1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đường Trường Sơn-Con đường huyền thoại-Những bước chân kỳ diệu

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi hoibihay, 29/05/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    May thế, đến sáng nay em mới up được cái bản đồ này lên, tối qua mãi không up nổi.
    Đường Hồ Chí Minh trên đất Quảng Bình-Vĩnh Linh
    [​IMG]
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Quảng Bình được giao nhiệm vụ góp phần xây dựng và bảo vệ tuyến đường ống vận chuyển xăng dầu từ Bắc vào Nam, theo các trục đường 12A, đường 10, đường 18, vượt đỉnh Trường Sơn, toả đi các hướng chiến trường.
    Để góp phần bảo vệ tuyến chi viện chiến lược, phối hợp với lực lượng phòng không của Đoàn 559 và Quân chủng Phòng không-Không quân, Quảng Bình có những đơn vị súng, pháo cao xạ chiến đấu giỏi và kiên cường. Từ những trận đánh mở đầu thắng lợi đến cả quá trình chiến đấu quyết liệt chống lại hai cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất và lần thứ hai của Mỹ, các lực lượng phòng không tại Quảng Bình, có cả bộ đội tên lửa, đã hiệp đồng chặt chẽ với nhau, vững vàng bám trụ trên hầu hết các trọng điểm nổi tiếng nhất. Họ đã bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, bảo vệ từng chiếc cầu, phà, từng đoạn đường xung yếu, góp phần giữ vững mạch máu giao thông thông suốt, cho những dòng xe không ngừng chảy về Nam trong suốt 10 năm. Con số 704 máy bay Mỹ bị quân dân Quảng Bình bắn rơi trong hai cuộc chiến tranh phá hoại là một dẫn chứng thật hùng hồn.
    Cùng với mạng lưới đường sá giao thông và lực lượng bảo vệ giao thông như trên, còn có một hệ thống gồm những căn cứ, cơ quan đầu não, các chiến sĩ hậu cần, quân y kho tàng các binh trạm, của Đoàn 559, phần lớn được bố trí, cất giấu trên khắp các địa phương của Quảng Bình.
    Về căn cứ và cơ quan đầu não: có căn cứ Đoàn 559 ở Làng Ho, có sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Trường Sơn ở Hoà Tiến, ở Xuân Ninh, Hiền Ninh. Chính sở chỉ huy của Bộ chỉ huy chiến dịch Đường 9-Nam Lào, năm 1971, cũng đặt tại núi An Mã trong địa phận Quảng Bình.
    Về kho tàng: có những tổng kho lớn ở Hoá Tiến thuộc huyện Tuyên Hoá, Phong Nha thuộc huyện Bố Trạch, Xuân Bồ thuộc huyện Lệ Thuỷ. Còn có những kho trung chuyển ở Rào Đá, Rào Trù? cùng hàng trăm chân hàng trên các bến bãi, ven đồi ven núi, trong những rừng cao su, cạnh xác xóm làng. Lại thêm hàng ngàn khó nhỏ lẻ giấu trong các đền chùa hoặc gửi trong nhà dân, hoàn toàn ký thác cho dân.
    ?oNhà dân là kho hàng, gia chủ là thủ kho?, nhưng hàng của nhà nước, của quân đôi không hề mất mát. Khẩu hiệu của dân Quảng Bình là: ?oCho không lấy, thấy không xin, của công giữ gìn, của rơi trả lại?; ?oHàng ta, ta quý ta yêu, hàng ra tiền tuyến, hàng tiêu diệt thù?.
    Nhân dân Quảng Bình coi việc bảo vệ tuyến đường chi viện cho miền Nam là nhiệm vụ đầu tiên, là tình cảm thiêng liêng của mỗi người. Phong trà ?oXe chưa qua, nhà không tiếc? bắt nguồn từ xã Quảng Thuận, huyện Quảng Trạch. Để cứu một xe chở hàng bị sa lầy, đằng sau là cả đoàn xe đang ùn lại, mẹ Choàng đã cho dân quân xã phá dỡ ngôi nhà thân yêu của mình, để lấy gạch ngói, cột kèo lát đường cho xe qua.
    Khẩu hiệu ?oĐường chưa thông, không tiếc máu, tiếc xương? được nhân dân Quảng Bình thể hiện khắp nơi, trên mọi nẻo đường, trên mỗi dòng sông, bến nước, ở bất cứ xóm thôn nào, trong những cánh rừng và cả ngoài khơi biển rộng. Điển hình nhất là sự kiện xảy ra vào một đêm tháng 6 năm 1972. Đoạn đường ngầm ở Hói Hạ ở bờ nam sông Gianh bị bom phá hỏng. Nhân dân các xã lân cận đã được huy động, cùng thanh niên xung phong của Đoàn 559 ra sửa gấp. Máy bay Mỹ lại đến giội bom. 48 người dân quê tôi cùng 40 thanh niên xung phong nam nữ quê Hà Tây đã ngã xuống. Những hàng trăm người khác, ngay đêm sau lại xông ra, lấp bằng các hố bom, san phẳng mặt ngầm, rồi làm cọc tiêu hướng dẫn cho các đoàn xe vượt ngầm tiếp tục đi vào phục vụ chiến dịch Trị Thiên.
    Có thể nói nhân dân Quảng Bình đã chấp nhận một sự trả giả lớn lao về sinh mạng và của cải cho sự sống còn của con đường lịch sử. Biết bao tên người như: mẹ Suốt chèo đò qua sông Nhật Lệ, anh hùng Võ Xuân Khuể lái canô, kéo phà, anh hùng Nguyễn Văn Tương lái đò chở bộ đội, chở súng đạn, Nguyễn Viết Lân dũng sĩ phá bom nổ chậm ở Cà Tang, tiểu đội thanh niên xung phong Trần Thị Lý bám trụ kiên cường trên đèo Ba Trại, tiểu đôi Nguyễn Thị Kim Huế thuộc đại đội 759 anh hùng trên ngọn đồi 37, đường 12? đã đi vào huyền thoại, cùng với sự nghiệp hơn mười năm bảo vệ mạch máu Bắc-Nam.
    Biết bao tên đất, tên làng của Quảng Bình như: La Trọng, Bãi Dinh, Khe Ve ở đường 12; đèo Đá Đẽo, phà Xuân Sơn, phà Long Đại, phá Thác Cốc trên đường 15; phà Ròn, phà Gianh, phà Quán Hàu trên đường 1; cua 68, cua chữ A, ngầm Tà Lê, đèo Phu-la-nhích trên đường 20? đã trở thành những địa danh lịch sử cùng với đường Hồ Chí Minh.
    Trong những tháng năm đánh Mỹ, tôi đã cùng với đơn vị mấy lần vượt Trường Sơn vào Nam ra Bắc. Quảng Bình đã từng là chặng đường dừng chân của chúng tôi, trước lúc đi vào chiến trường hoặc sau khi ở chiến trường ra. Ở nơi đâu trên đất Quảng Bình, chúng tôi cũng được sống trong tình thương của các ?obọ, mạ? (Bọ, mạ: bố mẹ) của các anh chị, các em. Tuy cuộc sống khó nghèo, nhưng tấm lòng của bà con luôn rộng mở.
    Làm sao quên được những đêm mưa gió, xe pháo chúng tôi bị sa lầy, bà con thôn xóm xung quanh đã đem những bó cây, gánh củi, có khi cả cột nhà, tấm phản, lát đường cho xe pháo vượt qua. Nhà nào cũng vậy, khi bộ đội qua làng, nửa đêm ghé lại, cả gia đình dồn xuống nhà dưới, nhường nhà trên cho bộ đội ở. Có giường ngủ giường, có nống ngủ nống (nống: cái nong phơi lúa). Có lần chính tôi đã được phép ngả lưng ngay trên chiếc ?ohòm? của cụ Hậu, thôn Cổ Giang, chiếc quan tài đóng sẵn cho cụ đợi ngày đi xa.
    Đồng bào Minh Hoá dọc đường 15, nghèo nhất tỉnh, phần lớn các tháng trong năm chỉ ăn sắn, ăn bồi (bồi: hạt bắp giã nhỏ, nấu thành cơm ăn) nhưng quanh năm không mất khi vắng mặt các anh bộ đội trú quân trong làng. Những đoàn quân nối tiếp nhau ra trận, hoặc từ mặt trận trở về, đơn vị này vừa đi, đơn vị khác lại đến, cứ thế ròng rã hàng chục năm.
    Tôi còn nhớ hình ảnh mẹ Bào, bà mẹ hiền từ chất phác ở thôn Đại Hữu, từ bếp bưng lên một rá khoai còn nóng hổi: ?oKhoai con Cẩn vừa mới bới trên nương. Các con ăn đi! Nhà mẹ nghèo nỏ có chi (không có gì) cho các con cả?. Ôi! Chỉ mấy củ khoai lang với một tấm lòng của bà mẹ già mà thân thiết bao nhiêu.
    Mấy ngày trú quân ở thôn Cổ Giang, sau khi đánh trận ở Quảng Trị trở ra, các thương bệnh binh đơn vị chúng tôi đã được các mẹ đưa về gia đình chăm sóc tận tình chu đáo. Thấy áo quần anh em bộ đội không lành lặn, các chị em đã đề nghị với cấp chỉ huy cho tập trung quần áo lại để chị em vá giúp. Thôn xóm vắng bóng những nam thanh niên, vì các anh đã lên đường chiến đấu. Các mẹ, các chị, các em dồn tình thương cho các anh bộ đội qua làng. Có những đêm, thấy các chị không ở nhà, chúng tôi hỏi, các mẹ cho biết: ?oChúng nó tập trung đi sửa đường, san lấp hố bom?.
    Người dân Quảng Bình gắn bó với đường Trường Sơn, mạch máu chảy từ Bắc vào Nam như máu thịt, như ruộng đồng quê hương mình. Mỗi đoạn đường của tuyến chi viện chiến lược đi qua đều có đóng góp to lớn của quân dân Quảng Bình.
    Chiến tranh qua rồi. Quá khứ không bao giờ trở lại. Ghi chép những dòng hồi ức trên đây, tôi tự hào về Quảng Bình quê tôi một thời đánh Mỹ, đã có hơn ba ngàn ngày ?osống chết? với đường Hồ Chí Minh.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nhớ mãi một người anh
    Một buổi sáng tháng 8 năm 1965, tôi nhận được điện lên ngay Quân chủng Phòng không-Không quân nhận lệnh. Chưa biết sẽ nhận nhiệm vụ gì, nhưng lòng tôi cứ thấy lo lo. Đơn vị tôi là một tiểu đoàn độc lập, trực thuộc quân chủng, vừa mới hình thành, chưa có nền nếp. Cán bộ từ tiểu đoàn đến khẩu đội đều là sĩ quan, hạ sĩ quan. Nhưng tất cả chiến sĩ thì đều là lính mới. Họ mới được tuyển chọn từ các trường đại học và trung cấp ở Hà Nội. Anh em đa phần là sinh viên năm thứ nhất và thứ hai, chưa qua một ngày huấn luyện kỹ thuật bắn máy bay, mặc dầu trước đó, khi còn ở nhà trường, học đã được học qua về quân sự.
    Vào phòng làm việc của Bộ Tư lệnh, thấy đồng chí Phùng Thế Tài, tôi liền dập gót đứng nghiêm:
    -Báo cáo Tư lệnh, tôi, Lưu Trọng Lân, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 6 có mặt.
    -Tốt! Cậu đến rất đúng giờ.-Và không để cho tôi nói thêm, đồng chí Tài bảo tôi lấy sổ tay ra ghi lệnh:
    -Tối nay, 11 tháng 8, tiểu đoàn 6 đi nhận vũ khí.
    -Ngày mai, 12 tháng 8, tổng lau toàn bộ pháo, đạn.
    -Hai ngày tiếp theo 13 và 14 tháng 8, huấn luyện bộ đội. Ngay tối 14 tháng 8 ra quân chiến đấu.
    Kế hoạch hành quân và nhiệm vụ phối thuộc tác chiến thế nào, Bộ Tham mưu sẽ có lệnh sau. Bây giờ cậu sang Phòng Quân lực để nghe hướng dẫn kế hoạch nhận vũ khí, rồi về đơn vị tổ chức thực hiện ngay.
    Mặc dầu trong bụng tối như tơ vò, vì nhiệm vụ cấp bách quá, nhưng tôi vẫn đứng lên:
    -Báo cáo Tư lệnh, rõ! Xin nghiêm chỉnh chấp hành!
    Được cơ quan quân lực lượng hướng xong, tôi vội vàng lên xe ra về. Ngồi trên xe, tôi tự nhủ: phải vắt chân lên cổ mà chạy, nhưng đừng cuống. Hãy bình tâm suy nghĩ, dự kiến ngay việc phân công cán bộ và kế hoạch thời gian để lát nữa sẽ bàn với anh Thành, chính trị viên.
    Vừa chui vào lều, tôi thấy anh Thành đang tiếp khách. Tranh tối tranh sáng, chưa kịp nhận ra ai, thì tôi đã nghe anh Thành nói:
    -Anh Lân! Chính uỷ Đặng Tính xuống thăm?
    Tôi vội đưa tay lên vành mũ:
    -Xin chào thủ trưởng!
    -Ngồi xuống đây!
    Chính uỷ bảo tôi ngồi, rồi tự tay bưng ly nước chanh mà anh Thành vừa pha mời chính uỷ, ấn vào tay tôi:
    -Tiểu đoàn trưởng đi xa về, chắc đang khát. Uống đi! Tôi sẽ uống sau.
    Nhìn nét mặt ân cần của chính uỷ, cảm động quá, tôi cảm ơn, rồi bưng ly nước chanh, uống vài hơi hết sạch.
    -Gặp anh Tài rồi phải không?? Nhiệm vụ khẩn cấp lắm phải không?
    Tôi thưa ngay:
    -Báo cáo chính uỷ, đúng là quá gấp ạ! Không có thời gian chuẩn bị huấn luyện. Thời gian huấn luyện lại chỉ có hai ngày?
    Anh Đặng Tính cười độ lượng:
    -Quân chủng rất hiểu nỗi băn khoăn của các đồng chí. Nhưng các đồng chí thấy đấy, không quân Mỹ đã vượt vĩ tuyến 20. Chúng đang mon men đến gần Hà Nội. Chúng ta phải chạy đua với địch, chạy đua với thời gian. Cụm Tiền phương I của quân chủng đang chờ sự có mặt của tiểu đoàn 6. Thời gian ngắn thì ta huấn luyện theo kiểu ứng dụng, cần gì học nấy. Không được bắn đạn thật trên trường bắn thì các đồng chí sẽ bắn đạn thật ngay trong trận nổ súng đầu tiên vào máy bay Mỹ. Hiểu được như thế, các đồng chí sẽ có đầy đủ quyết tâm khắc phục khó khăn về thời gian để hoàn thành nhiệm vụ.
    Đôi mắt hiền từ của anh nhìn tôi ánh lên niềm vui. Anh lại cười, hỏi:
    -Thế nào? Được chứ!
    -Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi đã hiểu và xin chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị của Bộ Tư lệnh.
    Anh Đặng Tính đứng lên, cùng mấy cán bộ đi cùng, vui vẻ bắt tay chúng tôi ra về. Mà cũng không biết anh về nhà, về cơ quan hay là anh lại tiếp tục đến với đơn vị nào đó đang chờ sự có mặt của anh.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đợi xe anh Đặng Tính đi khuất, chúng tôi quay vào lều hội ý Đảng uỷ và Ban Chỉ huy tiểu đoàn. Chúng tôi phân công nhau: anh Thành, anh Thường chính trị viên tiểu đoàn cùng các chính trị viên đại đội lo phần công tác chính trị, lãnh đạo tư tưởng. Tôi với anh Tý tham mưu trưởng, cùng các đại đội trưởng lo khâu huấn luyện. Anh Bằng tiểu đoàn phó cùng các đồng chí đại đội phó lo việc tiếp nhận và bảo quản vũ khí. Trong khi bộ đội tiến hành lau pháo, đạn, thì hệ thống cán bộ quân sự cấp trưởng tập trung bồi dưỡng giáo viên. Nội dung huấn luyện lấy thực hành là chính. Ngày đầu huấn luyện pháo thủ. Ngày thứ hai, huấn luyện hiệp đồng khẩu đội, trung đội và đại đội.
    Thế rồi ba ngày ngắn ngủi qua trong sự cập rập, vội vã nhưng cũng ăn khớp, nhịp nhàng. Chấp hành mệnh lệnh, ngay đêm 14 tháng 8, tiểu đoàn chúng tôi ?oxe pháo hành quân" lên hướng Phú Thọ, để cùng với cụm Tiền phương I của quân chủng dàn trận phục kích đánh địch, bảo vệ nhà máy phốt phát Lâm Thao. Trưa 16 tháng 8, trận đánh diễn ra thắng lợi. Riêng lực lượng pháo cao xạ, trong đó có tiểu đoàn 6, hiệp đồng bắn rơi ba chiếc F105.
    Vậy là tiểu đoàn 6 chúng tôi, trong bước đi chập chững ban đầu đã hoàn thành nhiệm vụ. Vui mừng trước sự trưởng thành của đơn vị, lòng toi nhớ về anh Đặng Tính.
    Trong những tháng năm diễn ra cuộc chiến tranh phá hoại khốc liệt ở miền Bắc, là một cán bộ ở dưới trung đoàn, tôi ít được gặp anh Đặng Tính, nhưng nghe kể về anh thì lại rất nhiều. Là tư lệnh kiêm chính uỷ Quân chủng Phòng không-Không quân (Tháng 8 năm 1967, đồng chí Phùng Thế Tài lên làm Phó tổng Tham mưu trưởng, đồng chí Đặng Tính kiêm luôn Tư lệnh Quân chủng) anh thực sự là linh hồn của toàn quân chủng.
    Mỗi lần có dịp lên thăm Bác Hồ trở về, anh đều kể lại cho cán bộ nghe về niềm vui của Bác mỗi khi nhận được tin các đơn vị phòng không hoặc các chiến sĩ lái máy bay của ta lập công bắn rơi máy bay giặc; về sự quan tâm của Bác theo dõi từng bước hành quân của trung đoàn tên lửa 238 vào giới tuyến tìm cách bắn rơi B52, hoặc về mối băn khoăn của Bác đối với sức khoẻ của chiến sĩ trên trận địa trong mùa nắng nóng, đối với mỗi nhịp cầu, mỗi góc phố bị bom Mỹ đánh sập, cả đến mỗi trường hợp đạn tên lửa của ta, do bị mất điều khiển, rơi trúng nhà dân?
    Từng lời, từng lời, anh truyền đến cho mỗi cán bộ niềm kính yêu vô hạn đối với Bác Hồ.
    Càng leo thang, giặc Mỹ càng điên cuồng, tàn bạo, cường độ ném bom càng dữ dội, quyết liệt. Là Tư lệnh kiêm Chính uỷ quân chủng, nhưng bất chấp đạn bom, anh Đặng Tính có mặt ở mợi nơi nóng bỏng nhất: Hà Nội, Hải Phòng, đường 5, đường 1 Nam, đường 1 Bắc. Rồi anh đi vào tuyến lửa Quân khu 4, vượt qua nhiều trọng điểm ác liệt để đến với các chiến sĩ phòng không giữa chiến trường.
    Trên các trận địa pháo cao xạ bốn bề bom đạn, với chiếc mũ sắt trên đầu, anh đứng thẳng người theo dõi cuộc chiến đấu, quan sát máy bay quân thù đang lao xuống và luồng đạn của pháo ta bắn lên, để góp ý với cán bộ chỉ huy về thời cơ bắt đầu bắn.
    Trong đài điều khiển chật hẹp của tiểu đoàn tên lửa, nơi mà bất kể lúc nào cũng có nguy cơ bị những quả tên lửa không đối đất (Shrike) của địch phóng trúng, anh Đặng Tính không nề hiểm nguy, đứng sau lưng các trắc thủ, sĩ quan điều khiển, quan sát diễn biến trận đánh trên màn hiện sóng, để từ đó có cơ sở thống nhất những ý kiến về phương pháp đánh của bộ đội tên lửa trong điều kiện bị địch gây nhiễu nặng.
    Đến với các đơn vị ra-đa được trang bị những bộ khí tài cũ kỹ từ thời chiến tranh thế giới lần thứ II, anh dặn dò các trắc thủ: ?oMáy cũ nhưng tinh thần chúng ta mới. Khí tài thô sơ, nhưng chúng ta có những bộ óc sáng tạo của trắc thủ ra-đa Việt Nam. Nhất định chúng ta sẽ hoàn thành nhiệm vụ".
    Bám sát cuộc sống chiến đấu của bộ đội Phòng không-Không quân, anh Đặng Tính lắng nghe từng hơi thở, từng tiếng lòng của chiến sĩ. Anh vui nỗi vui của chiến sĩ khi quật ngã được máy bay thù, anh đau nỗi đau của chiến sĩ khi xảy ra tổn thất, hy sinh. Có lúc cả hội trường quân chủng lặng đi khi nghe anh kể về những tấm gương chiến đấu kiên cường của các pháo thủ bảo vệ Thủ đô, hoặc nhộn nhịp hẳn lên khi nghe anh đọc những lời thơ hùng tráng của các pháo thủ bảo vệ đường 5. Anh đọc thơ chiến sĩ, anh đọc cả thơ anh. Hồn thơ anh hoà quyện cùng hồn thơ chiến sĩ.
    Sau những ?chuyến đi thực tế? của anh Đặng Tính trở về, người ta thấy trong nghị quyết của Đảng uỷ, trong chủ trương của Bộ Tư lệnh Quân chủng có thêm những điều mới, những chất xúc tác mới, tạo nên những sự chuyển mình mới trong toàn quân chủng.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Mùa khô 1971-1972, trung đoàn 227 của tôi làm nhiệm vụ bảo vệ đường 12, từ Khe Ve đến Ka Vát. Là trung đoàn phó chỉ huy cụm tác chiến tiền phương, vào một ngày tháng 11 năm 1971, tôi được lệnh lên sở chỉ huy Đoàn 559 dự hội nghị. Ở đây, tôi may mắn gặp lại anh Đặng Tính, lúc này đã là Chính uỷ Bộ Tư lệnh Trường Sơn.
    Tôi chào anh. Anh nhìn tôi ngờ ngợ, rồi như chợt nhận ra, anh bắt tay tôi thật chặt, và với nụ cười rộng mở, anh hỏi:
    -Lưu Trọng Lân phải không? Cậu vào Trường Sơn từ bao giờ?
    -Thưa anh từ năm ngoái. Anh em ngoài quân chủng vẫn thường nhắc tới anh.
    -Mình cũng nhớ anh em ngoài đó lắm! Thôi! Vào đây uống nước đã!
    Anh dẫn tôi vào phòng của anh, đưa tôi mấy thỏi lương khô màu nâu và phối hợp cho tôi một ca nước sâm rừng.
    Sáng hôm sau, tại hội nghị có đông đủ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp ở các binh trạm, các trung đoàn, chúng tôi nghe Bộ Tư lệnh phổ biến tình hình, nhiệm vụ mới. Cho mãi tới bây giờ tôi vẫn không quên hình ảnh của anh Đặng Tính, tiếng nói của anh trong cuộc họp hôm đó. Anh nói:
    -Không quân địch quyết ngăn chặn chiến dịch vận chuyển mùa khô 1971-1972 của ta. Trong khi xe ta vẫn chạy ban đêm trên những đoạn đường hở, thì những máy bay AC130 của Mỹ, được lắp máy ngắm bằng tia hồng ngoại, đã tiến hành săn đuổi đội hình xe của ta rất gắt gao, gây cho ta nhiều tổn thất. Muốn hoàn thành kế hoạch vận chuyển, chúng ta phải khẩn trương mở những con đường kín, như kinh nghiệm ở binh trạm 32 đã làm, chuyển số lớn đội hình xe từ chạy đêm sang chạy ngày. Lực lượng pháo cao xạ sẽ được tập trung ở các khu vực trọng điểm trên tuyến đường hở còn lại, để trị ?obọn?o AC130.
    Mắt anh Đặng Tính hướng về các cán bộ trung đoàn pháo cao xạ, như để nhắc nhở. Rồi anh lại nói tiếp:
    -Trước đây ta chỉ có đường H (hở). Nay phải có thêm đường K (kín). Anh em ta sẽ vừa ?oca? vừa ?ohát? suốt dọc Trường Sơn. Nhất định chúng ta sẽ giành thắng lợi trong mùa khô 71-72 này. Anh Đặng Tính lại cười, nụ cười luôn rạng rỡ của anh. Cả hội trường cùng cười theo. Riêng tôi thầm nghĩ: anh Đặng Tính quả là con người có sức thuyết phục lớn. Bằng lời lẽ giản dị, dí dỏm, những nội dung phức tạp đã được anh chuyển hoá thành những điều đơn giản, dễ hiểu, lôi cuốn lòng người.
    Sau hội nghị đó, lực lượng pháo cao xạ chúng tôi (37 ly, 57 ly, 100 ly) dồn cả về các trọng điểm trên tuyến đường hở, để sống mái với bọn AC130, bảo vệ đoàn xe (Trung đoàn tôi dồn phần lớn lực lượng về trọng điểm nổi tiếng ác liệt: Xóm Péng). Kế hoạch mở đường kín được tiến hành hết sức khẩn trương. Chỉ trong một thời gian ngắn đường lớn đã trở thành hệ thống đường chủ lực, có hiệu quả cao, phục vụ đắc lực cho chiến dịch vận chuyển mùa khô.
    Sau Hiệp định Pari, tôi về cơ quan Quân chủng Phòng không-Không quân, công tác ở Bộ tham mưu. Tôi thầm mong có dịp được gặp lại anh Đặng Tính. Nhưng rồi một tin đau xót đã đến: ?oNgày 4 tháng 4 năm 1973, đồng chí Đặng Tính, Chính uỷ Binh đoàn Trường Sơn, đã hy sinh trên đường công tác?.
    Mắt tôi nhoà lệ và lòng tôi quặn đau. Tôi đã vĩnh viễn mất một người đồng chí, một người anh.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Từ đường Trường Sơn chúng tôi đi vào chiến dịch Hồ Chí Minh
    Sau chiến thắng ?oĐiện Biên Phủ trên không? cuối tháng 12 năm 1972, từ cương vị một trung đoàn trưởng ở dưới đơn vị, tôi được điều lệ cơ quan Bộ Tham mưu Quân chủng Phòng không-Không quân, làm Phó phòng Cao xạ. Ngoài công việc bộn bề trong phạm vi quân chủng, tôi còn được giao thêm nhiệm vụ nắm và theo dõi các lực lượng phòng không ở chiến trường phía Nam. Qua liên hệ với Phòng Quân lực và Phòng Tác chiến, nhất là với các đoàn công tác ở trong Nam ra, dần dà tôi đã nắm được những điều cơ bản về tình hình lực lượng và hoạt động của các đơn vị cao xạ trên các Mặt trận Trị Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ và Đoàn 559. Việc có vẻ ít liên quan ấy không ngờ lại trở thành thuận lợi cho tôi, khi tôi được đi B công tác vào năm sau.
    Tháng 1 năm 1975, ở chiến trường miền Đông Nam Bộ, quân ta đánh to thắng lớn. Báo đài đưa tin: ngày 6 tháng 1, quân giải phóng miền Nam đã làm chủ toàn tỉnh Phước Long. Tôi rất phấn khởi, nhưng thật ra, trong nhận thức khi đó, tôi chưa hiểu được gì nhiều về ý nghĩa của chiến thắng nói trên.
    Thế rồi tôi nhận được lệnh chuẩn bị đi B và may mắn làm sao, sáng 25 tháng 1 năm 1975, tại hội trường Quân chủng Phòng không-Không quân, chúng tôi được đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm và nói chuyện. Hôm ấy, Đại tướng nói không nhiều, nhưng phân tích tình hình rất sâu sắc. Tôi còn nhớ những ý chính:
    ?oSau Hiệp định Paris, toàn bộ quân Mỹ, quân các nước phụ thuộc đã rút khỏi nước ta. Nhưng chính quyền Mỹ và chính quyền Thiệu đã ngang nhiên xé bỏ hiệp định. Mỹ tuôn ồ ạt vũ khí vào miền Nam Việt nam. Thiệu thì hung hăng hò hét ?otràn ngập lãnh thổ?, đưa quân tiến hành hàng loạt cuộc tiến công lấn chiếm các vùng do ta kiểm soát.
    ?oTrước tình hình đó, Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết 21 khẳng định: ?oNhân dân ta không có con đường nào khác là phải tiếp tục con đường bạo lực cách mạng để giải phóng hoàn toàn miền Nam". Trung ương Đảng còn nhận định: ?oMột khi vì thất bại, buộc phải rút khỏi nước ta, đế quốc Mỹ khó có thể quay trở lại?.
    ?oTháng 1 năm 1975, bằng chiến dịch Phước Long, chỉ trong một tuần lễ, quân ta đã tiêu diệt và bắt sống hơn 4.000 tên địch. Toàn tỉnh Phước Long được giải phóng. Nguyễn Văn Thiệu hốt hoảng cầu cứu Mỹ can thiệp, nhưng Mỹ làm ngơ. Tổng thống G.Ford tuyên bố: ?oQuân Mỹ không thể quay lại Việt Nam, vì Quốc hội Mỹ không cho phép?. Vậy là qua đòn Phước Long, ta đã nắm được gân cốt của Mỹ. Phải tranh thủ giải phóng miền Nam trong thời gian ngắn nhất.
    ?oRiêng đối với Quân chủng Phòng không-Không quân, một mặt phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc, mặt khác phải ra sức tăng cường lực lượng phòng không tối đa cho cách mạng miền Nam".
    Lắng nghe lời đồng chí Tổng tư lệnh, Bí thư Quân uỷ Trung ương lòng chúng tôi vô cùng phấn chấn. Tối hôm đó đến thăm anh Lê Văn Tri, Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, tại nhà riêng, tôi được anh nói rõ thêm tình hình và động viên: ?oCậu biết không? Sau trận Phước Long, mặc cho ?otổng? Thiệu gào thét, bọn Mỹ vẫn đánh bài lờ. Không quân Mỹ đã không trở lại ném bom miền Bắc nước ta như chúng từng hăm doạ. Sư đoàn thuỷ quân lục chiến Mỹ đóng tại Okinawa-Nhật Bản, vẫn án binh bất động tại chỗ. Tàu sân bay Enterprise được lệnh rời Subic tiến vào Biển Đông, nhưng sau đó đã ngoặt hướng, lặng lẽ chuồn sang Ấn Độ Dương. Bọn Mỹ đã bỏ cuộc. Tình hình ở miền Nam sắp tới sẽ phát triển rất nhanh. Cậu được đi B kỳ này là một vinh dự rất lớn, cũng giống như hồi 1954 cậu được đi được đi dự chiến dịch Điện Biên Phủ. Chắc chắn cậu sẽ được gặp lại mẹ và các em ở Sài Gòn (Bố mẹ tôi vào Sài Gòn làm ăn từ những năm 40. Năm 1974 bố tôi mất. Còn lại mẹ và 3 em. Anh Lê Văn Tri là anh rể tôi) trong một ngày không xa?. Anh giơ hai ngón tay, nói nhỏ: ?oHai năm!?.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Sáng 27 tháng 2 năm 1975, đoàn đi B chúng tôi, với đầy đủ thành phần của một sở chỉ huy tiền phương, gồm bốn cơ quan, do dat Trần Quang Hùng, Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân chỉ huy, lên đường. Riêng bộ phận tác chiến chúng tôi có khoảng 15 anh em, do trung tá Phạm Sơn làm trưởng phòng và tôi, thiếu tá, làmphó phòng, trực thuộc Bộ Tham mưu tiền phương quân chủng, do trung tá tham mưu phó Lê Thanh Cảnh phụ trách.
    Sau Tết Ất Mão khoảng nửa tháng, chúng tôi rời Hà Nội. Đoàn xe chúng tôi theo quốc lộ số 1 vào Quảng Bình. Khi qua phà Gianh, tôi bỗng nhớ về quê hương ở đây một thời bom đạn (Tôi quê xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, ở ngay phía nam bến phà Gianh). Cuộc chiến tranh kéo dài nhiều năm bằng không quân của Mỹ đã tàn phá quê tôi đến hoang tàn. Biết bao dân làng của hai bờ bắc-nam sông Gianh cùng các chiến sĩ phòng không, giao thông vận tải đã ngã xuống vì sự sống còn của bến phà, trước sự đánh phá quyết liệt ngày đêm của máy bay Mỹ.
    Nhìn lên phía tây, điệp trùng một dải Trường Sơn, mờ xa và huyền ảo trong ánh nắng chiều. Tôi hình dung con đường 15 quen thuộc, chạy dài dưới chân rặng Trường Sơn, giờ đây chắc đang thiếu vắng những đoàn xe vận tải tấp nập vào ra như vài ba năm trước.
    Qua Thanh Khê, chúng tôi vượt đèo Lý Hoà vào Đồng Hới, nghỉ đêm tai sân bay. Sáng hôm sau, chúng tôi đi tiếp vào Đông Hà, rồi rẽ phải, theo đường 9 lên hướng Khe Sanh. Khi trời lành lạnh. Xe chúng tôi đi trong gió thổi ngược chiều và trong khung cảnh nhộn nhịp của những đoàn xe ra trận. Những chiếc xe Hồng Hà chở quân, những chiếc xe Din kéo pháo, và những chiếc xe tăng tự hành? nối đuôi nhau, xen kẽ, tung bụi mịt mù.
    Qua Tân Lâm, Đầu Mầu, nơi khúc quanh của đường 9, nhớ lại trận đánh xuất sắc của trung đoàn pháo cao xạ 230, thuộc Sư đoàn 367 chúng tôi, hồi chiến dịch Trị Thiên, tại đây, bắn hạ bảy máy bay Mỹ. Sắp đến địa phận huyện Hướng Hoá. Những câu hát mà tôi rất thích: ?oAnh thắng trận miền tây Khe Sanh. Đồn Tà Cơn hôm nào bốc cháy, Đồi Động Tri xác Mỹ chất đầy. Tính! Tính?? trong bài ?oTiếng đàn Ta Lư? của Huy Thục, bỗng rộng lên trong lòng tôi. Nó gợi lên hình ảnh những tên lính thuỷ đánh bộ Mỹ, 5 tháng trời bị giam chân trong cứ điểm Tà Cơn. Kiên trì vây hãm địch, tiến tới giải phóng toàn bộ thung lũng Khe Sanh là chiến công rất xuất sắc của quân giải phóng, để cho đường vận tải chiến lược của chúng ta liền mạch ở cả hai phía đông và tây Trường Sơn.
    Vùng giải phóng tỉnh Quảng Trị, đã từng là chiến trường ác liệt nhất năm 1972, hôm nay thanh bình quá đỗi. Các đơn vị pháo cao xạ, tên lửa của sư đoàn phòng không 673 và 377 vẫn luôn trực ban sẵn sàng chiến đấu, nhưng trên bầu trời kia không còn bóng dáng những pháo đài bay B52 của Mỹ đêm ngày đến ?orải thảm?, cùng hàng đàn hàng lũ máy bay cường kích A6, A7, F4? thay nhau ***g lộn, bắn phá, ném bom? Đó đây, vẫn còn vết tích chiến tranh, còn những hố bom loang lổ, nhưng trước mắt tôi, những doanh trại bộ đội, nhà ở của đồng bào, của các cơ quan Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, các cửa hàng mậu dịch, trường học, trạm xá mọc lên san sát trên các ngọn đồi, ven những dòng sông, khúc suối. Đơn vị cơ quan nào cũng có cổng chào với dòng chữ in màu vàng trên nền đỏ ?oKhông có gì quý hơn độc lập, tự do?. Trên một số bãi, đậu la liệt những máy bay, máy kéo ?omới ra lò?, màu sơn còn đỏ chói. Lại còn nhiều máy ủi, máy xúc, sơn màu vàng rực của các đơn vị công binh Trường Sơn.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Tuy nhiên, đó là dáng vẻ bề ngoài. Mấy hôm sau tôi được biết, bên trong khung cảnh bình yên ấy, vùng giải phóng Quảng Trị đang là một trong những điểm nóng tích cực chuẩn bị cho một trận quyết chiến chiến lược kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài ba mươi năm của dân tộc. Khắp nơi dưới những tán rừng rậm, trong nông trường cà phê xanh ngát, là cơ man nhưng súng ống đạn dược của đủ loại binh chủng hiện đại, cũng những kho hậu cần đầy ắp hàng hoá, trùm kín ni lông, đang ẩn mình, đợi chờ đến lượt đi về phương Nam.
    Cơ quan Tiền phương Quân chủng chúng tôi tạm thời đặt bên cạnh cơ quan Sư đoàn Phòng không 377, thuộc Bộ Tư lệnh Đoàn 559. Sau khi triển khai xong sở chỉ huy, trừ một bộ phận nhỏ trực ban, hầu hết cán bộ chúng tôi được tung đi xuống các đơn vị cao xạ, tên lửa, rada có mặt trong vùng, để nắm lại thực lực và công tác chuẩn bị hành quân.
    Đến trung đoàn 263, còn gọi là đoàn Quang Trung, đơn vị tên lửa phòng không duy nhất có mặt ở vùng giải phóng sau Hiệp định Paris, chúng tôi ngỡ ngàng trước những khu doanh trại khang trang, xen lẫn những vườn rau xanh tốt trên những thửa ruộng bậc thang, cùng những vườn hoa sắc màu rực rỡ quanh các lán trại. Bộ đội ta đi đến đâu cũng giữ nếp sống lạc quan. Ban chỉ huy trung đoàn chiêu đãi chúng tôi một bữa cơm thật ngon, bằng những món ăn ?rau nhà, gà vườn?.
    Trong phòng làm việc, anh Tích, trung đoàn trưởng, cho chúng tôi biết:
    ?oVào một ngày cuối tháng 2 năm 1973, Thượng tướng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đã đến thăm trung đoàn. Tổng Tham mưu trưởng căn dặn bốn điều mà chúng tôi còn nhớ mãi:
    1.Sẵn sàng chiến đấu cao để bảo vệ vững chắc vùng giải phóng. Đối tượng tác chiến là không quân nguỵ.
    2.Ra sức huấn luyện để nâng cao trình độ kỹ, chiến thuật và khả năng hành quân cơ động trên mọi địa hình phức tạp.
    3.Sẵn sàng cơ động bất cứ lúc nào, đến bất cứ nơi đâu, trên toàn mặt trận phía Nam.
    4.Chăm lo nâng cao đời sống tinh thần, vật chất cho chiến sĩ".
    Anh Tích nói tiếp: ?oHôm qua chúng tôi đã nhận được lệnh chuẩn bị hành quân vào Tây Nguyên. Đảng uỷ, Ban chỉ huy trung đoàn đã họp, ra nghị quyết lãnh đạo và lên kế hoạch tổ chức thực hiện. Hôm nay được cơ quan quân chủng đến, thật là dịp may cho chúng tôi. Anh Liễn, Chính uỷ, và tôi sẽ báo cáo mọi việc. Sau đó mời các đồng chí xuống các đơn vị để nắm tình hình cụ thể thêm. Rất mong được sự quan tâm chỉ đạo của các cơ quan quân chủng, tạo điều kiện cho chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ".
    Từ đấy, chúng tôi phân công nhau, kẻ xuống Làng Vây, người trở ra Động Toàn, Cam Lộ, người đi ngược lên Tà Cơn, Nguồn Rào để đến với các tiểu đoàn hoả lực và kỹ thuật tên lửa SAM2.
    Ở tiểu đoàn 43, chúng tôi gặp thượng uý Nguyễn Hải Đăng, một tiểu đoàn trẻ, đẹp trai. Đăng báo cáo: ?oĐơn vị hiện có 26 xe các loại, đủ để cơ động toàn tiểu đoàn. Nhưng chúng tôi lo nhất là thiếu phụ tùng thay thế, đặc biệt là lốp dự phòng và càng kéo. Tinh thần cán bộ chiến sĩ rất cao, sẵn sàng nhận nhiệm vụ bất cứ lúc nào. Có vài chiến sĩ bị sốt rét đang tiếp tục điều trị?.
    Chúng tôi còn đến với hai trung đoàn pháo cao xạ 221 và 226. Hai đơn vị này đã nhận được lệnh đi B3 và B2 (B3 là Tây Nguyên, B2 là Nam Bộ). Ở trung đoàn 226, tôi gặp trung đoàn trưởng Trần Bảo Lược, bạn chiến đấu cũ, tính tình cởi mở, dễ mến. Anh Lược báo cáo:
    ?oTổng quân số: 1054 cán bộ chiến sĩ. Biên chế: ba tiểu đoàn pháo hỗn hợp 57 ly, 37 ly và 23 ly. Có thêm ba bộ khí tài máy chỉ huy và rada, 30 cơ cấu phóng tên lửa tầm thấp A72, cùng 250 quả đạn. Xe cộ: 115 chiếc, đủ bảo đảm hành quân, nhưng thiếu phụ tùng dự trữ và kinh nghiệm đi đường, móc kéo pháo hay bị gãy. Ngày 15 tháng 3, chúng tôi bắt đầu nhập tuyến Trường Sơn Tây?.
    Những ý kiến đề xuất của các đơn vị lập tức được báo cáo lên Phó Tư lệnh Quân chủng, Đại tá Quang Hùng đã chỉ đạo các cơ quan kịp thời giải quyết. Về công tác tham mưu, chúng tôi đã tìm đến cơ quan Bộ Tham mưu Đoàn 559 để nhờ giúp đỡ một số việc. Anh Trần Bút, bạn thân của tôi thời Điện Biên Phủ, đã giúp tôi sao chép một số sơ đồ các tuyến đường có liên quan, để cấp cho các đơn vị hành quân. Trong các sơ đồ đều ghi rõ địa chỉ từng cung chặng, khoảng cách mỗi đoạn đường, đặc điểm địa hình, đường sá, vị trí các điểm tiếp xăng dầu? rất tỉ mỉ.
    Bộ Tư lệnh Đoàn 559 còn cấp cho mỗi đơn vị hành quân chúng tôi một số giấy giới thiệu, để liên lạc dọc đường. Phòng thông tin do anh Hoàng Đình Quý phụ trách, hướng dẫn cho chúng tôi biết một số hệ thống đường dây, để khi đến các điểm dừng, nếu cần, chúng tôi có thể liên lạc được với nhau bằng điện thoại. Qua việc này, tôi vô cùng khâm phục việc tổ chức mạng thông tin liên lạc của Đoàn 559, hết sức chặt chẽ và có hiệu quả, trên cả một vùng rừng núi bao la, với phạm vi rất rộng, rất dài, vươn tới mọi chiến trường, trên khắp mọi hướng, mọi tuyến của đường mòn Hồ Chí Minh.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Theo mệnh lệnh hành quân, lịch nhập tuyến của các đơn vị phòng không như sau:
    -Ngày 19 tháng 2, trung đoàn 221 pháo cao xạ xuất phát, đi theo hướng Trường Sơn Đông.
    -Ngày 7 tháng 3, trung đoàn 263 tên lửa xuất phát, đi theo hướng Trường Sơn Tây.
    -Ngày 25 tháng 3, trung đoàn 226 pháo cao xạ xuất phát đi theo hướng Trường Sơn Tây.
    -Ngày 31 tháng 3, tiểu đoàn 8 rada xuất phát, đi theo hướng Trường Sơn Đông.
    Sau khi tiểu đoàn 43, đơn vị hoả lực đầu tiên của trung đoàn tên lửa rời Làng Vây, hai hôm sau, sở chỉ huy tiền phương của chúng tôi cũng ?onhổ neo? lên đường. Anh Phạm Sơn được phân công đi cùng trung đoàn tên lửa 263. Còn tôi, đi cùng xe với tham mưu phó Lê Thanh Cảnh, theo hướng đông. Lái xe tên là Chiến, chiến sĩ phục vụ tên là Cường.
    Xe chúng tôi qua Sa Trầm, Ly Tôn, ngã ba Lan Nam rồi tiến vào A Lưới. Một cảnh tượng nhức nhối đập vào mắt tôi. Lần đầu tiên tôi được hiểu thế nào là chất độ hoá học của Mỹ. Cả một cánh rừng bạt ngàn toàn những cây cao lớn, nhưng trụi lá trơ cành. Những hàng cây chết đứng cứ như chạy trốn về phía sau, khi xe chúng tôi tiến nhanh lên phía trước. Chiến khu A Lưới có nữ anh hùng Kan Lịch, người dân tộc Vân Kiều. Nghe nói vùng này xưa kia sầm uất lắm. Vậy mà dưới bàn tay tàn bạo của giặc Mỹ, cây cối ở đây đang lụi tàn, cảnh vật biến thành một màu đen xám.
    Đang miên mang suy nghĩ, tôi chợt nghe anh Cảnh quay lại nói như reo: ?oÔng Lân ơi! Buôn Ma Thuột giải phóng rồi!?. Anh vặn to âm thanh chiếc đài bán dẫn để chúng tôi cùng nghe rõ. Trừ cậu Chiến cầm vô lăng, cả ba chúng tôi cùng vỗ tay đôm đốp: ?oTrời ơi! Phấn khởi quá!?. Bài xã luận của Báo Quân đội Nhân dân về chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 11 tháng 3, được Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi trên làn sóng nghe sao rạo rực lòng người. Anh Cảnh nói:
    -Chúng mình vào, may ra còn kịp tham gia giải phóng Tây Nguyên. Sau Buôn Ma Thuột còn Kontum, Pleiku, thủ phủ của quân khu 2 và quân đoàn 2 nguỵ nữa.
    Chiếc xe com-măng-ca của chúng tôi còn mới, chạy rất khoẻ. Nó vượt hết mọi xe trên đường. Càng vào sâu, tôi càng thấy quang cảnh nhộn nhịp, tưng bừng của con đường ra trận. Núi rừng Trường Sơn có lẽ chưa bao giờ được chứng kiến cuộc ra quân hùng vĩ như ngày hôm nay. Tôi nhớ lại hồi mở chiến dịch Điện Biên Phủ, chỉ có một con đường 41, độc đạo, đưa 24 khẩu lựu pháo 105 ly và 24 khẩu pháo cao xạ 37 ly cùng khoảng 600 xe tải chờ gạo, đạn vào thung lũng Điện Biên. Còn năm nay, cả đông và tây Trường Sơn, cùng nhiều con đường khác nữa, đang cuồn cuộn những dòng xe, dòng tăng, dòng pháo, dòng tên lửa, hầu hết là những trang bị hiện đại. Còn nhiều xe chở bộ binh của những quân đoàn chủ lực, xe chở những khoang thuyền vượt sông của công binh, rồi những đoàn xe hậu cần chở lương thực, thuốc men, quân trang, quân dụng nối tiếp nhau, như thác đổ, chảy về Nam.
    Đường Trường Sơn năm nay mở rộng hơn trước nhiều. Để chuẩn bị đón thời cơ lớn, hàng vạn cán bộ chiến sĩ Trường Sơn đã gấp rút nâng cấp hàng ngàn kilômét đường ôtô đạt tiêu chuẩn cấp bốn. Cầu, cống, ngầm vượt sông đều được sửa chữa, tôn tạo. Những đoạn đường hiểm trở quanh co, đã được anh chị em công binh, thanh niên xung phong nắn lại cho thẳng hơn. Họ mở rộng vòng cua, hạ thấp triền dốc, bảo đảm cho mọi loại binh khí kỹ thuật nặng nề có thể hành quân. Phần lớn những con đường đều được gấp rải đá cấp phối. Có tới năm chục kilômét, từ đường 9 trở vào, đã được trải nhựa, xe chạy êm ru. Thắng lợi càng gân, ngoảnh lại, nhìn thấy công lao ?oxẻ dọc Trường Sơn" của bộ đội Trường Sơn thật vô cùng vĩ đại.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đến ngã ba đường 73, chúng tôi dừng xe. Một đoàn xe xích kéo những khẩu pháo nòng dài 122 ly đang chuẩn bị rẽ vào lối đi Nam Đông. Một vị chỉ huy pháo binh nhìn tôi ngờ ngợ:
    -Lưu Trọng Lân phải không?
    Tôi chợt nhận ra người bạn cũ hồi ở Việt Bắc năm 1952.
    -Hoàng Tuấn hả? Không ngờ gặp cậu ở đây!-Chúng tôi ôm chầm lấy nhau mừng rỡ. Tôi cho Tuấn biết hiện nay mình đang công tác ở Bộ Tham mưu Phòng không-Không quân và đang trên đường vào Tây Nguyên. Tuấn cười, vẫn chiếc răng khểnh dễ thương như ngày nào:
    -Đơn vị mình được lệnh hành quân gấp vào hướng Nam Đông, Mũi Trâu, chuẩn bị áp sát phía tây bắc Đà Nẵng, Buôn Ma Thuột thất thủ. Tây Nguyên sắp giải phóng đến nơi rồi. Đà Nẵng chắc đang đợi bọn mình đấy, Lân ạ! Thôi chia tay nhé! Hẹn gặp lại nhau ở Sài Gòn.
    Chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình trên chặng đường Trường Sơn Đông. Những địa danh A Sầu, Bù Lạch, Xưởng Giầy, A Vương, Trao, Bung? lần lượt lùi lại phía sau. Xe đi xuyên rừng, núi tiếp núi, có đoạn đường bằng, có đoạn cheo leo, xe chúng tôi lượn chênh vênh trên lưng chừng núi, bên đèo cao, bên vực thẳm. Những lúc ấy tôi cảm thấy Trường Sơn kỳ vĩ lạ lùng.
    Thú rừng thường chạy vụt qua trước mũi xe của chúng tôi, khi con chồn, khi con nai. Còn nhữn chú chim cu, gà rừng thì bất ngờ vỗ cánh bay lên khi xe chúng tôi vừa lao tới. Anh Cảnh có khẩu súng săn mang theo. Nhiều hôm chúng tôi được ăn cơm với thịt gà rừng, chim cu gáy, nhờ tài thiện xạ của anh. Phát hiện một bầy chim đang mải mê mổ gạo rơi trên đường, cậu Chiến phanh xe thật nhẹ nhành. Anh Cảnh từ từ nghiêng người ra ngoài xe, giương súng: Tạch! Một chú chim lăn đùng. Thế là chúng tôi lại được bữa ăn tươi. Cậu Cường công vụ có bàn tay nấu nướng rất nghề.
    Khi sắp qua bến phà Giàng, chúng tôi gặp một đơn vị pháo cao xạ 37 ly đậu sát bên đường. Hỏi ra thì biết đó là tiểu đoàn 106, thuộc trung đoàn 545, Sư đoàn 377. Một cán bộ trạc tuổi bốn lăm, khuôn mặt trắng hồng, râu quai nón đang giơ tay chỉ trỏ. Thấy quen quen, tôi nhìn kỹ, hoá ra đó là Hà Văn Lực, người dân tộc Tày, đại đội trưởng cũ của tôi trong chiến dịch Điện Biên. Cuối chiến dịch, tôi là đại đội phó. Nghe tiếng gọi, anh quai lại, ngỡ ngàng:
    -Lân đấy à! Đã lâu lắm bây giờ mới gặp lại nhau. Lâu nay trung đoàn mình bảo vệ bến Giàng. Trung đoàn 227 của Nguyễn Văn Chí ở Bí Hiên, trung đoàn 528 của ông Tùng ?oTrố? ở A Lưới. Còn trung đoàn 594 của cậu Chính, trung đoàn 218 của cậu Toàn, hiện cũng đang di chuyển vào phía trong.
    Anh nắm tay tôi thật chặt:
    -Thôi! Cậu đi mạnh khoẻ! Đừng quên tớ nhé!-Tôi cười:
    -Quên sau được Hà Văn Lực, đại đội trưởng xuất sắc nhất của trung đoàn pháo cao xạ 367 trong chiến dịch Điện Biên năm xưa.
    Một buổi chiều, xe đang chạy ngon trớn, bỗng nhiên cậu Chiến nói to:
    -Sắp hết xăng rồi, thủ trưởng ơi! Còn chạy được vài chục cây số nữa!
    Anh Cảnh nói:
    -Yên tâm! Tớ đã nghĩ đến chuyện đó rồi. Trạm tiếp xăng cũng gần đây thôi.
    Đi được một quãng, xa xa chúng tôi thấy có hai chiến sĩ đang đi tới. Một cô cầm chiếc cờ lê to. Một cô gánh trên vai toòng teng mấy chiếc ống nối, cái hình tròn, cái chữ T. Anh Cảnh bảo xe dừng lại:
    -Quân ?ođường ống? đây rồi! Các cô ơi! Cho chúng tôi hỏi?
    Hai nữ chiến sĩ gọn gàng trong bộ quân phục, đầu đội mũ tai bèo, nhoẻn miệng cười khi nhìn thấy chúng tôi. Cậu Chiến buột miệng:
    -Hai thím giải phóng quân xinh quá!
    Chuyện trò bỗng nở như ngô rang giữa chúng tôi và hai cô gái trẻ. Cuối cùng chúng tôi hỏi đường đi đến trạm xăng. Cô gái cầm chiếc cờ lê đưa tay chỉ:
    -Kìa! Chỗ có mấy chiếc xe Zin đang chờ ?oăn? xăng đấy!
    Chúng tôi vui vẻ chia tay hai cô gái. Tại trạm tiếp nhiên liện, cậu Chiến trình giấy. Xe chúng tôi được nạp xăng đầy thùng, còn thêm mấy can dự trự. Xe lại bon bon trên đường.
    Tôi bỗng nhớ lại một ngày mưa ở gần Cổng Trời đường 12A. Hôm ấy chúng tôi đang nằm nghỉ trưa trong lán, bỗng nghe tiếng gõ ?oKoong! Koong!? Giật mình nhìn ra, thấy một nữ chiến sĩ ?ođường ống? khoác áo nilông, tay cầm cờ-lê, vừa đi vừa cúi mình, gõ gõ vào đoạn đường ống dẫn xăng chạy dài bên cạnh lán chúng tôi. Một chiến sĩ ló đầu ra, gắt:
    -Làm gì mà chẳng cho ai ngủ cả thế!
    Chẳng vừa, cô gái đáp lại:
    -Muộn rồi ông anh ơi! Em đi làm nhiệm vụ kiểm tra đường ống đây mà!-Bắt gặp nụ cười tươi của cô gái, biết cô ta trêu lính pháo, cậu chiến sĩ của tôi cười huề:
    -Bọn anh biết các em bên ?ođường ống? rồi, xin lỗi nhé!
    Mới đó mà đã ba năm. Giờ đây, tôi thật không ngờ khi được biết hàng chục vạn tấn xăng dầu, như những dòng suối nhỏ vô tận, ngày đêm âm thầm len lỏi trong những con đường ống có đường kính 200 ly ấy, đã vượt ngàn trùng sông núi, băng qua những đỉnh núi cao nhất ở đường 12, đường 10, đường 18, chạy dọc theo chiều dài của đông, tây Trường Sơn vươn tới chiến trường, vào mãi tận Bù Gia Mập, miền Đông Nam Bộ. Xe chạy đến đâu, có xăng dầu phục vụ đầy đủ ngay đến đó. Kẻ địch quyết tâm phá, nhưng đã không có cách gì ngăn chặn được nỗ lực của chúng ta. Thật khó tưởng tượng nổi chiến công kỳ diệu của đội quân ?ođường ống? Trường Sơn!

Chia sẻ trang này