1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đường Trường Sơn-Con đường huyền thoại-Những bước chân kỳ diệu

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi hoibihay, 29/05/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. AK_M

    AK_M Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/03/2003
    Bài viết:
    2.948
    Đã được thích:
    0
    KẾ HOẠCH SỬ DỤNG LỰC LƯỢNG QUỐC TẾ TẠI VÙNG PHI QUÂN SỰ
    Trước diễn biến xảy ra tại khu giới-tuyến, Ðại Tướng Westmoreland lập ngay kế hoạch KANZUS, tên kế hoạch ghép từ chữ cái đầu tên của các nước viết bằng tiếng Anh (K= Korea (Đại Hàn, A: Australia (Úc), NZ= New Zealand (Tân Tây Lan), US: United States (Hoa Kỳ). Tại Saigon, đại sứ các nước đều đồng thanh ưng thuận, nhưng Hoa Thịnh Đốn (Washington, D.C., thủ đô Hoa Kỳ) không đồng ý. Sau này khi được cử giữ chức tham mưu trưởng Lục Quân (từ giữa năm 1968), Ðại Tướng Westmoreland vẫn hối thúc chính phủ Hoa Kỳ thực hiện kế hoạch này, vì theo nhận định của Ðại Tướng Westmoreland thì chỉ có lực lượng này mới đánh mạnh vào yếu tố tâm lý của thế giới, ngăn chận hữu hiệu sự xâm nhập của quân Bắc Việt .
  2. AK_M

    AK_M Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/03/2003
    Bài viết:
    2.948
    Đã được thích:
    0
    HỆ THỐNG CĂN CỨ ÁN NGỮ DỌC PHÍA NAM VĨ TUYẾN 17
    Tỉnh Quảng Trị về phía Tây có núi cao chót vót, phía Đông là biển và triền cát, con sông Hiếu Giang phát nguyên từ phía Tây thị xã Cam Lộ cắt ngang 1/3 diện tích cực Bắc của tỉnh và chạy xuyên qua thị xã Đông Hà ra đến Cửa Việt. Đông Hà cách Quảng Trị khoảng 10 km đường chim bay (đường bộ: 14 km), cách cầu Hiền Lương bắc ngang sông Bến Hải khoảng 15 km đường chim bay (đường bộ: khoảng 20 km). Từ Đông Hà có con đường chạy lên biên giới Việt-Lào ở phía Tây, đó là Quốc Lộ 9. Khi đến gần biên giới, có một con đường rẽ bằng đất đá, chiều ngang hẹp, chạy ngoằn ngoèo ngang qua trại Lực lượng Đặc biệt Làng Vei đến khu vực người Thượng ở gần căn cứ Khe Sanh.
    Theo tướng Westmoreland, chỉ có một phương cách hữu hiệu nhất để ngăn chận sự xâm nhập của quân Bắc Việt vào miền Nam qua khu Phi Quân Sự là lập một hàng rào chắn từ cửa biển đến biên giới Lào, nhưng như thế BV còn có thể dùng đất Lào để chuyển quân. Vì vậy cần phải chận luôn từ biên giới một hàng rào mà tướng Westoreland đặt tên là "hệ thống căn cứ án ngữ" chung quanh các căn cứ hỏa lực và căn cứ hỏa lực để dồn quân BV vào các hành lang dễ dàng cho phi cơ và đại bác yểm trợ các đơn vị bộ chiến tấn công để diệt.
    Các căn cứ này sẽ chiếm giữ một số cao điểm trong vùng duyên-hải Quảng Trị để quan sát và điều khiển hỏa lực Pháo binh, nhưng đồng thời cũng để quan sát vị trí đặt súng của quân BV nhắm vào các cơ sở, doanh trại liên quân như phi trường, bãi chứa hàng để tiếp tế cho những đơn vị đóng quân dọc theo sông chạy từ Cửa Việt đến phía Tây đi và tại Đông Hà. Bởi lẽ rằng quân Bắc Việt xây các vị trí đặt súng lớn ngay ở phía Bắc khu Phi Quân Sự mới mưu tính đưa đại bác vào đó để pháo kích vào các vị trí liên quân nằm về phía Nam.
    Trong số các căn cứ đặt trong địa bàn tỉnh Quảng Trị, căn cứ lớn nhất và quan trọng nhất là Cồn Tiên, cách khu Phi Quân Sự về phía Nam khoảng 3 km đường chim bay. Yểm trợ cho căn cứ này là căn cứ hỏa lực Carroll (Tân Lâm) nằm trên Quốc Lộ 9, cách Cam Lộ khoảng 4 km đường chim bay. Gần cuối năm 1966, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ còn xây thêm một căn cứ nữa lấy tên là Rock Pile xa về hướng Tây, trên đỉnh một ngọn núi cao hơn 300 mét, án ngữ các đường dọc theo thung lũng từ hướng Tây và Bắc xuống. Hai căn cứ tiền đồn Làng Vei và Khe Sanh án ngữ mặt cực Tây là hai cứ điểm quan trọng của hệ thống căn cứ án ngữ.
    Ngay từ năm 1966 khi cho lệnh các đơn vị Hoa Kỳ xây dựng hệ thống án ngữ nói trên, Ðại Tướng Westmoreland đã nghĩ rằng các đơn vị VNCH có thể đảm nhận một phần trong số các căn cứ này, nên ông luôn luôn theo dõi không cho các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến mở rộng căn cứ của họ đến mức các đơn vị VNCH không đủ phương tiện để đảm nhận.
    Được AK_M sửa chữa / chuyển vào 17:43 ngày 29/05/2003
  3. AK_M

    AK_M Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/03/2003
    Bài viết:
    2.948
    Đã được thích:
    0
    HỆ THỐNG CĂN CỨ ÁN NGỮ DỌC PHÍA NAM VĨ TUYẾN 17
    Tỉnh Quảng Trị về phía Tây có núi cao chót vót, phía Đông là biển và triền cát, con sông Hiếu Giang phát nguyên từ phía Tây thị xã Cam Lộ cắt ngang 1/3 diện tích cực Bắc của tỉnh và chạy xuyên qua thị xã Đông Hà ra đến Cửa Việt. Đông Hà cách Quảng Trị khoảng 10 km đường chim bay (đường bộ: 14 km), cách cầu Hiền Lương bắc ngang sông Bến Hải khoảng 15 km đường chim bay (đường bộ: khoảng 20 km). Từ Đông Hà có con đường chạy lên biên giới Việt-Lào ở phía Tây, đó là Quốc Lộ 9. Khi đến gần biên giới, có một con đường rẽ bằng đất đá, chiều ngang hẹp, chạy ngoằn ngoèo ngang qua trại Lực lượng Đặc biệt Làng Vei đến khu vực người Thượng ở gần căn cứ Khe Sanh.
    Theo tướng Westmoreland, chỉ có một phương cách hữu hiệu nhất để ngăn chận sự xâm nhập của quân Bắc Việt vào miền Nam qua khu Phi Quân Sự là lập một hàng rào chắn từ cửa biển đến biên giới Lào, nhưng như thế BV còn có thể dùng đất Lào để chuyển quân. Vì vậy cần phải chận luôn từ biên giới một hàng rào mà tướng Westoreland đặt tên là "hệ thống căn cứ án ngữ" chung quanh các căn cứ hỏa lực và căn cứ hỏa lực để dồn quân BV vào các hành lang dễ dàng cho phi cơ và đại bác yểm trợ các đơn vị bộ chiến tấn công để diệt.
    Các căn cứ này sẽ chiếm giữ một số cao điểm trong vùng duyên-hải Quảng Trị để quan sát và điều khiển hỏa lực Pháo binh, nhưng đồng thời cũng để quan sát vị trí đặt súng của quân BV nhắm vào các cơ sở, doanh trại liên quân như phi trường, bãi chứa hàng để tiếp tế cho những đơn vị đóng quân dọc theo sông chạy từ Cửa Việt đến phía Tây đi và tại Đông Hà. Bởi lẽ rằng quân Bắc Việt xây các vị trí đặt súng lớn ngay ở phía Bắc khu Phi Quân Sự mới mưu tính đưa đại bác vào đó để pháo kích vào các vị trí liên quân nằm về phía Nam.
    Trong số các căn cứ đặt trong địa bàn tỉnh Quảng Trị, căn cứ lớn nhất và quan trọng nhất là Cồn Tiên, cách khu Phi Quân Sự về phía Nam khoảng 3 km đường chim bay. Yểm trợ cho căn cứ này là căn cứ hỏa lực Carroll (Tân Lâm) nằm trên Quốc Lộ 9, cách Cam Lộ khoảng 4 km đường chim bay. Gần cuối năm 1966, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ còn xây thêm một căn cứ nữa lấy tên là Rock Pile xa về hướng Tây, trên đỉnh một ngọn núi cao hơn 300 mét, án ngữ các đường dọc theo thung lũng từ hướng Tây và Bắc xuống. Hai căn cứ tiền đồn Làng Vei và Khe Sanh án ngữ mặt cực Tây là hai cứ điểm quan trọng của hệ thống căn cứ án ngữ.
    Ngay từ năm 1966 khi cho lệnh các đơn vị Hoa Kỳ xây dựng hệ thống án ngữ nói trên, Ðại Tướng Westmoreland đã nghĩ rằng các đơn vị VNCH có thể đảm nhận một phần trong số các căn cứ này, nên ông luôn luôn theo dõi không cho các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến mở rộng căn cứ của họ đến mức các đơn vị VNCH không đủ phương tiện để đảm nhận.
    Được AK_M sửa chữa / chuyển vào 17:43 ngày 29/05/2003
  4. AK_M

    AK_M Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/03/2003
    Bài viết:
    2.948
    Đã được thích:
    0
    KẾ HOẠCH HÀNG RÀO ÐIỆN TỬ MCNAMARA
    Công việc đang tiến hành thì trong chuyến đi sang căn cứ Không Quân Clark tại Phi Luật Tân vào trung tuần tháng 9/1966 để dự họp với đại diện của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ là Trung Tướng Alfred D. Starbird, Ðại Tướng Westmoreland được thông báo là các khoa học gia đã chế tạo được một dụng cụ điện tử có khả năng phát giác các cuộc chuyển quân của đối phương. Dụng cụ này sẽ làm thành một hàng rào điện tử từ bờ biển chạy dọc theo phía Nam của khu Phi Quân Sự băng qua Lào và xuyên qua đến biên giới Thái Lan. Khi được thông báo như vậy, Ðại Tướng Westmoreland nhận định rằng đây là một ý kiến quá sang: dùng kỹ thuật tân tiến để thay thế cho các đơn vị tác chiến trong nhiệm vụ phòng thủ thì còn gì bằng.
    Thế nhưng vị tướng 4 sao này cũng đặt nghi vấn về tính khả dụng tuyệt hảo của dụng cụ điện tử này: Lý thuyết thì rất hay, nhưng Ðại Tướng Westmoreland có cảm tưởng là người ta đã nói quá đáng, có thể cả McNamara (bộ trưởng Quốc phòng) cũng vậy, khi cho rằng dụng cụ điện tử này có thể thay thế cho các cuộc ném bom miền Bắc Việt Nam.
    Tên chính thức của công tác này là dự án JASON, gồm có việc dùng dây kẽm gai, mìn, dụng cụ phát giác điện tử và căn cứ quân sự. Theo Ðại Tướng Westmoreland thì dưới bất cứ nhà quân sự nào cũng thấy rằng ý kiến này thật khôi hài vì không có một hàng rào điện tử hay là gì đó nếu không có hỏa lực ngăn chận thì cũng vô hiệu. Nếu không thì cứ với hàng rào điện tử này phải bố trí cứ mỗi dậm đặt một tiểu đoàn để canh giữ. Trong khi chấp thuận ý kiến do Trung Tướng Starbid chuyển đạt, Ðại Tướng Westmoreland đã báo cho Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara là nên vừa đặt hàng rào điện tử vừa bố trí quân theo kế hoạch của vị tư lệnh này. Trong khi đó, các khoa học gia thì nghĩ đến một hàng rào chắn chạy dài suốt một dãi, còn Ðại Tướng Westmoreland thì muốn đặt các dụng cụ này giữa hai căn cứ để phát giác mọi di chuyển của quân BV, bất kể nhỏ hay lớn.
  5. AK_M

    AK_M Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/03/2003
    Bài viết:
    2.948
    Đã được thích:
    0
    KẾ HOẠCH HÀNG RÀO ÐIỆN TỬ MCNAMARA
    Công việc đang tiến hành thì trong chuyến đi sang căn cứ Không Quân Clark tại Phi Luật Tân vào trung tuần tháng 9/1966 để dự họp với đại diện của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ là Trung Tướng Alfred D. Starbird, Ðại Tướng Westmoreland được thông báo là các khoa học gia đã chế tạo được một dụng cụ điện tử có khả năng phát giác các cuộc chuyển quân của đối phương. Dụng cụ này sẽ làm thành một hàng rào điện tử từ bờ biển chạy dọc theo phía Nam của khu Phi Quân Sự băng qua Lào và xuyên qua đến biên giới Thái Lan. Khi được thông báo như vậy, Ðại Tướng Westmoreland nhận định rằng đây là một ý kiến quá sang: dùng kỹ thuật tân tiến để thay thế cho các đơn vị tác chiến trong nhiệm vụ phòng thủ thì còn gì bằng.
    Thế nhưng vị tướng 4 sao này cũng đặt nghi vấn về tính khả dụng tuyệt hảo của dụng cụ điện tử này: Lý thuyết thì rất hay, nhưng Ðại Tướng Westmoreland có cảm tưởng là người ta đã nói quá đáng, có thể cả McNamara (bộ trưởng Quốc phòng) cũng vậy, khi cho rằng dụng cụ điện tử này có thể thay thế cho các cuộc ném bom miền Bắc Việt Nam.
    Tên chính thức của công tác này là dự án JASON, gồm có việc dùng dây kẽm gai, mìn, dụng cụ phát giác điện tử và căn cứ quân sự. Theo Ðại Tướng Westmoreland thì dưới bất cứ nhà quân sự nào cũng thấy rằng ý kiến này thật khôi hài vì không có một hàng rào điện tử hay là gì đó nếu không có hỏa lực ngăn chận thì cũng vô hiệu. Nếu không thì cứ với hàng rào điện tử này phải bố trí cứ mỗi dậm đặt một tiểu đoàn để canh giữ. Trong khi chấp thuận ý kiến do Trung Tướng Starbid chuyển đạt, Ðại Tướng Westmoreland đã báo cho Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara là nên vừa đặt hàng rào điện tử vừa bố trí quân theo kế hoạch của vị tư lệnh này. Trong khi đó, các khoa học gia thì nghĩ đến một hàng rào chắn chạy dài suốt một dãi, còn Ðại Tướng Westmoreland thì muốn đặt các dụng cụ này giữa hai căn cứ để phát giác mọi di chuyển của quân BV, bất kể nhỏ hay lớn.
  6. AK_M

    AK_M Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/03/2003
    Bài viết:
    2.948
    Đã được thích:
    0
    Theo lời kể của Ðại Tướng Westmoreland, Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara đồng ý đề nghị của ông, nhưng trong cuộc họp báo tại Hoa Thịnh Đốn, ông McNamra lại buộc miệng nói ra hết kế hoạch lớn lao. Vậy là các phóng viên loan tin về hàng rào điện tử McNamara, các bài báo này nói về kế hoạch này đã chính thức thông báo cho Hà Nội biết mọi chuyện. Do đó khi các đơn vị Công Binh Hoa Kỳ cho xe ủi đất đến để khai quang, chở kẽm gai đến chuẩn bị rào thì đại bác của quân BV đã bố trí sẵn. Trước sự việc đó, Ðại Tướng Westmoreland nghĩ rằng bây giờ nếu muốn hoàn thành mọi việc xây dựng hàng rào án ngữ này, cho dù có thay đổi như đã dự trù đi nữa thì tổn thất nhân mạng sẽ lên cao. Vì thế, Ðại Tướng Westmoreland đã phải âm thầm dẹp bỏ kế hoạch này để "quân BV khỏi chê cười là chúng tôi đã bị buộc phải làm vậy."

    Được AK_M sửa chữa / chuyển vào 17:54 ngày 29/05/2003
  7. AK_M

    AK_M Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/03/2003
    Bài viết:
    2.948
    Đã được thích:
    0
    Theo lời kể của Ðại Tướng Westmoreland, Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara đồng ý đề nghị của ông, nhưng trong cuộc họp báo tại Hoa Thịnh Đốn, ông McNamra lại buộc miệng nói ra hết kế hoạch lớn lao. Vậy là các phóng viên loan tin về hàng rào điện tử McNamara, các bài báo này nói về kế hoạch này đã chính thức thông báo cho Hà Nội biết mọi chuyện. Do đó khi các đơn vị Công Binh Hoa Kỳ cho xe ủi đất đến để khai quang, chở kẽm gai đến chuẩn bị rào thì đại bác của quân BV đã bố trí sẵn. Trước sự việc đó, Ðại Tướng Westmoreland nghĩ rằng bây giờ nếu muốn hoàn thành mọi việc xây dựng hàng rào án ngữ này, cho dù có thay đổi như đã dự trù đi nữa thì tổn thất nhân mạng sẽ lên cao. Vì thế, Ðại Tướng Westmoreland đã phải âm thầm dẹp bỏ kế hoạch này để "quân BV khỏi chê cười là chúng tôi đã bị buộc phải làm vậy."

    Được AK_M sửa chữa / chuyển vào 17:54 ngày 29/05/2003
  8. lorela

    lorela Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/04/2002
    Bài viết:
    398
    Đã được thích:
    0
    đường mòn HCM
    Trần Ðỗ Cẩm
    Con đường chuyển vận người và vũ khí của ********* từ Bắc vào Nam xuyên qua vùng cán chảo của vương quốc Lào đã có từ thời chiến tranh Đông Dương. Lúc đó hệ thống giao liên này đích thực là những "đường mòn" dùng cho người đi bộ xuyên qua vùng rừng rậm Hạ Lào. Sau khi chiến tranh Việt-Pháp chấm dứt vào năm 1954 với hiệp định Geneve chia cắt Việt Nam thành hai miền Nam-Bắc, hệ thống đường mòn này hầu như không còn được xử dụng.
    Cho tới năm 1959, ********* thành lập một Đoàn Tiếp Vận đặc biệt mang bí số 559 có nhiệm vụ bảo vệ, mở mang, tu sửa và xếp đặt những cơ sở hậu cần dọc theo trục tiếp vận Bắc-Nam dọc theo bán đảo Đông Dương, thường được các giới chức quân sự mệnh danh là "đường mòn Hồ Chí Minh" này.
    Đơn vị ********* phụ trách mang tên 559 vì được thành lập vào tháng 5 năm 1959. Nhưng dù đã được đặt dưới quyền quản trị đặc biệt của Đoàn Tiếp Vận 559, trước năm 1967, hệ thống đường xâm nhập Bắc-Nam tại Hạ Lào vẫn rất thô sơ nên ********* còn phải dùng dân công và xe đạp thồ để chuyển vận vũ khí và tiếp liệu.
    Mãi tới năm 1971, khi cường độ của cuộc chiến tranh Việt Nam gia tăng với những trận đánh quy mô trận địa chiến dùng chiến xa và đại pháo, đường mòn Hồ Chí Minh mới được canh tân thành những xa lộ lớn, xe hơi có thể di chuyển hai chiều. Con đường này bắt đầu từ đèo Mụ Già gần thị trấn Vinh với hải cảng Bến Thủy (thuộc tỉnh Quảng Bình của Bắc Việt) xuyên qua lãnh thổ Lào rồi đâm sâu về phía Nam song song với biên giới Lào-Việt.
    Đường mòn Hồ Chí Minh giao tiếp với đường số 9 là trục lộ Đông-Tây nối liền thị trấn Đông Hà thuộc miền Nam Việt Nam và tỉnh Savanakhet của Lào tại hai điểm quang trọng, đó là thị trấn Tchépone và Mường Nông. Hai trung tâm chuyển tiếp mấu chốt dùng làm nơi dưỡng quân và có nhiều kho quân lương, vũ khí này được ********* đặt cho bí danh 604 và 611 nằm đối diện với hai tỉnh cực bắc Quảng Trị, Thừa Thiên của miền Nam Việt Nam. Đây là những địa điểm chính của Cộng Quân dùng làm bàn đạp để đẩy mạnh những cuộc tấn công và xâm nhập lãnh thổ Quân Khu I và II của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
    II. ĐƯỜNG MÒN SIHANOUK
    Xa hơn về phía Nam, đường mòn Hồ Chí Minh kéo dài qua vùng Tam-Biên, nơi gặp gỡ của ba biên giới giữa các quốc gia Việt Nam, Lào và Cam Bốt. Khi vào tới lãnh thổ Cam Bốt hệ thống đường xá này thường được gọi là "đường mòn Sihanouk," mang ngụ ý ông Hoàng xứ Chùa Tháp là một tay sai cho CS Bắc Việt. Nói khác đi, đường mòn Sihanouk là phần cực Nam, nối dài của đường mòn Hồ Chí Minh nằm trong lãnh thổ Cam Bốt.
    III. HỆ THỐNG ĐƯỜNG XÁ
    Thông thường, khi nghe nói tới "đường mòn" mọi người đều mường tượng đến hình ảnh những lối đi nhỏ cheo leo hoặc độc đạo xuyên qua những khu rừng núi hiểm trở. Nhưng thực sự đến năm 1971, đường mòn Hồ Chí Minh là một hệ thống đường giao thông rộng lớn và phức tạp gồm nhiều xa lộ chạy song song nhau và tỏa rộng như một màng lưới nhện khổng lồ.
    Màng lưới này dài trên một ngàn cây số phủ dọc biên giới Việt Miên Lào theo hướng Bắc-Nam. Có nhiều nơi, bề rộng theo hướng Đông-Tây của chiếc lưới nhiều nhánh này lên tới 90 cây số (56 miles), ăn sâu trong lãnh thổ Lào và Cam Bốt. Các giới chức quân sự Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ đã phỏng đoán nếu nối chung các nhánh này, tổng cộng chiều dài của hệ thống "đường mòn xa lộ" có thể lên tới trên 10 ngàn cây số (6,214 miles).
    Các cơ quan tình báo Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ sau nhiều năm tung các toán thám sát vào khu vực đường mòn chiến lược này cũng mới chỉ vẽ được bản đồ được chừng trên 5 ngàn cây số (3,107 miles), nghĩa là khoảng phân nửa. Việc khám phá, kiểm soát cũng như cắt đứt hệ thống lưới nhện này vô cùng khó khăn, không những vì quá rộng lớn mà còn vì khi cắt đứt được nhánh này, ********* lại xây cất nhiều nhánh phụ mới phức tạp nằm sâu hơn trong lãnh thổ Lào hoặc Cam Bốt.
    IV. TỔ CHỨC
    Để xây cất, tu bổ đường mòn Hồ Chí Minh, Đoàn Tiếp Vận 559 đã phải thường trực xử dụng chừng 100,000 dân công Lào-Việt, chưa kể khoảng 50,000 quân lính để hộ tống những đoàn quân xa di chuyển cũng như bảo vệ 7 căn cứ quan trọng dọc theo đường mòn. Ngoài những căn cứ tiếp vận chính, còn có khoảng 50 trạm giao liên phụ, gọi là binh trạm. Mỗi binh trạm là một căn cứ yểm trợ gồm các cơ cấu chuyển vận, tiếp liệu, truyền tin, tu bổ đường xá, phòng thủ, y tế v.v... riêng biệt.
    Theo lời thuật lại của Thiếu Tá Lê Văn Thời (Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 4 thuộc Trung Đoàn 2 của Sư Đoàn 1 Bộ Binh, khi bị bắt làm tù binh tại vùng Căn Cứ Hỏa Lực Sophia tại Hạ Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 vào tháng 3 năm 1971) thì chính ông đã bị giải qua nhiều binh trạm dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh trên đường ra Bắc. Thiếu Tá Thời cho biết mỗi binh trạm là một địa điểm dừng quân cách nhau khoảng một ngày đi bộ trong rừng có nhiệm vụ cung cấp lương thực, nơi ăn, chốn ở và hướng dẫn đoàn người tới trạm kế tiếp.
    V. DI CHUYỂN
    Sau năm 1967, vì nhu cầu chuyển quân cũng như yểm trợ tiếp vận của ********* gia tăng tại chiến trường miền Nam, đường mòn Hồ Chí Minh đã được cải tiến và mở rộng để xe hơi có thể lưu thông được. Từ đó, xe vận tải kiểu Molotova do Nga Sô viện trợ đã được dùng để thay thế cho dân công và xe đạp thồ trong việc chuyên chở.
    Cơ quan tình báo đồng minh cho biết mỗi ngày có hàng trăm xe vận tải di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh và cũng có hàng trăm trạm nghỉ cho xe cộ chỉ riêng trong lãnh thổ Lào. Những xe này thường chạy vào ban đêm để tránh bị phi cơ phát hiện. Mỗi đêm, xe di chuyển được chừng 50 cây số là khoảng cách trung bình giữa trạm nghỉ này và trạm khác.
    Vì phải di chuyển ban đêm nhưng lại không dám để đèn để tránh bị phát hiện nên cần tài xế rất quen thuộc với đường xá trong vùng. Do đó, mỗi trạm nghỉ đều có một toán tài xế cơ hữu thường trực chuyên lái xe từ trạm mình tới trạm kế tiếp để thuộc nằm lòng địa thế vì lái đi lái lại có mỗi một đoạn đường chừng 50 cây số (31 miles).
    VI. HỆ THỐNG DẪN NHIÊN LIỆU
    Trước kia, nhiên liệu cần dùng được chứa trong những thùng phi 200 lít do xe vận tải chuyên chở hoặc đôi khi được thả trôi theo những giòng nước vào mùa mưa. Qua năm 1968 vì nhu cầu gia tăng gấp bội, ********* đã hoàn tất một hệ thống dẫn dầu dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh để tiếp tế nhiên liệu cho các xe cơ giới.
    Ống dẫn dầu có đường kính 4 inch (khoảng 10 cm) bắt đầu từ đèo Mụ Già chạy dọc theo biên giới Lào-Việt tới khu vực Mường Nông bên Lào, đối diện với thung lũng A Shau về phía Nam. Như vậy, ********* không những đã giải quyết được vấn đề tiếp tế nhiên liệu cho các xe vận tải di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh, mà còn có khả năng yểm trợ cho các chiến xa hoạt đông sâu tại chiến trường miền Nam.
    Tưởng cũng nên nhắc lại chiến xa kiểu PT-76 của ********* xuất hiện lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam vào đêm 8 tháng 2 năm 1968 trong trận đánh tại trại Lực Lượng Đặc Biệt Lang Vei gần Khe Sanh sát biên giới Lào-Việt trên đường số 9.
    Chiến xa PT-76 là loại xe lội nước hạng nhẹ nên có thể di chuyển khá dễ đàng trên đường xá lầy lội bên Lào, sau đó, không còn thấy tham chiến cho tới năm 1971 trong trận Hạ Lào. Vì vậy, giới chức quân sự đồng minh cho rằng vì gặp khó khăn về việc tiếp tế nhiên liệu cũng như trở ngại về địa thế không thích hợp nên chiến xa hạng trung như loại T-54 của ********* không phải là mối đe dọa lớn trên chiến trường miền Nam, nhất là tại vùng cao nguyên núi non trùng điệp và rừng rậm hiểm trở.
    Theo ước lượng của giới tình báo, trong khoảng thời gian 5 năm từ 1966 tới 1971, có chừng 600,000 quân CSBV, 100,000 tấn thực phẩm, 400,000 ngàn vũ khí đủ loại và 50,000 tấn đạn dược đã được chuyên chở qua đường mòn Hồ Chí Minh từ Bắc vào Nam. Mật độ xe cộ đi lại rất rộn rịp trong mùa khô từ tháng 10 tới tháng 4.
    Sáu tháng còn lại trong năm, vì mưa lũ thường xuyên nên đường xá lầy lội rất khó đi. Các cuộc tấn công của ********* trên chiến trường miền Nam thường được khởi sự vào mùa khô, khi việc chuyên chở người và vật liệu trên đường mòn Hồ Chí Minh không gặp trở ngại vì thời tiết.
    ]
    Được lorela sửa chữa / chuyển vào 20:58 ngày 29/05/2003
    Được hoa thuong thich du thu sửa chữa / chuyển vào 00:54 ngày 30/05/2003
  9. lorela

    lorela Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/04/2002
    Bài viết:
    398
    Đã được thích:
    0
    đường mòn HCM
    Trần Ðỗ Cẩm
    Con đường chuyển vận người và vũ khí của ********* từ Bắc vào Nam xuyên qua vùng cán chảo của vương quốc Lào đã có từ thời chiến tranh Đông Dương. Lúc đó hệ thống giao liên này đích thực là những "đường mòn" dùng cho người đi bộ xuyên qua vùng rừng rậm Hạ Lào. Sau khi chiến tranh Việt-Pháp chấm dứt vào năm 1954 với hiệp định Geneve chia cắt Việt Nam thành hai miền Nam-Bắc, hệ thống đường mòn này hầu như không còn được xử dụng.
    Cho tới năm 1959, ********* thành lập một Đoàn Tiếp Vận đặc biệt mang bí số 559 có nhiệm vụ bảo vệ, mở mang, tu sửa và xếp đặt những cơ sở hậu cần dọc theo trục tiếp vận Bắc-Nam dọc theo bán đảo Đông Dương, thường được các giới chức quân sự mệnh danh là "đường mòn Hồ Chí Minh" này.
    Đơn vị ********* phụ trách mang tên 559 vì được thành lập vào tháng 5 năm 1959. Nhưng dù đã được đặt dưới quyền quản trị đặc biệt của Đoàn Tiếp Vận 559, trước năm 1967, hệ thống đường xâm nhập Bắc-Nam tại Hạ Lào vẫn rất thô sơ nên ********* còn phải dùng dân công và xe đạp thồ để chuyển vận vũ khí và tiếp liệu.
    Mãi tới năm 1971, khi cường độ của cuộc chiến tranh Việt Nam gia tăng với những trận đánh quy mô trận địa chiến dùng chiến xa và đại pháo, đường mòn Hồ Chí Minh mới được canh tân thành những xa lộ lớn, xe hơi có thể di chuyển hai chiều. Con đường này bắt đầu từ đèo Mụ Già gần thị trấn Vinh với hải cảng Bến Thủy (thuộc tỉnh Quảng Bình của Bắc Việt) xuyên qua lãnh thổ Lào rồi đâm sâu về phía Nam song song với biên giới Lào-Việt.
    Đường mòn Hồ Chí Minh giao tiếp với đường số 9 là trục lộ Đông-Tây nối liền thị trấn Đông Hà thuộc miền Nam Việt Nam và tỉnh Savanakhet của Lào tại hai điểm quang trọng, đó là thị trấn Tchépone và Mường Nông. Hai trung tâm chuyển tiếp mấu chốt dùng làm nơi dưỡng quân và có nhiều kho quân lương, vũ khí này được ********* đặt cho bí danh 604 và 611 nằm đối diện với hai tỉnh cực bắc Quảng Trị, Thừa Thiên của miền Nam Việt Nam. Đây là những địa điểm chính của Cộng Quân dùng làm bàn đạp để đẩy mạnh những cuộc tấn công và xâm nhập lãnh thổ Quân Khu I và II của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
    II. ĐƯỜNG MÒN SIHANOUK
    Xa hơn về phía Nam, đường mòn Hồ Chí Minh kéo dài qua vùng Tam-Biên, nơi gặp gỡ của ba biên giới giữa các quốc gia Việt Nam, Lào và Cam Bốt. Khi vào tới lãnh thổ Cam Bốt hệ thống đường xá này thường được gọi là "đường mòn Sihanouk," mang ngụ ý ông Hoàng xứ Chùa Tháp là một tay sai cho CS Bắc Việt. Nói khác đi, đường mòn Sihanouk là phần cực Nam, nối dài của đường mòn Hồ Chí Minh nằm trong lãnh thổ Cam Bốt.
    III. HỆ THỐNG ĐƯỜNG XÁ
    Thông thường, khi nghe nói tới "đường mòn" mọi người đều mường tượng đến hình ảnh những lối đi nhỏ cheo leo hoặc độc đạo xuyên qua những khu rừng núi hiểm trở. Nhưng thực sự đến năm 1971, đường mòn Hồ Chí Minh là một hệ thống đường giao thông rộng lớn và phức tạp gồm nhiều xa lộ chạy song song nhau và tỏa rộng như một màng lưới nhện khổng lồ.
    Màng lưới này dài trên một ngàn cây số phủ dọc biên giới Việt Miên Lào theo hướng Bắc-Nam. Có nhiều nơi, bề rộng theo hướng Đông-Tây của chiếc lưới nhiều nhánh này lên tới 90 cây số (56 miles), ăn sâu trong lãnh thổ Lào và Cam Bốt. Các giới chức quân sự Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ đã phỏng đoán nếu nối chung các nhánh này, tổng cộng chiều dài của hệ thống "đường mòn xa lộ" có thể lên tới trên 10 ngàn cây số (6,214 miles).
    Các cơ quan tình báo Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ sau nhiều năm tung các toán thám sát vào khu vực đường mòn chiến lược này cũng mới chỉ vẽ được bản đồ được chừng trên 5 ngàn cây số (3,107 miles), nghĩa là khoảng phân nửa. Việc khám phá, kiểm soát cũng như cắt đứt hệ thống lưới nhện này vô cùng khó khăn, không những vì quá rộng lớn mà còn vì khi cắt đứt được nhánh này, ********* lại xây cất nhiều nhánh phụ mới phức tạp nằm sâu hơn trong lãnh thổ Lào hoặc Cam Bốt.
    IV. TỔ CHỨC
    Để xây cất, tu bổ đường mòn Hồ Chí Minh, Đoàn Tiếp Vận 559 đã phải thường trực xử dụng chừng 100,000 dân công Lào-Việt, chưa kể khoảng 50,000 quân lính để hộ tống những đoàn quân xa di chuyển cũng như bảo vệ 7 căn cứ quan trọng dọc theo đường mòn. Ngoài những căn cứ tiếp vận chính, còn có khoảng 50 trạm giao liên phụ, gọi là binh trạm. Mỗi binh trạm là một căn cứ yểm trợ gồm các cơ cấu chuyển vận, tiếp liệu, truyền tin, tu bổ đường xá, phòng thủ, y tế v.v... riêng biệt.
    Theo lời thuật lại của Thiếu Tá Lê Văn Thời (Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 4 thuộc Trung Đoàn 2 của Sư Đoàn 1 Bộ Binh, khi bị bắt làm tù binh tại vùng Căn Cứ Hỏa Lực Sophia tại Hạ Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 vào tháng 3 năm 1971) thì chính ông đã bị giải qua nhiều binh trạm dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh trên đường ra Bắc. Thiếu Tá Thời cho biết mỗi binh trạm là một địa điểm dừng quân cách nhau khoảng một ngày đi bộ trong rừng có nhiệm vụ cung cấp lương thực, nơi ăn, chốn ở và hướng dẫn đoàn người tới trạm kế tiếp.
    V. DI CHUYỂN
    Sau năm 1967, vì nhu cầu chuyển quân cũng như yểm trợ tiếp vận của ********* gia tăng tại chiến trường miền Nam, đường mòn Hồ Chí Minh đã được cải tiến và mở rộng để xe hơi có thể lưu thông được. Từ đó, xe vận tải kiểu Molotova do Nga Sô viện trợ đã được dùng để thay thế cho dân công và xe đạp thồ trong việc chuyên chở.
    Cơ quan tình báo đồng minh cho biết mỗi ngày có hàng trăm xe vận tải di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh và cũng có hàng trăm trạm nghỉ cho xe cộ chỉ riêng trong lãnh thổ Lào. Những xe này thường chạy vào ban đêm để tránh bị phi cơ phát hiện. Mỗi đêm, xe di chuyển được chừng 50 cây số là khoảng cách trung bình giữa trạm nghỉ này và trạm khác.
    Vì phải di chuyển ban đêm nhưng lại không dám để đèn để tránh bị phát hiện nên cần tài xế rất quen thuộc với đường xá trong vùng. Do đó, mỗi trạm nghỉ đều có một toán tài xế cơ hữu thường trực chuyên lái xe từ trạm mình tới trạm kế tiếp để thuộc nằm lòng địa thế vì lái đi lái lại có mỗi một đoạn đường chừng 50 cây số (31 miles).
    VI. HỆ THỐNG DẪN NHIÊN LIỆU
    Trước kia, nhiên liệu cần dùng được chứa trong những thùng phi 200 lít do xe vận tải chuyên chở hoặc đôi khi được thả trôi theo những giòng nước vào mùa mưa. Qua năm 1968 vì nhu cầu gia tăng gấp bội, ********* đã hoàn tất một hệ thống dẫn dầu dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh để tiếp tế nhiên liệu cho các xe cơ giới.
    Ống dẫn dầu có đường kính 4 inch (khoảng 10 cm) bắt đầu từ đèo Mụ Già chạy dọc theo biên giới Lào-Việt tới khu vực Mường Nông bên Lào, đối diện với thung lũng A Shau về phía Nam. Như vậy, ********* không những đã giải quyết được vấn đề tiếp tế nhiên liệu cho các xe vận tải di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh, mà còn có khả năng yểm trợ cho các chiến xa hoạt đông sâu tại chiến trường miền Nam.
    Tưởng cũng nên nhắc lại chiến xa kiểu PT-76 của ********* xuất hiện lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam vào đêm 8 tháng 2 năm 1968 trong trận đánh tại trại Lực Lượng Đặc Biệt Lang Vei gần Khe Sanh sát biên giới Lào-Việt trên đường số 9.
    Chiến xa PT-76 là loại xe lội nước hạng nhẹ nên có thể di chuyển khá dễ đàng trên đường xá lầy lội bên Lào, sau đó, không còn thấy tham chiến cho tới năm 1971 trong trận Hạ Lào. Vì vậy, giới chức quân sự đồng minh cho rằng vì gặp khó khăn về việc tiếp tế nhiên liệu cũng như trở ngại về địa thế không thích hợp nên chiến xa hạng trung như loại T-54 của ********* không phải là mối đe dọa lớn trên chiến trường miền Nam, nhất là tại vùng cao nguyên núi non trùng điệp và rừng rậm hiểm trở.
    Theo ước lượng của giới tình báo, trong khoảng thời gian 5 năm từ 1966 tới 1971, có chừng 600,000 quân CSBV, 100,000 tấn thực phẩm, 400,000 ngàn vũ khí đủ loại và 50,000 tấn đạn dược đã được chuyên chở qua đường mòn Hồ Chí Minh từ Bắc vào Nam. Mật độ xe cộ đi lại rất rộn rịp trong mùa khô từ tháng 10 tới tháng 4.
    Sáu tháng còn lại trong năm, vì mưa lũ thường xuyên nên đường xá lầy lội rất khó đi. Các cuộc tấn công của ********* trên chiến trường miền Nam thường được khởi sự vào mùa khô, khi việc chuyên chở người và vật liệu trên đường mòn Hồ Chí Minh không gặp trở ngại vì thời tiết.
    ]
    Được lorela sửa chữa / chuyển vào 20:58 ngày 29/05/2003
    Được hoa thuong thich du thu sửa chữa / chuyển vào 00:54 ngày 30/05/2003
  10. lorela

    lorela Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/04/2002
    Bài viết:
    398
    Đã được thích:
    0
    VII. NỖ LỰC CẮT ĐỨT ĐƯỜNG MÒN HCM
    Trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, tiếp vận thường là yếu tố sinh tử góp phần quyết định quan trọng trong việc thành công hay thất bại. Các bậc danh tướng cổ kim luôn luôn đặt vấn đề tiếp vận thành mối ưu tư hàng đầu trong mỗi cuộc hành quân.
    Thời xưa, khi hình thái chiến tranh còn đơn giản với những vũ khí thô sơ, công tác tiếp vận thường thu gọn vào việc tiếp tế lương thực cho quân lính. Dưới thời Tam Quốc bên Tầu, vạn đại quân sư Khổng Minh Gia Cát Lượng của nhà Hán đã chế ra "trâu gỗ, ngựa gỗ" để giải quyết vấn đề tải lương trong những lần "lục xuất Kỳ Sơn" ra đánh Tào Tháo tại Trung Nguyên. Ông cũng lập kế dùng thuyền chở rơm rạ chèo tới gần thủy trại của quân Tào rồi cho quân khua chiêng gióng trống khiến địch sợ hãi bắn tên loạn xạ nên nhàn nhã thu được 10 vạn mũi tên cắm vào thuyền đem về nạp cho Đô Đốc Chu Du của Giang Nam làm vũ khí đại thắng quân Tào trong trận Xích Bích. Tào Tháo gian hùng đã ra lệnh chém quan Chưởng Bạ Dương Tu khi lương thực bị cạn cũng chỉ mong trấn an lòng quân sĩ.
    Gần đây hơn, dưới thời nhà Trần trong Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã đại phá quân Mông Cổ hùng mạnh khởi đầu bằng chiến thắng Vân Đồn khi tướng Trần Khánh Dư đốt hết những thuyền chở lương của giặc. Kết qủa, 50 vạn quân do Nguyên đã bị thảm bại. Trong thế chiến thứ hai, những đoàn chiến xa Panzer lừng danh bách chiến bách thắng dưới quyền con cáo già sa mạc Rommeo đã bị quân Anh chận đứng tại Phi Châu vì thiếu nhiên liệu. Vào năm 1954, quân đi Pháp đã bị thất trận tại Điện Biên Phủ vì bị cắt đứt đường tiếp vận và tăng viện duy nhất bằng đường hàng không.
    Hai xe vận tải Molotova của Bắc Việt, được ngụy trang kỹ càng, đang di chuyển trên hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh (tài liệu: VIETNAM, Oct 1995)


    Ngày nay, quân lực Hoa Kỳ được coi là hữu hiệu nhất thế giới không hẳn chỉ vì binh sĩ thiện chiến mà còn nhờ bộ máy tiếp vận khổng lồ hữu hiệu gần như vô giới hạn có thể tiếp tế bất cứ phần đất nào trên thế giới trong khoảnh khắc dăm ba tiếng đồng hồ. Trong cuộc chiến tại Việt Nam, theo thống kê, cứ mỗi quân nhân Hoa Kỳ trực tiếp cầm súng đánh giặc ngoài mặt trận, có ít nhất 5 người khác đàng sau lo việc tiếp vận và yểm trợ. Vì vậy, chúng ta thấy những căn cứ quân sự lớn của Hoa Kỳ trên thế giới không phải là những trại lính mà là những căn cứ yễm trợ tiếp vận khổng lồ.
    Vì tầm quan trọng có mức độ quyết định của vấn đề tiếp vận, nên binh thư thường nói "một tướng lãnh chỉ biết về hành quân mà không biết về tiếp vận thì chưa phải là một vị tướng hoàn toàn." Hoàng Đế Napoleon bách chiến của nước Pháp tóm tắt ngắn gọn và đơn giản hơn: "Đạo quân nào cũng tiến bằng chiếc bụng." Ý ông muốn nói quân lính có no bụng mới đánh trận được.
    Trong thời buổi văn minh hiện đại, chiếc bụng của một đạo quân không chỉ đơn giản chỉ cần lương thực cho quân lính, mà còn không thể thiếu nhiên liệu cho xe cộ, máy bay, tầu chiến và bom đạn cho những loại vũ khí tối tân. Do đó, khi cường độ của cuộc chiến tại Việt Nam trở thành ác liệt với các trận đánh chuyển từ hình thái du kích chiến qua trận địa chiến với quân số đôi bên lên tới nhiều sư đoàn, vấn đề tiếp vận đương nhiên trở thành một yếu tố sinh tử đối với Cộng quân.
    Để tiếp tế cho chiến trường miền Nam, ********* dùng hai ngả chính. Đó là đường mòn Hồ Chí Minh và hải cảng Kompong Som còn được gọi là Sihanoukville của Cam Bốt. Nhưng tới năm 1971 khi chính phủ Lon Nol thân Hoa Kỳ thay thế ông hoàng Sihanouk, đường tiếp vận từ Cam Bốt qua ngả Kompong Som bị cấm chỉ. Con đường duy nhất còn lại là đường mòn Hồ Chí Minh. Cả ********* lẫn phe đồng minh đều biết rằng bên nào kiểm soát được trục tiếp vận huyết mạch này sẽ chiến thắng tại miền Nam.
    Vì tầm mức chiến lược vô cùng quan trọng này, ngay từ năm 1965, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã có hai kế hoạch để cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh: một là đổ bộ lên miền Bắc ngay vùng hải cảng Vinh nhằm phá vỡ ngay từ đầu mối, hai là đánh sang Lào để cắt đứt tại khúc giữa. Nhưng những kế hoạch này đã không thực hiện được vì Quân Lực VNCH không đủ mạnh. Vả lại Hoa Kỳ cũng không đồng ý nới rộng chiến tranh qua toàn cõi Đông Dương vì e ngại Trung Cộng và Nga Sô sẽ nhân cơ hội nhẩy vào vòng chiến.
    Do đó, trong lúc Cộng Quân ra sức bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh thì lực lượng đồng minh dồn nỗ lực đánh phá. Các hoạt động quân sự của đồng minh nhằm cắt đứt trục tiếp vận quan trọng này gồm: thả những toán biệt kích xâm nhập nội địa Lào, dùng máy bay bắn phá, dùng lực lượng sắc tộc thiểu số Hmong của Lào và trực tiếp đổ quân sang đánh phá.
    1. HOẠT ĐỘNG CỦA NHỮNG TOÁN BIỆT KÍCH
    Những đơn vị chuyên xâm nhập vùng lãnh thổ do địch quân kiểm soát này thường được gọi là Lôi Hổ do Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ huấn luyện. Đây là những toán nhỏ chừng 4, 5 người được phi cơ thả xuống khu vực đường mòn Hồ Chí Minh để thu thập tin tức tình báo về các hoạt động và di chuyển của Cộng quân cũng như thi hành những công tác phá hoại.
    Ban đầu, những toán biệt kích được thả dù từ các phi cơ vận tải loại C-47, sau này được thả bằng trực thăng loại H-34 hay UH-1B. Phi Đoàn 219 của Không Quân VNCH là đơn vị phụ trách thả và bốc những toán biệt kích bên Lào.
    2. DÙNG MÁY BAY ĐÁNH PHÁ
    Song song với các hoạt động biệt kích, không lực Hoa Kỳ còn dùng phi cơ oanh tạc khu trục để thường xuyên thả bom hay bắn phá để ngăn chận sự di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh.
    Mỗi khi thu thập được những tin tức tình báo chính xác từ các toán biệt kích hay từ những máy móc điện thám về di chuyển của những toán quân, đoàn xe hay nơi tập trung quân của địch, phi cơ Hoa Kỳ từ các căn cứ không quân bên Thái Lan như Phanat Nikhon hay Takhli v.v... lập tức cất cánh oanh tạc. Ngoài ra, các phi cơ võ trang Hải Quân Hoa Kỳ từ hàng không mẫu hạm ngoài biển Đông cũng thường xuyên bay tuần tiễu dọc theo đường mòn dể sẵn sàng bắn phá mỗi khi phát hiện mục tiêu.
    Các dụng cụ điện tử thám báo tối tân trông giống như những chòm cây được thả từ máy bay dọc theo đường mòn để thâu thập dữ kiện. Khi có xe hay người di chuyển qua, các máy "sensor" có antenne này sẽ ghi nhận những địa chấn và tự động phát ra những tín hiệu đặc biệt. Trên không phận Lào, lúc nào cũng có một phi cơ Hoa Kỳ bao vùng để ghi nhận và báo về trung tâm kiểm thám bên Thái Lan. Những tin tức này được đưa vào máy điện toán để phân tích và xác định mục tiêu cho phi cơ oanh tạc.
    Không quân Hoa Kỳ có loại phi cơ vận tải C-130 biến cải mang tên "Spectre" trang bị máy nhắm hồng ngoại tuyến chuyên dò tìm và bắn phá các xe cộ di chuyển vào ban đêm. Trong một tài liệu chính thức, cán binh ********* nhận xét về phi cơ Spectre này như sau: "Thằng này đánh đêm tinh như ma..."
    3. LỰC LƯỢNG SẮC-TỘC HMONG LÀO
    Ngoài các toán biệt kích hỗn hợp Việt-Mỹ, Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ còn tuyển mộ và huấn luyện người của bộ lạc thiểu số Hmong để thường trực ngăn chận các hoạt động của Cộng quân bên Lào. Lực lượng người Hmong này được đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Vang Pao, đặt căn cứ tại Long Cheng.
    Tướng Vang Pao có nhiều tiểu đoàn hoạt động tại vùng Savannakhet gần khu vực Tchepone là một diểm tiếp vận quan trọng của Cộng Quân. Lực lượng này do Hoa Kỳ trực tiếp điều động và quản trị, không thuộc quân đội Hoàng Gia Lào trên nguyên tắc.
    4. CUỘC HÀNH QUÂN LAM SƠN 719 ĐÁNH SANG LÀO
    Vào tháng 2 năm 1971, khi lực lượng Cộng quân tập trung đông đảo tại Lào để dự định tấn công vào Quân Khu I, Quân Lực VNCH đã mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 nhằm phá vỡ ý đồ của địch quân bằng cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh là trục tiếp vận chính.
    Lực lượng VNCH gồm có các đơn vị tinh nhuệ như Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Sư Đoàn Nhảy Dù, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến và Liên Đoàn 1 Biệt động Quân. Vì bị đánh trúng yếu điểm, Cộng Quân phải tung ra 6 sư đoàn để bảo vệ. Đôi bên quần thảo khoảng 45 ngày với những trận đánh đẫm máu dữ dội tại Căn Cứ Biệt Động Quân Bắc, Căn Cứ Hỏa Lực 31, đồi Lolo, đồi Sophia v.v... Kết quả, đôi bên đều bị thiệt hại nặng về nhân mạng, chừng 10,000 người về phía Quân Lực VNCH và 20,000 người về phía Cộng Quân.
    Nhưng điều quan trọng là tuy Quân Lực VNCH chiếm được mục tiêu Tchepone, phá hủy nhiều cơ sở tiếp vận quan trọng tại khu hậu cần 604 và 611, nhưng vì không đủ quân số chiếm đóng nên phải rút về, không hoàn toàn cắt đứt được đường mòn Hồ Chí Minh. Vì vậy, chỉ tới mùa hè năm sau, Cộng Quân đã tập trung được đủ tiếp vận và quân số để vượt biên giới tấn công Việt Nam Cộng Hòa tại ba mặt trận: giới tuyến Đông Hà tại Quân Khu I, vùng cao nguyên Kontum tại Quân Khu II và thị trấn An Lộc thuộc tỉnh Bình Long tại Quân Khu III.
    Sau khi hiệp định ngưng chiến Paris được ký kết vào năm 1972, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ, quân đội Hoa Kỳ có cớ rút lui "trong danh dự." Quân Lực VNCH không còn được yểm trợ đúng mức nên thiếu sức mạnh để đánh phá khu vực đường mòn Hồ Chí Minh. Cộng Quân coi như được Hoa Kỳ bật đèn xanh, tự do chuyển người và vũ khí xâm lấn miền Nam.
    Vào tháng 4 năm 1975, Cộng Quân đã dùng toàn lực, đưa hầu hết quân số của miền Bắc, khoảng 20 sư đoàn chiến đấu, nhiều sư đoàn pháo binh và trung đoàn chiến xa nặng vào chiến đấu tại miền Nam với đầy đủ lương thực, nhiên liệu và đạn dược.
    Tất cả bộ máy quân sự khổng lồ này đã được di chuyển qua ngả đường mòn Hồ Chí Minh, chẳng gặp sức chống đối hay trở ngại nào vì Quân Lực VNCH không còn mạng để ngăn chặn. Có thể nói miền Nam đã rơi vào tay Cộng Quân dễ dàng vì họ đã hoàn toàn làm chủ được con đường tiếp vận huyết mạch Hồ Chí Minh.
    Live that you might find the answers
    You can't know before you live
    Love and life will give you chances
    From your flaws learn to forgive

Chia sẻ trang này