi mùa hội khách thập phương về dự có tới chục vạn người, dưới sông hàng nghìn con thuyền lớn nhỏ, trên bộ hàng vạn xe cộ ngược xuôi, trống phách vang lừng, cờ bay phất phới, không chỉ những thứ tốt đẹp nhất của thời đại được trưng diện mà thuần phong, mỹ tục, tinh hoa văn hoá dân tộc cũng được tái hiện, nâng cao.
    Thật hiếm có một di tích lịch sử, một ngôi đền nằm ở biên giới hai xã, hai tổng, hai huyện, hai phủ, hai trấn mà sau này gọi là hai tỉnh...
    Đền Kiếp Bạc nguyên là ngôi đền của quốc gia, do triều đình nhà Trần xây dựng tại phủ đệ Trần Hưng Đạo, thuộc địa phận hai xã Vạn Yên và Dược Sơn. Vạn Yên có tên nôm là Kiếp, Dược Sơn có tên nôm là Bạc, vì thế mà dân gian gọi là đền Kiếp - Bạc, nhưng tên tự của đền là Trần Hưng Đạo Vương từ. Vạn Yên từ thời Lê đến thời Nguyễn thuộc tổng Trạm Điền, huyện Phượng Nhãn ( Phượng Sơn ) phủ Lạng Giang, xứ rồi trấn Kinh Bắc . Dược Sơn thuộc tổng Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn, đến đầu thể kỷ XVIII, cắt chuyển về trấn Hải Dương. Còn Vạn Yên đến năm 1899, mới chuyển về Hải Dương, nhưng lễ hội vẫn thuộc hai làng cùng tổ chức. Từ sau CM tháng Tám đến nay, Dược Sơn và Vạn Yên chỉ là hai thôn của một xã Hưng Đạo,nhưng việc tế lễ ở đền vẫn do hai làng song hành thực hiện.
    Căn cứ vào vị trí chiến lược của Kiếp Bạc trong sự nghiệp giữ nước, sau cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất,Trần Hưng Đạo đã lập phủ đệ ở Kiếp Bạc, đồng thời cũng là nơi ông được phong điền kiến ấp và sống ở đây cho tới khi qua đời.
    Kiếp Bạc còn là nơi diễn ra trận quyết chiến chiến lược năm 1285, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ hai, một trung tâm sản xuất đồ gốm ở TK XIII-XIV, một cảnh quan đẹp mặc dầu nay đã phôi pha. Chính vì thế mà nơi đây đã in dấu chân danh nhân nhiều thời đại (xem mục Di tích).
    Thời kỳ Pháp xâm lược , hội Kiếp Bạc vẫn được nhân dân tổ chức trọng thể. Sau CM tháng Tám, danh nhân được kỷ niệm đầu tiên là Trần Hưng Đạo, lễ hội được tổ chức đầu tiên là lễ hội Kiếp Bạc. Sau ngày miền Bắc được giải phóng, Kiếp Bạc là một trong những di tích được nhà nước quan tâm, liệt hạng vào đợt đầu vào ngày 28/4/1962
    Lễ hội Kiếp Bạc bắt nguồn từ kỉ niệm ngày mất của Trần Hưng Đạo, ngày 20 tháng tám năm Canh Tý ( 1300 )
    Lễ hội xưa bắt đầu từ 16.8 đến 20.8 âm lịch hằng năm. Nay đã khác, hội bắt đầu sớm hơn và kết thúc muộn hơn, tuy nhiên trọng hội vẫn là ngày 18 tháng 8 . Khách không chỉ đến Kiếp Bạc vào ngày hội mà quanh năm suốt tháng với số lượng ngày càng đông. Đền Kiếp Bạc còn ngày lễ trọng thứ hai vào 28.9 , ngày mất của Thiên Thành công chúa-phu nhân của Đại vương, nhưng ngày này không thành hội , chỉ có hai làng sở tại tổ chức tế lễ cùng vài đoàn khách xa.
    Những người được thờ trong đền Kiếp Bạc có: Trần Hưng Đạo, Thiên Thành công chúa -phu nhân đại vương, Hoàng thái hậu Quyên Thanh công chúa- phụ nhân Trần Nhân Tông, Anh Nguyên quận chúa- phu nhân Phạm Ngũ Lão. Năm vị này có tượng đồng. Ban thờ bốn con trai: Trần Quốc Hiến (Hiện), Trần Quốc Nghiễn, Trần Quốc Tảng, Trần quốc Uy(Uất), Yết Kiêu, Dã Tượng và gia tiên chỉ có bài vị và ngai thờ, quan Nam Tào, Bắc Đẩu có tượng đồng nhưng thờ trên núi Nam Tào, Bắc Đẩu.

    Thời trước Cách mạng, tuỳ từng năm mà chủ tế là quan triều hay quan tỉnh, thực hiện theo nghi thức quốc tế. Theo thông lệ thì quan tri huyện chịu trách nhiệm tổ chức lễ hội. Đây là công việc lớn, phức tạp, gồm nhiều công việc khác nhau về tiếp khách, nơi ăn, nghỉ, vui chơi, tế lễ, kiểm két, vệ sinh, an ninh cho hàng vạn khách hành hương từ mọi miền đất nước, từ quan triều cho đến thứ dân trong thời gian 5 ngày.Từ ngày 10 tháng 8, Tri huyện cùng các nhà chức trách của huyện xuống đền cắm đất, chia ô cho những người bán hàng phục vụ lễ hội, chỉ đạo việc vệ sinh, phân công trách nhiệm từng bộ phận, công bố những quy định về lễ hội.
    Về an ninh: Trương tuần hai xã phải trực tại đền cùng với số đinh tráng theo quy định. Lính khố xanh của huyện đóng tại hai nhà các, hai chánh tổng của Trạm Điền và Chi Ngãi (Ngại) trực ở hai hành lang. Mọi người làm việc tậm tâm, chu đáo, lịch sự.
    Bộ phận an ninh hướng dẫn việc dựng quán bán hàng, đậu thuyền theo quy định, giữ trật tự, vệ sinh trong quá trình lễ hội, không thu tiền bến bãi.
    Phần lễ: Ngày 10 tháng 8 làm lễ mở cửa đền, chuẩn bị cho lễ hội hằng năm, đây là môt việc làm chiếu lệ, thực tế thì đền ngày nào cũng mở cửa tiếp khách.
    Lễ vật khai hội : Làng Vạn sắm 8 mâm, mỗi mâm một lợn sống khoảng 70-80 kg, đại diện cho 8 giáp. Dược Sơn 4 mâm tương tự, đại diện cho 4 giáp. Về bánh trái có: Bánh trong, bánh bột lọc, bánh chằng gừng, bánh rán, bánh phu thê, xôi mầu và mâm ngũ quả.
    Trên đây là lễ vật của hai xã sở tại theo lệ, còn lễ vật của khách thập phương, quan lại các cấp thì có thể nói, cuộc sống đương đại có gì quý báu thì trên mâm lễ có thứ đó. Riêng dân chài lưới ở vùng duyên hải về hội, thường có lợn quay hay lợn sống để cả con, tế lễ xong mang xuống thuyền làm cỗ, ăn dần trong những ngày hội.
    Văn tế Đức thánh Trần Triều ngày trọng hội của bản xã, do chủ tế đọc:
    Bát nguyệt, nhị thập nhật, chính kỳ tế văn
    Duy:
    Tuế thứ(Can Chi), bát nguyệt, nhị thập nhật.
    Hải Dương tỉnh, Chí Linh huyện, Trạm Điền tổng, Vạn Yên xã; kỳ lão, sắc mục, lý hương dịch toàn xã, thượng hạ đẳng, cẩn dĩ khiết sinh, cụ soạn, phù lang thanh chước, thứ chi nghi cẩm kỳ cáo vu.
    Thánh vương Trần triều, khâm sai thiết chế, thống lĩnh thiên hạ thuỷ bộ chư doanh, đại nguyên soái, tổng quốc chính, Thái sư Thượng phụ, Thượng quốc công, Nhân vũ Hưng Đạo Đại vương, lịch triều phổ tặng khai quốc an trinh, hồng đồ tá tự, hiển linh trác vĩ, minh đức chí nhân, phong huân hiển liệt, chí trung, đại nghĩa, dực bảo trung hưng, thượng đẳng tôn thần, ngọc bệ tiền.
    Nguyên Từ quốc mẫu, Thiên cảm thái trưởng công chúa, ngọc bệ hạ tiền.
    Cung duy: Thanh vương sơn nhạc giáng thần, càn khôn chung khí, nãi vũ, nãi văn, chí tinh, chí tuý, nội tham thứ chính áo, trần tộ ư Thái sơn, ngoại đổng binh nhung, điển hồ nguyên ư đẳng thuỷ quốc tôn thần, gia tôn, tử thịnh, lưu đức thanh sử chi thư. Sinh danh tương, hoá danh thần, dư uy hiệp cường hồ chi quỷ, anh linh hiển hách, hạp kiếm minh nhi phạm nghiệt quỷ tiêu, đức trạch tại nhân phương độ mạc, nhi dương nhân khang,. tỉ dương dương chính khí, thiên thu chi hương hoả, nhi tân ngột ngột, sùng từ vạn cổ chi tinh linh phấy truy, từ nhân tiên khuất thu, nhật kỳ, lễ dụng trần chu nghi tái tự, phục vọng giám thử. Thành tuy chi phúc, bạ đẳng lương thiếp thế, kính vu an ninh vật ấp nhân khang, tề tư dân vụ thọ chỉ.
    Đinh loại
    Kính phối:
    Thanh vương nhiên, tướng âm phù chi đại đức dã.
    Khải thánh vương phụ, Khâm minh đại vương.
    Khải thánh vương mẫu, kiền chúa chính trị phu nhân Thiên đạo quốc mẫu.
    Tứ vương thánh tử đại vương.
    Nhị vị vương nữ Hoàng thái hậu.
    Trần triều điện suý, thịnh chưởng chiêu cảm hùng văn Phạm đại vương tôn thần.
    Tiền hậu văn võ lưỡng ban, quan lĩnh đồng phối hưởng.
    Cẩn cáo.
    Văn tế của quan triều hay quan tỉnh tuỳ từng năm mà soạn, nhưng phần căn bản vẫn phải có nội dung như trên.
    Khách thập phương đến hội, công việc đầu tiên là phải lo phần lễ. Thông thường hội rất đông, không phải lúc nào cũng tới được trước thần tượng Đại vương, tìm được chỗ đặt mâm lễ lại càng khó. Vào những ngày hội, mỗi ngày có hàng trăm đoàn tế lễ. Người ta thường cử người đội lễ, làm các lễ nghi ở tiền tế hoặc ngoài sân, rồi vào thắp hương các ban thờ. Hiện nay việc thắp hương trong cung vào những ngày ngày hội đã bị cấm, người ta chỉ có thể khấn vái cầu phúc. Những người không biết khấn có thể nhờ các ông đồng, bà cốt khấn giúp, chỉ cần cho địa chỉ, tên họ và những yêu cầu cụ thể, tất nhiên là phải mất tiền.

    Bài khấn nôm hiện nay cho người đến nhờ lễ.

    Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
    Hôm nay ngày ...tháng...năm(can chi)
    Con chắp tay con lạy chín phương trời, mười phương đất, chư Phật mười phương.
    Con lạy Trần triều hiển thánh Vương phụ, Vương mẫu, con lạy gia phong Nhân vũ Hưng Đạo Đại vương.
    Con lạy Trần triều hiển thánh Hưng Đạo Đại vương.
    Con lạy tứ vị thái tử Hưng Đạo Đại Vương.
    Con lạy đệ nhất vương cô Quyên Thanh công chúa, văn võ song toàn, phu nhân tướng quân Phạm Ngũ Lão.
    Con lạy tả quan Nam Tào, hữu quan Bắc Đẩu.
    Và những điều cần cầu cho chủ lễ.

    Lệ công đức: Vào dịp hội khách thập phương ít hay nhiều đều bỏ tiền công đức để tỏ lòng thành trước thần tượng đức thánh, góp phần bảo tồn di tích. Người nghèo bỏ một hai xu, người giầu có khi bỏ vài chỉ vàng vào hòm công đức, ngày nay người ta có thể công đức hàng chục triệu đồng. Đây chưa kể vào các dịp trùng tu tôn tạo, có người công đức vài lạng vàng, hàng chục lạng bạc, hàng trăm quan tiền. Ngoài tiền bạc, người ta còn công đức các đồ tế khí hoặc những đồ dùng thiết thực cho nhà đền. Đây là tài sản quan trọng góp phần làm cho đền ngày càng khang trang. Hiện nay, lệ công đức bằng tiền và hiện vật không kém thời phong kiến, có người trong lễ hội công đức tới vài chục triệu đồng. Câu đối đại tự không còn chỗ treo.
    Từ xưa tới nay, hội đền đồng thời cũng là hội chợ. Hàng quán ken dầy dọc hại bên đường từ cửa đền ra bờ sông, từ Nam Tào lên Bắc Đẩu. Người ta mang đến đây đủ loại hàng thiết yếu cho sinh hoạt gia đình và tín ngưỡng như: Đồ gốm, đồ đông, đồ gỗ sơn , quần áo, mũ , nón, võng, chiếu; các loại đồ trang sức, đồ chơi của trẻ em; các loại hàng ăn, các loại lương thực thực phẩm phục vụ sắm lễ tại chỗ.
    Việc tế lễ và rước sách được thực hiên theo một thể thức theo quy định của hai làng. Khách thập phương đến tế lễ do ban tổ chức hướng dẫn.
    Đồng bóng, mê tín dị đoan ở đền xưa khá nặng nề. Dân gian quan niệm rằng, Trần Hưng Đạo là một vị thánh, đánh thắng giặc Nguyên Mông, cứu dân độ thế, lại diệt được Phạm Nhan, tên Việt gian thường làm hại phụ nữ, vì thế cứ vào dịp hội, bất cứ việc gì khó khăn trong đời sống là người ta cầu xin đức thánh Trần phụ hộ. Dựa vào tâm lý này, mà các ông đồng bà cốt tác oai tác quái không nhỏ.
    Hội trước CM có nhiều trò vui dân gian như: Đấu vật, bơi trải, múa rối, tuồng, chèo... Bơi trải không chỉ là một trò vui mà còn như một nghi lễ để tế đức thánh, vì sinh thời, Đại vương có biệt tài thuỷ chiến. Hội vui nhất về ban đêm, vì phần lớn trò vui diễn ra ban đêm, trong đó có hàng chục chiếu chèo biểu diễn nhiều tích khác nhau tại sân đền. Khách lưu qua đêm hàng vạn người, không có nhà khách nào chứa nổi. Người ta ngủ trên thuyền, trong các nhà dân, nhưng phần lớn ngủ tại hành lang, sân đền và trong các quán hàng dọc theo bờ sông trước cửa đền. Những đêm dự hội như thế có thể trở thành kỷ niệm suốt cả đời người, thậm chí có đôi trai gái trở thành vợ chồng sau những ngày hội.
    Hội Kiếp Bạc là hội lớn của đất nước, hội lớn nhất của Hải Dương, có lịch sử 7 thế kỷ, được mọi tầng lớp nhân dân hưởng ứng nhiệt thành, được nhà nước quan tâm. Trong 10 năm lại đây, đồ tế tự nhân dân cung tiến trị giá hàng trăm triệu đồng, tiền công đức cũng tới hàng tỷ đồng, nhà nước đầu tư các hạng mục cũng rất lớn. Việc tổ chức lễ hội, quản lý các mặt hoạt động đã đạt được kết quả đáng kể, các tệ nan đã được khắc phục cơ bản. Lượng khách đến lễ hội hằng năm và tham quan di tích ngày càng tăng. Đây là cơ hội tốt để nâng cao tinh thần yêu nước, hun đúc lòng tự tin vào sức mạnh dân tộc trước hoạ xâm lăng, xây dựng nếp sống lành mạnh, tạo điều kiện cho du lịch phát triển.
  10. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    Trò vui dân gian trong những ngày hội



    Trong những ngày hội, ngoài phần lễ là các trò diễn dân gian, những trò này không chỉ lấy làm vui mà còn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Từ trò diễn dân gian mà cha ông ta đã nâng lên thành các bộ môn nghệ thuật truyền thống. Có những trò vui trở thành phổ biến trong các lễ hội như : hát chèo, hát quan họ, đấu vật, kéo co, chọi gà..., có những trò vui chỉ có ở từng hội, như: đánh thó ở hội Cối Xuyên (Gia Lộc), thi quăng chài ở hội Từ Xá( Thanh Miện), thi mâm ngũ quả ở Chùa Minh Khánh(Thanh Hà)...Dưới đây là những trò vui thường thấy trong những ngày hội ở Hải Dương.

    1-Hát chèo hay còn gọi là chèo sân đình. Nói sân đình là nói tính phổ biến, trong thực tế người ta ta có thể biểu diễn ở sân chùa, sân đền...Chèo nguyên thuỷ không có sân khấu, người ta giải chiếu ra sân rồi biểu diễn, người xem có thể đứng, ngồi xung quanh. Xưa gọi là đi xem hát, vì vừa nghe hát vừa xem biểu diễn, tức là nghe và nhìn. Các tích chèo sân đình hầu hết là tích cổ điển, như: Phạm Tải Ngọc Hoa, Trống Trân Cúc Hoa, Trương Viên, Tấm Cám, Nhị Độ Mai, Lưu Bình Dương Lễ...Khi diễn ở địa phương nào, người ta lại sáng tác một vài đoạn, lấy từ sự tích địa phương vào phần giáo đầu để được lòng chủ và cũng vui lòng khách.
    2-Hát ca trù hay còn gọi là hát cô đầu, khi biểu diễn chỉ có một cô đào vừa gõ sênh vừa hát một làn điệu gọi là ca trù và một nhạc công đánh đàn tam, một người kéo nhị hoặc hồ, bên ngoài có một người cầm chầu, tức là người đánh trống chầu giữ nhịp, hết một câu lại gõ tom, chát. Người đánh trống chầu thường là các vị chức dịch trong các làng xã. Những cô đào tài hoa có thể vừa kéo nhị, vừa gõ sênh vừa hát, không cần nhạc công.
    3-Hát đúm hình thành do những người đi cấy, đi cày, làm cỏ đồng, những cô cắt cỏ bên sông với những anh lái đò dọc, rồi trở thành trò vui trong các ngày hội làng mùa xuân, mùa thu. Ví dụ:
    Lời anh lái đò dọc:
    Hỡi cô cắt cỏ bên sông,
    Có muốn lấy chồng thì xuống với anh.
    Lời cô cắt cỏ:
    Anh ơi ghé mũi lại đây,
    Để em xắn váy bước vào mũi anh.

    Ngày nay người ta còn ghi được một số câu hát đúm, lời thơ mộc mạc, chất phác nhưng cũng rất ý nhị, sâu sắc, để từ đó ra đời những câu ca dao bất hủ cùng năm tháng. Quá trình hát đối đáp, người ta có thể lấy các tích trong truyện cổ, truyện nôm, ca dao, rồi sáng tác một vài câu cho phù hợp với hoàn cảnh và tình cảm của từng người, từng bên. Khi hát người ta chia làm hai phe, nam một bên, nữ một bên, mỗi phe 5-10 người, kể cả người xui hát, đứng cách xa nhau chừng 20-30m như ở hai bên sân đình, hồ đình hoặc hai bên bờ sông hẹp để có một khoảng cách cần thiết, nhưng cũng không xa quá để khi hát có thể nghe rõ, nếu ban ngày có thể nhìn rõ mặt nhau. Khi hát con trai thường hát trước.
    4-Hát trống Quân là một cách hát theo nhịp một loại trống đặc biệt, lời theo thể thơ lục bát. Theo truyền thuyết hát trống quân có từ thời Hai Bà Trưng và tồn tại đến nay. Trống được tạo ra trên một mảnh đất bằng phẳng, người ta đào một cái hố sâu rộng chừng 50cm, kiểu hàm ếch, trên đặt một mâm gỗ, tương tự như một mặt trống; đóng một cọc cách hố chừng 15m, chăng một dây thừng qua mặt mâm đến đầu cọc. Khi hát, người ta lấy một đoạn tre dài khoảng 40cm, đánh lên đoạn dây trên mặt mâm, theo nhịp hát, tạo ra một âm thanh trầm ấm đặc biệt. Có thể thay mâm gỗ và dây thừng bằng mâm thau và dây thép nhưng âm thanh không trầm ấm như mâm gỗ, thứ âm thanh gợi nhớ về một quá khứ xa xăm của dân tộc. Hát trống quân cũng như hát đúm, chia làm nhiều nhóm, nhiều lứa tuổi khác nhau; nam một bên, nữ một bên; người ta thường đứng cách nhau 20-30m, thường hát hai bên hồ hay bên sông, hát trống quân thường diễn ra vào mùa thu, giữa tuần trăng sáng, từ chập tối đến nửa đêm.

    5-Múa rối nước là một loại hình múa rối, sân khấu đặt trên mặt nước, người ta điều khiến con rối ngầm dưới nước, tạo nên sự bất ngờ và sinh động, đây là một loại hình nghệ thuật độc đáo của Việt Nam. Hải Dương có hai phường trò rối nước nổi tiếng là Bồ Dương(Ninh Giang) và An Liệt( Thanh Hà).
    6-Đi cầu kiều hay còn gọi là cầu thùm. Người ta chọn một cấy tre dài và thẳng, đặt gốc ở bờ, cách mặt nước chừng một mét; đóng hai cọc ở ao hay hồ cách bờ 6-7 mét, buộc dây vào ngọn tre ở tư thế thăng bằng, trên cọc có một cờ nhỏ. Ai di hết cầu, giật được lá cờ thì thắng cuộc. Nhiều người chỉ đi được một đoạn cầu đã rơi xuống nước, cùng vì thế mà gọi là cầu thùm. Trò vui đi cầu thùm nay vẫn còn nhưng không phổ biến như xưa.


    7-Bơi trải là trò vui khá phổ biến ở vùng sông nước Hải Dương, bắt nguồn từ truyền thống thuỷ chiến xa xưa. ở đền Quát(Gia Lộc) và Chùa Hào Xá( Thanh Hà) bơi trải không chỉ là một trò vui mà như một nghi thức tế thành hoàng. Thuyền bơi trải có thể đan bằng tre hoặc đóng bằng gỗ, kiểu thon dài, mũi nhọn, lướt sóng nhẹ nhàng, dài 8-9m, mỗi thuyền có từ 14-18 người, trong đó có một người cầm lái, một người gõ mõ cầm nhịp, mặc áo dài, thắt lưng đỏ, còn lại là những tay chèo, đóng khố, cởi trần. Khi thi người ta có thể cho từ 3-6 trải bơi cùng một lúc, nếu nhiều hơn phải chia làm nhiều đội đấu loại trước khi vào chung kết.

    8-Cờ người cũng là cờ tướng, bắt nguồn từ Trung Quốc, chỉ khác cờ tướng ở chỗ, quân cờ đóng bằng nam nữ chưa vợ, chưa chồng. Nam một bên, nữ một bên. Đóng tướng, sĩ phải là người có nhan sắc. Tướng trang phục như võ tướng, có hai lá cờ đuôi nheo cắm sau lưng rất oai vệ; sĩ đóng vai quan văn, đội mũ cánh chuồn chững chạc. Quân bên nữ mạc áo dài đỏ, chít khăn, thắt lưng xanh, đi hài thêu, môi son, má phấn. Nam mặc áo dài trắng, áo the ngoài, thắt lưng, chít khăn khác mầu bên nữ. Tướng ngồi ghế tựa, quân ngồi ghế đẩu; mỗi người cầm một biển gỗ, sơn son thiếp vàng, viết tên quân cờ hai mặt, có cán chừng một mét. Khi vào chơi cờ các đấu thủ phải qua khảo trịch. Khi đánh, hai đấu thủ vẫn đi trên bàn cờ thông thường; đi quân nào, có thừa sai phất cờ, dóng trống để quân đi đúng vị trí. Quân bị triệt, phải ra ngoài. Như vậy, người đi xem không chỉ xem đánh cờ mà còn được xem những người đóng quân cờ.

    9-Cờ Bỏi cũng là một hình thức đánh cờ người, nhưng quân không phải bằng người mà chỉ bằng những thẻ gỗ sơn son thiếp vàng, có cán dài chừng 1m, viết tên quân cờ hai mặt, cắm vào các ô đã định sẵm trên sân. Người đánh phải tự nhấc quân mà đi, trước khi đi phải có hiệu lệnh bằng trống bỏi. Cờ bỏi là một hình thức mở rộng bàn cờ để nhiều người được xem trong ngày hội.

    10-Tổ tôm điếm cũng như tổ tôm thường, chỉ khác là mỗi người đánh ngồi một điếm, 5 người ngồi ở 5 điếm cách nhau vài ba mét, trên một đường tròn, tuỳ theo sân rộng hay hẹp mà đặt các điếm cho phù hợp với không gian. Mỗi điếm có một giá cắm bài. Giữa sân có một điếm để chia bài, có giá để bài nọc. Nhưng nơi có điều kiện có thể che rạp cả sân để tránh mưa năng. Đánh bài có trống và thanh la làm hiệu, có người chạy bài giữa các điếm. Khi ăn bài hoặc dậy khàn, dậy thiên khai, hoặc ù đều có hiệu trống riêng, ví dụ: Ăn bài thì đánh một tiếng trống, phỗng thì đánh hai tiếng, dậy thiên khai đánh 4 tiếng, ù thì đánh liền một hồi, không ăn thì đánh một tiếng thanh la, khi còn lưỡng lự, suy nghĩ thì đánh một tiếng tùng, một tiếng cắc. Đánh sai hiệu lệnh thì không những không được ăn mà còn bị phạt.

    11-Đáo đĩa. Đánh đáo là một trò chơi phổ biến của trẻ em nam và có nhiều cách đánh khác nhau, nhưng chỉ có đáo đĩa là thu hút nhiều người trong ngày hội. Khi đánh người ta cắm ba bốn cộ tre xuống hồ, ao hay sông cách bờ ba bốn mét, cũng có khi đặt trên sân. Trên cọc đặt một cái nia, giữa nia để một cái đĩa cỡ 12cm. Người chơi gọi là con, người đứng ra tổ chức gọi là cái. Người chơi cầm đồng xu cả vào đĩa, đồng xu nằm trong đĩa thì được thường gấp bao nhiêu lần tuỳ quy ước của cái, khoảng cách xa hay gần, đồng nào bật ra ngoài nia thì cái thu, đồng nào văng ra ngoài nia thì người chơi được nhận lại.
    12-Đánh mãng. Nếu đánh đáo là trò chơi của con trai thì đánh mãng chủ yếu của con gái. Trò này phổ biến ở phía bắc Thanh Hà. Khi đánh các em vạch hai vạch thẳng trên sân phẳng, cách nhau khoảng 4m, vạch trên đặt đứng hai nửa viên gạch lục theo đường vạch, cách nhau chừng 1,5m. Mỗi lần có hai người chơi, mỗi người phải tự ghè một viên mãng bằng mảnh ngói mũi, đường kính khoảng 7cm. Khi chơi hai người đứng ở dưới vạch dưới. Động tác thứ nhất, cả hòn mãng vào hòn gạch, nếu đúng là được. Động tác thứ hai, đứng một chân, chân còn lại co lên, đặt hòn mãng trên đầu gối, nhấy lên 3 bước, tay hất hòn mãng xuống gòn gạch, nếu đúng là được. Động tác thứ ba, quặp hòn mãng vào khe ngón chân cái, ngẩy ba bước, văng vào hòn gạch, nếu trúng là được. đây chỉ là một trò chơi trong những ngày hội, chưa thấy ai lấy tiền của nhau nhưng được các cháu gái hướng ứng nhiệt liệt.
    Ngoài những trò chơi nói trên, trong nhừng ngày hội tuỳ tập quán từng nơi còn có các trò: Vật cầu, đá cầu, đánh phết, xông hệ, bịt mắt đập niêu, bịt mắt bắt dê, bắt vịt dưới nước, leo cột mỡ, đấu vật, kéo co, nấu cơm thi, thi quăng chài, thi mâm ngũ quả...

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này