1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đường Trường Sơn-Con đường huyền thoại-Những bước chân kỳ diệu

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi hoibihay, 29/05/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Tình đồng đội
    Hôm ấy đoàn cán bộ chúng tôi đi công tác từ Na Pang ra Tà Mí. Mỗi người một ba lô con cóc trên vai và với chiếc gậy Trường Sơn trong tay. Chúng tôi không hành quân bằng đường giao liên mà đi bộ dọc theo trục đường 128. Nhiệm vụ của chúng tôi là đi nghiên cứu địa hình, tìm nơi đặt các trận địa pháo cao xạ để bảo vệ hệ thống ngầm vượt sông Sê-băng-phai, ở khu vực Nha Vai.
    Vào những ngày đầu thực hành vận chuyển bằng xe cơ giới, để vượt khúc sông này, xe ôtô ta chỉ đi qua những đoạn ngầm, trên một trục đường chính. Nhưng rồi sự khống chế quyết liệt ngày càng tăng của không quân Mỹ, bộ đội ta đã phải làm thêm nhiều đường tránh. Số lượng những chiếc cầu, ngầm qua sông cũng theo đó mà mỗi ngày một tăng thêm. Từ trạm điều chỉnh Z25 đến trạm Z26, quãng đường không xa, nhưng có tới hơn chục chiếc ngầm, được đặt tên bằng những âm chữ cái: A-B-C-D-A?T-B?T-C?T-D?T-U1-U2?
    Trên đường Hồ Chí Minh trong những năm tháng đánh Mỹ, hệ thống đường tránh và đường ngầm đã phát huy tác dụng diệu kỳ: Nếu máy bay đánh hỏng đường này thì xe ta vòng tránh sang đường khác. Khi chúng khống chế ngầm A thì xe ta ?obẻ ghi? sang ngầm B. Nếu đoàn xe từ Bắc vào vượt ngầm C thì đoàn xe từ Nam ra chạy hướng ngầm D, v.v? Với tinh thần ?oĐịch phá ta sửa ta đi?, ?oĐịch đánh ta tránh ta đi?, bộ đội ta trên Trường Sơn ngày đêm vật lộn với bom đạn Mỹ, với từng chiếc ngầm, từng đoạn đường tránh, để bảo đảm cho các đoàn xe ta đi về Nam không một ngày bị tắc.
    Theo sự chỉ dẫn của trạm điều chỉnh giao thông, hôm nay đoàn chúng tôi chọn hướng vượt sông qua lối ngầm C. Khi còn cách ngầm vài trăm mét, chúng tôi dừng lại. Trước mắt chúng tôi là một vùng đồi núi dày đặc những hố bom, loang lổ. Hai bên bờ sông tất cả đều trơ trụi, không còn một bóng cỏ cây. Chỉ có một con đường ôtô, rộng chừng 4 mét, ngoằn ngoèo lượn vòng trên bờ những hố bom. Dưới sông là một đoạn ngầm lát đá, trên đó dòng sông Sê-băng-phai chảy qua, băng băng như thác đổ.
    Anh em công binh làm nhiệm vụ ở ba-ri-e này cho biết: máy bay Mỹ đến ném bom không theo quy luật thời gian gì cả, nay đánh giờ này, mai đánh giờ khác. Muốn vượt qua, phải tranh thủ đi thật nhanh, hoặc lội thẳng qua ngầm, hoặc đi ngược ven bờ sông, lên phía thượng nguồn cách đây nửa cây số, rồi làm phao bơi qua sông.
    Các bạn trong đoàn đều chọn cách thứ hai, tuy xa một chút, nhưng an toàn. Riêng tôi, vì sức yếu do bị một đợt sốt rét mấy ngày qua, nên tôi quyết định đi theo hướng ngắn nhất. Tiểu đội trưởng quản lý ngầm C cử một chiến sĩ trẻ tên là Tấn giúp tôi mang ba lô và hướng dẫn tôi qua ngầm. Tôi hẹn các bạn trong đoàn sẽ gặp lại nhau ở trạm ba-ri-e bên kia bờ bắc.
    Trời trong xanh không một gợn mây. Nắng mùa khô bắt đầu đổ lửa. Tôi lao theo cậu Tấn băng qua bãi trống, vừa chạy vừa lắng nghe tiếng máy bay trinh sát OV.10. Chạy trên đất đá gập ghềnh, có lần vấp ngã, tôi suýt lăn nhào xuống một hố bom sâu.
    Ra đến bờ, nhìn sông rộng với dòng nước cuồn cuộn qua ngầm, tôi bỗng cảm thấy ngần ngại. Nhưng, rồi ngó sang cậu Tấn, thấy anh chàng đang nhoẻn miệng cười, tôi lại thấy yên tâm.
    -Ta đi thôi, Tấn!
    Người bạn trẻ đồng hành, trần trùng trục với chiếc quần đùi bộ đội, nước da ngắm đen, trông chắc nịch như một pho tượng đồng. Anh xốc lại quai đeo ba lô rồi dặn tôi:
    -Thủ trưởng đi theo em nhé! Đừng bước chệch! Nước hôm nay không sâu lắm đâu. Cứ chầm chậm mà đi.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Xắn ống quần cao lên quá gối, tay chống gậy Trường Sơn, tôi bước theo chan người chiến sĩ. Mới đầu đi dễ, vì nước còn nông. Nhưng ra được chừng mươi mét, tôi đã thấy bước đi không vững. Dòng nước tuôn tràn qua mặt ngầm cứ như muốn đẩy tôi về một phía. Người tôi lảo đảo. Nhiều lúc tôi phải cố hết sức mới gượng lại được. Cậu Tấn đi trước, thỉnh thoảng ngoái lại trông chừng tôi, nhưng do tôi đi chậm nên khoảng cách giữa hai người cứ xa dần. Khi tôi chỉ còn cách bờ khoảng chục mét thì bỗng một hòn đá dưới chân làm tôi trật dép. Chiếc gậy nghiêng đi, không còn giữ cho tôi được thăng bằng nữa. Tôi gọi to: Tấn ơi! Tấn xoay người, thấy tôi đang chới với, liền gỡ ngay chiếc ba lô, ném mạnh lên bờ, rồi vội vàng quay lại, đúng lúc tôi ngã nhào xuống nước.
    Người tôi lăn qua bờ thác của ngầm, rồi bị dòng nước cuốn đi. Mặc dầu tôi biết bơi, nhưng khốn nỗi tất cả quần áo, dép mũ, ống nhòm, bi đông, súng ngắn lỉnh kỉnh giờ đây trở thành những quả tạ níu kéo, đè nặng lên người, khiến tôi dường như bất lực. Bằng bản năng của mình, tôi cố gắng vùng vẫy, ngoi lên để bơi vào bờ, nhưng dòng nước chảy mạnh cứ đẩy tôi đi và dìm đầu tôi xuống. Vai tôi đập vào một tảng đá giữa dòng. Mồm tôi đã bắt đầu uống nước. Chợt nhớ đến Vinh, người bạn đã hy sinh giữa dòng nước lũ trong mùa mưa trước, tôi cảm thấy bắt đầu hoang mang.
    Vừa lúc đó một bàn tay túm lấy áo tôi. Đúng là cậu Tấn rồi, cái thân hình trùng trục khoẻ mạnh ấy. Giống như một con rái cá, Tấn vừa bơi vừa kéo tôi trôi theo dòng một quãng, rồi lựa chiều sang ngang, cuối cùng Tấn đưa được tôi lên bờ. Người tôi lạnh cóng. Tấn nhìn tôi ái ngại:
    -Lỗi tại em quá chủ quan, không đi sát bên thủ trưởng?
    -Cậu không có lỗi gì đâu. Chỉ tại mình sức yếu và không quen lội ngầm đó thôi.
    Tấn giúp tôi gỡ mọi cái trên mình, rồi chạy trở lại đầu ngầm lấy chiếc ba lô cho tôi. Sau khi tôi thay xong quần áo, Tấn dìu tôi vượt bãi trống để đến trạm ba-ri-e.
    Các cán bộ trong đoàn lúc đến chỗ hẹn, lâu không thấy tôi, vội bổ đi tìm. Chúng tôi gặp nhau giữa bãi hố bom hoang vắng, dở khóc dở cười. Mấy bạn giúp tôi mỗi người đeo một thứ, kể cả bọc quần áo ướt vừa thay.
    Chia tay Tấn, tôi thấy trong mắt cậu ta như có chút gì ân hận. Nhưng rồi lại nhoẻn miệng cười, cái cười thật dễ mến và hồn nhiên quá đỗi.
    -Cám ơn cậu Tấn nhiều lắm! Hẹn gặp lại lần sau.
    -Tạm biệt chú! Chúc chú chóng khoẻ! Em chào các anh!
    Tấn vụt chạy đi. Bóng anh nổi bật lên trên một vùng đất trắng. Tôi bỗng thần người vì sực nghĩ ra: mình đã quên không kịp hỏi quê hương của anh.
    Đoàn chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình đi tìm nơi đặt trận địa pháo. Khoảng một giờ sau có tiếng động cơ phản lực ào tới. Bốn chiếc máy bay A7 lượn một vòng trên không rồi bổ nhào ném bom xuống ngầm C. Tiếng bom nổ, rung chuyển núi rừng. Từ xa nhìn lại, tôi thấy những cột khói và bụi đất cuồn cuộn bùng lên. Nghĩ đến Tấn và anh em công binh đang làm nhiệm vụ ở ngầm, lòng tôi cảm tháy xốn xang.
    Hôm sau, đoàn chúng tôi trở về đơn vị bằng con đường khác. Hỏi các anh bên binh trạm, tôi được biết hôm ấy ngầm C không bị trúng một quả bom nào. Nhưng có một chiến sĩ bị thương nặng vào đầu và anh đã hy sinh. Người chiến sĩ ấy tên là Tấn. Tôi bàng hoàng cả người. Lẽ nào người chiến sĩ trẻ măng, dễ thương dễ mến và gan dạ kia, lẽ nào người bạn đường đã cứu tôi thoát chết giữa dòng nước chảy xiết ấy, lại có thể ra đi giữa tuổi đời còn quá trẻ như vậy sao?
    Nỗi xót xa khôn cùng cứ làm tôi day dứt mãi. Và trong ký ức sâu thẳm của mình, hình ảnh của Tấn mãi mãi là một ấn tượng sâu sắc không bao giờ mờ phai.
    Năm tháng trôi đi, thấm thoắt đã hơn một phần tư thế kỷ. Tháng 7 năm 1998, từ thành phố Hồ Chí Minh, tôi theo đoàn du lịch Lửa Việt làm một chuyến hành hương ra miền Trung. Sau khi xem lăng tẩm Huế, dịp may hiếm có, chúng tôi được ra thăm Thành cổ Quảng Trị, rồi lên xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh thăm Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn.
    Nghĩa trang nằm trên 9 ngọn đồi quần tụ bên nhau, với diện tích hơn trăm ngàn mét vuông, ôm ấp trong mình hàng vạn người con đã hiến dâng cả đời mình cho Tổ quốc. Bên trong cổng chính, sừng sững tượng dài bốn chữ vàng ?oTổ quốc ghi công?. Phía sau và bên trái tượng đài hình thành năm khu vực, ở đó yên nghỉ 10.327 liệt sĩ Trường Sơn, là con em của 42 tỉnh thành trong cả nước. Không ai không xúc động khi nhìn thấy hàng vạn ngôi mộ, hàng hàng lớp lớp nối tiếp nhau, kéo dài.
    Tôi đến khu vực Bình Trị Thiên và tìm được mộ người em họ tên là Lưu Trọng Vấn. Sang khu Hải Hưng-Thái Bình-Hà Bắc tôi cũng tìm thấy mộ của Nguyễn Văn Tài, người chiến sĩ thân thiết của tôi đã ngã xuống trên trận địa Bãi Dinh năm xưa. Từ khu này sang khu khác, mắt tôi lướt nhanh trên những hàng bia, với hy vọng tìm được một cái tên đã bao năm hằn sâu trong trái tim tôi: đó là Tấn, chiến sĩ công binh, người mà tôi mãi mãi mang ơn.
    Tôi đã tìm thấy bốn tấm bia có ghi tên liệt sĩ Tấn. Nhưng Tấn mà tôi muốn tìm là ai đây? Tấn Nghệ An hay Tấn Hà Nội? Tấn Sơn La hay Tấn Hoà Bình? Tôi cứ tự trách mình trong cái hôm chia tay Tấn ở ngầm C năm ấy, đã quên không hỏi họ và quê anh. Giờ đây làm thế nào để phân biệt được Tấn của tôi trong bốn ngôi mộ này? Dẫu sao, các anh mang tên Tấn nằm đây đều là đồng đội của tôi. Tôi quỳ xuống cắm lên ngôi mộ một nén hương trầm ngào ngạt-nén hương của lòng tôi.
    Vào một ngày gần đây, tình cờ tôi gặp một bà cụ ngoài 70 tuổi, đang đứng ngắm hoa, cây cảnh ở góc công việc Hoàng Văn Thụ. Nhìn dáng vẻ và nghe giọng nói, tôi đoán bà cụ ở Bắc vào.
    -Cụ vào Sài Gòn lâu chưa? Tôi gợi chuyện làm quen.
    -Đã được nửa năm rồi ông ạ. Vào ở với con gái. Mà tôi cũng sắp phải trở ra-Bà cụ đáp, giọng buồn buồn.
    -Tại sao cụ không ở trong này với con cháu nữa?
    -Con gái và con rể của tôi đều rất tốt. Tôi rất thương các cháu ngoại. Nhưng, chẳng giấu gì ông, tôi phải về quê để hàng ngày còn lo hương khói cho thằng Tấn và bố nó. Bà cụ nâng tay áo chấm nước mắt.
    Nghe nói đến Tấn, tôi sốt ruột hỏi dồn:
    -Anh ấy hy sinh năm nào và ở đâu, thưa cụ? Có phải Tấn nước da ngăm đen và giỏi bơi lội không?
    -Thằng Tấn nhà tôi nước da trắng trẻo cơ! Má nó lúc nào cũng trắng hồng như con gái. Mà làm gì nó biết bơi với lội. Quê tôi đâu có gần sông nước. Nó hy sinh tháng 10 năm 68, ở mặt trận phía Nam. Còn bố nó thì hy sinh hồi 54 ở Điện Biên Phủ.
    -Xin lỗi cụ? Bởi vì tôi có người cùng đơn vị cũng tên là Tấn, cũng hy sinh nhưng chưa tìm ra địa chỉ?
    Một lần nữa tôi lại thất vọng trong việc tìm kiếm bóng hình của Tấn. Tấn ơi! Em nằm ở đâu? Em đã được đưa về nghĩa trang cùng đồng đội, hay em vẫn còn nằm lại ở một nơi nào đó trên dãy Trường Sơn quanh năm ***g lộng gió ngàn?
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Quãng đường Trường Sơn mà đơn vị của tác giả (Lưu Trọng Lân) từng chiến đấu
    [​IMG]
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn
    [​IMG]
    Tượng đài Bộ đội Trường Sơn
    [​IMG]
  5. RandomWalker

    RandomWalker Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/05/2003
    Bài viết:
    5.360
    Đã được thích:
    1
    Không biết B52 đời nào mà có tới 8 luồng khói. Đúng là B52 có 8 động cơ, nhưng ghép thành 4 cụm, mỗi cụm 2 động cơ, nên khí thải chỉ có 4 luồng thôi.
    [​IMG]
  6. dungsamtien

    dungsamtien Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    02/11/2005
    Bài viết:
    2.909
    Đã được thích:
    59
    -Viết như thế còn đỡ.chứ có bác nhà văn khi miêu ta máy bay mỹ thả chất độc mà da cam thì có viết như thế này:"...rồi 1 quầng khói mà da cam ụp xuống..."
    -theo em biết Chất độc màu da cam là chất đựng trong thùng có màu da cam(màu sơn bên ngoài-để khi ta nhìn vào thì biết ngay là trong đó là chất gì .độ nguy hiểm bao nhiêu...) chứ thực ra khi phun xuống nó chỉ là giống như sương màu trắng thôi...
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Có một ngã ba Đồng Lộc như thế
    Tôi đã từng xúc động đến nao lòng khi được xem những thước phim quanh cảnh nữ dân quân La Thị Tám ở Đồng Lộc, nâng ống nhòm đến từng quả bom rơi, cảnh chị chạy như bay từ trên đồi cao xuống, cắm những lá cờ đỏ đuôi nheo, đánh dấu vị trí từng quả bom nổ chậm, bất chấp máy bay địch có thể bất ngờ quay trở lại.
    Tôi cũng đã từng đứng lặng trước tấm hình cỡ lớn trong nhà truyền thống Sư đoàn phòng không 367, chụp cảnh mười cô gái thanh niên xung phong nhỏ nhắn, do tiểu đội trưởng Võ Thị Tần chỉ huy, đang hối hả đẩy những chiếc xe hai bánh, san lấp hố bom. Dưới tấm ảnh có ghi dòng chữ: ?oMười cô gái Đồng Lộc đã anh dũng hy sinh trong một đợt bom thù ngày 24-7-1968?.
    Và mỗi lần có dịp trở lại quá khứ như vậy, đều gợi nhớ trong tôi kỷ niệm cùng đồng đội vượt qua Đồng Lộc trong một đêm đi vào chiến trường. Hôm ấy, xe tôi đi trong màn đêm, sau luồng sáng mờ nhạt của chiếc đèn gầm. Trước và sau chúng tôi là những đoàn xe vận tải chở nặng hàng, đang ngoằn ngoèo nối đuôi nhau, rầm rì lăn bánh. Máy bay Mỹ ập đến. Những chùm đèn dù toả sáng, tiếp theo là những loạt bom nổ, những loạt đạn cao xạ bắn lên? như tôi đã từng chứng kiến trên nhiều trọng điểm dọc Trường Sơn. Có những chiếc xe bốc cháy và những dòng máu đổ. Ở hai bên đường bỗng ào lên hàng chục nam nữ thanh niên xung phong trèo lên xe, dập lửa cứu hàng, băng bó cho những lái xe bị thương. Màn đêm trở lại,đoàn xe lại tiếp tục lượn vòng trên bờ những hố bom rồi chạy đi, lầm lũi, trong sự chịu đựng can trường.
    Có lẽ cũng như tôi,ai đã từng đi qua đây đều hiểu rõ, Đồng Lộc không chỉ của một La Thị Tám anh hùng, một tiểu đội Võ Thị Tần gang thép, Đồng Lộc còn là nơi đọ sức, đọ trí, nơi biểu hiện rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng của hàng ngàn chiến sĩ phòng không, công binh, công an giao thông, dân quân và nam nữ thanh niên xung phong từ mọi miền đất nước, đã có mặt ở nơi đây trong những ngày ác liệt của cuộc chiến tranh.
    Là một trong những trọng điểm ác liệt nhất của tuyến giao thông chi viện cho miền Nam, Đồng Lộc không chỉ là một ngã ba (nơi cuối đường của tỉnh lộ 2 gặp đường chiến lược 15) mà còn là một vùng đồi núi rộng chừng ba kilômét vuông, với địa thế vô cùng hiểm trở. Nơi con đường độc đạo đi qua, một bên là vách đồi, một bên là đồng nước, người ta không thể mở được một con đường tránh nào khác. Quốc lộ 1 đã bị tắc từ lâu, cho nên tất cả các đoàn xe chi viện cho chiến trường đều phải đại đội qua đoạn đường 15 ?oyết hầu? ấy.
    Biết rõ khó khăn của ta, không quân địch đã ra sức khống chế Đồng Lộc, quyết chặn đứt con đường 15 của ta ở ngay tại ngã ba này.
    Tính từ 1 tháng 4 đến 31 tháng 10 năm 1968, Đồng Lộc và một số trọng điểm lân cận (Lạc Thiện, Cầu Bàng, Tùng Cốc, Khe Giao?) đã hứng chịu hàng ngàn tấn bom của hàng ngàn lượt máy bay Mỹ đến bắn phá. Đồng Lộc nhiều phen tơi bời, nát vụn. Mùa khô, Đồng Lộc chìm trong màu đỏ quạch của bụi đất. Mùa mưa, Đồng Lộc ngập trong sình lầy, đặc quánh.
    Cuộc sống lao động, chiến đấu ở đây vô cùng nhọc nhằn, quyết liệt. Nhưng ?oTất cả vì miền Nam", Đồng Lộc không thể một ngày bị tắc. Một lực lượng lớn đã được đưa về đây để thường trực sửa chữa bảo vệ đoạn đường.
    Lực lượng ứng cứu sửa đường và thông đường có:
    -Một tiểu đoàn công binh.
    -Một tiểu đội cảnh sát giao thông của Ty Công an Hà Tĩnh.
    -Một đơn vị dân quân của ba xã Thượng Lộc, Trung Lộc, Mỹ Lộc.
    -12.000 nam nữ thanh niên xung phong của hai tổng đội 553 và 555.
    Lực lượng đánh máy bay địch bảo vệ đường có:
    -Một tiểu đội súng phòng không 12,7 ly của dân quân xã.
    -Một tiểu đoàn pháo phòng không 37 ly của Quân khu 4.
    -Một trung đoàn pháo phòng không 57 ly của Sư đoàn 368, thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân.
    Tất cả ngần ấy lực lượng ngày đêm bám chặt con đường, quyết tâm giải toả bằng được Đồng Lộc. Kết quả, Đồng Lộc luôn được khai thông, số ngày đường bị tắc bớt lại. Có đợt số lượng xe chở hàng vượt qua Đồng Lộc tăng gấp ba lần so với mức bình thường, như trong ba đêm 15, 16, 17 tháng 6 năm 1968.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trên mảnh đất nhỏ hẹp và đầy bom đạn ấy, các lực lượng phòng không, công binh, công an giao thông, dân quân và thanh niên xung phong, giống như những người anh em ruột thịt, luôn gắn bó bên nhau, cùng sống chết để bảo vệ con đường, bảo vệ những đoàn xe.
    Quyết liệt nhất là lực lượng súng pháo phòng không. Bố trí trên những ngọn đồi gần như trọc, giữa những công sự lộ thiên, dưới những trận mưa bom, họ đã chiến đấu như những người anh hùng.
    Trung đoàn 210 có năm đại đội pháo 57 ly, luôn là mục tiêu, đối tượng đánh phá chủ yếu của không quân Mỹ. Kẻ địch muốn nhổ bật các chốt thép ấy. Có ngày cả năm đại đội đều bị đánh bom, có đến bốn đại đội pháo bị mất sức chiến đấu.
    Riêng trận địa Ngô Đồng, ở ngay cạnh ngã ba, chỉ trong ngày 25 tháng 8, đã có tới 24 lần chiếc A6 thay nhau dội bom vào trận địa, với đủ loại bom bi, bom sát thương, bom phát quang. Hai khẩu pháo bị bom vẹo nòng, nhiều cán bộ chiến sĩ thương vong. Đại đội đã nhanh chóng giải quyết thương binh, tử sĩ và dồn ghép số pháo thủ còn lại về hai khẩu đội cuối cùng, tiếp tục nổ súng.
    ?oCó tiếng súng? để công binh, thanh niên xung phong vững tin lên mặt đường. ?oCó tiếng súng? cho những đoàn xe yên tâm vượt qua trọng điểm.
    Trong cuộc chiến đấu sinh tử ở đây, có những con số làm phấn chấn lòng người như hàng chục máy bay Mỹ đã bị bắn hạ trên bầu trời Đồng Lộc, hàng vạn tấn hàng đã được vận chuyển trót lọt qua trọng điểm, đi tiếp về phương Nam.
    Nhưng cũng có những con số làm tim ta đau nhói, xót xa như mười cô gái thanh niên xung phong dễ mến, dễ thương đã bị một đợt bom thù sát hại; 122 cán bộ chiến sĩ trung đoàn pháo 210 đã hy sinh cùng 259 người khác bị thương, trong vòng 147 ngày đêm chiến đấu tại khu vực Đồng Lộc. Và còn biết bao những chàng trai cô gái đã vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất kiên cường này. Các anh, các chị đã cùng Đồng Lộc góp phần buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc và góp phần cho công cuộc giải phóng miền Nam.
    Giờ đây cuộc chiến đã đi qua. Đất nước đã được thanh bình và đang trên đà phát triển. Mỗi người đang sống và đang được hưởng độc lập, hoà bình hôm nay, xin hãy đừng quên những người con thân yêu của Tổ quốc đã ngã xuống trong chiến tranh. Và xin hãy nhớ trong cuộc chiến tranh ấy, ở một vùng đồi núi phía tây tỉnh Hà Tĩnh trên con đường chi viện cho sự nghiệp giải phóng miền Nam đã từng có một Đồng Lộc, mang tên ?oNgã ba Đồng Lộc? như thế.
  9. vinhvinh

    vinhvinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    957
    Đã được thích:
    2
    Mấy anh em ta nếu có thời gian thì làm một tour từ HN dọc vào đến Quảng Trị để có điều kiện tìm hiểu thêm về đường Trường Sơn. Tớ đọc báo thấy bảo mới mở con đường du lịch Đặng Thuỳ Trâm.
  10. ReadOnlyMemory

    ReadOnlyMemory Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/01/2005
    Bài viết:
    324
    Đã được thích:
    0
    Các pác có bít là Đặng Thuỳ Trâm được phong AH LLVT chưa?Tôi thấy vô lý quá, ngày đó bao nhiêu thanh niên đều sy nghĩ như vậy, đều vào mặt trận như vậy, nhiều người còn hy sinh anh dũng hơn, vậy mà không ai biết đến. 1 cuốn nhật ký còn lại là điều rất hay nhưng để được phong là AHLLVT thì 1 cuốn nhật ký là chưa đủ, tất cả chỉ vì lý do tuyên truyền

Chia sẻ trang này