1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Du Lịch Tâm Linh

Chủ đề trong 'Hồi ức về các chuyến đi' bởi xadieu_2000, 04/12/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    BỐI CẢNH THỜI ÐẠI VÀ DANH HIỆU CỦA ÐỨC PHẬT.
    -ooOo-
    Vào cuối thế kỷ 20 văn minh của nhân loại đang độ tiến lên cao điểm. Khoa học đã bay theo hỏa tiễn chinh phục vũ trụ. Với đà tiến của khoa học hiện đại, trong tương lai gần, con người có thể vượt không gian đến sinh sống ở nhiều tinh cầu ngoài trái đất. Viễn ảnh càng đẹp bao nhiêu thì thực tại con người càng còn nhiều lo âu bấy nhiêu. Bởi vũ khí hạt nhân, hóa học, chiến tranh tinh cầu cũng dễ dàng hủy diệt mọi văn minh tiến bộ khoa học, kể cả sinh mệnh nhân loại. Con người càng kêu gọi hủy bỏ vũ khí hạt nhân để đem lại hòa bình thì chính con người cũng đang chuẩn bị chiến tranh. Thực tế mâu thuẫn đó, chủ yếu là do con người chạy đua theo các cuộc chiến thắng ngoại tại mà quên chiến thắng nội tại. Theo Ðạo Phật, tự nội, con người biết thắng tham sân si... các tai họa chiến tranh hạt nhân, tinh cầu sẽ hết đe dọa, hòa bình lâu dài sẽ có mãi trên địa cầu này. Cách đây hơn 2.500 năm, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đã khám phá ra chân lý đó. Bởi thế, cuộc đời của Ðức Phật quả thật đáng cho chúng ta tìm hiểu, noi theo...
    Trong chiều hướng tìm hiểu Ðức Phật, trước hết chúng ta hãy nhìn lại bối cảnh thời đại và danh hiệu của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, để có một thái độ sống có ích cho bản thân và gia đình xã hội.
    I- BỐI CẢNH THỜI ÐẠI ÐỨC PHẬT.
    1)- Tổ chức chính trị, xã hội và kinh tế thời Ðức Phật.
    Từ nguyên thủy, thời cổ đại, khoảng 3.000 năm trước Tây lịch, dân địa phương của Ấn Ðộ có 3 thành phần là nông dân, du mục và doanh thương hàng hải. Người dân sống theo chế độ mẫu hệ, như giống Mun da ở Bắc Ấn, Dravida ở bình nguyên điền dã Sắc dân quy tụ thành thôn, xóm, gia tộc, tiến lên bộ tộc theo chế độ cộng hòa.
    Ðến thời giống người Aryan đến chiếm lĩnh, dân tiền trú trở thành nô lệ. Giống dân Aryan da trắng, thông minh, cường tráng. Họ sống theo chế độ phụ hệ. Kể từ đó, Ấn Ðộ khởi đầu tổ chức thành các tiểu bang. Khi đã định cư, người Aryan bỏ cuộc sống du mục. Nông nghiệp và thương nghiệp được bành trướng ở vùng ngũ hà (Panjab). Ðể củng cố thế lực, họ soạn Luật Manu chia xã hội thành 4 giai cấp: Bà La Môn, Sát Ðế Lợi, Phệ Xá và Thủ Ðà La.
    - Bà La Môn là hàng giáo sĩ giữ việc cúng tế, chiếm địa vị tối cao, cha truyền con nối. Họ tự cho là hàng Bà La Môn sinh ở đầu Thượng Ðế, Sát Ðế Lợi ở bụng, Phệ Xá sinh ở tay chân, còn Thủ Ðà La sinh ở dưới bàn chân Thượng Ðế. Ðế thánh hóa hàng tăng lữ, hầu dễ bề ngự trị xã hội, họ quy định cuộc đời của một Bà La Môn có 4 thời kỳ:
    1)- Phạm tư kỳ: Từ 7 đến 11 tuổi thời gian xuất gia học kinh Veda. Sau đó được trở về nhà.
    2)- Gia cư kỳ: Thời tráng niên lập gia đình, sinh hoạt bình thường, lo việc tế tự của người gia trưởng.
    3)- Lâm cư kỳ: Sau khi hoàn thành nghĩa vụ gia đình, người trung niên lại xuất gia vào rừng tu luyện thiền định, khổ hạnh.
    4)- Du hành kỳ: Thời lão niên, chuyên lo du hóa, sống đời sống khất sĩ hay hành giả, được mọi người tôn phụng.
    Giai cấp Sát Ðế Lợi: Những con người thiện xạ, cai trị mọi người, cha truyền con nối, ăn trên ngồi trước, xem đất nước là của riêng.
    -Giai cấp Phệ Xá: Gồm cả nông, công, thương, sống phải làm việc, có bổn phận cung phụng hai giai cấp trên. Họ bị bóc lột thậm tệ.
    -Giai cấp Thủ Ðà La: Kẻ cùng đinh gồm các giống người tiền trú. Vì là kẻ khốn cùng trong xã hội, họ phải làm nô lệ cho giai cấp trên. Ra đường gặp 1 Bà La Môn hay Sát Ðế Lợi, họ phải chạy trốn, nếu bị thấy liền được ăn đòn. Luật MANU còn quy định, nếu kêu tên Bà La Môn phải bị cắt lưỡi, không tuân lịnh lớp người cai trị sẽ bị đổ dầu sôi vào lỗ tai.
    2)- Tư tưởng và tôn giáo.
    Trước và trong thời kỳ Ðức Phật ra đời, Ấn Ðộ có đến những 96 đạo giáo. Từ đó, tư tưởng cũng rất đa dạng. Họ có 4 bộ Thánh điển vêda: Lê Câu Phệ Ðà (RigVeda) Dạ Du Phệ Ðà (Yayyr Veda) Sa Ma Phệ Ðà (Sama Veda) A Thát Bà Phệ Ðà (Athara Veda).
    Nội dung kinh Veda mang tính thần học, Phạm Thiên (Brahma) là bậc chí tôn, tạo lập vũ trụ, cai quản sinh linh. Con người từ đại ngã Brahmana sinh ra. Về sau, nếu biết tôn thờ Thượng đế, gắng sức tu khổ hạnh, con người sẽ trở về với tự ngã Atman để thể nhập với đại ngã Brahmana. Atman và Brahmana đều cùng chung một thể. Về sau còn có Áo Nghĩa Thư (Upanishad) văn cú trường mật nghĩa lý uyên bác hơn. Vào thời Ðức Phật khoảng 600 năm trước Tây lịch, tư tưởng triết học Bà La Môn không còn chiếm địa vị độc tôn. Lúc bấy giờ, những dòng tư tưởng và đạo giáo có thế lực là lục sử ngoại đạo, 6 phái triết học, Kỳ Na giáo, rồi Phật giáo.
    a)- Lục sư ngoại đạo.
    1)- Phái Ngẫu Nhiên - Phú Ða Ca Diếp (Purana Kassapà) sáng lập, không tin nhân quả, khổ vui, phúc họa đều là ngẫu nhiên. Phật giáo gọi là phái vô nhân quả. Giáo chủ phái này vốn là nô lệ sinh ở chuồng bò, sống với bò cho đến lớn. Sau bỏ qua Ðông Ấn, chủ Bà La Môn cho người đuổi bắt, lột hết quần áo. Từ đó ông mãi trần truồng, phủ nhận hết điều thiện, không ân cũng chẳng oán.
    2)- Phái Tự Nhiên: Mạt già Lê Câu Xá Lợi (Makphali Nosala) sáng lập, cho khổ vui, họa phước đều là tự nhiên mà có, không do nguyên nhân nào khác. Phật giáo gọi là Tà Mệnh ngoại đạo.
    Giáo chủ này nhân đi hành hương, gặp trời mưa vào núp ở chuồng bò, bà vợ sanh Nosala thì trời hết mưa, quang đãng. Vì thế khi trở thành giáo chủ, Nosala tuân hành qui luật an bài tự nhiên, con người phải phụng hành. Theo phái này sinh vật do 12 yếu tố vừa vô hình vừa hữu hình tạo nên. Ðó là linh hồn, đất, nước, gió, lửa, hư không, điều được, điều mất, điều khổ, điều vui, luật sinh và luật tử. 12 nhân duyên như cuộn chỉ. Nếu cuộn chỉ bung ra là hết tội. Việc ném cuộn chỉ, sợi chỉ rối, đứt là mệnh con người được giải thoát.
    3)- Phái Duy Vật Khoái Lạc: A-di-ta Thúy Xá khâm Bà La (Ajitakesa Kambali) sáng lập. Chủ trương: Con người do địa, thủy, hỏa, phong hợp thành. Chết là hết. Bởi thế con người tự do hưởng lạc, đối lập với phái khổ hạnh, dùng vải có thêu bằng tóc làm cà sa. Phật giáo gọi phái này là Thuận Thế Ngoại Ðạo.
    4)- Phái Sinh Mệnh và Vật Chất Thường Còn: Bà Phù Ðà Ca Chiến Diên (Pakudha Katy ayana) sáng lập, cho vạn vật do 7 yếu tố hợp thành. Ðó là: Ðất, nước, gió, lửa, khổ, vui và sinh mệnh. Sinh tử luân hồi điều do 7 yếu tố này tụ hay tán mà thành. Nhưng 7 yếu tố lại thường còn bất diệt.
    5)- Phái Hoài Nghi - Tán Nha Gia Tỳ Lệ Tử (Sanjava Bahatthpiutta) lập, cho chân lý có thể biến đổi, tu đạo là vô ích, cần chuyên tu thiền định là được. Ðây là bất khả tư nghị luận. Lời giáo chủ nói: Kìa như con **** sờ sờ ra đó, nắm được nó, rồi nó cũng chuồn đi mất, huống những điều nắm không được, nhìn không thấy thì căn cứ vào đâu mà quyết đoán.
    6)- Phái Khổ Hạnh: Ni Kiền Ðà Nhã Ðế Tử (Nlgantha-Nàtadatta) lập, cho khổ, vui, họa, phúc đều do nghiệp tiền định. Con người cần ép xác, khổ hạnh mới mong giải thoát được tiền nghiệp.
    b)- Sáu phái triết học.
    1)- Số luận (Samkhya) triết thuyết là nhị nguyên luận, dung hòa giữa tinh thần và vật chất. Tinh thần rất linh hoạt tự tại, kết hợp với vật chất để hình thành sinh vật. Tinh thần hay linh hồn luôn luôn bất động, còn vật chất thì biến động. Cả hai kết hợp với nhau theo ba nguyên chất, gọi là 3 đức: Hỷ, Ưu và Ám. 2)- Thắng luận (Vaisesika): Chủ trương (âm thanh thường còn). Duy vật đa nguyên, chống lại hữu thần luận. Vũ trụ tạo thành bởi sáu nguyên lý hay sáu cú nghĩa: Thục, đức, nghiệp, đồng, dị và hòa hiệp. Con người phải tự chế ý dục theo pháp Yoga mới được giải thoát.
    3)- Chính lý luận (Nyàya) còn gọi là nhân minh luận. Triết lý đa nguyên phản đối thuyết "thanh thường còn". Cho âm thanh là vô thường. Con người đầy khổ não, nguyên nhân do nghiệp. Cần diệt nghiệp để giải thoát. Phái này chuyên về lý luận giống luận lí học phương tây, chỉ khác là tây phương chia ra ba giai đoạn gọi là Tam đoạn Luận. Còn phái này có đến 5 giai đoạn:
    - TÔN: Âm thanh là vô thường.
    - NHÂN: Vì có sanh ra.
    - DỤ: Như các vật thể, cái bàn chẳng hạn.
    - HỢP: Cái gì có sinh tất có diệt
    - KẾT: Bởi thế âm thanh là vô thường.
    4)- Di Man Tác (Minàm Sa): Quan niệm "Thanh thường trụ", dù qua muôn vạn kiếp sinh diệt, lời nói của thần, thánh điển vẫn còn mãi. Do đó, phái này rất tôn trọng giáo quyền, giải thích lời Thần và bảo tồn nghi thức tôn giáo. Con người muốn giải thoát, trong hiện tại phải có đức hy sinh.
    5)- Du Già (Yoga): Phương pháp tu tập là thiền định, trầm tư mặc tưởng. Có thể mới đạt đích, ta với thần có thể tương hợp, thông cảm nhau, khi được xuất thần. Thiền định qua tám giai đoạn: Cấm chế (không sát, đạo, dâm, vọng, tham). Khuyến chế (thanh tịnh, mãn định, khổ hạnh, học kinh điển, tinh thần), Tọa pháp (điều thân), Ðiều tức (điều hơi thở), Chế cảm (ngừa 5 căn), Chấp trì (tập trung tư tưởng), Tĩnh lự (lắng động tâm tư), Ðẳng trì (vắng lặng như hư không, cảnh giới sáng hạn, thần ngã giải thoát tự tại).
    6)- Phệ Ðàn Ðà (Vedanta) quan niệm thế giới sai biệt do Phạm thiên tạo ra. Phạm thiên là năng lực chứ không phải vật chất. Khí thế gian và hữu tình được tạo dụng, qua 5 yếu tố: Hư, không, gió, lửa, nước và đất. Con người bi?t trở về với Atman thể nhập với Brahman và được giải thoát.
    c)- Kỳ Na Giáo (Jai na):
    Ni Kiền Tử (Nataputta) chủ trương vật chất luận: Phạm trù tư tưởng là thực thể. Ðó là trạng thái sinh mệnh yếu tố, chia thành 5 thứ:
    - Không: Nguyên lý bao trùm mọi nơi.
    - Pháp: Nguyên lý vận động.
    - Phi pháp: Nguyên lý đình chỉ.
    - Vật chất: Nguyên lý tạo thành nhục thể.
    - Thời gian: Nguyên lý biến hóa.
    Phương pháp tu hành theo truyền thống độc thân, lõa thể, khổ hạnh, khất thực và giữ 5 giới (sát, đạo, dâm, vọng và không cất giữ châu báu). Vào thế kỷ thứ III có một số đạo sĩ không tuân luật, lõa thể, tách lập một phái, chuyên mặc áo trắng gọi là phái bạch y.
    d)- Ðạo Phật, một tôn giáo cách mạng xã hội tư tưởng:
    Tình trạng chính trị xã hội, kinh tế và tư tưởng tôn giáo Ấn Ðộ vào thời Ðức Phật hoàn toàn bế tắc. Chính trị xã hội bất công, đối kháng lên đến cực điểm. Giai cấp Phệ Xá và Thủ Ðà La sống trong uất hận, xem trần gian như một địa ngục, tư tưởng tôn giáo phức tạp, quần chúng không còn niềm tin.
    Theo kinh Brahmajala, với tư tưởng tôn giáo phức tạp của Ấn Ðộ thời bấy giờ, Phật tóm tắt trong kinh Angattara Nikaya, qua 62 ý kiến, lý thuyết thế giới và con người, bắt nguồn từ quan niệm tin vào bản ngã (Brahman, Atman). Từ đó có thể chia thành ba khuynh hướng sai lệch.
    - 1/ Thần ý luận: Tin vũ trụ con người do thiên lý an bài.
    - 2/ Túc mạng luận: Cho con người do tiền nghiệp định đoạt.
    - 3/ Ngẫu nhiên luận: Sự vật, hiện tượng đều ngẫu nhiên.
    Cả ba khuynh hướng phủ nhận vai trò con người đối với cuộc đời và cả thế giới khách quan.
    Kết quả sinh ra hai xu hướng: Trốn đời khổ hạnh và thuận đời hưởng lạc thú vật chất. Giữa lúc gần như hỗn mang có một vị cứu tinh xuất hiện, đó là Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật đánh đổ chế độ giai cấp, biểu thị là trong Tăng đoàn của Ngài mọi người đ?u bình đẳng. Phật nói: Bốn giai cấp gia đồng qui họ THÍCH (tứ tính xuất gia, đồng qui thích thị). Với vũ trụ vạn hữu Phật xướng minh thuyết duyên sanh, với nhân sanh, Phật khuyên tu theo con đường trung đạo.
    II- DANH HIỆU VÀ DÒNG HỌ ÐỨC PHẬT.
    Danh hiệu của Phật là THÍCH CA MÂU NI (Sakya Muni), tên là TẤT ÐẠT ÐA (Siddhatta), họ GOTAMA. Tiếng Phạn là Thích Ca Mâu Ni, Trung Quốc dịch là Năng Nhơn (Thích Ca, Sakya) và Tịnh Mặc (Mâu Ni, Muni), có nghĩa là dòng họ hay làm việc nhân từ và ưa vắng lặng. Danh hiệu Phật biểu thị từ bi và tri giác. Phật là một con người đầy đủ nghị lực, dũng mãnh chiến thắng cả nội lẫn ngoại ma, bước lên địa vị giải thoát sinh tử luân hồi, gọi đó là năng. Phật còn có lòng thương không bờ bến, gọi đó là nhân. Phật cũng không bao giờ bị mù quáng trước những cám dỗ của cuộc đời, thể nhập với bản thể thanh tịnh, vắng lặng, gọi đó là tịch mặc. Phạm trù triết học gọi là ý chí, tình cảm và lý trí. Phật thuộc dòng họ Cù Ðàm (Gotama) nên Phật có tên đời là TẤT ÐẠT ÐA, Trung Quốc dịch là Nhất Thiết Nghĩa Thành (mọi sở nguyện đều thành tựu).
    Dòng họ GOTAMA từ viễn tổ Chung Sử Hứa đến Tất Ðạt Ða có 7 đời, kế thừa như sau: Ðại Thiên Sanh Vương, Sư Ma Ý, Ưu Ðà La, Cồ La, Sư Tử Giáp, Tịnh Phạn Vương, Tất Ðạt Ða.
  2. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    Thập đại đệ tử của đức Phật Thích Ca:
    1: Ngài Xá Lợi phất
    2: Ðức Mục Kiền Liên
    3: Ngài Phú Lâu Na
    4: Ngài Tu Bồ Ðề
    5: Ngài Ca Chiên Diên
    6: Ngài Ðại Ca Diếp
    7: Ngài A Na Luật
    8: Ngài Ưu Ba Ly
    9: Ngài A Nan Ða
    10. Ngài La Hầu La
    Những đệ tử đặc thù của Phật
    I. - Bốn chúng đại đệ tử
    II.- Những đệ tử đặc thù của Phật
    1 - Chu Ly Bàn Ðà Già
    2 - Kiều Trần Như
    3 - Ưu Lần Tần Loa Ca Diếp
    4 - Văn Nhị Bách Ức
    5 - Ma Ha Bà Xà Ba Ðề
    6 - Liên Hoa Sắc
    7 - Cư sĩ Tu Ðạt
    8 - Ưu Ðà Di Tỳ Xá Khư
  3. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    Sau đây là Ngọc Xá lị của 1 trong những 10 Đại đệ tử của đức Phật Thích Ca:
    ngài CA CHIÊN DIÊN:
    [​IMG]
    ngài VEN VASPA ( chưa hiểu tương ứng vị nào trong 10 đại đệ tử):
    [​IMG]
    ngài KIỀU TRẦN NHƯ:
    [​IMG]
    Xá lợi hàm răng:
    [​IMG]
    [​IMG]
    Vì không mang ống tele nên chỉ chụp phóng to được một số Xá lị của Phật tổ Như Lai và 10 đại đệ tử của Ngài. Đó cũng chính là hình ảnh cuối cùng kết thúc viên báu vật Ngọc Xá lị.
  4. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    Tượng Phật ngọc lớn nhất thế giới sẽ đến miền Bắc
    Tượng Phật ngọc sẽ được cung nghinh về cái nôi đầu tiên của Phật giáo Việt Nam là ngôi cổ tự Phật Tích (xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) từ 16 đến 22/5.
    > Hàng nghìn người chiêm bái tượng Phật ngọc
    Tượng nặng 4,5 tấn và cao hơn 4m, được chế tác điêu khắc từ một khối ngọc vĩ đại đã được phát hiện tại Canada vào năm 2000. Pho tượng Phật ngọc đã trở thành báu vật của Phật giáo đồ trên toàn thế giới.

    Pho tượng Phật ngọc cao 3,5 mét nặng 4,5 tấn được trưng bày tại chùa Phổ Quang. Ảnh: Nguyễn Hà.
    Với hơn 8 năm miệt mài làm việc, hơn 30 nghệ nhân, chuyên gia điêu khắc quốc tế, các nhà nghiên cứu Phật học Thái Lan, Nepal, Miến Điện, Ấn Độ, Australia? đã được hoàn thành pho tượng Phật ngọc.
    Việt Nam là quốc gia sớm được cung nghinh Phật ngọc này. Đà Nẵng, Vũng Tàu là những địa danh đầu tiên được cung rước tôn tượng. Đông đảo nhân dân và Phật tử cũng đã về TP HCM trong những ngày qua để chiêm bái Phật ngọc.
    (Nguồn Vnexpress.net)
  5. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    Mời các bạn quan tâm đến lĩnh vực Du Lịch Tâm Linh này bắt đầu từ ngày 16 - 22/5 đến chùa Phật Tích( xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) để chiêm bái.

    Thứ 7 này 16/5 hồi 13h mình sẽ xuất phát sang Chùa Phật Tích để chiêm bái Phật Ngọc.

    Ngày thứ 7 là ngày đầu tiên, ngày chủ nhật có lẽ cũng rất đông. Các bạn đi ngày chủ nhật có thể kết hợp thêm đi 1 số điểm như Đền Đô, Chùa Bút Tháp, gốm Phù Lãng.....
  6. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    Ý NHĨA CHIÊM NGƯỠNG PHẬT NGỌC
    QUA TUỆ GIÁC CỦA KINH KIM CANG
    tác giả: Giác Hạnh Phương

    Sau khi nghe thông tin Tượng Phật Ngọc sẽ được triển lãm tại chùa Phổ Quang, tại Tp.HCM mọi người tấp nập đến xem, số lượng lên đến hàng trăm ngàn người, thật là con sô ấn tượng ít khi xảy ra. Đó cũng là nhân duyên tốt lành cho người Phật tử, điều này không ai phủ nhận. Tuy nhiên chúng con tự hỏi nếu tôn tượng đúc bằng vật liệu bình thường như các tôn tượng khác trong các ngôi chùa thì liệu họ có đến xem không? Họ đến xem tôn tượng Phật ngọc này vì lý do gì? Thật ra có trăm ngàn lý do khác nhau. Tuy nhiên chúng con đưa ra giả thiết rằng, bởi vì tôn tượng này làm bằng đá ngọc thạch quí hiếm nên họ mới đến xem. Như vậy họ đến xem đá ngọc thạch hay xem Phật? Giả thiết thứ hai cho rằng vì đá ngọc thạch quí hiếm nên có yếu tố linh thiêng, thiêng liêng? Chẳng lẽ những tượng tôn thờ trong chùa không thiêng? Giả thiết thứ ba, nếu đá ngọc thạch đó không tạc hình đức Phật mà làm một hình gì khác thì sao? Ở đây, chúng con muốn tìm hiểu thái độ của quần chúng hiểu biết về đức Phật qua phương diện nào?
    Xuất phát từ nhu cầu quần chúng đến chiêm bái tượng Phật ngọc đã làm đối tượng để chúng con chia sẽ, tìm hiểu về ý nghĩa chiêm bái thân tướng của đức Phật đã dạy thông qua bài kinh Kim Cang có đề cập trong 4 câu kệ ?oNhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị năng hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai?.
    Ý NGHĨA CHIÊM NGƯỠNG DUNG NHAN PHẬT
    Chúng ta cần phải hiểu khi chiêm ngưỡng dung nhan Phật như thế nào để được lợi ích.?
    Xưa nay chúng ta nhận thức Phật qua hình ảnh đẹp nhưng suy nghĩ của chúng ta không giống với Phật. Hoặc chiêm ngưỡng lễ bái mà không biết rõ mình làm gì thì cả đời đi chúng ta đi chùa chỉ có công đức hữu lậu mà thôi, mà không phát triển trí đạo, tâm đạo giải thoát của đạo Phật, mà chỉ sống theo quan niệm đạo đức luân lý của Nho giáo hay của tôn giáo khác.
    Thứ nhất, chúng cần phải hiểu khi chiêm ngưỡng dung nhan Phật là để phát triển đạo tâm, Bồ đề tâm của chúng ta. Như vậy khi chúng chiêm ngưỡng tôn Phật thì tâm thức sẽ khai mở rất nhiều điều thiện, cái ?othiện của đạo Phật? càng tăng trưởng và dần dần chúng ta sống giống như tâm của Phật ?otâm đồng tâm chư Phật?. Cho nên khi chiêm ngưỡng làm sao để phát triển tâm bồ đề của mình, tức là chúng ta bắt chước những gì Phật làm, thì chúng ta làm theo.
    Chằng hạn đức Phật thương yêu con người thì mình cũng bắt chước phải thương yêu con người, mặc dù tình thương của chúng ta chưa hoàn toàn như Phật, nhưng chúng ta phải thực tập dần dần, để xoá dần chấp ngã của ta, xoá đi khoảng cách giữa ta và người, xoá đi ngăn cách lạ xa, xoá đi những hờ hững giữ gìn bấy lâu?.thì lúc đó tình thương lan toả khắp nơi, và xây dựng nhịp cầu cảm thông.
    Thứ hai, mỗi khi chúng ta chiêm ngưỡng vẽ đẹp của Phật chúng ta thành tâm hướng về đảnh lể những đức tính của Phật chẳng hạn đức tính tình thương yêu, khi chắp tay chiêm ngưỡng lể bái nên ước nguyện, quán tưởng xin cho con cũng có đức tín này trong con. Tức là chúng ta đang huân tập chủng tử thiện mới vào trong tâm thức, mặc dầu trong mỗi chúng ta ai cũng có sẳn đức tính này rồi, nhưng vì lâu ngày quá chúng ta bỏ quên, vì không thực tập cho nó tăng trưởng đến tuyệt đối cho nên đức tính này nó bị thối thất. lu mờ. Hôm nay chúng ta có duyên lành gặp lại Phật pháp, Ngài xuất hiện trên cõi đời chỉ là người mồi lửa và thắp sáng lại trái tim tình thương cho ta mà thôi. Như vậy, sự chiêm ngưỡng Phật là để tỉnh ngộ bản giác của mình.
    Kết quả: Hằng ngày chúng ta huân tập năng lượng tình thương yêu con người (hoặc công hạnh nào mà chúng ta chưa tốt), và quán tưởng dần dần chúng ta trở nên một con dễ thương hơn, biết thương con người hơn, không còn giận hờn trách móc, và chúng biết cảm thông với lỗi lầm của mọi người xung quanh ta. Cứ thực tập dẩn dần trở thành thói quen của một nhân cách siêu phàm, thì chúng ta sẽ đẹp ra mà thôi, không cần phải đi thẩm mỹ vịên sửa sắc đẹp. Mặc dù trong đời sống chúng ta cũng giống như mọi người vẫn ăn, mặc, ngủ, nghĩ nói cười, nhưng bên trong tâm hồn không giống như mọi người phàm kẻ tục. Chúng ta thấy mọi hành động của họ đều có ý nghĩa vị tha.
    Qua đây cần mở rộng nói thêm là khi đánh giá con người qua hình tướng bên ngoài chúng ta rất dễ bị lầm, mà muốn biết con người nào đó phải quan sát qua hành động của họ mà đôi khi còn bị hiểu lầm, do đó cần phải tìm hiểu động cơ, mục đích bên trong nữa, rắc rối vô cùng, vì ?odò sông dò biển dễ dò?.? phải không? Cho nên cần phải sống chân thật với chính mình, thì không sợ gì ai đó có thể ?odò? được, và sống như vậy hạnh phúc vô phúc vô cùng. Ví dụ ?okhi có giận thì nhận biết mình đang giận? và chuyển hoá cơn giận bằng cách nói: À ! tôi đang giận bạn đấy, vì hôm qua bạn nói như vậy tôi không chấp nhận, xin bạn đừng nói nữa. Nếu mình giận ai đó mà đối phương không hề hay biết mình đang giận họ, thì trước tiên phần lỗ lã thuộc về mình nhiều nhất, mà lại còn mất đi một người bạn. Hoặc mình không thích hay giận ai đó mà vẫn tỏ ra thái độ bên ngoài xả giao lịch sự thì người kia cũng không biết họ đang có lỗi gì với bạn. Cho nên phải chân thật đến với nhau, mở lòng mình ra thật tình, là mình có hạnh phúc ngay trong cuộc sống rồi. Ngược lại, nếu trong cuộc sống, hay trong giao tiếp cư xử đối phó, dè chừng, tính toán?.không biết họ đến vì mục đích gì đây, không biết họ có tiếp đoán vui vẽ không, cứ suy luận theo đối đãi thương và ghét, ta và người thì không thể đến với nhau có hạnh phúc được, lập tức ngay lúc đó chúng ta đã mất đi cái hạnh phúc ngay khi giao tiếp. Hạnh phúc là tại đây và bây giờ trong lúc chúng ta đang làm việc, đang giao tiếp, mà chúng ta không tận hưởng thì đi tìm ở đâu, cứ đi tìm mãi sẽ không bao giờ gặp. Bởi vì hạnh phúc đang có sẳn chứ nó đâu ở chổ nào khác mà đi tìm.
    Từ một ví dụ tiêu biểu chúng ta có thể liên hệ ứng dụng đến rất nhiều điều trong cuộc sống. Bằng mọi cách làm sao mối quan hệ chúng ta và người được an và được vui, mặc dù có thể ta và người bạn ấy không còn cơ hội gặp nhau nữa, nhưng tâm chúng ta rất an ổn và bình yên.
    Thứ ba, trở lại vấn đề khi chiêm ngưỡng, lễ bái tôn tượng Phật với 32 tứơng tốt 80 vẽ đẹp trang nghiêm như vậy, cũng như chúng ta đang chiêm tượng Phật ngọc thì nên biết đó chỉ là phương tiện, tức là đối với đức Phật là Ngài dùng cái ?osự? qua thân tướng và Ngài dựa vào niềm tin của chúng sanh qua sắc thân tướng tốt đẹp trang nghiêm của Ngài, để giúp chúng sanh đạt cứu cánh (để hiển lý), tức là khai tâm làm hiển lộ trí Bát nhã (trí giác ngộ) trong con người chúng ta, khi dạt được trí tuệ đó sẽ đập vỡ ?ocái tôi? rơi lả tả từng mảnh vụn, thì chân lý, sự thật hiển bày, đó là mục đích mà trong bài kinh Kim Cang này muốn dạy cho tất cả mọi người, Như vậy lý - sự đồng hành thì mới có kết quả tốt đẹp cao thượng.
    Điều này khác với các tôn giáo khác, người ta càng tôn thờ, lễ lạy đấng giáo chủ thì họ càng tin là họ đang sống phục vụ cho Ala, làm hài lòng cho Ala, dù cho có xả thân này làm bất kể làm điều gì họ cũng không tiếc nuối, niềm tin họ vững chắc và cuồng tín, mên tín như vậy đó.
    Trong Phật giáo thì khác hơn, khi chúng ta càng lạy Phật, thì càng tin Phật, càng tin Phật thì đạo tâm, thiện tâm chúng ta càng phát triển, và điều ác càng giảm, tức là không phải cuồng tín mà con người trở nên chánh tín, càng hướng về sự sáng suốt, càng hướng về ánh sáng giác ngộ giải thoát, hướng về chân lý tối thượng Niết bàn, tức là diệt trừ tham sân si. Lúc đó con người đó sẽ trở thành con người với tinh thần khác. Nếu là người mang hạnh nguyện Đại thừa thì người đó có thể xả thân, nhưng xả thân vì chân lý, chân lý đó là xả thân phục vụ con người, mỗi hàn động cử chỉ không còn sống cho riêng mình nữa ?ophụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật? chứ không phải xả thân phục vụ đấng giáo chủ mà ta tôn thờ.
    Do đó đức Phật xuất hiện trong thế gian nầy không phải để ngự trị thế gian mà chính là để giáo hoá cho chúng sanh thoát khỏi sự sợ hãi, khổ đau do vô minh che lấp bổn tâm, cho nên Ngài mở ra con đường phương tiện nhằm khai tâm tuệ giác cho chúng sanh.
    Thứ tư, thông qua hình ảnh của Ngài nhắc nhở con người ý nghĩa triết lý về tình thương và tuệ giác. Quả thật tình thương và tuệ giác là cần thiết cho mỗi tâm hồn con người chúng ta, nhất là trong thế kỷ chúng ta đang sống, trong giai đoạn ác trược tăng lên nhanh chóng tột bực. Người Phật tử ý thức được cuộc đời ngày càng cần đến những đức tính hoà bình, tình thương và trí tuệ của chư Phật. Cho nên, nhu cầu phát huy từ bi và trí tuệ nơi chư Phật thông qua hình ảnh tôn tượng để thông qua hình ảnh đó mà phát huy, đánh thức tiềm năng trí tuệ và từ bi trong mỗi cá nhân trở thành vị ?oPhật tương lai.?
    Mặc khác, với tinh thần nổ lực tự thân tu tập của các vị Bồ-tát, thông qua hình ảnh dấn thân của các hạnh Bồ -tát nhằm nói lên thông điệp rằng ?oTự thân mỗi người phải nổ lực hành động có lợi ích cho mình và cho cuộc đời, mà không ỷ lại vào một ai khác đó là tinh thần tích cực nhất góp phần cải tạo hoàn cảnh là Cực lạc tại thế gian, là Niết bàn hiện tại. Do đó nhận thức đúng đắn về thân tướng Phật trong thời đại ngày nay là vô cùng cần thiết cho mỗi chúng ta trên hành trình tìm về chaân lyù giác ngộ.
    Con đường dẫn đến chân lý đã được mở ra, niềm hạnh phúc, sự giải thoát sẽ đến với những ai nỗ lực vươn tới qua thực nghiệm chứ không phải qua sắc tứơng. Đây chính là ý nghĩa trong kinh Kim Cang đức Phật đã dạy: ?oNhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị năng hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai? được dịch là nếu nhìn thấy Ta qua hình tướng, hoặc tìm cầu Ta qua âm thanh. Đó là cách của kẻ tà đạo, người ấy không bao giờ thấy được Như Lai.
    Như vậy. đức Phật dạy chúng sanh về thái độ ứng xử đối với Ngài như thế nào cho hợp lý, đó là Ngài khuyên chúng ta không nên tôn sùng lễ bái Ngài qua hình tướng bên ngoài (ngoại hình), mà nên đến với Ngài bằng trí tuệ hiểu biết và làm theo những gì Ngài đã dạy. Khi chúng ta làm được như vậy thì ý nghĩa chiêm ngưỡng Phật ngọc, hay thờ Phật, lễ bái Phật mới thật sự là có lợi ích thiết thực, chân chính nhất theo tinh thần của kinh Kim Cang.
    ( Nguồn của thầy Giác Hạnh Phương )
  7. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    Chương trình chi tiết
    Tối 16/5: Khai mạc (có vé mời)
    Từ 17-22/5 : vào tự do
    17/5/09:
    Sáng: Cúng Phật đại hoa đăng; chiêm bái phật ngọc; giao lưu với các doanh nghiệp, doanh nhân về kinh tế học Phật giáo và sự hội nhập quốc tế;
    Chiều : Khóa lễ tụng kinh cầu an; chiêm bái phật ngọc
    18/5/09: Nghị thức cúng cầu an; lễ cầu nguyện hoà bình của đoàn Việt Kiều tiêu biểu trên toàn thế giới
    19/5/09: Nghi thức lễ Phật cầu an, tưởng niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh
    20-22/5/09: Khóa tụ tập "trở về suối nguồn an lạc" (tổ chức cho các phật tử đăng ký); Bế mạc; đàn chẩn tế mông sơn thí thực cô hồn cầu siêu cho các anh hùng liệt sĩ, đồng bào tử nạn chiến tranh, cầu nguyện Hoà Bình. Ca nhạc dân tộc, quan họ, hát văn, Bài ca về đạo Phật
  8. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    Phật Ngọc cho nền hòa bình thế giới đang được trưng bày tại Việt Nam
    Người viết Thích Nguyên Tạng (tổng hợp)
    Đôi Nét về Phật Ngọc
    Phật Ngọc cho Hòa Bình Thế Giới được xem là pho tượng lớn nhất và trang nghiêm nhất trên thế giới hiện nay được điêu khắc từ tảng ngọc thạch. Tượng Phật (kể cả pháp tòa và đài sen) có chiều cao 3 mét 5. Với chiều kích và vẻ đẹp của tôn tượng, Phật Ngọc này được vinh danh là kỳ quan của thế giới hiện nay.
    Tượng Phật Thích Ca được tôn thờ bên trong Bảo Tháp Đại Giác Ngộ ở Bồ Đề Đạo Tràng (Ấn Độ) được chọn làm khuôn mẫu cho Phật Ngọc Hòa Bình Thế Giới này, đơn giản vì pho tượng ở Bồ Đề Đạo Tràng là hình ảnh quen thuộc của hàng triệu đệ tử Phật trên khắp thế giới. Hiệp Hội Đại Bồ Đề đã cho phép nghiên cứu chụp hình một cách chi tiết tỉ mỉ pho tượng. Các nhà điêu khắc và tạc tượng ở Thái Lan đã dựa vào các hình ảnh chụp ấy để tôn tạo Phật Ngọc này.
    Giá trị của pho tượng Phật Ngọc: Được chiêm bái và đảnh lễ tượng Phật được tạo ra từ một loại ngọc quý hiếm là một duyên lành khó có được trong cuộc đời này. Đức Phật đã từng đề cập điều này trong Kinh Thủ Ấn Tăng Tín Lực rằng: ?o Chỉ một phút giây ngắn ngủi chiêm ngưỡng Phật tượng, hành giả ấy đã được vô lượng công đức rồi, huống chi người ấy được đối trước Phật tượng mà lễ bái, cúng dường, thì công đức còn nhiều hơn gấp bội?.
    Hành Trình của Tượng Phật Ngọc
    Tháng 12, 2006 Vận chuyển khối ngọc Polar Pride từ Vancouver đến Bangkok
    Tháng 05, 2007 Mô hình đầu tiên được Lama Zopa Rinpoche điều chỉnh
    Cuối 2007 Mô hình thứ hai được Lama Zopa Rinpoche điều chỉnh
    Cuối 2007 Mô hình thứ ba được Jonathon Partridge điều chỉnh
    Đầu 2008 Mô hình thứ tư được chấp thuận
    Đầu 2008 Jade Thongtavee bắt đầu khắc tượng
    Tháng 06, 2008 Hoàn tất công trình khắc tượng
    Tháng 07, 2008 Hoàn tất công trình đánh bóng tượng
    Tháng 12, 2008 Hoàn tất nghi lễ chú nguyện
    Đầu năm 2009 Chương trình triển lãm bắt đầu
    Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới
    Tượng Phật trong Bảo Tháp Đại Bồ Đề ở Bồ Đề Đạo Tràng (Ấn Độ) được chọn làm mẫu tượng cho Phật Ngọc Tượng Phật uy nghi bắt ấn xúc địa (xem hình bên phải), ngài Lama Zopa Rinpoche chọn mẫu tượng này vì đây là hình ảnh quen thuộc của đức Phật trong lòng Phật tử ở khắp mọi nơi.
    Ban điều hành chùa Bồ Đề Đạo Tràng đặc biệt cho phép chụp nhiều hình ảnh ghi lại mọi chi tiết tỉ mỉ của tượng Phật để mang về cho các nhà khắc ngọc dựng mẫu tượng. Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới sẽ là một trong những pho tượng lớn nhất và uy nghi nhất được tạc trong ngọc quí.
    Đức Phật gồm cả đài sen và pháp tòa sẽ cao gần 3.5 thước tây (11.4 feet). Phật Ngọc được tạc từ khối ngọc thạch vĩ đại mang tên ?oPolar Pride?. Đây là một kỳ quan của thế giới.
    Ngài Lama Zopa Rinpoche nói rằng, ?oPhật Ngọc sẽ thắp sáng toàn cõi thế gian, sẽ mang niềm an lạc hạnh phúc không thể nghĩ bàn, góp phần ngăn chận những cuộc hủy hại tàn phá đang xảy ra khắp nơi, kể cả nạn chiến tranh.? Tượng Phật ở Bảo Tháp Đại Bồ Đề (Mahabodhi Stupa), Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn độ, được chọn làm mẫu cho Phật Ngọc. Mẫu hình này được chọn vì đây là hình ảnh quen thuộc của đức Phật trong lòng Phật tử ở khắp mọi nơi.
    Polar Pride
    Sâu thẳm trong lòng miền Bắc Gia Nã Đại, dưới bóng rặng núi British Columbian là nền đá ngọc thạch. Ở đây, giữa những đồi cỏ xanh tươi đầy hoa dại, đá ngọc thạch nằm với trọn vẻ trang nghiêm. Được khám phá đầu tiên vào thập niên 60 và 70, nền đá ngọc thạch này được xem là nền ngọc lớn nhất trên thế giới.
    Vào cuối năm thập niên 90 xảy ra một điều bất ngờ. Người ta tìm thấy ở phía Nam biên giới Yokon một nền ngọc thạch với màu xanh rực rỡ sáng đẹp chưa từng thấy ở các tảng ngọc thạch được tìm thấy trước đây. Lấy bối cảnh đặt tên, nền ngọc này được gọi là "Ngọc Bắc Cực" (Polar Jade). Các nhà nghiên cứu khoa học cho biết loại ngọc này cứng chắc hơn bất cứ loại ngọc thạch Nephrite nào khác. Màu ngọc sáng bóng, chất lượng được đánh giá là loại ngọc quí dùng làm nữ trang. Trong thế giới tâm linh, người ta thường tin rằng ngọc thạch chứa đựng nguồn năng lực linh thiêng phi thường. Những tác phẩm điêu khắc bằng ngọc thạch thường được thế giới đánh giá cao. Thật sự Ngọc Bắc Cực đã thay đổi cách nhìn của cả thế giới về ngọc thạch Nephrite.
    Ngoc Phat 2
    Ian Green, giám đốc công trình Phật Ngọc đã đến tận mỏ Ngọc miền Bắc Canada
    Vào năm 2000, người ta tìm thấy một khối ngọc khiến cho toàn thế giới kinh ngạc. Khối ngọc này vĩ đại chưa từng thấy, hoàn toàn không tì vết, phẩm lượng đá quí Ngọc Bắc Cực. Khối ngọc nặng 18 tấn được gọi tên là ?oPolar Pride?, nghĩa là "niềm Kiêu Hãnh của Bắc Cực". Khối ngọc này được một nhà nghiên cứu đá quí lừng danh thế giới, ông Fred Ward, đánh giá là "khám phá của thiên niên kỷ".
    Sau khi khối ngọc ?oPolar Pride? được tìm thấy, người ta hỏi ông Kirk Makepeace, giám đốc công ty khai thác ngọc rằng ông sẽ làm gì với khối ngọc này. ?oTôi sẽ để thế giới quyết định?, ông ta trả lời, ?oTôi gọi khối ngọc này là Polar Pride, và tôi sẽ không xẻ thêm chút nào vào khối ngọc này nữa. Tôi sẽ để nguyên như vậy mà đấu giá, vì đây là một kỳ quan của thiên nhiên. Tôi mong đợi khối đá này sẽ trở thành một món vật đặt trong viện bảo tàng, một công trình lớn, một biểu tượng; là khối ngọc thạch nephrite với màu xanh sáng đẹp chưa từng thấy trên toàn thế giới.?
    Phật Ngọc Quanh Thế Giới
    Trên thế giới có một vài tượng Phật bằng ngọc ở nhiều nơi hành hương khác nhau. Danh tiếng nhất là Phật Ngọc ở Chùa Shwedagon, Miến Điện (hình bên dưới), "Phật Ngọc Lục Bảo" ở Thái Lan, và Phật Ngọc ở Chùa Phật Ngọc, Thượng Hải (hình bên phải). Phật Ngọc khắc từ khối ngọc thạch Polar Pride nhất định cũng sẽ tràn đầy ý nghĩa như các tượng Phật Ngọc nói trên.
    NGƯỜI KHẮC PHẬT NGỌC
    Công trình khắc tượng Phật Ngọc do công ty Jade Thongtavee đảm nhận. Đây là một công ty Thái Lan làm việc lâu năm, đầy uy tín trong giới khắc ngọc, nằm ở gần Chiangrai phía Bắc Thái Lan.
    Công Ty Jade Thongtavee do ông Boonthong Yotharvut thành lập. Sau nhiều năm kinh nghiệm khắc ngọc ở Thái, ông Yotharvut đã sang Trung Hoa tu học kỹ thuật chạm ngọc trên hơn một năm. Khi trở lại Thái Lan, ông thành lập công ty Jade Thongtavee vào năm 1973.
    Ong Ba Ian Green
    Ông bà Ian Green tại xưởng điêu khắc Ngọc Phật ở Thái Lan
    Tho Dieu Khac Thai Lan
    Thợ Điêu Khắc Thái Lan
    Jade Thongtavee nay có hơn 30 tay thợ khắc ngọc lão luyện, tạo ra nhiều sản phẩm mỹ thuật nổi tiếng có giá trị nghệ thuật cao, được các nhà sưu tập và chùa chiền ở khắp nơi ưa chuộng. Công trình điêu khắc Phật Ngọc cho Hòa Bình Thế Giới là do ông Vanit Yotharvut, con trai của nhà sáng lập công ty và cũng là giám đốc đương thời của công ty Thongtavee, trực tiếp giám thị.
    Công ty này đã thực hiện hai mô hình trước khi bắt đầu khắc tượng, một mô hình thu nhỏ và một mô hình đúng kích thước. Các mô hình khắc tượng được giám đốc tinh thần của công trình khắc tượng là Lama Zopa Rinpoche đích thân kiểm soát và phê chuẩn.
    Le Gia Tri
    Lễ gia trì tôn tượng sau khi khắc xong tại Thái Lan
    Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới triển lãm Ngọc Phật Hoà Bình: Lần đầu tiên Việt Nam triển lãm một tượng Phật bằng đá quý vĩ đại này và cũng là nước đầu tiên trên thế giới có thắng duyên được triển lãm Ngọc Phật. Sau khi kết thúc chương trình triển lãm ở Việt Nam, Phật Ngọc này sẽ được thỉnh đến triển lãm ở các thành phố lớn của Úc Đại Lợi như Brisbane, Sydney, Perth, Adelaide và Melbourne, trước khi đến Đài Loan,Tân Tây Lan và Hoa Kỳ.
    Tại Việt Nam, tượng Phật Ngọc sẽ được trưng bày tại năm ngôi chùa lớn trong vòng 10 tuần lễ. Dự kiến sẽ có hơn 100,000 người đến chiêm bái và đảnh lễ pho tượng tôn quý này.
    Lịch trình triển lãm tượng Phật Ngọc ở Việt Nam
    - Từ ngày 13/3 -15/3: Chùa Quán Thế Âm (Non Nước, Đà Nẵng)
    - Từ ngày 21/3 - 26/3: Chùa Đại Tùng Lâm (Bà Rịa Vũng Tàu)
    - Từ ngày 29/3 ?" 5/4: Chùa Phổ Quang (Quận Tân Bình, TP. HCM)
    - Từ ngày 9/4 ?" 24/4: Chùa Hoằng Pháp (Hóc Môn, TP. HCM)
    - Từ ngày 1/5 ?" 10/5: Chùa Vạn An (Châu Thành, Đồng Tháp)
    Theo sau Việt Nam, Phật Ngọc này sẽ được thỉnh đến triển lãm ở các thành phố chính của Úc Đại Lợi như Brisbane, Sydney, Perth, Adelaide và Melbourne, trước khi đến Đài Loan,Tân Tây Lan và Hoa Kỳ.
    Tại Úc Châu lịch trình triển lãm như sau:
    Tháng 6-7: Brisbane, địa điểm thông báo sau
    Tháng 8: Sydney, Thiền Viện Minh Quang
    Tháng 9: Perth, địa điểm thông báo sau
    Tháng 10: Adelaide : Chùa Pháp Hoa, Nam Úc
    Tháng 12: Melbourne, địa điểm thông báo sau
    Tháng 10, 2010: Tu Viện Quảng Đức, Melbourne
    Tháng 12, 2010: Auckland, New Zealand, địa điểm thông báo sau
    Mục đích của việc triển lãm: Mục đích của việc triển lãm tượng Phật Ngọc & Xá lợi Phật là tạo cơ duyên cho nhiều người đến chiêm bái và đảnh lễ, không phân biệt tôn giáo, tất cả đều có thể tới tham dự miễn là chúng ta dành một chút thời gian để khi chiêm bái chúng ta có dịp thấy rõ hơn về giá trị của hòa bình, để cầu nguyện Phật Ngọc và Xá lợi Phật sẽ đem lại hòa bình cho thế giới, bình an cho các mối quan hệ, bình yên cho gia đình và bè bạn, bình an trong công sở, và sự thanh thản trong tâm hồn. Chúng tôi kỳ vọng rằng với niềm khát khao mãnh liệt ấy sẽ mang đến niềm hoan hỷ và khích lệ lớn lao cho những ai có cơ hội được chiêm ngưỡng tượng Phật Ngọc, đặc biệt trong thời điểm thế giới của chúng ta đang bị bao vây bởi những bóng đen của chiến tranh và thiên tai.
    Đôi nét về người phát tâm tôn tạo pho tượng Ngọc Phật này
    Bắt nguồn từ giấc mơ của Lạt Ma Zopa nhìn thấy mỏ Ngọc tại Canada, cùng với lời khuyến khích của Ngài, Đạo hữu Ian Green đã phát tâm tôn tạo pho tượng Ngọc Phật này. Đạo hữu Ian Green đã là một Phật tử hơn 35 năm. Bắt đầu từ khi ông du hành đến Ấn Độ khoảng đầu năm 1970. Tại đây ông đã xúc động bởi làm sao ?oĐời sống tâm linh đóng vai trò rất quan trọng trong nền văn hoá này. Điều đó cho tôi thấy rõ xã hội phương Tây quả là thiên về vật chất quá thay?. Cuối kỳ nghĩ ở Ấn Độ đó Ian đã thăm viếng thánh thành Ba La Nại nằm dọc theo sông Hằng và đến tận gần vườn Lộc Uyển. Ông vẫn còn nhớ mãi vẻ tĩnh lặng không cùng nơi này, trái ngược với cả những gì náo nhiệt, ồn ào của xứ Ấn độ mà ông cảm nhận đến lúc đó. Ian cũng nghiệm thấy tâm hoàn toàn an tịnh tại vườn Lộc Uyển ?" như thể là đã về đến mãi tận quê nhà. Ông cũng ngập tràn cảm xúc vì một công trình tạc khắc từ đá ở vườn Lộc Uyển mà theo ông ?odường như có một năng lực khó tin tỏa ngời?.
  9. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    Đạo hữu Ian Green đã chiêm ngưỡng Đại Tháp ở vườn Lộc Uyển nơi được đánh dấu là Đức Phật giảng bài pháp đầu tiên sau Ngài chứng ngộ, cũng là một trong sáu thánh địa của Phật giáo. Sau khi viếng thăm vườn Lộc Uyển, ông mua một cuốn sách, đề tài Phật giáo là gì? để tìm hiểu những ý niệm của Phật giáo như nghiệp và tái sanh. Ông nói ?oTôi có cảm tưởng tôi đã biết tất cả những điều này, dù rằng chưa từng thấy những lời viết này trước đó?. Ian bây giờ công nhận trong những đời trước mình đã có cơ duyên tiếp cận với Phật giáo?. Và dường như ông ?okhông có chọn lựa nào khác mà hiển nhiên là một Phật tử?.
    Năm 1981, thân phụ của ông cúng dường 50 mẫu đất hoang sơ với trùng điệp cây rậm thấp cho Lạt Ma Yeshe để kiến lập một trung tâm Phật giáo. Lạt Ma Yeshe sau đó đã vẽ họa đồ chính cho vùng đất Bendigo này và từ đó Trung Tâm Atisha, Chùa Thubten Shredrup Ling cùng Pháp-Giới Từ-Bi Đại-Bảo-Tháp lớn mạnh hình thành một trung Tâm Phật giáo có tầm cở ở Úc Đại Lợi.
    Bảo Tháp Đại Từ Bi đã trở thành công trình của cả cuộc đời Đạo hữu Ian Green. Bảo Tháp tại Bendigo khởi nguồn từ ý của Lạt Ma Yeshe, một Tăng sĩ Tây Tạng đã viên tịch và là một trong những Lạt Ma đầu tiên giảng dạy về đạo Phật cho người Tây phương. Đại-Bảo-Tháp hiện đang xây dựng tại nước Úc này sẽ có cùng kích thước và kiến trúc giống như Đại Tháp Gyantse ở Tây Tạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói về Pháp-Giới Từ-Bi Đại-Bảo-Tháp như sau: ?oNgay ở thời điểm này, khi những di sản văn hóa Tây tạng đang dần bị tiêu diệt, kiểu mẫu Tháp theo phương cách Tây Tạng mang lại nhiều ý nghĩa cho đời sống tâm linh của Phật tử và cho văn hóa Phật giáo Tây Tạng. Hỗ trợ cho dự án cao quý này là pháp hạnh tốt để tạo thiện nghiệp.?
    Đạo hữu Ian Green là Trưởng Ban Điều hành công trình Pháp-Giới Từ-Bi Đại-Bảo-Tháp kiêm Giám đốc Dự án Phật Ngọc Thạch. Ông cũng là Chủ tịch của Dalai Lama in Australia Ltd, một tổ chức chuyên về những chuyến pháp du của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Úc. Đạo hữu Ian và phu nhân là Judy thường hợp tác trong công việc phát triển Trung Tâm Atisha và Đại-Bảo-Tháp. Ngoài ra bà Judy còn là Quản lý Dự án Phật Ngọc Thạch.
    Mọi chi tiết về Phật Ngọc, xin liên lạc về địa chỉ:
    Đạo Hữu Ian Green
    The Great Stupa of Universal Compassion Ltd.
    43 View Street Bendigo VIC 3550 Australia
    Phone: +61 3 5442 3200 (office hours)
    Fax: +61 3 5444 2422
    E-mail: info@stupa.org.au
    Website: http://www.jadebuddha.org.au or: http://www.stupa.org.au/
    Xin chấp tay nguyện cầu cho công cuộc triển lãm Phật Ngọc tại Việt Nam và vòng quanh thế giới được thành tựu viên mãn trước khi Ngọc Phật được thỉnh về tôn thờ tại Bảo Tháp Đại Từ Bi ở Bendigo, Victoria, Úc Đại Lợi
    Nam Mô A Di Đà Phật
    Thích Nguyên Tạng (tổng hợp các tài liệu do Đạo Hữu Ian Green cung cấp)
    Vài hàng giới thiệu về Đạo Hữu Ian Green
    Đạo hữu Ian Green và phu nhân của ông là bà Judy, cả hai đều quy y theo Phật Giáo trên 35 năm qua. Đạo hữu Ian Green hiện là Trưởng Ban Điều hành công trình xây dựng Pháp-Giới Từ-Bi Đại Bảo Tháp kiêm Giám đốc Dự án Phật Ngọc Thạch. Ông cũng là Chủ tịch của Hiệp Hội Đạt Lai Lạt Ma tại Úc Đại Lợi, một tổ chức chuyên phụ trách về những chuyến hoằng pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Úc Châu. Đạo hữu Ian và phu nhân của ông thường hợp tác với nhau trong công việc phát triển Trung Tâm Phật Giáo Độc Tôn Đế Tu (Atisha), một trung tâm PG ở thành phố Bendigo, tiểu bang Victoria, quốc gia Úc Đại Lợi.
    Diễn Từ của Đạo Hữu Ian Green
    trong Lễ Khai Mạc Trưng Bày Phật Ngọc tại Chùa Quán Thế Âm, Non Nước, Đà Nẵng. (Thứ sáu, 13-3-2009)
    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    Kính bạch Chư Tôn Hòa Thượng, chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni
    Kính Bạch Thượng Tọa Huệ Vinh, Trụ Trì Chùa Quán Thế Âm
    Kính thưa quý quan khách, quý ân nhân và quý Phật tử hiện diện
    Vào năm 2000, một tảng ngọc thạch năng 18 tấn đã được khám phá tại một mỏ ngọc ở Canada. Kích thước và chất lượng của khối ngọc này khiến cho toàn thế giới kinh ngạc và quan tâm. Các nhà nghiên cứu khoa học cho biết loại ngọc này cứng, chắc hơn bất cứ loại ngọc thạch nào khác. Màu ngọc sáng bóng, chất lượng được đánh giá là loại ngọc quí dùng làm nữ trang. Trong thế giới tâm linh, người ta thường tin rằng ngọc thạch chứa đựng nguồn năng lực linh thiêng phi thường. Khối ngọc này được một nhà nghiên cứu đá quí lừng danh thế giới đánh giá là "khám phá của thiên niên kỷ".
    Hôm nay là ngày đánh dấu cho một kết quả thành tựu của 5 năm làm việc nhọc nhằn, lo lắng, ao ước và đợi chờ của bản thân chúng tôi và người bạn đời của tôi, cũng như hàng ngàn ân nhân khác trên khắp thế giới, những người đã hổ trợ cho công trình Phật ngọc này bằng cách cúng dường ngân quỹ và thời gian của họ, để tôn tạo một pho tượng Phật bằng ngọc với một chiều kích và vẻ đẹp, được vinh danh là kỳ quan của thế giới trong thời hiện đại.
    Nhờ vào những ân nhân người Úc gốc Việt giới thiệu, gợi ý mà chúng tôi đã sắp xếp và phát tâm trưng bày tôn tượng Phật Ngọc này tại Việt Nam. Quả thật vậy, Phật tử Chùa Quán Thế Âm, Đà Nẵng, là nơi đầu tiên trên thế giới có thắng duyên được trưng bày Ngọc Phật này.
    Ước mong tôn tượng Phật Ngọc này là biểu tượng của sự phát triển tình hữu nghị giữa hai quốc gia và giữa hết thảy chúng sanh trên thế giới. Với công đức trưng bày Phật Ngọc này trên thế giới, cầu nguyện Đức Phật sẽ gia hộ và mang lại hòa bình cho thế giới, bình an cho các mối quan hệ, bình yên cho gia đình và bè bạn, bình an trong công sở, và sự thanh thản trong tâm hồn của chúng ta.
    So với Việt Nam, Phật Giáo tại Úc Châu vẫn còn là một tôn giáo non trẻ. Nhưng Phật Giáo là một tôn giáo phát triển nhanh nhất tại Úc trong vòng ba thập niên qua. Chúng tôi tin tưởng rằng với tốc độ phát triển này, Phật Giáo sẽ có nhhiều đóng góp thiết thực cho xứ sở Úc. Chúng tôi đã và đang thiết lập các mối quan hệ với mạng lưới Phật tử giữa các quốc gia như Việt Nam, và mong rằng tình hữu nghị này sẽ có hiệu quả tích cực trong thế giới của chúng ta.
    Nhân đây, cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với các nhà tài trợ đã giúp chúng tôi mọi phương tiện để thực hiện chuyến đi triển lãm Phật ngọc này.
    Chúng con đặc biệt cảm ơn Thượng Tọa Thích Huệ Vinh với tấm lòng bao dung của ngài, đã cho phép chúng con được vinh hạnh tôn trí Phật ngọc tại nơi này trong ba ngày, giúp cho thập phương Phật tử gần xa có cơ hội để chiêm bái.
    Cuối cùng xin chân thành cảm ơn tất cả liệt quý vị và nguyện cầu nền hòa bình sớm thiết lập trong hành tinh của chúng ta.
    Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát
  10. xadieu_2000

    xadieu_2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2006
    Bài viết:
    3.649
    Đã được thích:
    1
    Từ bi & hòa bình trong Phật ngọc
    28/04/2009 06:09
    Trong mùa Phật đản năm nay, chúng ta vô cùng hân hoan được cung thỉnh tượng Phật ngọc về an trí tại một số chùa để các Phật tử được chiêm bái. Đây là một phước báu lớn cho đất nước chúng ta và thật vô cùng có ý nghĩa đối với Tăng Ni, Phật tử Việt Nam ở cả ba miền Nam, Trung, Bắc.
    Ở Thái Lan, Campuchia, Miến Điện cũng có tượng Phật ngọc, nhưng tượng nhỏ, chưa đến một tấn. Trong khi tượng Phật ngọc đến Việt Nam lần này nặng đến năm tấn, đã được tạc từ khối ngọc thạch quý hiếm nặng đến 18 tấn, mang tên là tượng Phật Hòa Bình. Tượng Phật Hòa Bình có nghĩa là ước mơ của người đệ tử Phật ngày nay cầu mong sao tất cả mọi người trên hành tinh này đều được sống trong cảnh hòa bình.

    phatdenvn.gif
    Tại sao lại chọn Đức Phật tiêu biểu cho hòa bình?. Chúng ta đều biết trên thế giới có ba tôn giáo lớn là Phật giáo, Thiên Chúa giáo và Hồi giáo; trong đó Phật giáo là tôn giáo có trước nhất và tồn tại lâu đời nhất. Và Phật giáo chúng ta lại có được vinh hạnh là có một Đức Giáo chủ đặc biệt, khác hơn các vị giáo chủ khác trên trái đất này. Thật vậy, xưa kia Đức Phật xuất thân từ giai cấp cao nhất trong xã hội Ấn Độ, nhưng Ngài đã từ bỏ ngôi vị đế vương để có thể sống chung và hướng dẫn mọi người, mọi giới thoát khỏi khổ đau luân hồi sinh tử, được an lạc vĩnh hằng. Và Ngài tuyên bố rằng tất cả mọi loài đều có Phật tánh, đều bình đẳng trước chân lý và đều có khả năng thành Phật. Tuyên ngôn này của Đức Phật thể hiện chân lý siêu phàm mà các tôn giáo khác không có.
    Và Đức Phật đã nói rằng con người có khả năng siêu việt như thế không phải ở quyền thế, ở tiền bạc, nhưng ở đức hạnh, ở trí tuệ. Cho nên Đức Phật đã từ bỏ địa vị, từ bỏ quyền thế tột đỉnh, từ bỏ tất cả của báu thế gian, từ bỏ tiền bạc, từ bỏ danh vọng để sống cuộc đời thanh bạch của một bậc tu hành đắc đạo, giải thoát. Bấy giờ, đức hạnh của Ngài đã có khả năng cảm hóa tất cả trái tim của mọi người thời ấy và mãi cho đến ngày nay, lời dạy của Ngài vẫn có giá trị nguyên vẹn. Có thể khẳng định rằng không có một vị giáo chủ nào trong lúc đương thời được quần chúng kính ngưỡng như Đức Phật.
    Khi Đức Phật tại thế, mặc dù cũng có người chống Ngài, nhưng sau đó, họ lại trở thành tín đồ trung thành nhất với Đức Phật; điển hình là vua A Xà Thế đã từng thả voi say để sát hại Phật, nhưng về sau ông đã quy ngưỡng Phật, làm đệ tử Ngài và trở thành người hộ đạo đắc lực nhất. Cũng có người nghe danh đức của Phật và nhờ có căn lành đời trước, nên họ đã phát tâm Bồ đề và tu hành đắc đạo. Người thương mến Phật thì đắc đạo sớm; còn người chống đối Phật thì đắc đạo sau; cuối cùng, tất cả mọi người có thiện ý hay có ác cảm với Phật đều quy ngưỡng Ngài. Có thể thấy rõ Đức Phật tiêu biểu cho hòa bình, người mang hận thù trông thấy hình bóng từ bi của Đức Phật, lòng họ cũng vơi nhẹ, để rồi quay về với cuộc sống hỷ xả; đó chính là ý nghĩa cao quý mà người ta chọn tượng Phật tiêu biểu cho hòa bình của nhân loại.
    Khi Phật Niết bàn, những người kính ngưỡng Đức Phật chỉ thờ hoa sen tiêu biểu cho Phật là người trong sạch, hoặc thờ lá Bồ đề tiêu biểu cho sự giác ngộ của Phật. Theo quan niệm xưa kia, người ta chỉ thờ biểu tượng, chứ chưa thờ hình người; vì họ nghĩ rằng làm tượng hình người dù có tốt đẹp đến mấy cũng không thể diễn tả được nhân cách siêu tuyệt của Đức Phật một cách trọn vẹn.
    Cho đến đầu kỷ nguyên Tây lịch, lịch sử ghi rằng nhà vua xứ Vu Điền vì quá kính ngưỡng Phật, nên ông ao ước được một lần tận mắt trông thấy hảo tướng của Ngài. Tấm lòng thành của ông đã được một vị Thánh Tăng thời đó đáp ứng bằng cách trong giấc chiêm bao, đã đưa ông lên tận cung Trời Đao Lợi cho ông thấy Phật đang thuyết pháp cho chư Thiên. Và từ đó, trở lại nhân gian, nhà vua mới cho người tạc tượng Phật bằng vàng giống như ông thấy trong giấc mộng, gọi là kim thân Phật Tổ. Và ở Trung Quốc, có Hán Minh Đế ngủ mơ thấy tượng Phật vàng từ Ấn Độ bay sang Trung Quốc. Ông liền cho sứ giả đi sang Ấn Độ tìm thỉnh kinh Phật và tượng Phật mang về Trung Quốc thờ.
    Bắt đầu từ đó, người ta mới tạo tượng Phật để tôn thờ, nhưng không theo kiểu mẫu cố định, mà chỉ tạc theo niềm tin của con người để tạo những bức tượng đẹp nhất có thể làm được. Vì vậy, người Ấn tạc tượng Phật giống người Ấn, người Miến Điện tạc tượng Phật giống người Miến Điện, người Thái Lan tạc tượng Phật giống người Thái Lan. Người Trung Quốc, người Nhật Bản, người Việt Nam, v.v? tạc tượng Phật cũng thế, chúng ta thấy tượng Phật của mỗi quốc gia tôn thờ đều mang dáng dấp của người dân quốc gia đó.
    Tôn tượng Phật ngọc này do vị đại thí chủ là vợ chồng Phật tử người Úc thủ đắc khối ngọc báu và được vị Lạt ma Tây Tạng khuyến khích họ tạo tượng Phật lớn nhất mang tên tượng Phật Hòa Bình để đưa đi khắp thế giới cho mọi người chiêm bái, cầu nguyện, tạo thành tư tưởng hòa bình và cuộc sống hòa bình cho nhân loại.
    Từ ý niệm cao quý như thế, tôn tượng Phật ngọc đã được tạc theo mẫu tượng Phật Thích Ca ở Bồ đề đạo tràng, Ấn Độ, là nơi mà Đức Phật thành đạo cách đây hơn 25 thế kỷ. Điều rất đặc biệt, nước Việt Nam là điểm đầu tiên được phước báu cung nghinh tượng Phật ngọc. Phải nói đây là một niềm vinh hạnh vô cùng lớn lao cho đất nước và Phật giáo Việt Nam. Thật vậy, đất nước chúng ta đã từng trải qua những thời kỳ chiến tranh rất khốc liệt, cho nên tất cả người dân Việt đều có khát vọng hòa bình. Và từ thập niên 60, khởi nguồn từ chiến tranh Việt Nam mà tất cả các phong trào vận động hòa bình trên thế giới đã diễn ra ở khắp các nước tư bản và các nước xã hội chủ nghĩa. Chính trong thời kỳ đó, tôi cũng là một trong những người đi vận động hòa bình. Rất nhiều người, nhiều phong trào, tùy theo khả năng đều đúc tượng Phật, dù tượng bằng đồng, hay bằng giấy, cũng mang tên Đức Phật Hòa Bình và đi đến đâu, người ta cũng mang tượng Phật Hòa Bình theo để vận động hòa bình cho đất nước Việt Nam.
    Phải chăng vì ý nghĩa cao đẹp đó đã tạo thành một duyên lành đặc biệt cho đất nước chúng ta được cung nghinh tôn tượng Phật ngọc trước tiên. Đến Việt Nam, lễ đón rước tôn tượng Phật ngọc thật long trọng suốt từ Đà Nẵng, miền Trung, về Đại Tùng Lâm, Bà Rịa-Vũng Tàu, cho đến thành phố Hồ Chí Minh, an vị tại chùa Phổ Quang, chùa Hoằng Pháp, rồi đi về tỉnh Đồng Tháp, chùa Vạn An và cung nghinh tôn tượng Phật ngọc ra tận miền Bắc. Thật là cảm động, nơi nào có tôn tượng Phật ngọc hiện hữu, thì hàng ngày cũng có cả vạn người đến chiêm bái, cầu nguyện.
    Sự chiêm bái và cầu nguyện như vậy thể hiện rõ nét tấm lòng thành của tất cả người đệ tử Phật gởi gắm vào tôn tượng Phật ngọc. Thật vậy, khi tượng Phật ngọc được tạc tại Thái Lan, các vị Lạt ma Tây Tạng và chư Tăng Thái Lan đã tụng kinh và chú nguyện, nghĩa là chư tôn đức đã gởi tâm thanh tịnh giải thoát vào đó. Và tại các ngôi chùa ở Việt Nam được phước duyên an trí tượng Phật ngọc, chư tôn đức Tăng Ni, Phật tử chúng ta cũng đặt tất cả niềm tin sâu sắc vào tôn tượng Phật ngọc. Tiếp theo, tôn tượng Phật ngọc sẽ được đi vòng quanh thế giới để kêu gọi nhân loại nên sống theo tinh thần Phật dạy, thật sự yêu thương nhau, đùm bọc nhau, giúp đỡ lẫn nhau. Vì vậy, có thể nhận thấy rõ tấm lòng thành của biết bao dân tộc trên thế giới đã và sẽ được hội tụ vào tôn tượng Phật ngọc, làm cho tôn tượng này trở thành một biểu tượng linh thiêng mầu nhiệm, khiến cho người có duyên thấy tượng cũng phát tâm sống theo tinh thần Phật dạy.
    Tôn tượng Phật ngọc vốn là đá quý hiếm, khi chưa tạc tượng, khối ngọc thạch này đã có người muốn mua với giá một triệu Mỹ kim, nhưng chủ nhân không bán, mà lại đồng ý để cho tạc tượng Phật. Vì thế, chất liệu của tượng Phật ngọc đã có giá trị rất cao và bước thứ hai, quan trọng hơn, đó là tất cả tấm lòng thành của chư tôn đức Tăng Ni, Phật tử trên thế giới đầu tư vào tôn tượng này. Và nhờ tâm thanh tịnh, giải thoát của nhiều người đồng hướng về Đức Phật hằng hữu bất tử thông qua pho tượng tiêu biểu là Phật ngọc, tạo thành lực thu hút mãnh liệt khiến cả vạn vạn người nô nức tìm đến chiêm bái, cầu nguyện. Tuy nhiên, có người chưa được chiêm bái tôn tượng Phật ngọc, nhưng họ cũng được nghe nói về tôn tượng này, được nhìn thấy hình ảnh của tôn tượng này, cho nên trong tâm trí họ cũng đã có ý niệm tốt đẹp về tượng Phật ngọc.
    Mặc dù chúng ta sanh trong thời kỳ cách Phật rất xa, không được trực tiếp thấy Phật, nhưng còn phước duyên chiêm bái tôn tượng Phật, thì cũng cảm thấy lòng vơi nỗi ưu sầu, cho đến lòng hận thù được giải tỏa, tiến đến tâm hồn được thanh thoát hơn. Đó chính là điều quan trọng nhất của người trông thấy tôn tượng Phật, lễ lạy tôn tượng Phật.
    Trong quá trình tôn tượng Phật ngọc được cung nghinh và an trí tại một số chùa ở Việt Nam, Tăng Ni cùng tín đồ Phật tử trên suốt chiều dài của đất nước chúng ta, đã được diễm phúc chiêm bái, lễ lạy, cầu nguyện trước tôn tượng Phật ngọc; đồng thời cũng gởi gắm tấm lòng của chúng ta bằng hai chữ Hòa Bình đi khắp thế giới để cầu nguyện cho đất nước Việt Nam được hòa bình, tâm tất cả mọi người được hòa bình, gia đình của mọi người được hòa bình và tất cả nhân loại đều sống trong hòa bình. Đó là mục tiêu cao nhất của chư vị Lạt ma Tây Tạng, của chư Tăng Phật giáo Thái Lan, của chư tôn thiền đức và Phật tử Việt Nam, của chư tôn đức và Phật tử trên thế giới, của người tạc tượng, của vị Phật tử cúng dường khối ngọc báu muốn nói lên.
    Chúng tôi tin tưởng rằng sự hạnh ngộ vô cùng quý báu của mọi người với tôn tượng Phật ngọc và tâm thành của chúng ta đã gởi gắm vào tôn tượng sẽ tạo thành năng lực thánh thiện nối kết tất cả tâm hồn của mọi người thành một, một này là Phật, là trí tuệ, là từ bi hỷ xả. Nói cách khác, khi hướng toàn tâm về Đức Phật đến mức độ thanh tịnh nhất, chúng ta sẽ được Phật hộ niệm. Và nhận được lực Phật hộ niệm thì trước tiên tâm chúng ta cảm thấy an lạc, thanh thản, không nghĩ gì khác. Bấy giờ tâm chúng ta và tâm Phật mới có đồng một tần số, mới tạo thành mối tương giao, mới được Phật hộ niệm.
    Và Phật hộ niệm rồi, tâm thanh thoát, thì hóa giải được những tồn tại trong lòng và hóa giải được những vướng mắc trong gia đình, người thân của chúng ta bắt đầu có sự cảm thông và hoan hỷ với chúng ta. Như vậy, hòa bình phải xuất hiện trước nhất từ trong tâm mỗi người chúng ta và kế đến là xuất hiện trong gia đình mình. Từ hòa bình trong cuộc sống gia đình được lan rộng ra xã hội, nghĩa là tất cả mọi người cùng hướng tâm về Phật, thì tâm chúng sinh được chuyển hóa thành tâm vô lượng, từ bi hỷ xả của Phật. Và nơi nào có tâm từ bi hỷ xả dẫn dắt, nơi đó là cảnh sống an lạc, hòa bình, hạnh phúc. Đó là ý nghĩa thật sự của việc mang hòa bình cho nhân loại, mà người chiêm bái tôn tượng Phật ngọc cần nỗ lực thực hiện cho được.
    ( Nguồn HT.Thích Trí Quảng)

Chia sẻ trang này