1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi quydede, 03/07/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. kotus

    kotus Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.841
    Đã được thích:
    3.199
    Vừa đọc tuyển tập "Những dặm đường đất nước", bút ký, NXB Tác phẩm mới năm 1977, thấy có nói là có 2 tàu hàng mang số 367 và 305 của đơn vị vận tải trên đường mòn trên biển được giữ lại làm hiện vật bảo tàng tại Hải Phòng. Bác nào đến HP thì ra bảo tàng xem có không
    Được kotus sửa chữa / chuyển vào 00:42 ngày 05/07/2007
  2. quydede

    quydede Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/04/2006
    Bài viết:
    594
    Đã được thích:
    0
    Lang thang thấy loạt bài này, trích từ bút ký "Có một con đường mòn trên biển Đông" của nhà văn Nguyên Ngọc
    http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=59602&ChannelID=89
    Các bác vào đọc sẽ thấy nhiều thông tin hay lắm đấy.
    @ Congchi1 : Bác đúng rồi đấy.
    Xác minh một truyền thuyết
    Chúng ta đang đi tìm một con đường. Con đường ư? Trên trái đất này ai đếm hết được những con đường. Hàng ức, hàng triệu, hàng tỉ. Một nhà văn lớn, cũng là nhà tư tưởng lớn có nói: ?oNgười đi trên mặt đất thì thành đường?.
    Rất đúng! Nhưng còn người đi trên biển, trên mặt nước xanh phẳng lì đang trải ra trước mắt kia? Biển không để lại dấu vết, không để lại đường mòn. Biển xóa tất cả. Chỉ còn lại mặt nước mênh mông, phẳng lì, bí mật, câm lặng. Mãi mãi câm lặng.
    Còn không dấu vết một con đường?
    Câu chuyện của chúng ta hôm nay là câu chuyện về một con đường như thế, ngày xưa hoàn toàn câm lặng, hôm nay vẫn còn câm lặng, và rồi chắc sẽ mãi mãi ngày càng chìm sâu vào câm lặng, đến vĩnh hằng, ngày càng chìm sâu vào phẳng lì của biển và phẳng lì của thời gian nếu chúng ta không đánh thức nó dậy, không cố cùng nhau lần tìm ra nó trong thăm thẳm của biển, của thời gian và của ký ức biết ơn.
    Con đường ấy là như vậy đó, con đường bí mật xuyên biển Đông vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam thời chiến tranh chống Mỹ.
    Chúng ta bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm của mình giữa cuộc sống hôm nay bộn bề, tấp nập, ngổn ngang... Và cũng phải nói trước điều này: những cái mốc để chúng ta có thể bấu víu vào đấy mà đi tìm, lần ra sự tích cũ chẳng còn bao nhiêu cả. Tư liệu, chứng cứ cũ hầu như chẳng còn gì đáng kể. Chúng đã chìm sâu trong câm lặng của mặt nước không biết nói.
    Tài liệu lưu trữ trong các kho bảo mật hoặc đã mục nát, hoặc đã thất lạc gần hết. Những chiếc tàu xưa chẳng còn. Nghe nói ở đâu đó trong một vàm rạch hoang vắng tận cuối mũi Cà Mau còn xác một con tàu, may mà chưa bị bán làm sắt vụn, nhưng cũng đang tan thành gỉ nát vì thời gian và nước mặn...
    Còn những con người? Người đã hi sinh, mãi mãi vùi thân trong biển sâu. Người đã qua đời sau chiến tranh vì già yếu, vì những di chứng của chiến tranh. Những người còn lại thì đang tản mác khắp đất nước, trong những xóm làng, những kênh rạch hẻo lánh đâu đó. Họ vốn vô danh. Hôm qua vô danh vì sự khắc nghiệt của nhiệm vụ. Hôm nay vô danh trong ồn ào cuộc sống đua chen.
    Ta đi tìm chính những con người ấy.
    Là ai? Ta chưa biết.
    Trong tay chúng ta lúc này chỉ có mỗi một tài liệu nhỏ: tập phác thảo lịch sử Lữ đoàn Hải quân 125, chắc là được viết khá vội và quả thật còn khá thô sơ.
    Đây là chứng cứ đầu tiên về thiên huyền thoại một thời. Dấu vết đầu tiên về một huyền thoại có thật, được ghi lại trên những trang giấy ố vàng. Một tập sách khổ rộng, không dày, giấy xấu, in roneo. Có trang còn chen cả chữ viết tay, mực tím đã phai mờ: hẳn có ai đó đã sửa chữa, bổ sung. Ngay từ những trang đầu tiên ta gặp một con số: năm 1959, và một tên người: đồng chí Võ Bẩm.
    Năm 1959: đó là một con số không thể quên. Một cái mốc lịch sử: miền Nam đứng dậy. Và cuộc chiến tranh bắt đầu. Vì sự sống còn của dân tộc. Và miền Nam gọi.
    Có ai ngày ấy không nghe thấy tiếng gọi đó, của máu, của nước mắt, của ý chí tự do, độc lập và thống nhất. Của Chợ Được, của Vĩnh Trinh, của Hướng Điền, của Trà Bồng, của Bến Tre...
    Miền Nam gọi súng. Miền Nam đòi súng.
    Con đường xẻ dọc biển Đông
    Có thể tìm được đồng chí Võ Bẩm hôm nay tại căn nhà số 25 Phan Đình Phùng, Hà Nội.
    Đó là một cụ già tóc đã bạc phơ, nhưng vẫn còn rất rõ dáng nét của một con người đậm chắc, quắc thước. Vầng trán rộng, cương nghị. Cặp mắt tinh anh và trầm tĩnh. Hao hao cái dáng vẻ những người chiến sĩ khởi nghĩa thời Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám.
    Một buổi chiều Hà Nội giờ tan tầm. Tấp nập xe cộ trên đường. Những cây sấu già. Những cây bằng lăng nở đầy hoa tím. Ông cụ ấy nhớ lại:
    - ... Đó là vào đầu năm 1959. Chúng tôi được Bác Hồ gọi lên. Bác nói: miền Nam đã đứng dậy. Miền Nam đang gọi. Phải nhanh chóng đưa súng đạn vào cho bà con trong đó. Bác giao nhiệm vụ cho chúng tôi: phải bằng mọi cách mở đường vào Nam. Chấp hành chỉ thị của Bác, tháng 5-1959 con đường Bắc - Nam xẻ dọc Trường Sơn được mở. Bắt đầu là một con đường mòn. Gọi là đường 559 vì nó ra đời tháng 5-1959. Còn gọi là đường mòn Hồ Chí Minh. Bác từng nói: Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được độc lập...
    Song song với con đường xẻ dọc Trường Sơn, tháng 7-1959 ta quyết định mở cả con đường Bắc - Nam xẻ dọc biển Đông. Bởi vì đi trên biển nguy hiểm hơn nhưng cũng nhanh hơn. Tiếng gọi của chiến trường cấp bách quá...
    Đường biển Đông là mạo hiểm, là tử địa, đúng vậy. Nhưng cũng là bất ngờ. Với lại ta từng có kinh nghiệm rồi: trong kháng chiến chống Pháp ta cũng đã có một con đường vận chuyển vũ khí bí mật xuyên biển Đông từ Khu 5 vào Nam bộ.
    Tháng 7-1959 chúng tôi thành lập một tiểu đoàn lấy tên là 644, giả danh là ?otập đoàn đánh cá miền Nam? đóng tại cửa sông Gianh, do đồng chí Lưu Đức và đồng chí Hà Văn Xá chỉ huy, chuyên lo tổ chức đưa thuyền bí mật chở vũ khí vào Nam. Chuyến đi thí nghiệm đầu tiên xuất phát từ cửa sông Gianh đúng đêm 30 tháng chạp năm 1959, nhằm vào chân đèo Hải Vân, Quảng Nam...
    - Ai đã đi chuyến đầu tiên ấy?
    Anh Bẩm ngồi lặng hồi lâu.
    - Không, tôi không thể nhớ... Chuyến ấy thất bại. Thuyền mất tích. Chắc là tất cả đã hi sinh... Chắc mãi mãi không còn ai biết tên tuổi họ... Tôi chỉ biết người đã nằm chờ đón chuyến thuyền bí mật ở chân đèo Hải Vân suốt một tháng ròng mà không đón được. Người ấy là Nguyễn Chơn, tổng tham mưu phó hiện nay...
    Cửa sông Gianh. Lịch sử có những nghịch lý thật kỳ lạ và lý thú. Sông Gianh, con sông của Trịnh - Nguyễn phân tranh, của một thời chia cắt đất nước đau đớn kéo dài hơn trăm năm. Nơi nào đây, trên hai bờ con sông hiền hòa này, từng đối mặt hai đội quân thù nghịch của một cuộc tử chiến huynh đệ.
    ... Rồi cũng chính con sông này, cái cửa sông có bãi cát trắng phau này, lại là điểm bắt đầu của một con đường máu mủ nối liền Bắc - Nam thống thiết và mạo hiểm thời đánh Mỹ.
    Chúng ta lần theo hai ven sông, qua những xóm làng chài, những cồn cát, những bến phà, những rừng phi lao ngày đêm hát trong gió... Cố tìm lại một chút dấu vết của cái năm tháng lịch sử ấy, năm 1959, của cái ?otập đoàn đánh cá miền Nam?, cái tiểu đoàn 644 ẩn danh, bí mật một thời ấy.
    Tuyệt đối không còn tìm thấy gì.
    Các cụ già bảo:
    - Không, bọ không hề nghe nói...
    Cả những người lính thủy của đơn vị hải quân hôm nay đang đóng giữ cửa biển này:
    - Không, không từng có con đường bí mật nào bắt đầu từ đây cả...
    Những hàng phi lao, có cây đã thành cổ thụ kia, có thể bàn tay một người thủy thủ trong số những người thủy thủ đã mất tích trên biển Đông cái đêm sóng gió 30 tết ấy đã từng đặt tay lên lớp vỏ cây này, mân mê, trìu mến, như muốn nói một lời từ biệt trước lúc lên đường đi vào cõi mịt mùng biển đen, mười phần nắm chắc trước sự hi sinh đến tám, chín phần... Nhưng tiếng hát của hàng phi lao trong gió, dẫu có muốn kể lại kỷ niệm thống thiết xưa, hôm nay ta nào có nghe hiểu được.
    Tức là cuộc đi tìm, lần theo con đường vô hình xưa cũ của chúng ta, vừa mới bắt đầu đã có cơ tắc lại.
    Ta đành từ giã sông Gianh ra đi.
    Đi về đâu?
    Được quydede sửa chữa / chuyển vào 08:44 ngày 05/07/2007
  3. Jet_Ace

    Jet_Ace Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/12/2003
    Bài viết:
    830
    Đã được thích:
    0
    Thấy nói là toàn tàu không số cơ mừ
  4. rongxanhpmu

    rongxanhpmu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/03/2006
    Bài viết:
    2.079
    Đã được thích:
    1
    số trên giấy tờ?
  5. sauthamdam

    sauthamdam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2006
    Bài viết:
    2.110
    Đã được thích:
    1
    tuyến đường này được thàng lập ngày 23 tháng 10 năm 1959.
    Tháng 7-1959, tiểu đoàn vận tải biển 603 được thành lập, đóng tại cửa biển sông Gianh- Quảng Bình với tên gọi là "Tập đoàn đánh cá Sông Gianh". Thuyền được nguỵ trang giống thuyền đánh cá của ngư dân miền Nam. Sau một thời gian tập luyện, thăm dò và chuẩn bị mọi mặt, đêm ba mươi Tết Canh Tý (ngày 27 tháng 1 năm 1960), chuyến tàu đặc biệt đầu tiên xuất phát, gồm 6 người, do Nguyễn Bất chỉ huy đã đi chuyến đầu tiên.
  6. sauthamdam

    sauthamdam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2006
    Bài viết:
    2.110
    Đã được thích:
    1
    em tìm được cái này :http://www3.tuoitre.com.vn/Tusach/Book/ArticleView.aspx?ArticleID=172894&ChannelID=371
    Cuộc truy đuổi "con tàu ma"

    TTO - Cách đây đúng 37 năm Bộ tư lệnh hải quân đã giao cho đoàn 125 ?" đơn vị ?otàu không số? một nhiệm vụ đặc biệt ?otối mật?: vận chuyển hàng trăm tấn vũ khí vào miền Nam, góp phần chi viện kịp thời cho cuộc tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân 1968 của đồng bào miền Nam.
    Bốn tàu C.43, C.56, C165, C.235 đã vinh dự được nhận nhiệm vụ này. Cả bốn tàu đều gặp địch sau đó? Và con tàu đã đi vào huyền thoại của hải quân Việt Nam bằng cuộc chiến đấu dũng cảm của các thủy thủ trên vùng biển địch?
    ? Một ngày sau khi C.56 rời bến, ngày 27-2-1968, tàu 235 nhổ neo tại một căn cứ khác của đoàn 125 ?" căn cứ A3 vào đúng 11g 30 phút. Đây là chuyến đi thứ hai của C.235 trong tháng hai. Chuyến thứ nhất, tàu xuất phát vào ngày 6-2 nhưng hành trình của tàu luôn bị máy bay và tàu chiến dịch theo dõi, vì vậy tàu buộc phải quay trở lại căn cứ. Lần này điểm tập kết 14 tấn ?ohàng? là bến Hòn Hèo thuộc hai xã Ninh Phước, Ninh Vân (Khánh Hòa). Đây là khu vực cực kỳ hiểm trở - cách Nha Trang 12km về phía Bắc, luồng hẹp, nhiều đá ngầm, có núi cao bao bọc phía ngoài, và vô cùng nguy hiểm ?" gần quân cảng Cam Ranh, hang ổ của hải quân địch; có hai căn cứ rada gần đó cùng với tàu chiến, máy bay trinh sát chỉ điểm, tàu tuần tiễu hoạt động gần như 24/24 giờ.
    Tàu 235 là tàu cao tốc, chạy bốn máy, tốc độ trung bình 12 hải lý/giờ do thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy gồm 20 cán bộ chiến sĩ trẻ. Chính trị viên tàu là Nguyễn Tương, người cùng quê hương Điện Bàn với Phan Vinh. Trước chuyến đi này con trai đầu lòng của anh vừa tròn 4 tháng tuổi.
    Nhật ký của C.235
    Đi hai ngày, hai đêm trên vùng biển quốc tế, đến ngày 29-2-1968 vị trí C.235 ở ngang vùng biển Nha Trang.
    - 18 giờ ngày 29-2: máy bay trinh sát của địch phát hịên ra tàu 235.
    - 20 giờ cùng ngày, 235 vẫn quyết định chuyển hướng vào bờ.
    - 22 giờ 30 phút, 235 điện về Sở chỉ huy: ?oCách bờ 19 hải lý, gặp tàu và máy bay địch bám. Phan Vinh?.
    - 23 giờ, C.235 bắt đầu tiến vào bờ. Phát hiện ra 235, hải quân vùng 2 duyên hải ngụy lập tức điều ba tàu chiến Ngọc Hồi, H.Q 12, H.Q 617 và bốn tàu khác của duyên đoàn 25 đến vùng biển phía Bắc Nha Trang với ý định bắt sống C.235.
    - 23 giờ 30 phút: tất cả đèn trên tàu địch đều tắt. Chúng phục kích, theo dõi 235 bằng rada. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh quyết định điều khiển 235 luồn lách qua đội hình tàu địch và đã đến được bến (xã Ninh Phước) lúc 0 giờ 30 phút ngày 1-3-1968. Nhưng hoàn toàn không có người của bến ra đón 235. Không chần chừ thuyền trưởng Vinh ra lệnh khẩn trương cho hàng xuống nước để bến có thể vớt sau. Các bao hàng đóng gói đặc biệt được các thủy thủ lần lượt vần xuống. Chừng một giờ sau hàng trên tàu vơi dần. Lúc này là 1 giờ 30 phút sáng 1-3. Phía ngoài, ba tàu loại lớn và 4 tàu nhỏ của địch vẫn đang khép chặt vòng vây.
    - 1 giờ 40 phút sáng 1-3-1968: thuyền trưởng Phan Vinh đột ngột ra lệnh ngừng thả hàng. Anh đưa tàu chạy ven bờ để nghi binh vị trí bến nhận hàng. Tàu chiến dịch lập tức đuổi theo. Tất cả tàu địch đồng loạt bật đèn pha và điện cho nhau: tàu nào không bật đèn là tàu ?o*********?. Tàu 235 lọt vào tình thế ngặt nghèo. Trước mặt là núi chắn sừng sững. Sau lưng, bảy tàu chiến địch dàn hàng ngang chặn lối ra. Cuộc săn đuổi tàu 235 mà sau này bọn địch gọi là ?ochiếc tàu ma? đã bắt đầu diễn ra?
    Được sauthamdam sửa chữa / chuyển vào 16:45 ngày 05/07/2007
  7. sauthamdam

    sauthamdam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2006
    Bài viết:
    2.110
    Đã được thích:
    1
    Bài tường thuật trên đài tự do
    Hồi 13 giờ ngày 24-3-1968 đài Tự do có giới thiệu bài ?otường thuật đặc biệt? về một trận đánh trên biển với ?o*********?: ?o? Đây là bài tường thuật vụ đuổi bắt chiếc ?otàu ma? ở Nha Trang? Hồi 1 giờ 36 phút, chiến hạm Ngọc Hồi dùng rada phát hiện được tàu địch, H.Q 12, H.Q 617 và các thuyền ta tìm cách chặn bắt tàu trên. Lúc này tàu ta được lệnh thắp đèn, tàu không thắp đèn là tàu địch bị khép chặt vào giữa, trong là bờ cạn.
    Lúc 2 giờ ngày 1-3 cách Hòn Hèo năm hải lý, tàu lạ chạy vào bờ lẩn trốn chạy vào bờ lẩn trốn. Đến 2 giờ 30 phút các tàu ta được lệnh đồng loạt bắn các loại súng nhỏ từ 12 li 7 trở xuống với ý định bắt sống tàu địch. Các pháo lớn bắn vào bờ không cho địch trên tàu tẩu thoát, đồng thời gọi phi cơ đến thả hỏa châu soi sáng. Biết không thể nào tẩu thoát, ********* ở trên tàu và ở trên bờ đã phản pháo.
    Lực lượng trên bờ của địch khoảng một tiểu đoàn, có lẽ đã nhận nhiệm vụ yểm trợ tàu. Biết vậy, các chiến hạm của ta đã được lệnh bắn pháo lớn vào tàu địch. Sau ba mươi phút chống trả, tàu địch bốc cháy. Lúc này phi cơ được gọi đến bắn phá dọn đường ở dọc biển cho một cuộc lục soát. Đến 2 giờ 41 phút chỉ huy trưởng vùng 2 chiến thuật chỉ thị đổ bộ ngay trước khi trời sáng, nhưng vì hỏa lực ********* bắn ra dữ dội nên lực lượng đổ bộ phải rút lui chờ quân chi viện??.
    Nhật ký C.235 từ 1 giờ 50 phút sáng 1-3-1968?
    ? Dưới ánh đèn pha gay gắt, tàu địch được lệnh bắn xối xả vào C.235? Trong ánh chớp lập lòe thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh lái tàu chạy sát vào bờ, chỉ huy anh em chiến đấu. Các thủy thủ dùng DKZ và súng 14 li 5 bắn về phía địch? Những tàu cỡ nhỏ của địch không chịu đựng nổi hỏa lực của C.235, dần dần dạt ra vòng ngoài. Nhưng chỉ trong chưa đầy nửa giờ chiến đấu đã có 5 đồng chí hi sinh, bảy đồng chí bị thương, trong đó có cả thuyền trưởng Phan Vinh?
    - 2 giờ 20 phút ngày 1-3-1968: thuyền trưởng Phan Vinh có ý định phá vòng vây. Anh suy nghĩ, ra khơi sẽ dễ cơ động đối phó với địch. Nếu cần thì có thể áp sát tàu địch và cho giật kíp ba tấn bộc phá đã gài sẵn, phá 235 cùng với tàu địch? Tàu 235 đột ngột tăng tốc rồi lao vọt ra cửa vịnh. Ngay lập tức pháo địch từ các khu trục hạm tập trung hỏa lực nã vào 235. Giữa lưới lửa đỏ bỏng rát đó, 235 mỏng manh luồn lách như một chiếc lá? Một quả đạn pháo trúng gần buồng máy, 235 sựng lại rồi dừng hẳn: máy tàu đã hỏng nặng. Phương án 2 ?" phá vòng vây thế là không thành. Tàu 235 đang cách bờ độ 100m. Phan Vinh quyết định cho tất cả rời tàu bơi vào bờ. Kíp hẹn giờ nổ đã được vặn đến con số 15 phút.
    - 2 giờ 40 phút ngày 1-3-1968: một cột lửa bùng lên, kế đó là một tiếng nổ khủng khiếp, chấn động tới tận Nha Trang. Sức công phá của ba tấn thuốc nổ khiến C. 235 bị đứt làm đôi. Một nửa chìm xuống biển, nửa còn lại văng lên lưng chừng núi Ba Nam (xã Ninh Vân). Kinh ngạc tột độ, bọn địch cuống cuồng gọi máy bay đến bắn phá cày nát vùng ven biển, nhằm dọn đường cho bộ binh bao vây, bắt sống các thủy thủ tàu 235.
    - 3 giờ sáng ngày 1-3-1968: bọn địch từ tàu đổ bộ lên bờ sục sạo nhưng đã bị thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ - hai người cuối cùng rời khỏi 235, đón đầu, kiên cường đánh trả nên chúng đành rút lui, chờ viện binh. Ở một cánh lên bờ khách chỉ còn lại thuyền phó Đoàn Văn Nhi và 6 thủy thủ: Mai, An, Thật, Phong, Khung, Tuyến. Đã có 11 anh em hi sinh.

    ? Những ngày sau đó bảy người còn lại của C.235 ?" vừa bị thương, không lương thực, không nước uống dìu nhau đi vào khu vực Hòn Hèo. Họ bị kiệt sức dần. Đến ngày thứ 11 Khung đi tìm nước uống, rồi không trở về. Chiều hôm đó Thật và An đi tìm Khung, bị lạc. Ngày thứ 12 Thật tìm được du kích ở bến. Hôm sau, An, Tuyến, Mai, Phong cũng liên lạc được với du kích. Mọi người quay lại đón thuyền phó Nhi đang nằm đợi trong rừng. Nhưng anh đã không còn ở đó nữa. Những gì còn lại chỉ là một mảnh bông băng đã khô máu, một mảnh áo rách?

    Con tàu gồm 20 anh em, giờ chỉ còn lại 5 người: Thật, Phong, Mai, An, Tuyến. Năm con người sức tàn lực kiệt ấy đã nương tựa nhau cùng vượt Trường Sơn. Và sáu tháng sau họ đã trở lại miền Bắc, tiếp tục nhiệm vụ của mình?

    Những phút cuối cùng của thuyền trưởng Phan Vinh

    Trích tường thuật của đài Tự Do về trận đánh ở Hòn Hèo: ?o? Các phi tuần, trực thăng, khu trục võ trang được gọi đến bắn phá. Cuộc lục soát bắt đầu. Một toán từ phía Bắc xuống, toán khác từ dọc đồi phía Nam tiến lên khu vực Tân Định, một lực lượng khác gồm 4 tàu dàn hàng ngang tiến vào vịnh HQ.12, HQ.617 tiếp tục bắn phá yểm trợ vào sườn núi và đưa lực lượng thủy quân lục chiến vào bờ cùng hỗ trợ??.

    Trích tạp chí Lướt sóng của hải quân ngụy: ?oMười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam cộng hòa có phi cơ yểm trợ đã đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn ********* gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập tiếp tế cho mặt trận giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hi sinh với con tàu bằng khối lượng hàng chục tấn bộc phá, không để lại một dấu vết??.

    ? Ở gần chỗ tàu nổ, lúc gần sáng, địch đổ quân xuống, lùng sục. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ đã đoán được ý định của địch, chốt chặn sẵn ở đó để những anh em khác rút an toàn. Cả hai anh đều bị thương khá nặng nhưng đã ngoan cường trụ vững chống trả các đợt tấn công của một tiểu đoàn lính Nam Triều Tiên ở cả hai mũi tiến công. Phan Vinh và Thứ đã ở ngay giữa hai gọng kìm của địch. Chiến đấu độ nửa giờ, vết thương ngày một nặng, sức lực cạn kiệt, súng không còn đạn, các anh đã hi sinh. Bọn địch từ hai cánh quân tiếp tục nổ súng bắn vào nhau, thương vong cả hai phía khá nhiều, chúng buộc phải điện về chỉ huy sở ?ođã gặp địch mạnh, buộc phải rút lui??

    ? Hơn nửa tháng sau đó năm anh em thủy thủ đoàn 235 đã tìm được nơi diễn ra trận đánh cuối cùng của Phan Vinh và Ngô Văn Thứ. Các anh vẫn ở trong tư thế nằm vươn người về phía trước như giữa lúc chiến đấu ghìm hai cánh quân địch. Dấu vết còn lại sau trận chiến ác liệt là những hố đạn sâu hoắm, những thân cây ngã gục, cháy loang lổ? Năm đó thuyền trưởng Phan Vinh vừa tròn 35 tuổi, chưa một lần yêu?

    Chuyến đi này 15 cán bộ chiến sĩ của tàu 235 đã yên nghỉ ở Hòn Hèo. Bốn con tàu của đoàn 125 ra đi làm nhiệm vụ, chỉ có tàu 56 trở lại. Tàu 165 với 18 cán bộ chiến sĩ, trong đó có 15 đảng viên, 3 đoàn viên đã cảm tử ra đi sau khi điểm hỏa phá tàu và phá hủy ba chiếc tàu của địch. Tàu 43 đã bắn chìm và bắn hỏng một tàu, bắn rơi một máy bay địch, sau đó các thủy thủ đã phá hủy tàu?

    ? Hai năm sau ngày hi sinh, tháng 8-1970 liệt sĩ Nguyễn Phan Vinh đã được Quốc hội và Chính phủ truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tên anh đã được đặt cho một hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Đảo Phan Vinh nằm ở 8 độ 56 phút vĩ bắc và 113 độ 38 phút kinh đông, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 430 hải lý?

    (Dựa theo tư liệu của lữ đoàn 125, tư liệu trích từ sách Đường mòn trên biển của nhà văn Nguyễn Tử Đương và lời kể của đại tá Trần Phong ?" nguyên trợ lý tham mưu tiểu ban tác chiến đoàn 125 giai đoạn 1968?)
  8. kotus

    kotus Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.841
    Đã được thích:
    3.199
    Số này là số Sài Gòn. Vận chuyển trên biển có hai cách: bí mật; công khai (đóng giả buôn muối hoặc đánh cá). Tàu không số là tàu đi bí mật, tàu có số là tàu vừa buôn muối vừa buôn vũ khí. Tàu 367 là tàu không số cửa Tư Mao, sau khi phẫu thuật chỉnh hình thì xin số SG367 để chuyển qua buôn muối, đánh cá, buôn vũ khí, và buôn người nữa.
    Tàu 367 đi rất nhanh, chở cán bộ khu 9 ra Hà Nội báo cáo mà cả đi cả về chưa đến 4 ngày, trong điều kiện có gián điệp, phải đi lòng vòng.
    Được kotus sửa chữa / chuyển vào 21:26 ngày 05/07/2007
  9. quydede

    quydede Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/04/2006
    Bài viết:
    594
    Đã được thích:
    0
    Tìm người vô danh

    Năm 1959, những ngày đen tối và quyết liệt, khi cách mạng miền Nam từ trong máu và nước mắt, trong đau thương và chết chóc đang gượng mình đứng dậy, ra sức chuyển đêm thành ngày.
    Câu chuyện của Nguyễn Chơn
    Tỉnh ủy bí mật Quảng Nam, bấy giờ thật sự chỉ còn là một nhóm người đói khát mà cháy bỏng ý chí và khát vọng, đang náu mình trong một khu rừng sâu dưới chân ngọn núi Chúa. Cái tỉnh ủy bí mật ấy có một ban quân sự. Gọi là quân sự, kỳ thực chỉ là một nhúm vũ trang mà số người đếm được trên đầu ngón tay, do anh Nguyễn Chơn phụ trách. Họ có một điện đài hết sức thô sơ...
    Một đêm nọ, cái điện đài ấy nhận được một bức điện bí mật từ Hà Nội chuyển vào: ?oTrung ương gửi cho các đồng chí Quảng Nam một số súng bằng đường biển. Thuyền sẽ vào bến Hố Chuối dưới chân đèo Hải Vân. Hãy cử người đón, từ đêm mồng một Tết âm lịch?.
    Nguyễn Chơn được giao nhiệm vụ đi đón chuyến vũ khí đó. Ngày trốn trong hang đá. Đêm ra ngồi trên những tảng đá hoang vắng, tê buốt, chong mắt nhìn ra biển đen, sục tìm bóng dáng một con thuyền.
    Đêm nào cũng vậy. Gạo hết. Cả củ chuối rừng cũng đã đào ăn hết.
    Một đêm. Hai đêm. Ba đêm... Mười đêm... Hai mươi đêm... Một tháng ròng...
    Thuyền không đến. Súng không đến. Còn người?
    Anh Nguyễn Chơn nói:
    - Cho đến tận hôm nay, tôi cũng không hề được biết những người tôi phải đi đón ngày ấy là ai.
    Im lặng một lúc lâu rồi anh lại nói:
    - Có lẽ chỉ có thể đoán rằng những thủy thủ đó chắc phải là người Quảng Nam, hẳn quê một làng, một xã nào đó cũng quanh chân đèo này thôi, có thể từng là dân đánh cá rất am hiểu biển bờ núi non ở đây, hẳn người ta phải chọn những người như vậy để đưa con thuyền bí mật vào bến này...
    Một người vô danh
    Ước đoán đó của anh Nguyễn Chơn bỗng gợi lên cho chúng tôi một ý tưởng: có thể tìm ra, ít nhất là đôi chút dấu vết của những người thủy thủ vô danh đã biệt tích mãi mãi ấy, ở đâu đó trong các xóm làng ven chân ngọn đèo này chăng?
    Chúng tôi la cà trong làng chài Nam Ô. Gặp các mẹ, các bà, các cụ già... Và kỳ lạ thay chúng tôi tìm ra, không phải là một dấu vết mà là một con người. Một thủy thủ của chuyến đi đầu tiên huyền thoại ấy. Con người ấy còn sống. Một ngư dân làng chài Nam Ô hôm nay: anh Huỳnh Ba.
    Đó là một người đã hơn 60 tuổi, tóc muối tiêu, chân mày đã có sợi bạc. Ngồi lẫn trong đám ngư dân trên bãi biển hôm nay thật khó nhận ra ở anh một nét gì đặc biệt, thậm chí anh còn có vẻ hơi lẩn khuất trong đám người ồn ào.
    Chỉ thật tinh mới có thể dần dần nhận ra điều này: anh không có hoặc là đã đánh mất đi nét tính cách thường gặp phổ biến ở những người dân biển: khoáng đạt, ồ ạt, liều lĩnh, ồn ào, ăn sóng nói gió, bạt mạng. Ở anh là sự trầm tĩnh, suy tính, cẩn trọng. Đôi mắt rất kín đáo, luôn quan sát, dò xét, tính toán. Anh nói chậm và nhỏ, ít lời, như cân nhắc từng lời nói ra.
    Tất cả ở anh đều thể hiện một tính cách chín chắn, cẩn trọng, có lẽ đúng hơn nữa: cảnh giác. Sự gan dạ, có thể là sự gan dạ đến quyết liệt, gan lì ẩn sâu trong đôi mắt màu nâu đục nặng trĩu suy tư.
    Ngày ấy, người ta đã chọn một con người như vậy để tiến hành chuyến mở đường đầu tiên mạo hiểm xuyên biển Đông: một con người đã từng trải trong hoạt động địch hậu, biết giấu dưới cái vẻ mộc mạc, giản dị, bình thường, tầm thường bên ngoài của mình sự mưu trí vừa liều lĩnh quyết liệt vừa cẩn trọng, và cái quyết tâm có thể còn rắn hơn cả sắt thép.
    Tiểu đoàn 644, hay có khi còn gọi là đơn vị 759, tức là cái ?otập đoàn đánh cá miền Nam? mạo danh đóng ở cửa sông Gianh ngày ấy, tập hợp toàn những con người như vậy đấy, không nhiều.
    Một số ra Bắc từ ngày tập kết 1954, một số ở lại trong Nam, là đảng viên được bố trí nằm vùng hoạt động bí mật trong lòng địch, rồi sau đó vượt tuyến ra Bắc theo một mật lệnh phát ra từ một trung tâm chỉ đạo nào đó mà chính họ cũng không hề biết.
    Huỳnh Ba thuộc loại thứ hai. Anh là đảng viên, được bố trí ở lại nằm vùng. Và giữa năm 1959 Huỳnh Ba nhận được lệnh bí mật tìm đường vượt tuyến, qua sông Hiền Lương, ra Bắc... Anh trở thành một trong những chiến sĩ đầu tiên của ?otập đoàn đánh cá miền Nam? ở cửa sông Gianh.
    Ở đấy họ đi đánh cá thật sự cùng với ngư dân địa phương để ngụy trang. Và bí mật đóng thuyền: những chiếc thuyền đánh cá hệt kiểu thuyền Quảng Nam, ở Quảng Nam người ta gọi là ghe bầu.
    Những ngày tháng chạp năm 1959. Ở ?otập đoàn đánh cá miền Nam? tại cửa sông Gianh, người ta khiêng, chất đống những thùng hàng bọc vỏ thiếc, những bó súng quấn vải dầu chống thấm.
    4 giờ chiều.
    Trên bến sông Gianh, 10 con người, năm người đi tiễn năm người sẽ lên đường. Chén rượu chia tay. Những cái nắm tay siết chặt, rất có thể là lần cuối cùng.
    Cánh buồm được kéo lên, trắng nhờ trong đêm đen.
    Một cơn gió bất ngờ ào đến.
    Chiếc ghe giả rời bến, lao ra khơi, lao vào đêm đen.
    Và mất hút trong màn đêm đặc kín.
    Bên chiếc máy điện tín thô sơ, một cô báo vụ viên đang hối hả gõ nhịp máy. Bức điện viết:
    Gửi Tỉnh ủy Quảng Nam,
    Thuyền rời bến 30 tết. Dự kiến đến sau hai ngày. Đón tại Hố Chuối chân đèo. Nhận được báo cáo...
    Chuyến đi mở đường
    Anh Huỳnh Ba kể lại với chúng tôi câu chuyện năm xưa của anh trên một chuyến anh rủ chúng tôi cùng đi biển đánh cá. Câu chuyện được rì rầm kể lại trên biển đêm yên tĩnh.
    - Chúng tôi có năm người: anh Nguyễn Xanh, quê Tam Kỳ, về sau đã hi sinh. Anh Trần Mức, quê Quảng Ngãi, về sau có về làm cán bộ huyện đội Mộ Đức, Quảng Ngãi, cũng đã hi sinh. Anh Huỳnh Sơn, người Thăng Bình, đã hi sinh. Anh Nguyễn Nử, người Duy Nghĩa, Duy Xuyên, cũng đã hi sinh.
    Và tôi. Nay còn lại mỗi mình tôi.
    Tất cả chúng tôi đều từng là thủy thủ trong các đội thuyền chở vũ khí bí mật từ Khu 5 vào Khu 6 và Nam bộ thời chín năm chống Pháp. Thời ấy chúng tôi từng có kinh nghiệm: ra đi vào đúng những ngày dông bão lớn, biển động hoặc những ngày tết. Ấy là những lúc địch xao nhãng tuần tra trên biển. Giờ đây cũng vậy, ra đi đúng đêm 30 tết.
    Đêm thứ nhất, tức đêm giao thừa, đã phải vật lộn với gió cấp 5, cấp 6. Đến sáng mồng 1 thì trời xuống gió to hơn: cấp 7, cấp 8. Vẫn ra sức chống chèo. Khoảng 12 giờ trưa, bị gãy mất tay lái. Nhưng chúng tôi còn một tay lái dự phòng. Đến trưa mồng 2 thì gãy tiếp tay lái thứ hai. Kéo lên sửa mấy lần không được. Bây giờ thì đành thả trôi.
    Sáng mồng 4, tôi nhận ra đảo Lý Sơn cách chừng 6- 7km. Biển đã lặng. Biển lặng thì dân Lý Sơn đổ ra đánh cá nhiều. Mà bọn thuyền địch cũng ra. Tức là có nguy cơ bị bắt. Chúng tôi quyết định thủ tiêu hàng hóa. Tất cả có 6 tấn: 500kg vải, 400kg nilông đi mưa và thuốc men, chủ yếu là thuốc chống sốt rét. Còn lại toàn súng đạn. Vứt hết xuống biển. Có một nguyên tắc: tuyệt đối không để hàng rơi vào tay địch...
    4g30 chiều hôm đó chúng tôi bị bắt. Đã bàn với nhau trước: chúng tôi là thuyền đánh cá, bị bão trôi dạt vô đây. Tất nhiên là chúng không tin. Bị giam ở đảo Lý Sơn một tuần. Rồi đưa về Đà Nẵng nhốt hai tháng rưỡi. Rồi vào Tổng nha Sài Gòn. Rồi Chí Hòa. Lao Chí Hòa đầy quá lại gửi qua lao Gia Định.
    Đầu năm 1961 về Phú Lợi. Năm 1964 nhà lao Phú Lợi giải tán, tôi ra Côn Đảo. Ở Côn Đảo, lâu lâu lại bị gọi về Sài Gòn tra khảo, khai thác. Trước sau tôi ra Côn Đảo tất cả 12 lần... Cho đến cuối năm 1974 tôi được thả ra. Bệnh tật, xơ xác. Lần mò về được đến Nam Ô cũng vừa là ngày giải phóng Đà Nẵng, 29-3-1975...
    Sau chuyến mở đường đầu tiên thất bại, có một cuộc họp đã diễn ra bên tấm bản đồ lớn, đất và biển miền Nam. Rồi một bức điện tuyệt mật được đánh đi từ cơ quan đầu não tối cao:
    Gửi Trung ương Cục và tất cả các tỉnh ven biển miền Nam,
    Các tỉnh tổ chức cho thuyền bí mật vượt biển ra Bắc, báo cáo tình hình bến bãi, tình hình địch bố phòng ven biển và tuần tiễu trên mặt biển. Rồi trực tiếp dẫn tàu vào...
    Một hành trình mới xuyên biển lại bắt đầu, từ phía Nam ra...
  10. quydede

    quydede Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/04/2006
    Bài viết:
    594
    Đã được thích:
    0
    Đi về hướng sao Bắc Đẩu

    Trong tài liệu lưu trữ của Lữ đoàn Hải quân 125 có ghi một số tên những người đầu tiên đã đi xuyên biển từ phía Nam ra tìm bắt liên lạc với Trung ương theo bức điện chỉ thị tuyệt mật ngày ấy: Bông Văn Dĩa, Tư Mau, Đặng Văn Thanh, Lê Hà...
    Nhưng khi chúng tôi tìm đến nơi thì chỉ còn có thể đến nghiêng mình trước nấm mộ đồng chí Bông Văn Dĩa ở Rạch Gốc, Cà Mau và đồng chí Tư Mau ở Rạch Giá, Kiên Giang.
    Những nấm mộ thì im lặng. Chúng tôi đã đến quá muộn!...
    Song cũng còn may: một anh bạn chúng tôi, là nhà văn, có cho chúng tôi đọc mấy cuốn sổ tay ghi chép của anh khi anh tìm về Rạch Giá gần 10 năm trước, được gặp đồng chí Tư Mau lúc ông còn sống và được làm việc với ông.
    Đó là những trang ghi chép vội, một thứ tư liệu mộc, chưa hề được nhào nặn, pha chế. Nhưng chính vì thế mà còn giữ được ít nhiều vẻ tươi nguyên của một vỉa quặng vừa được xới lên từ những lớp sâu của thời gian.
    Chuyện kể của đồng chí Tư Mau, trích từ những trang ghi chép:
    Đi tìm ông Hai Địa
    ?oTôi được biết tên anh Hai Địa tức đồng chí Bông Văn Dĩa lần đầu tiên vào năm 1957 hay 1958. Mới biết tên, nhưng ấn tượng hết sức đậm. Câu chuyện thế này: hồi bấy giờ anh Ba Duẩn, tức đồng chí Lê Duẩn, ở Kinh Năm, một con rạch nhỏ tận cuối mũi Cà Mau.
    Địch đánh phá ác liệt lắm, cả vùng U Minh mênh mông là vậy mà hầu như không còn chỗ an toàn, lúc về Kinh Năm là nơi cuối cùng. Nhưng rồi Kinh Năm cũng bị lộ. Tôi ở bộ phận bảo vệ anh Ba. Anh Ba bảo:
    - Lộ rồi. Phải đi thôi!
    - Đi đâu bây giờ?
    Anh Ba nói:
    - Còn một chỗ. Còn một người có thể tin cậy: anh Hai Địa ở Rạch Gốc. Rạch Gốc là đất có thể nương náu. Đó là căn cứ địa của cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai hồi 1941. Chính Hai Địa là cơ sở của đồng chí Phan Ngọc Hiển, từng tham gia cướp chính quyền Hòn Khoai về sau bị tù Côn Đảo. Ở Côn Đảo, mỗi lần chúng tôi bị địch kéo ra đánh thì Hai Địa xông ra chịu đòn thay... Phải đi tìm Hai Địa...
    Vậy là chúng tôi đi. Một chiếc vỏ lãi, ba người: anh Ba, tôi và ông Hắc Hổ chèo thuyền. Chèo suốt một ngày tới Rạch Gốc. Nhưng Hai Địa không có nhà, anh ấy đang đi hoạt động trên miệt Cần Thơ. Chị Hai cho chúng tôi ăn cơm. Ngồi được một lúc thì có mấy thanh niên tới. Họ cứ nhìn chằm chằm anh Ba, rồi lân la hỏi thăm tình hình phong trào.
    Anh Ba kéo tôi ra ngoài, bảo: ?oThế là lộ rồi, phải đi thôi...?. Vậy là chúng tôi lại ra đi... Tức là lần đó tôi không gặp được anh Hai Địa. Nhưng lời anh Ba Duẩn thì tôi vẫn nhớ: đó là con người có thể tin cậy trong lúc khó khăn cùng cực của cách mạng.
    Năm 1961 tôi làm chính trị viên tiểu đoàn bảo vệ Khu ủy Khu 9 vẫn đóng quanh quẩn vùng Bạc Liêu, Cà Mau. Tôi được biết Trung ương có chỉ thị các tỉnh ven biển miền Nam cho thuyền vượt biển ra Bắc để tính chuyện chở vũ khí về. Bấy giờ âm thầm nhưng sôi nổi lắm.
    Bà Rịa cho thuyền ra, do anh Năm Đông tổ chức. Trà Vinh thì cử sáu đồng chí, mang bí danh là Đoàn, Kết, Đấu, Tranh, Thắng, Lợi. Bến Tre cho thuyền ra do anh Tư Thắng phụ trách. Khu 6 cũng cử anh Đặng Văn Thanh đi ra, theo đường Trường Sơn. Bạc Liêu cử hai thuyền, do anh Bông Văn Dĩa làm bí thư chi bộ... Các chuyến ra đều rất gian nan.
    Thuyền Bà Rịa bị địch bắt ở Nha Trang, sau thoát được lại trôi dạt vào đảo Hải Nam. Thuyền Trà Vinh gặp bão lớn, phải đốn bỏ cả cột buồm, trôi dạt sang tận Hương Cảng... Riêng anh Hai Địa dạt vô bờ biển Quảng Bình, bị dân quân ta bắt, tưởng là biệt kích ngụy, đánh cho một trận và giam chặt.
    Anh Hai Địa nhất định không tiết lộ nhiệm vụ, chỉ một mực yêu cầu giải về Trung ương, trực tiếp gặp anh Ba Duẩn. Mãi mới được chuyển về huyện. Lại giam. Rồi chuyển về tỉnh. Anh Hai Địa dọa đồng chí công an tỉnh: ?oCác đồng chí không đưa tôi đi gặp đồng chí Lê Duẩn ngay, sau này lỡ việc lớn, phải chịu trách nhiệm?. Vừa may lúc đó anh Ba Duẩn đang đi công tác ở Quảng Bình. Tỉnh ủy báo cáo:
    - Có người trong Nam ra, tự xưng tên là Hai Địa, đòi gặp trực tiếp đồng chí, không chịu khai báo gì nữa.
    - Ở đâu? Ở đâu?...
    Vậy là hai người gặp được nhau, hai người bạn tù Côn Đảo mấy mươi năm trước. Họ ôm chầm lấy nhau...
    Đầu năm 1962, tôi được lệnh đồng chí Vũ Đình Liệu gọi lên, giao nhiệm vụ:
    - Đồng chí Bông Văn Dĩa ra bắt liên lạc với trung ương nay đang trên đường trở về. Đồng chí dẫn một tiểu đội xuống Rạch Gốc đón và đưa đồng chí Dĩa về đây báo cáo... Đã biết mặt Bông Văn Dĩa chưa?
    Tôi bảo:
    - Chưa gặp nhưng đã biết.
    Khai thông con đường biển Đông
    Chúng tôi xuống Rạch Gốc, chờ 10 ngày thì thuyền anh Hai Địa về. Tôi đưa anh lên ngay khu ủy báo cáo. Nghe báo cáo có các anh Ba Bường, Ba Hương, Mười Thơ, Vũ Đình Liệu. Trung ương nhận định tình hình bến bãi trong này như anh Hai Địa ra báo cáo là chưa cụ thể, chưa bảo đảm. Chưa thể đưa tàu vào.
    Cần về khảo sát và ra báo cáo lại. Cần khảo sát cả các đảo ven bờ và ngoài khơi, cả đảo Trường Sa, có thể dùng một số đảo làm trạm trung chuyển, lập kho bí mật, trung ương đưa tàu vào đấy, các tỉnh miền Nam dùng thuyền nhỏ ra lấy chở về...
    Khu ủy quyết định thành lập một ban chỉ huy cho công tác đặc biệt này do anh Ba Hòa làm trưởng ban, tôi làm phó, đưa một đại đội được chọn lọc kỹ xuống căn cứ ở vùng rừng Cà Mau và giao anh Hai Địa cùng tôi đi khảo sát các đảo.
    Chúng tôi dùng thuyền máy Arona, đi bốn người: anh Hai Địa, tôi, anh Tranh, anh Huynh, ra cửa Rạch Gốc, xuôi xuống Hòn Chuối, tạm nấp ở đó, đến 4 giờ chiều thì bắt đầu nổ máy chạy suốt đêm, 5 giờ sáng hôm sau đến đảo Thổ Chu.
    Bấy giờ là tháng năm ta, chúng tôi cập gần đảo, tạm dừng, pha trà uống. Đang uống trà, chợt giật mình thấy một chiếc ghe nhỏ từ trong bờ đảo chèo ra. Cập ghe lại hỏi thăm, biết đấy là ông Năm Lặc, người Rạch Giá, ra đây câu đồi mồi. Thổ Chu rất nhiều đồi mồi.
    Ông Năm Lặc cho biết bà con miệt Rạch Giá, Hà Tiên vẫn thường ra đây bắt đồi mồi, hoặc đi đánh cá các nơi thường ghé về đây phơi cá trước khi chuyển về đất liền. Cũng có người ra đây tìm trứng nhàu...
    Chúng tôi quanh quẩn ở quần đảo Thổ Chu mấy ngày, cuối cùng đi đến kết luận: không ổn! Đây không hoàn toàn là đảo hoang, người đi lại khá nhiều, phức tạp, không thể lập kho vũ khí bí mật.
    Đành bỏ Thổ Chu, đi Trường Sa. Trường Sa có một số đảo hoang, nhưng nhiều nước nhòm ngó, lại càng quá xa bờ, bất tiện hơn nhiều.
    Lại quay về ven vịnh Thái Lan, miệt khơi Rạch Giá, Hà Tiên. Vùng biển này có hơn trăm đảo lớn nhỏ, nay ta gọi là huyện Kiên Hải. Đảo lớn thì đông dân, đảo nhỏ không nhiều người ở nhưng quá gần bờ, người đi lại luôn. Chúng tôi lần khắp, tính đi tính lại thấy không xong... Vậy là phương án lấy các đảo làm trạm trung chuyển không thành...
    Về báo cáo, khu ủy chỉ thị: vậy thì quay lại nghiên cứu các bến. Lại ra đi. Lần mò suốt dọc từ miệt bờ biển Sóc Trăng, Bạc Liêu xuống tới mũi Cà Mau, rồi từ mũi Cà Mau lần lên hướng Rạch Giá, Hà Tiên. Nắm tình hình địch, tình hình dân, dò các lạch, đêm đêm mò ra đo độ sâu lúc nước cường, lúc nước ròng.
    Tìm ra cửa lý tưởng nhất là cửa Bồ Đề, lạch sâu 3,8m, tàu ta có thể vào thong thả. Các cửa Rạch Gốc, Hố Bỏ Gùi, Vàm Lũng, Vàm Cái Su cạn hơn nhưng lúc nước cường vẫn vào được, lại có lạch kín, rừng đước dày, có thể đào ụ giấu tàu và lập kho lớn chứa vũ khí...
    Sau chuyến khảo sát này, khu ủy quyết định cử hai thuyền ra báo cáo trung ương, một chiếc do anh Hai Địa phụ trách xuất phát tại cửa Rạch Gốc ngày 24-7-1962, một chiếc tôi phụ trách xuất phát sau hai ngày. Đi hai thuyền là đề phòng mất một vẫn còn một.
    Anh Hai Địa đi trót lọt, đến cửa Việt ngày 29-7.
    Còn tôi đến ngang Đà Nẵng cách bờ 50km thì bị tàu địch rượt đuổi suốt một ngày, đến 10 giờ đêm 30-7 thì bị chúng bắt...
    Bị giam ở Đà Nẵng một năm trường. Đến tháng 6-1963 mới được tha. Lần về tới chiến khu Bạc Liêu thì anh Hai Địa đã chở được chuyến tàu gần 50 tấn súng đạn về bến Rạch Gốc.
    Con đường biển Đông đã chính thức được khai thông.
    Và cả một mạng lưới các bến liên hoàn từ Bà Rịa dài suốt đến Cà Mau đã được hình thành. Riêng vùng Rạch Gốc - quê anh Hai Địa - đã được tổ chức thành một khu căn cứ hoàn chỉnh chặt chẽ?.
    Những chuyến tàu mạo hiểm đã xẻ dọc biển Đông, đưa súng đạn cho người đang cần súng đạn để chiến đấu và tự vệ. Tiếng miền Nam gọi khẩn thiết đã giục giã ra khơi những con tàu lớn hơn. Và một người lính đã được chọn lựa cho nhiệm vụ tuyệt mật này.
    Một câu chuyện lạ lùng và cảm động?

Chia sẻ trang này