1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đường Trường Sơn-Con đường huyền thoại-Những bước chân kỳ diệu

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi hoibihay, 29/05/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đường vào ?oÔng Cụ?, ?oHải Yến?
    Ông Ty đi nhận lệnh ở trên về phổ biến: Đoàn 308 sẽ đi vào ?oông Cụ? rối đi tiếp "Hải Yến". Ông Cụ và Hải Yến là bí danh của hai vùng trong chiến trường Nam Bộ, còn xa lắc xa lơ, chẳng ai hình dung được. Mỗi cán bộ chiến sĩ được phát một tấm thẻ chứng minh, không có con dấu, chỉ có một chữ ký chân phương: Cân. Cầm tấm căn cước Trường Sơn nhiều người thắc mắc Cân là ai, cấp nào? Nhưng chẳng ai trả lời được. Cho đến khi tới điểm tập kết cuối cùng, trong chúng tôi không ai sử dụng đến tấm thẻ này.
    Đường đi càng dốc đứng, khúc khuỷ, khe suối quanh co, gió gào, thác réo. Có chặng đường chẳng ra đường, tay chống gậy, tay bám vào cây mà quăng người qua các hang hốc, rễ cây khổng lỗ, đi hàng tiếng đồng hồ không có thấy một khoảng đất bằng để nghỉ chân. Những cây cầu bắc qua suối là các cây đại thụ đổ vắt ngang, nhiều người đi nên mòn nhẵn như bào, lúc đi qua phải giữ thăng bằng như diễn viên xiếc, chỉ sơ sểnh một chút là lao ngay xuống rừng đá lởm chởm dưới đáy vực. Đường mới lên dốc một lúc đã cắm đầu chùi xuống. Có đoạn toàn đi lên trời, đi nửa ngày chỉ mới được lưng chừng dốc. Có ngày lính ta phải leo qua 36 con dốc, mệt muốn rã người ra từng mảnh. Mỗi chiều, chúng tôi nhận được những thông tin ớn lạnh từ giao liên, người dẫn dắt duy nhất có uy quyền đối với đoàn quân hàng vạn người: ngày mai phải đi tám tiếng giao liên, mười tiếng giao liên, mười hai tiếng giao liên... như thế có nghĩa lã chúng tôi phải đi 10 giờ, 14 giờ, 16 giờ... bởi giao liên họ chỉ có chiếc bồng con và khẩu Carbine nhẹ tênh, một hành trang "hạng ruồi" so với cánh pháo thủ C17. Hoàn toàn giao liên là người miên Trung, Tây Nguyên, miền Nam. Họ đảm trách mỗi ngươi một cung đường, năm tháng đi về đến thuộc làu từng gốc cây, mỏm đá, giống như người đưa đò ngang hết chuyến này đến chuyến khác. Còn lính ta thì làm khách một lần, mỗi ngày có một người dẫn đường mới toanh. Hôm nào giao liên nói phải đi bảy tiếng trở lên, chúng tôi hiểu là tời trạm vào ban đêm sẽ vô cùng vất vả, ai nghe cũng muốn phát sốt. Có thủ trưởng kể rằng con đường này có từ năm 1959, được khai phá khi những đoàn cán bộ đầu tiên từ miễn Bắc vào Nam làm nhiệm vụ đặc biệt. Đến năm 1961, cán bộ Đoàn Phương Đông được Bộ Tổng phái vào thành lập Bộ Chỉ huy Miền. Chỉ huy Đoàn Phương Đông là Thượng tướng Trần Văn Quang bây giờ. Nói chung đi đứng còn rất bí mật. Hồi đó giao liên quãng này toàn người Thượng, một sắc tộc thiểu số cư ngụ trong rừng Trường Sơn. Mỗi đoàn chỉ có một người biết tiếng đồng bào Thượng, làm phiên dịch. Người Thượng tinh tình khảng khái, phần lớn họ rất chí cốt với cách mạng. Đặc biệt họ có tài ?ocắt? đường rừng, không bao giơ bị lạc giữa đại ngàn mênh mông. Vào buổi sáng mỗi ngày, trước khi hành quân, giao liên người Thượng ra dấu ?omặt trời đi". Anh ta đưa tay từ sát đất vạch một đường cong lên đỉnh dầu rồi dừng lại: có nghĩa hôm đó, tới trưa đoàn sẽ đến nơi dừng quân. Còn nếu anh ta đưa tay vạch từ mặt đất vòng cung qua đầu rồi chỉ xuồng đất là hôm đó đoàn phải đi đến tối lặn mặt trời mới tới trạm nghỉ. Trông cái vòng tay anh ta vạch trên không mà lính ta hồi hộp phán đoán ngày đường sắp tới.
    Dọc đường, lác đác có những chiến sĩ mắc võng thành từng nhóm bên hành lang, nơi hai người, nơi ba, bốn người trông ốm yếu. Hỏi ra mới biết đó là linh của Đoàn 307, xuất phát trước Đoàn 308 của tôi từ năm ngoái rớt lại; đôi ba trường hợp là của chính Đoàn 308 đang hành quân. Họ bị sốt rét lâu ngày không còn đủ sức đi theo đơn vị, nằm chờ đơn vị thu dung. Đi rừng sợ nhất là sốt rét, tiếp đến lã đói rồi mới đến sông sâu, vực thẳm. Chúng tôi xác đinh hành quân vượt Trường Sơn là một cuộc chiến đấu phải có tổn thất hy sinh. Những trường hợp tưởng như cá biệt nhưng nó trở thành thông điệp cảnh báo nguy hiểm với mọi người trên con đường dằng dặc vào Nam.
    Tôi vẫn được "đặc ưu" mang chiếc đài bán dẫn ORIONTON (của Hung-ga-ri). Tuy nặng hơn một chút nhưng khi nào cũng được nghe tin tức, ca nhạc. Nhờ nó mà lắm lúc tôi quên cả mệt nhọc khi đi đường. Nhiều người cố đi gần tôi để được nghe nên tôi có lúc cảm thấy cũng hãnh diện. Tới đây, chiếc đài vẫn còn nghe được mặc dù mấy lần tôi ngã oành oạch, đập máy vào đá, vào cây. Nó cũng chịu đựng gian khổ mưa nắng như người. Hàng ngày nghe tin chiến thắng của ta hết nơi này đến nơi khác, ai cũng phấn khởi.
    Ông Hoành, anh Vinh nhanh nhậy dùng ngay những bản tin đó kịp thời động viên đơn vị quyết tâm hành quân tới đích với quân số cao. Tuy vậy một số anh em không hào hững lắm. Đầu óc họ u u minh minh trong ạng thái căng thẳng, mệt mỏi. Ở thời điểm này quân số đơn vị tư trần, đau ốm nằm lại dọc đường đã tới mức báo động. Những bản tin chiến thắng trên đài sôi nổi, dồn dập khiến mọi người quên đi những thực tế hiện tại. Chắc rằng ở miền Bắc những người thân đang theo dõi bước chân đi của chúng tôi một cách lạc quan. Trong không khí chung của cả nước ra trận, ít ai nghĩ mọi chiến thắng đều phải trả giá, thậm chí có khi rất đắt. Vào thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang bước vào thời điểm đỉnh điểm, cả nước cùng đánh Mỹ không cho phép người ta nghĩ nhiều tới chết chóc bi thương. Tất cả cho chiến tuyến, tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược, là mệnh lệnh của trái tim mỗi người Việt Nam lúc này. Vì thế, con đường dù gian lao nguy hiểm đến mấy, chúng tôi cũng phải cố gắng vượt qua, mặc dù tình trạng thất thoát của trung đoàn lúc này đã rất trầm trọng và có nhiều hướng xấu thêm.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Con đường Tây Trường Sơn trườn lên cao độ hàng ngàn mét. Đoàn quân mải miết bước dưới rừng già sũng nước, ít khi có ngày nắng ráo. Cảnh vật mỗi ngày hiện ra một mới lạ. Đang nhọc nhằn trèo qua những đỉnh cao lởm chởm đá tai mèo lại bước ra con đường bằng phẳng kéo dài qua cánh rừng thưa thoảng, cây mọc thẳng tắp, chúng tôi như lạc vào một vùng đất đầy thơ mộng, ánh nắng ngập tràn trên cây lá xanh tươi. Buổi chiều qua con sông toàn những phiến đá cuội khổng lồ như vô số những chú nghé trắng nằm phơi nắng, trưa mai đã tơi rừng lực lưỡng trên triền dốc trắng bạt ngàn những lá khô... Cứ như là cuộc mộng du qua những miền đất lạ. Có người bảo dòng sông có bạt ngàn những tảng đá lớn là sông Đá Bạt.
    Những có nơi con đường mòn nhập vào tuyến đường vận tải chiến lược loang lổ hố bom và vết cháy rủa bom phốt-pho, na-pan... Trông con đường mới thấy hết công sức của những người chiến sĩ công binh Hàng vạn cây gỗ cắt khúc lát trên mặt đường chống lầy lún cho xe chạy. Được bước đi trên những cây gỗ đều đặn thật dễ chịu so với đi trên những đoạn đường đầy gốc cây, đá ong hoặc sình lầy. Những đoạn đường như vậy đem lại cho chúng tôi một chút thay đổi không khí, đẩy lùi cảm giác đại ngàn hoang dã.
    Cành rừng dọc theo trục đường ôtô vận tải, bị vặt trụi lá, cành trơ ra khẳng khiu khô khốc sau nhũng trận mưa chất độc hóa học của giặc Mỹ. Máy bay trinh sát L.19 quần đảo trên đầu kiên nhẫn săn lùng đối phương. Nhiều nơi, không quân Mỹ đã đánh trúng con đường huyết mạch của ta nhưng dấu vết của tội ác và tổn thất chưa để lại nhiều như sau này. Mật độ bom đạn trút xuống đường Trường Sơn thời gian này chưa phải là ác liệt. Những đoàn quân qua đây phần lớn thương vong không phải vì bom đạn địch mà vì đau bệnh, thiếu đói, cơ thể suy kiệt dinh dưỡng, đường sá gian truân.
    Đến gần cuối đất Lào, đội hình Đoàn 308 dãn ra do bị đứt khúc và tốc độ chậm dần. Đoàn quân đã lết lên được đỉnh Trường Sơn.
    Một hôm đơn vị thức dậy hành quân, đúng giờ như thường lệ, nhưng sao không gian mù mịt không thấy lối đi, bốn bê chỉ có tiếng gào rú liên hồi. Một trạng thái thật kỳ lạ. Chúng tôi nói với nhau "đã ra tới biển". Nhưng không ai tin, làm sao đang đi trên núi mà tới biển được, họa chăng là đèo Hải vân. Nhưng đây thì không thể Hải Vân, vì đã bỏ xa Quảng Trị mấy chục ngay đường. Một lúc sau chúng tôi hiểu mình đang đi trong khu vục mây bao la giống như được "hành vân" như trong phim Tôn Ngộ Không vậy. Ai cũng lây lảm thú vị. Nhưng sau vài giờ đi trong cảnh huyên ảo của thiên nhiên, đoàn người bắt đầu đổ dốc, cảnh vật lộ ra trần trụi. Đó là triến núi gỗ ghề sâu hút tưởng như vô tận.
    Trái nghịch với những ngày bám gót nhau lên cao, nhất là qua đinh Hai Ngàn, giờ đây đoàn người như có bàn tay vô hình nào xô đẩy khó lòng dừng lại được. Chiếc gậy phải ấn sâu xuống đường để cản bớt lực hút của trời đất. Chẳng ai hiểu sao, chỉ nhìn nhau cười. Có anh bảo: "Cứ cái đà này chắc là xuống âm cung". Bao giờ thì hết dốc hoặc thay đổi trạng thái hành quân? Câu hỏi rơi vào thung lũng thẳm xanh. Nghỉ xả hơi giữa buổi, mọi người đem cơm nắm ra ăn. Vừa ăn vừa nhìn xuống vực sâu thăm thẳm, ai cũng ngán ngẩm nghĩ đến phút mang ba lô cắm đâu lao xuống như phản lực bổ nhào. Con đường giống cây thang đất, có nơi nhẫy nhụa trơn láng như thoa mỡ chỉ chực quật đổ chúng tôi, có nơi lại hang hố sạt lở như động đất. Đoàn quân như những phiến đá nối nhau lao xuống không ngừng.
    Cầm cự suốt một ngày, Đoàn 308C mới tới chân dốc hạ trại nấu cơm. "Chân sắt vai đồng" như lính pháo chung tôi cũng muốn rủn ra. Khi đã ngôi trên khoảng đất tương đối bằng phẳng nhìn lên mới sung sướng thấy mình đã qua được một chặng hiểm nghèo. Rừng như một bức tường thành xanh đậm đặc choán cả bầu trời.
    Sau này chúng tôi mới biết đổ con dốc khủng khiếp đó, Đoàn 308C đã trở về bên Đông Trường Sơn, đất mình, ở địa phận Nam Trung Bộ. Đây chính là con dốc nổi tiếng Ô Phiên mà bất cứ ai vượt Trường Sơn cũng phải đi qua.
    Thời tiết đã chuyển vào tháng sáu nhưng tôi không cảm nhận được nét gì quen thuộc của đất trời. Dường như Trường Sơn là một thế giới nguyên sơ dung chứa muôn loài, vừa hùng vĩ lại vừa bí hiểm, hoang vu. Đời người hi hữu lắm mới có thể quay đây một lần. Những cảnh vật lạ kỳ trong mơ cũng không có được.
    Vượt qua vô vàn những gian khổ trên đường, chúng tôi đã ngốn được hơn nửa chặng hành quân.
    Các thủ trưởng đơn vị tập họp quân số củng cố lại đội hình xộc xệch mấy tháng nay. Nét mặt các anh đượm vẻ lo lắng ưu tư. Cần phải đưa đơn vị đi tiếp trên chặng đường gian khổ hơn với tất cả nỗ lực của tập thể và cá nhân. Đó là mệnh lệnh trách nhiệm đồng thời cũng là lương tâm của những người cầm quân nắm giữ trong tay một thực lục quí hiếm của chiến trường. Nhưng một thực trạng không thể phủ nhận: sức đoàn quân đã giảm sút rõ rệt, hầu như không còn ai khỏe mạnh, hăng hái. Từ cán bộ đến chiến sĩ nước da chuyển sang màu xanh xám, than chì. Hơn bốn tháng trời hành quân trong điều kiện hết sức gian nan đã làm vơi cạn phần lớn sinh lực trong mỗi người. Những người nằm xuống đã yên một bề. Họ yên nghỉ mãi mãi với Trường Sơn. Những người còn lại phải ráng sức đi cho tới nơi, tới đích. Không khắc phục khó khăn, đau bệnh để đi tiếp, kể như tự kết thúc mình giữa rừng xanh.
    Thủ trưởng Hoành và thủ trưởng Ty kêu gọi mọi người:
    -Sốt rét, không được nằm, phải cố gắng đi lại luyện tập thân thể, mới tiếp tục hành quân được.
    -Hãy ráng ăn vào để cơ thể có sức trụ lại với những cơn sốt rét.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Lúc này trong ban chỉ huy đại đội, chỉ còn ông Hoành là chưa lâm bệnh. Ông Ty rất gương mẫu rèn luyện trước anh em, khi sốt, không nằm, thường xuyên đi lại vận động và tích cực ăn đủ định lượng. Khi nào lên cơn sốt nặng lắm thì ông trùm chăn ngồi run rẩy như ngồi đồng. Nhưng khốn nỗi, học tập được hai thủ trưởng là điều vô cùng khó khăn. Đã bị cơn bệnh sốt rét hành hạ thì người ta thèm nằm vô kể, đi đứng là một cực hình, do lượng máu không đủ cung cấp lên não nên đầu luôn đau buốt, mắt hoa chóng mặt, chân tay bải hoải chỉ chực nằm xuống, mà cơ thể vốn đang thiếu hồng cầu trầm trọng. Uớc chi lúc này không phải làm nhiệm vụ hành quân được nằm ở nhà mình, nằm ngày này qua ngày khác không phải lo nghĩ việc mỗi sáng mang ba lô, súng đạn gạo nước, chống gậy ra đi...
    Còn ăn thì có gì? Mỗi người chỉ được cấp một ông cóng ruốc thịt, trong đó pha trộn thuốc chống sốt rét, tê phù... một kilôgam muối và năm lọ mì chính. Chừng đó chia ra cho suốt đường hành quân. Đến đây số thực phẩm "cốt tử? này đã tiêu thụ hết trên hai phần ba. Có điều lâm bệnh khoảng một tuần mà ngửi thấy mùi ruốc thịt là sợ vô cùng. Một thứ mùi ngai ngái hăng hăng như thuốc bắc bốc lên muốn ói. Người bệnh nuốt miếng cơm với ruốc thịt vào lại nhè ra đầu miệng, không tài nào ăn nổi. Cả mấy tháng ròng chỉ có một thực đơn "phát khiếp? đó, khá hơn thì lâu lâu chịu khó cải thiện được bữa canh rau lá bầu đất hay lá khoai môn rừng nêm muối và bột ngọt, nuốt tới đâu mát tới đó. Bộ đội thiếu chất nghiêm trọng là nguyên nhân của lắm thứ bệnh hiểm nghèo. Lúc này chúng tôi mới thấy sự bất hợp lý trong trang bị cho người linh đi B, hay nói đúng hơn là một sự thiếu khoa học, không sát hợp tình hình thực tê trên đường Trường Sơn. Thay vì cần mang nhiều thúc ăn, chất bồi dưỡng, thuốc men thì lại mang áo đông xuân, quân phục ka ki, võng bố, ni lông tăng dày cộp. Lẽ ra chỉ nên trang bị súng đạn gọn nhẹ đủ tự vệ dọc đường, hoặc trang bị cơ số ít hơn biên chế để lính đảm bảo sức khỏe vượt qua được núi non ghềnh thác, đi nhanh tơi chiến rường làm nhiệm vụ chiến đấu, thì lại biến các đơn vị chính qui thành dân công vận tải vũ khí, trang bị. Kết quả là lính ốm đau, chết và mang bệnh nằm lê thê suốt dọc đường, thu dung hàng năm không hết.
    Số người đến được vị tri tập kết toàn bệnh tật, phải an dưỡng, điều trị, không làm gì được và tiếp tục từ trần... Chắc rằng khi thảo ra kế hoạch hành quân, công tác tổ chức đã không giải hết con toán hóc búa, mà chỉ nghĩ đến chuyện đánh thắng trận đầu. Tinh thần lạc quan cách mạng, tính nỗ lực chủ quan là điếu không thể thiếu đối với đơn vị đi chiến đấu. Song nếu có cái nhìn thấu đáo lường hết những bất trắc trên đường đi, thì hiệu quả hành quân sẽ đạt được tầm mức của nó. Những hao hụt nếu có, không đến nỗi nặng nề nghiêm trọng như thực trạng Đoàn 307, 308. Trông nét mặt lo lắng của các đồng chí trưởng đoàn lúc này, ai cũng thấy là tình hình còn rất khó khăn. Tôi nhớ trước ngày Đoàn 308 xuất phát lên đường vào Nam, thiếu tướng Lê Quang Hòa, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đến tận Kim Bôi động viên và giao nhiệm vụ cho trung đoàn phải đánh thắng trận đầu. Giờ đây nỗ lực trung đoàn có cao bằng trời cũng khó có thể thực hiện được quyết tâm của lãnh đạo.
    Đơn vị nhổ trại "cuốn chiếu" theo dọc sườn phía Đông Trường Sơn. Anh giao liên vẫn lạnh lùng phổ biến tình hình đường đi, mà tôi hiểu nỗi gian truân sẽ trút xuống người chiến sĩ một cách ác liệt hơn. Nhiều anh em chúng tôi sốt ruột hỏi:
    -Đã sắp tới chưa đồng chí?
    Anh giao liên miễn cưỡng trả lời:
    -Có đi có đến, không đi không đến.
    Chúng tôi bực mình nói với nhau:
    -Người ta không buồn trả lời mà hỏi làm gì.
    -Ở đây anh ta là ông tướng.
    -Đi như anh ta thì ai chẳng đi được, thử vác cối xem?
    Từ đó trở đi chúng tôi không hỏi giao liên nữa, chỉ cắm cúi đi. "Có đi có đến, không đi không đến". Tự thân câu nói như "sấm trạng" ấy của giao liên cũng khái quật lên được tinh chất gian khổ, ác liệt của con đường có một không hai này.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ở quãng này toán đoàn bị đói. Do không bố trí được trạm cấp gạo theo qui định dọc hành lang nên tới trạm 58 (số thứ tự do tôi ghi) mỗi người phải mang 15 ngày gạo. Đó lã một cự ly quá xa trong khi sức lực mọi người đã bị tiêu hao. Miếng ăn sẽ hành hạ đôi vai người lính vốn đã chịu đựng quá tải. Song đành phải như thế không còn giải pháp nào khá hơn. Nêu như ngoài B3 (Khu 5) gạo đổ trắng đường rất phí phạm thì tới đây gạo quí hơn vàng. Chúng tôi mỗi người thốn đầy hai ruột tượng mang thử lên người với trang bị cũ, cảm thấy như mình đeo đá, khó lòng đi được. Thế nhưng chẳng ai ở lại. Tâm lý phổ biên lúc này của ta là ăn mau hết gạo cho đỡ nặng, bớt đi một lạng cũng có cảm giác nhẹ đi rất nhiều. Nhưng rốt cuộc thì đâu lại vào đấy. Gạo cán bộ mang được ưu tiên nấu trước, mãi đến những ngày áp chót mới đến lượt chiến sĩ như tôi. Khi rũ túi tượng cũng là lúc vào trạm đóng gạo đầy túi để đi tiếp.
    Ở vài trạm đầu, con mắt to hơn cái bụng nên khẩu phần cơm khá hậu hĩnh, có bữa cơm thừa đổ đi, gạo mắc mưa hơi bị chua liền loại ra. Linh ta ăn thả giàn mát trời mây...
    Sự phóng tay của những ngày đầu lĩnh gạo đã phải trả giá. Gạo trong hầu bao sắp hết mà trạm mới vẫn chưa cấp (với nhiều lý do mà bộ đội bao giờ cũng phải chịu thua) nên đơn vị nào cũng phải nhịn lại đề phòng đứt bữa. Cả ngày hành quân, mỗi người chỉ còn không đầy một cóng cơm. Những ngày sau thì ít dần... linh ăn cầm hơi. Mang nặng lên dốc, xuống đeo mà bao tử nhẹ quá là chuyện cùng cục. Đang sức trẻ, ăn đói, chân đi không vũng, có khi cào cấu xáo trộn trong ruột làm con người sinh lẩn thẩn. Tuy thế, ngày nào C.17 cũng hành quân tới trạm đúng thời gian.
    Đói quá, đi đường lính ta thi nhau kể chuyện ăn cho khuây việc "dạ dày biểu tinh". Anh nào cũng tranh nhau nói về những bữa ăn, món ăn thật ngon lành, độc đáo của quê hương hoặc chính mình đã được thụ hưởng, khiến mọi người nuốt nước bọt ừng ực. Những bữa tiệc mồm đầy sơn hào hải vị nhanh chóng tan đi. Nói cho chán thì cuối cùng ai cũng chỉ ao ước được ăn một bữa cơm gạo trắng với rát muống luộc chấm nước mắm ngon dầm tỏi ớt hoặc được ăn một bữa sắn luộc thỏa thuê. Nhưng ước mơ đơn giản nhất ấy vẫn quá xa vời, ít ra cũng cả ngàn cây số mới có. Tốt hơn hết là cố lên đi cho tới trạm. Chân cứ bước, dạ dày cứ biểu tình, mặc thây đói. Cái đói như đạo tặc tác động trực tiếp đến đoàn quân nhưng mọi người vẫn lại cùng nhau bước tới, vì rằng không ai có thể bước thay mình được.
    Tuy nhiên không ít chuyện tủi buồn sinh ra từ thiếu thốn, đói khát. Hôm đơn vị đói tới mức báo động, tiểu đội tôi là nạn nhân của trò chơi cắc cớ độc chiêu của anh chàng "vô tư" nào đó. Buổi tối anh nuôi Ty đã vắt đủ mười nắm cơm gom lại để nơi đầu võng, vì sợ phát cho tùng người thì chúng tôi ?olẻm" hết ngay trong đêm. Nhưng sáng dậy chuẩn bị lên đường thì ai nấy chưng hửng, toát mồ hôi. Mươi nắm cơm "bốc hơi" đâu sạch. Cả tiểu đội điếng người, dành mang bụng không mà đi. Dọc đường bao tử cồn cào ghê gớm, tôi định xin cơm của một anh bạn thân ở tiểu đội khác nhưng thấy khẩu phần anh ta hẻo quá nên thôi. Có nơi, mấy tay "bợm đói? nẫng cả cơm của thủ trưởng mới hết nói. Chuyện mất cơm xảy ra lai rai nhiều nơi chứ chẳng riêng gì "xê" tôi, âu cũng thường tình. Nó đóng góp thêm một nét hài hước vào kho chuyện cổ tích Trường Sơn. Các thủ trưởng thương lính nên cũng chẳng ai đặt vấn đề truy tìm thủ phạm của những vụ việc ấy cả.
    Những hôm đi qua làng bản của đồng bào dân tộc thiểu số, lính có phần tươi tỉnh hơn. Đông bào ở đây từ bé chí lớn thích đủ mỏi thứ vật dụng bộ đội mang theo, từ cái kim băng, khăn mặt đến chiếc áo sơ mi đen cộc tay dành riêng cho sĩ quan. Các cô gái thích nhất là các thứ kẹp tóc, kim khâu... Thế là những cuộc "trao đổi" diễn ra dọc đường đến lã thú vị. Bà con trong bản mang ra chuối, mít, gà, rượu... mặc cả nhẹ nhàng với khách, đại thể khi nào nói "ưng" là coi như ngã giá. Hình như họ cũng chỉ biết mỗi tiếng đó của người Kinh để giao tiếp với bộ đội qua đây. Hai bên thỏa thuận trao đổi rất đơn giản "một đổi một", lớn nhỏ cũng chỉ là một...
    Có chuyện ngược đời đến tức cười, một chiếc áo sợi đông xuân đổi một con heo to nhưng chiếc áo len giá trì gấp mấy lần chiếc áo đông xuân chỉ đổi được con gà, bởi các bà các cô soi lên trời thấy áo len có nhiều lỗ sáng hơn áo sợi nên cho là xoàng hơn áo sợi.
    Một hôm đại đội đem đồ đổi được một con chó béo quay nhưng ngặt nỗi chẳng có chút gia vị nào để chế biến món đặc sản "cao cấp" này, đành đem thịt kho với muối và mì chính. Vậy mà khi ăn ai cũng ồn ào khen ngon. Tôi không biết ăn thịt chó nên không được thưởng thức món ăn độc nhất vô nhị ấy.
    Đồng bào sống trên đỉnh Trường Sơn ham nhất là muối, nhưng muối cũng là món "ruột" của lính nên không thể xả láng được. Có hôm tôi "bóp bụng" xúc một thìa muối đầy đổi được một chai rượu gạo màu đục như nước gạo. Anh em xúm lại mỗi người ngửa cổ tu một hơi rồi đi, người nghe lâng lâng sảng khoái. Một chút phong trần lãng tử cũng làm cho lòng người thư thái một chút giữa rừng sâu.
    Phong trào đổi chác lan rộng tới mức trên đoàn lệnh xuống phải chấm dứt; tập thê, cá nhân nào vi phạm sẽ bị kỷ luật. Nhưng quân lệnh này không mang tính khả thi vì đội hình trung đoàn quá dàn trải phân tán, khó kiểm soát được, trong khi cán bộ, chiến sĩ đang thiều dinh dưỡng trầm trọng. Do thế đơn vị nào cũng dấm dúi đem quân trang, tư trang đi đổi lấy "chất tươi". Có thủ trưởng còn cho lính đi sâu vào bản tầm được những món hời hơn như lợn, gà, mít, chuối... Hôm dừng chân chuẩn bị vượt một con sông lợn, không hiểu ngoại giao bằng cách nào mà đại đội ?othỉnh" được con lợn to gần trăm ký đem về làm thịt, dồi lòng cẩn thận ông Hoành cho mới cả đơn vị bạn gần đó tới "liên hoan".
    Lâu lắm rồi mới có bữa lòng heo thịnh soạn đến thế, cánh lính trẻ chúng tôi tranh thủ đánh chén thốn căng dạ dày. Chỉ một loãng đã làm sạch đống thịt đầy ụ trên tấm ni lông. Ông Hoành cứ tiếc rẻ là không có chút xị đế.
    Ông Ty, ông Vân, có thì ăn nhưng tuyệt nhiên không khuyến khích hoặc ?omật lệnh cho lính đi đánh lẻ". Anh Vinh thì không quên "lãnh đạo" anh em trong chuyện quan hệ với dân bản: ở rừng cũng phải có kỷ luật chứ không có ?okỷ luật rừng". Được bổ dưỡng chút chất tươi sau những tháng ngày kham khổ, ai cũng thấy mình khỏe hẳn ra.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ngoài ?oăn tươi" ra, lính ta còn được dịp "bồi dưỡng mắt" thoải mái. Chẳng là phụ nữ vùng này chỉ bận váy, còn nửa trên để trần một cách tự nhiên. Phong tục đồng bào dân tộc ở đây là vậy. Con gái bảo rằng đó là của trời cho nên không cần che giấu. Một hôm hành quân qua bản, thấy mấy cô sơn nữ đứng ngoài sân giã gạo, cái thứ "trời cho" ấy lên xuống theo nhịp chày khiến nhiều anh chống nòng pháo xuống đất đứng nhìn, quên cả đi. Tới trạm, thủ trưởg Hoành đem chuyện ra ?oxạc" liền. Anh em chẳng sợ lại còn khúc khích cười với nhau. Có anh bạo miệng nói:
    -Thì nó sờ sờ ra, làm sao không nhìn?
    Lại có cậu hóm hỉnh "bình" thêm:
    -Có mất tiền bạc gì đâu. Của trời cho mà, cơ hội nghìn năm có một, dễ gì được... nhìn.
    Chỉnh đốn cho có lệ thế thôi, chứ thủ trưởng cũng chẳng nỡ nào bắt lỗi mấy anh sốt rét giữa chồn thâm sơn, lại xa phái đẹp những ba bốn tháng nay. Chuyện "rửa mắt" như thế còn lặp lại vài lẫn trên con đường mộng mị xuyên vương quốc Trường Sơn...
    Đi qua bản lâu rồi mà hình ảnh "thiên thần" ấy cứ theo mãi trong những câu chuyện trên trời dưới đất của lính ta.
    Đến quãng cực Nam Trung Bộ thì ông Hoành lên cơn sốt, mặt mày đỏ chín. Ông là người ngã bệnh sau cùng của C.17. Cơn sốt lên, ông cố cầm cự nhưng hai đầu cây mắc võng vẫn rung lên như sắp đổ. Ai cũng khen ông "đến đây vơi mới ngã là quá giỏi". Cũng may là ông có sức đề kháng mạnh, lại mang nhẹ và có ý thức dự trữ đường sữa, chấp hành nghiêm chế độ uống thuốc phòng, không thì đổ đã lâu.
    Ông Ty, ông Vân, anh Vinh sốt từ đoạn cuối Khu 5. Phó chính trị viên Lý Thế Vinh là một tâm gương đáng khâm phục trong rèn luyện sức chịu đựng để chống lại con bệnh sốt rét. Cơn lên, anh trùm chăn ngồi chứ không nằm, dứt cơn là đứng dậy đi lại vận động đến bữa ráng ăn đủ định suất. Dọc đường đang cơn sốt, anh vẫn mang giùm đồ cho anh em ốm nặng. Có hôm tới trạm, đặt ba lô xuống, anh đi ngược lại mấy cây số cõng đồng đội bị bệnh rớt dọc đường. Anh Vinh dáng người to chắc, bệnh khó quật được. Anh hành động không phải để làm gương mà thực lòng lo lắng đến tình trạng giảm sút sức khỏe của đơn vị.
    Ở khẩu đội 1 có cậu Thái người cùng cơ quan với tôi ở Hải Phòng, nhập ngũ cùng một ngày, nhưng cậu ta hơn tôi ở tinh thần phấn đấu nhập cuộc. Năm đầu huấn luyện cối 82, Thái trở thành đối tượng Đảng. Đến ngay đi B, cậu ta càng tỏ rõ vai trò của một đoàn viên ưu tú. Và niềm vinh dự mơ ước trong đời đã đến với Thái. Chi bộ đại đội 17 kết nạp anh vào Đảng ngay trên đường hành quân ở trạm thứ 35. Thái người mảnh khảnh dáng thị thành nhưng thường ra tay tế độ, cõng anh em ốm trong khẩu đội mình. Ở vai trạm, tôi tận mắt thây Thái hì hục trở ngược con đường, hỗ trợ anh yếu, mệt bắt kịp đội hình. Hình ảnh Thái cõng bạn đi trong đêm tối trông thật cảm động. Nhưng giờ đây anh Vinh phải lặn lội đi đón cõng Thái vế. Gần tới trạm, Thái đi không, tay chống gậy, người lép xẹp xiêu đổ, mắt khi nhắm khi mở, gặp tôi anh không buồn chào, chắc là đuối lắm rồi. Từ hôm đó trở đi tôi không còn gặp Thái nữa.
    Các hạ sĩ quan như Mẫn, Yêm, những đảng viên trẻ, các chuẩn ủy Nho, Cậy đều là nhũng tấm gương đáng nể, khi nào cũng gồng mình lên vì chiến sĩ. Các anh như những con ngựa thồ khuân vác hết súng đạn, lương thực của người này đến người khác nhưng vẫn tổ chức chỉ huy tiểu đội, trung đội hành quân mỗi ngày.
    Người cao tuổi nhất trong đơn vị là thủ trưởng Ty, cũng là người mà tôi thương cảm nhất, sốt rét liên miên, người ông nhỏ lại như trẻ con, vậy mà còn phải "đeo" thêm một chiến sĩ như "cái đuôi" sau lưng. Cậu ta là Dư, người cao lêu nghêu, mới bị bệnh quáng gà, cứ tới chập tối là hết thấy đường, chân vấp liên tục vào gốc cây, mô đá, ngã như chộp ếch. Lâu lâu lại nghe tiếng uỵch kèm theo tiếng kêu nhói óc: "Trời ơi, đau quá?". Ai cũng bệnh, lại mang vác nặng nên không đủ súc dìu Dư. Thế là cậu ta chỉ còn cách bám vào ba lô cửa đại đội rường mà đi. Lúc này hai chân ông Ty đã phù to, bấm lõm vào, bước đi nặng trĩu khô khăn, lại có người trĩ kéo sau lưng, cực khổ nào bằng. Nhưng ông vẫn cắm cúi đi đầu hàng quân một cách kiên nhẫn, đưa người chiến sĩ mờ mắt từ trạm này sang trạm khác. Thỉnh thoảng ông bị đổ vật xuống đường bởi Dư bất thần lăn đùng sau lưng kéo ông ngã xuống theo. Tôi nghĩ ông Ty "chịu trận" với người chiến sĩ không phải bằng sức lực mà bằng lòng nhân ái của một người anh cả đơn vị. Và chắc cả đại đội, tiểu đoàn, thậm chí trung đoàn chỉ có ông mới làm được việc đó.
    Đại đội phó Vân vẫn âm thầm làm cái công việc bao chót đội hình, khổ sở trăm bề với anh em rơi rớt thu dung dọc đường.
  6. Vo_Quoc_Tuan

    Vo_Quoc_Tuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/03/2002
    Bài viết:
    2.374
    Đã được thích:
    11
    Nhân chuyện "bồi dưỡn mắt", em xin kể một đoạn về chiến sĩ ta ở Trường Sơn. Một cán bộ nhìn thấy một cô gái người dân tộc cứ đứng tần ngần bên bếp ăn bộ đội, mặt ra vẻ bực tức, miệng lẩm bẩm gì đó. Ông thấy lạ liền tiến lại gần, thì nghe được tiếng cô gái: Đã nói một cái là một cái thế mà một cái lại 2 cái! Ông thấy lạ liền tiến lại hỏi. Cô gái mặt đỏ tía tai không nói gì, gặng mãi, cô gái mới lí nhí kể: Có một anh bộ đội gạ cô cho anh bóp vns một cái, anh sẽ đổi một cái kim băng. Cô gái đồng ý, thế mà chàng ta lại tiện tay ...làm luôn hai cái. Cô gái cứ đòi anh bộ đội phải trả cô 2 cái kim băng cô mới chịu, nên vẫn đứng cằn nhằn. Hỏi thế nào cô gái cũng không chịu chỉ cái anh láu cá đó. Nhìn quanh, thấy có một anh cứ lấm lét nhìn ra phía mình, ông liền tóm ngay chú đó lại thì đúng thật. Chú này gãi đầu gãi tai thú thực rằng mình hết kim băng rồi, nếu không cũng sẽ "trả" đầy đủ. (Thế mà không vào tay ta, cái gì chứ kim băng ta có cả đống - vqt). Sau khi được người có tội xin lỗi, cô gái không còn giận nữa, còn anh bộ đội bị một bài về vi phạm điều lệnh quân đội.
    Em kể vốn không hay, các bác muốn biết chi tiết hơn, hãy tìm đọc một cuốn sách cực hay và xúc động về Chiến trường B3: "Tây nguyên ngày ấy" của bác sĩ, chiến sĩ Lê Cao Đài. NXBCAND.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Riêng tôi lúc này phong độ cũng đã sa sút. Tuy vẫn cố bình thản tươi tỉnh mỗi khi có người nhìn, nhưng liền sau đó trở lại héo rũ vì nhức đầu tay chống gậy bước đi trậm trà trậm trật. Tôi bị con bệnh "bắt giò" từ quãng Kon Tum, thế cũng là muộn lắm so với anh em pháo thủ. Hôm đầu lên cơn sốt, giời nóng phừng phừng và khát nước tưởng chừng uống cạn cả khe suối Trường Sơn. Đang đi, gặp ai tôi cũng xin nước uống, vớ được bi đông của bạn là dốc ngược tu cho bẵng hết. Có anh phải giằng bi đông ra khỏi miệng tôi. Không đã, tôi nhận bi đông xuống suối bỏ thuốc lọc nước vào lắc lắc, tiếp tục uống, bụng no tròn mà văn khát một cách kỳ lạ. Vài ngày sau, tôi đi trong trạng thái chếnh choáng, đầu nhức ong ong, da nóng hâm hấp, chân tay uể oải, cái màu da đỏ phừng phừng ngày đầu chuyển sang màu xám. Hàng vạn hồng cầu bị tiêu diệt. Lúc này tôi mới nhận ra: À sốt rết là như thế, lâu nay chỉ nghe vậy thôi chưa biết đích thực nó ra sao. Vậy là đã tới lượt mình. Tôi vừa lo lắng vừa cảm thấy uể oải khác thường.
    Ký sinh trùng đã bắt đầu hoành hanh trong cơ thể nên khí sắc giảm nhanh trông thấy. Đi đường, tôi chỉ mong được giải lao. Áng chừng đi được gần một giờ thi nhóng cổ về phía ước xem đã láo nháo nghỉ chưa. Nghe có lệnh nghỉ mười phút, tôi để nguyên ba lô và súng trên vài, kiếm chỗ nằm ạch xuống. Khi nghe hô đi, lại nắm vào thân cây trước mặt co mình đứng dậy, vớ cây gậy dựng kế đó, bước đi. Phần đông anh em đều sử dụng động tác đó một cách thành thạo.
    Bệnh tình trong tôi tăng lên từ hôm đơn vị vượt qua một con sông rộng, hai bờ trống trải. Hình như đây là một nhánh của sông Mêkông, con sông nổi tiếng xuyên suốt ba nước Đông Dương. Đây cũng là mục tiêu đánh phá của máy bay địch, bởi chúng biết rất rõ các đơn vị vào Nam đều phải qua con sông này. Trên trời lâu lâu lại xuất hiện con "đầm già" L19 trinh sát, sẵn sàng chỉ điểm cho phản lực đánh bom khi phát hiện được đối phương. Tôi vốn bơi kém nên rất sợ sông nước, người lại đang sốt cao khoảng 39 đến 40 độ nên định đánh liều ở lại bên này sông rồi sau tùy cơ ứng biến. Hầu hết anh em trong đơn vị gói đồ đạc vào ni lông bơi qua một chuyến là xong. Trông họ bơi như rái mà tôi phát nản, chỉ sợ khi ra giữa dòng chảy sễ bị cuốn trôi về hạ lưu thì đi tong.
    Tôi không đủ can đảm bơi qua một lúc cúng đông đội. Nấn ná mãi trong một tâm trạng lo âu hồi hộp, cuối cùng vận may cũng đến. Mấy tay cùng hội "thợ lặn? như tôi từ đâu đến rủ nhau chặt cây bứt dây kết bè để qua sông. Sau một giờ kỳ cạch kết được một chiếc bè nứa thô thiển, bọn tôi đẩy xuống nước rồi hè nhau vượt sông. Được thể tôi quẳng hết ba lô, quần áo lên bè, ùm ùm lội xuống bám vào bẽ bơi theo. Người đang nóng như lửa gặp nước muôn sôi lên. Chiếc bè vừa cập bến thì máy bay địch xuất hiện đảo vòng trên dòng sông. Hú hồn! Gía như còn lềnh bềnh trên sông thì chắc chắn là mồi ngon cho chúng xơi tôi. Tôi lên bờ mặc quần áo rồi đi tiếp kịp nhập vào đội hình của đoàn. Lúc này, tôi cảm thấy mình trở nên chậm chạp, mất thăng bằng ghê gớm, đầu óc quay cuồng. Khi đi trên một thân cây nhỏ bắc qua dòng suối tôi suýt lao cả người xuống những vỉa đá gồ ghề dưới đáy sâu. Tới trạm dừng quân, tôi ráng sức mắc xong chiếc võng rồi nằm vật xuống mê sảng. Anh nuôi Ty nấu cháo, cho ruốc thịt vào, đem đến vực tôi dậy năn nỉ tôi ăn, nhưng miệng đắng nghét không tài nào nuốt nổi. Ngọc Nam trong C bộ cũng đến động viên tôi cố ăn vài miếng lấy sức sáng mai đi. Anh em tốt quá nhưng tôi không thể làm theo lời khuyên chí cốt của đồng đội. Tôi trùm tấm vỏ chăn nằm rũ, miệng nói lảm nhảm vô hôi. Có những phút tỉnh táo nghĩ tới người thân, bạn bẽ, nhớ tơi quê hương xứ Nghệ của tôi, nhớ tới những ngày khỏe mạnh hành quân qua các làng quê trên đất Bắc, những đêm trăng ca hát, kể chuyện huyên thuyên, những đồi sim chiều trung du tím ngắt, những khung cảnh lạ kỳ lần đầu bắt gặp... bất giấc một niềm sợ hãi xâm chiếm vào lòng tôi. Lẽ nào tôi không đi tới đích mà phải nằm lại dưới ba tấc đất của Trường Sơn. Nhưng rồi sự sống trỗi dậy trong tôi. Sau một đêm mê thiếp trong sự tàn phá của cơn sốt, tôi lại ráng đứng dậy mang ba lô, vác súng, chống gậy bước theo đơn vị. Nhũng ngày sau, tôi vừa đi vừa rên rỉ suốt dọc đường, trong đầu ong ong trống rong, thấu buột Thủ trưởng Ty quay lại cằn nhằn:
    - Sốt nặng sao không nằm lại trạm mà cứ đi theo...
    Tôi nín lặng, nhưng chỉ được chốc lát tiếng rên lại bật lên không thể nào kìm được. Thủ trưởng Ty rầy tôi là phải nhưng tôi không thể nằm lại trạm thu dung, nơi thu nạp những con bệnh kiệt quệ từ khắp các đơn vị dồn về, trong đó có nhiều người sắp trở về cất bụi. Có chết tôi cũng đi theo đơn vị. Sau đó, những ngày sốt li bì phải nằm lại trạm buồn vắng, bơ vơ, không anh nuôi, không có y tá chăm sóc, phải chứng kiến cảnh đồng đội đau ốm qua đời, tôi nhão cả người. Có lẽ trên đường dây không nơi nào bệ rạo, buồn chán như trạm thu dung. Cái bệnh thi nhau hành hạ người linh đến phờ phạc và quật đổ họ bất cứ lúc nào. Hôm cắt cơn, tỉnh dậy đuổi theo đơn vị mới thây hết cảnh cô đơn hãi hùng. Con đường mòn vắng tanh, thăm thẳm như dẫn về một nơi nào đó vô tận. Lâu lâu mới gặp một người cũng rơi rớt như tôi Không có ai dẫn đường, chỉ có những chà cây rấp làm dấu cho người đi sau. Nếu gặp ngã ba, chà cây rấp bên trái và trước mặt là rẽ phải, gặp ngã tư chà cây rấp hai bên là đi thẳng. Có nhiều ngã rẽ rắc rối chẳng biết đi lối nào nên đi lạc lòng vòng hết mấy giờ phát khóc. Nhưng như thế còn may. Ông Tự, một cán bộ có tuổi đi sau tôi bị kẻ nào chơi ác lây chà cây bên này rấp sang bên kia khiến ông đi lạc bảy ngày tới tận xừ nào. Ông bảo, lúc đó một mình giữa rừng sâu hoang vắng ông cực kỳ hoang mang, không còn định được phương phường. Ông hoảng quá đánh liều chất củi đốt lửa lên cho máy bay địch tới đánh bom để may ra có người tới cứu. Nhưng khốn thay, máy bay hết chiếc này đến chiếc khác bay qua đều ?otỉnh bơ" chẳng chiếc nào chịu đánh bom cả. Mấy ngày trời giữa rừng rú mênh mông không có một bóng người, ông Tự buộc phải lộn ngược trở lại ở đường cũ ngót cả tuần mới tìm được trục đường chính hành quân nhập với những người rơi rụng, tìm về đoàn bộ.
    Nhờ cố gắng ăn uống, tập đi lại, thể trạng có phần hồi phục, nên tôi tiếp tục hành quân đuổi theo đơn vị.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Một buổi sáng, tôi rời trạm thu dung, Ngọc "thông tin" ốm lết võng cũng mang ba lô, chống gậy đi theo. Nhưng mới rời trạm vài trăm mét, tơi chân dốc đầu tiên Ngọc liền ngã quy. Tôi biết cậu ta sợ phải nằm một mình đơn độc trong trạm nên cố đi theo chứ làm sao kham nổi chuyện hành quân đường rừng leo núi trong tình trạng sức khỏe xấu như thế. Suốt ngày hôm trước, Ngọc chẳng ăn uống gì, chỉ năm trên vong trùm tấm vỏ chăn, gân cốt nhũn nhão nên hôm sau "kềnh" ngay từ những phút đầu là điều không tránh khỏi.
    Đến lượt cậu Quảng người cao to, pháo thủ số 3, rời khỏi trạm vẫn vác bàn đế cối 82 nhưng lên tới đỉnh dốc thì ngã vật ra bất tỉnh nhân sự chiếc bàn đế giáng nạnh xuống đất một cái rầm. Mọi người xúm lại làm động tác cấp cứu hồi sức cậu ta, nhưng chẳng ăn thua gì. Chúng tôi đều là những con bệnh đang bị rơi rớt nên dường như bất lực trước cơn choáng nặng của cậu pháo thủ hộ pháp. Ngọc và Quang khi tỉnh dậy đành phải trở lại nơi mình xuất phát sáng nay để chờ thu dung hoặc tự đi tiếp. Sau này tôi được biết Ngọc không qua khỏi dòng sông Sê-rê-pốc. Anh vĩnh viễn nằm lại dưới chân đồi, còn Quang vào được chiến trường miền Đông nhưng cũng đã hy sinh trong chiến dịch phản công đánh bại cuộc hãnh quân Gianxơn Xity của quân Mỹ đầu năm 1967.
    Tôi và mấy người bạn ốm yếu cùng nhau theo con đường mòn hun hút đi tới một bờ sông gặp ngay cảnh tượng ngán ngẩm: kẻ dừng người ngồi, nằm ngổn ngang. Chắc C.17 đã vượt qua sông từ lâu không hy vọng đuổi kịp. Chúng tôi lấy võng mắc ngả lưng chờ đến lượt mình qua đò. Bao nhiêu người qua sông mà chỉ có mỗi chiếc đò chở được mươi mạng một chuyến thi làm sao chóng vánh được. Con sông không chảy xiết nhưng nước xanh lẻo trông rờn rợn. Mãi về sau tôi mới biết đó là sông Sê-rê-pốc nằm cuối cao nguyên. Những người khách qua đò đều là dân "rơi rụng" của nhiều đơn vị họp lại, tìm đỏ mắt không có lấy một người quen.
    Trong những câu chuyện hỗn độn của đám khách, tôi được biết Tuấn, anh bạn yêu văn thơ của tôi đã chết trên một đỉnh đồi phía sau. Cậu ấy sốt rét đã lâu, cơ thể suy kiệt, lại đi một mình nên không qua nổi cơn dốc bậc thang mà người khỏe mạnh cũng thấy chờn mình. Người ta kể rằng cậu ấy nằm gối đầu trên ba lô, mắt mở trừng trừng nhìn lên đỉnh rừng, tay còn cầm chiếc bi đông rỗng không còn một giọt nước. Thế là anh chàng có tâm hồn lãng mạn dạo trước cùng tôi đứng bùi ngùi trước một người trai trẻ sắp qua đời, hôm nay đã yên nghỉ trên đỉnh Trường Sơn.
    Đến lượt chúng tôi qua sông. Ai nấy mừng rỡ lục tục bước xuống bến thì đụng phải chuyện kỳ cục. Những anh giao liên người dân tộc thiểu số, da nâu bóng, lừ lừ nhìn chúng tôi. Rồi không hiểu sao, từng anh thẳng tay tước gậy của bộ đội, lạnh lùng vứt xuống sông rồi mới cho xuống đò. Tôi giở trò ma lanh cố giầu chiếc gậy dưới khẩu súng trường cũng bị một anh rút phắt liệng ra xa chiếc thuyền. Tôi nhìn theo chiếc gậy của mình trôi dập dềnh trên mặt nước, lòng dậy lên niềm tiếc nuối như phải rời xa một người bạn. Mây tháng nay đi Trường Sơn, nhờ nó mà tôi mới đến đây. Vậy mà...
    Sau này tôi mới rõ đây là một quy định do chính những người giao liên đặt ra ẩn chứa điều mê tín gì đó. Ngoài ra chẳng có chuyện gì quan trọng cả. Không lẽ một cây gậy nặng chỉ vài ba trăm gam mà làm tăng trọng lượng đến mức chìm thuyền. Nhưng có ai dám cưỡng lại? Qua sông thì phải lụy đò, câu các cụ dạy chẳng sai?
    Không có gậy, người bạn đồng hành chí cốt đã bao ngày, chủng tôi đi đứng trở nên chập chững khó khăn như trẻ nhỏ tập đi. Bọn tôi thầm rủa mấy ?oông trời con" đưa đò sao độc ác quá vậy nhưng nghĩ lại thấy thương và cảm phục họ. Cũng như nhiều con sông tôi đã qua, những người lái đò trên dòng Sê-rê-pốc này quanh năm suốt tháng phải dãi dầu mưa nắng, cực nhọc đưa hàng ngàn hàng vạn bộ đội, cán bộ dân chính qua sông. Họ cũng chịu đựng gian khổ không kém gì những người lính chúng tôi. Tôi còn nhớ mãi những chiếc ghế đóng liền vào thân cây nằm im lặng dọc con đường rừng. Đó là những cái giá để các thùng đạn cao quá đầu mỗi khi nghỉ mệt của các cô gái Bana tháng ngày tải đạn ra tiền tuyển. Gùi đạn của các cô gồm năm, sáu thùng đạn AK kẹp lại, sức vóc như thanh niên chúng tôi không quen, chưa chắc nhắc nổi. Vậy mà các cô gùi lên vai bước đi thoăn thoắt. Bóng dáng những cô gái khiến con đường gập ghềnh gian khổ như dịu bớt phần nào.
    Từ bờ sông bên này, qua khỏi một bãi cát, lại tới một dòng sông trải dài dưới bầu trời bao la. Nhưng lần này thì mọi người tuy nghi thoải mái lội qua. Nước chỉ dập dềnh ngang ngực mát mẻ dễ chịu, bù đắp lại sự căng thẳng khi qua con sông trước đó.
    Từ đây đường sá bằng phẳng, thấp dần. Tôi ngạc nhiên hỏi người đi đường mới hay là mình đã đặt chân sang nước bạn Cam-pu chia, xứ sở của Biển Hồ, của Ăng Ko trong những trang sách tôi đã học. Những rừng le, rừng dầu ngập nắng mênh mông, đi suốt ngày không hết. Dường như đây là vùng "đất thánh", không máy bay, biệt kích, bom đạn... Chúng tôi bình tĩnh đi trên con đường mòn nổi cát vươn dài bất tận...
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Y tá bất đắc dĩ
    Tại một trạm rừng le từng khóm thấp tè, tôi bắt kịp đơn vị. Thầy thủ trưởng và anh em tôi mừng chảy nước mắt. Mọi người quây quần hỏi thăm tôi những ngày ?olưu lạc dặm đường". Trong khi ông Vân báo cáo tinh hình thu dung lính dọc đường thì thủ trưởng Hoạnh ?ochiêu đãi" tôi một bát sữa bột, uống tới đâu tỉnh người tới đó. Có dễ ba tháng rối mới có tý chất ngọt và dạ dày, người bỗng nhiên như khỏe ra. Lúc này cơn bệnh trong tôi thuyên giảm, đầu óc nhẹ nhõm hơn trước. Tôi được thủ truởng giao một đặc trách giải quyết các bệnh nhân của đại đội. Chức vụ này có nguyên nhân của nó. Đúng ra chăm sóc bệnh nhân là nhiệm vụ của y tá Phiêu. Nhưng Phiêu đã "phiêu bạt", tụt hậu, từ lâu không đi chung với đơn vị. Anh ta vắng bông bao giờ cũng ít ai để ý, vì thế người nào ốm đau phải tự chăm sóc lấy mình và nhờ đồng đội bên cạnh giúp đỡ. Phiêu là hạ sĩ nhưng đã lớn tuổi, có vợ con, tính hay cau có. Nhất là khi anh em sức khỏe có vấn đề, cần đến anh ta. Anh em kêu ca anh ta từ hồi đơn vị còn huấn luyện ngoài Bắc. Từ ngày lên đường hãnh quân đi B, Phiêu luôn "rên" phải mang thuốc cho đại đội nặng nhọc, chẳng ai san sẻ cho một cân. Vào đến Trường Sơn, Phiêu có sáng kiến chia ba lô, thuốc men thành hai bọc, chặt cây làm đòn quảy ba lô, túi thuốc trông như như người đi buôn. Thấy lạ ai cũng cười nhưng Phiêu nói khỏe bằng mấy mang, "đi cả đời" được.
    Đội ngũ thầy thuốc trong đoàn nói chung hết lòng phục vụ đồng đội và cố gắng lãm theo lời Bác dạy "lương y như tư mẫu". Các bác sĩ y sĩ y tá đều tận tâm tận lực cứu sống người bệnh từ trong tay tử thần nhưng cũng có anh sinh chứng, lẩn như chạch với bệnh nhân. Có người bảo răng họ thấy mấy anh quân y nấu chè bằng Polivitamin. Chúng tôi nghe, ai cũng lắc đầu, hết bàn luận. Cả một đại đội quân y mang thuốc đi theo phục vụ trung đoàn, ngoài ra ra một phần thuốc men nằm trong đơn vị vận tải, vậy mà có một thời gian không ai nghe tới. Chắc đội ngũ thầy thuốc cũng bị sốt rét vật ngã làm mất sức chiến đấu và bị tản mát dọc đường.
    Tôi không rành nghiệp vụ quân y nhưng đành chấp hành khi thủ trưởng giao cho cái chức bất đắc dĩ, mà thực ra lúc này chỉ huy cũng không biết giao cho ai vì mấy anh trong C bộ cũng đã ốm yếu không kham nổi. Cũng nhờ thế nên tôi biết thêm nhiều tên thuốc và một số danh từ y học. Nhưng dù sao thì đã "ách ngoài đàng mang vào cổ", phải rước lấy bao nhiêu chuyện phiền toái. Tôi không sao quên cái hôm đơn vị đến gần bên một dòng sông nước vàng như gạch cua. Đại đội qua hết, chỉ để lại bốn người: hai chiến sĩ, tôi và một bệnh nhân là Đẩu. Lý do, tôi và hai người kia có nhiệm vụ chăm sóc Đẩu, một pháo thủ ốm nặng không thể đi theo đơn vị được. Sau đó bằng mọi cách đuổi theo đại đội. Tôi nản hết sức vì như thể là phải xa đơn vị một lần nữa. Nhưng nhiệm vụ của ba chúng tôi không quá nặng nề như tôi tưởng, chỉ chăm sóc và hộ tống người bệnh đi đường. Ông Hoành là người nhìn thấy vẫn đề trước hết. Lúc chiều hành quân, hai bàn chân của Đẩu đi trật ra ngoài dép mà anh không biết gì. Đó là triệu chứng của người sốt biến chứng sang hôn mê, sẽ quỵ không bao lâu nữa. Bọn tôi mỗi người một tay dọn chỗ mắc võng cho Đẩu nằm. Anh đặt mình xuống và từ đó nằm im thiêm thiếp phó mặc thân cho trời đất. Con bệnh đã đến mức này kể như chẳng còn hy vọng gì.
    Chiều xuống. Không gian chìm trong hoang tịch quạnh hiu. Sau khi ổn định xong tăng võng, chúng tôi treo ống cóng nấu cơm ăn tối và nấu cháo cho người bệnh. Nhưng Đẩu nào có dậy nữa. Chức trách tôi là y tá nên phải canh chừng bệnh nhân. Đẩu chỉ còn thở khò khè, mắt nhắm nghiền, miệng ngậm chặt, không thể cạy ra để đổ cháo. Ba anh em hoàn toàn bất lực, bàn với nhau cố gắng chờ Đẩu từ trần, an táng xong rồi đi. Thiên Tào đã gạch tên anh trong sổ. Tội nghiệp anh đã có vợ con! Nhìn Đẩu suy kiệt dần, lòng dạ chúng tôi cồn cào se thắt thương anh. Mỗi ngày nấu cơm ăn xong, hết nằm, lâu lâu lại vào xem Đẩu thế nào. Anh vẫn thở thoi thóp. Chúng tôi sốt ruột vô cũng vì đơn vị ngày một đi xa, làm sao đuổi kịp! Đến ngày thứ tư, Đẩu mới ngừng thở. Ba chúng tôi lãm mọi thủ tục chôn cất anh chu đáo rồi vội vã vượt sông ruổi theo đơn vị.
    Chuyện như vậy cũng chưa ?ođoạn trường" bằng hôm đưa cậu Thuấn vào gửi trạm giao liên. Thuấn con nhà nông dân chất phác, nhưng bình thường đã yếu hơn mấy cậu xuất thân là học sinh. Thuấn bị sốt đã chuyển sang thời kỳ ác tính, súng đạn bỏ lại hết, chỉ mang chiếc ba lô mà đi không nổi. Thủ trưởng Ty bảo tôi đưa anh ta vào trạm giao liên gửi lại. Tôi nghe mà phát hoảng nhưng liền nhớ ra mình là ?oy tá" đại đội nên nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh. Đường vào trạm xa hàng tiếng đông hồ, nhưng chưa biết đích xác ở đâu; trời sắp tối, lại phải lần đường mà đi chứ không có ai hướng dẫn. Bộ đội chúng tôi dạo đó có ác cảm với các trạm giao liên cũng có nguyên do của nó. Hầu hết các trạm giao liên trên đương dây đều bố trì rất xa bãi khách. Mỗi ngày dẫn quân tới nơi là giao liên biến mất. Thủ trưởng đoàn muốn bàn bạc trao đổi việc gì phải đi rạc chân mấy giờ mới tới ban chỉ huy trạm. Tôi dẫn Thuấn vào trạm trong trạng thái hoang mang căng thẳng bởi người bệnh đi bên tôi không còn là con người bình thường. Thuấn không nói, không cười, không đòi hỏi, không trả lời. Có nghĩa là anh hoãn toàn vô cảm với xung quanh. Thuấn khát nước nhưng không sao đưa được bi đông vào miệng mình. Chiếc bi đông cứ trôi bên này qua bên kia, làm nước đổ tràn lan trên ngươi. Anh không đi giữa đưỡng mà liên tục lao vào bờ bụi. Tôi cố gắng dìu Thuấn đi cho nhanh vì trời sắp tối, nhưng anh kéo thốc tôi vào gốc cây, tổ mối... khiên tôi có lúc muốn phát điên lên.
    Cứ như thế, tôi đánh vật với Thuấn suốt đường cho đến khi trời xẩm tối cả hai mới lần tới trạm giao liên. Tôi thở phào nhẹ nhõm, tính chuyện giao xong bệnh nhân cho trạm quay về đơn vị ngay.
    Tôi lấy giấy bút ghi tên tuổi, đơn vị... bàn giao người bệnh cho trạm, nhưng liền chưng hửng. Trạm trưởng không muốn nhận với lý do ngoài y tá phải có cán bộ của đơn vị đi theo bàn giao. Đầu óc tôi tối sầm. Làm sao tôi có thể đưa Thuần trở lại đơn vị? Hộ tống anh-đến đây là cả một kỳ công. Tôi quan sát thấy nhà cửa của trạm khá tươm tất nằm bên dòng suối, "tiện nghi" sinh hoạt, thức ăn đầy đủ. Trong nhà toàn mắc võng ni lông, dây dù, tầm đắp dù hoa (thứ dù nhảy của Mỹ). Thì ra nơi thâm sơn cùng cốc này người ta vẫn tạo ra được cuộc sống đàng hoàng xem chừng còn hơn cả những miền quê nghèo đói. Những chuyện quan liêu, cửa quyền ở đây lại gieo vào tôi một niềm phản cảm khó quên
    Tinh hình coi bộ không sáng sủa gì, khó cho họ động lòng trắc ẩn chắc là mình lãnh đủ thôi. Suy tính một lúc, tôi lấy võng trong ba lô của Thuấn mắc vào hai thân cây nhỏ bên cạnh nha bép, dìu Thuần nằm xuống rồi nhét mảnh giấy (biên bản bàn giao) vào túi của anh. Tôi hãnh động như vậy thay cho những lời năn nỉ với cán bộ trạm vì trách nhiệm của tôi tới đây coi như hoàn thành. Tôi không còn làm gì hơn để giúp Thuần. Khi quay lui, nhìn Thuấn, lòng tôi se lại.
    Trời tối, không đèn đóm, tôi dò dẫm hàng giờ mới lần về đúng nơi đóng quân ban chiều. Chỉ khi nghe tiếng động quen thuộc và thấy ánh lửa le lói, tôi mới hay mình đã về được đơn vị, mừng không tả hết. Rất may là đường vào trạm độc đạo không thì tôi có thể đã đi lạc, đang ***g lộn tuyệt vọng trong rừng cũng nên. Hai hôm sau, giao liên báo tin cho đơn vị là Thuấn đã qua đời trong trạm, đúng như tôi ngầm dự đoán.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Gian nan cuối đường
    Quãng đường bằng phẳng ưu đãi chúng tôi không lâu. Con rồng lính khổng lồ lại vắt mình qua đất Việt Nam. Đây là địa phận của Nam Bộ. Mặc dù mới đặt chân tới lần đầu nhưng cảnh vật nơi đây gợi một cảm giác gần gũi thân thương. Những rừng cây thấp hơn ngự trị trên nền đất đỏ au. Những dòng suối trong xanh len lỏi bên những thân cây đại thụ hàng trăm tuổi. Những cành bứa đâm ngang đeo đầy trái chín rộ vàng... Cảnh sắc thiên nhiên như đưa con người vào chốn mộng du nhưng lại kèm theo những điều khắc nghiệt. Đến đây thì ai cũng phải "đổ máu" không phải vì chiến đấu với kẻ thù mà vì một loài sinh vật có cái tên lạ lùng là "vắt". Lần đầu lính trẻ chúng tôi mới biết chúng. Con vật chỉ lớn hơn cây tăm, dãi độ vài phân nằm đầy trên đất, trên lá lục ẩm ướt. Lúc nào chúng cũng dựng lên ngo ngoe về mọi phía chực bắt mồi. Người đi qua dù nhanh cách mấy chúng cũng bắt kịp chân và bám riết lấy hút máu một cách êm thấm, đến nỗi không cảm thấy gl cả. Một lúc thì ai nấy chân nhoè nhoẹt máu lẫn với bùn đất. Vắt cắn phủi không kịp, nhiều con no nốc đầy máu tự rời ra. Vết cắn còn lại, cứ thế máu chảy thịnh dòng. Chúng tôi vốn đã bị sốt rét mất máu xanh xao càng tiếc cho mình từng giọt máu quí giá cướp đi vô cớ. Nhiều anh có sáng kiến lấy giày tròng vào chân tưởng rằng sẽ chống lại được lũ vắt cắn quài ác, nào ngờ khi cởi giày ra, hàng lô vắt hút máu no nên, máu túa ra nhầy nhụa, trông đến kinh người.
    Ông Hoành căm ghét lũ sinh vật này lắm. Đang đi hễ thấy vắt là ông dừng lại dùng gậy ấn nó dí xuống mặt dường, rồi mới bước tiếp ông làm như thế suốt quãng đường có vắt khiến bọn tôi phải sốt ruột lên tiếng:
    - Nó hằng hà sa số thế này, làm sao giết nó hết được, thủ trưởng!
    Ông Hoành vừa ấn đâu gậy xuống con vắt vừa nói:
    - Nó cũng là kẻ thù, các cậu muốn để nó sống hả?
    Đi nhiều ngày đoàn quân mới thoát khỏi "quãng đường máu" khủng khiếp mà mỗi khi nhớ lại ai cũng rùng mình.
    Cùng với nạn vắt cắn, mọi người phải đương đầu với giặc muỗi. Muỗi ở đây quả là khiếp đảm hơn bất cứ nơi nào. Chúng thèm máu người từ kiếp nào mà vớ được chúng tôi là xông vào đốt. Lúc đi thì chẳng sao, nhưng dừng nghỉ là chúng bâu lại tranh nhau tiêm chích hút máu. Tiếng o o nổi lên như hòa tấu. Vì thế đôi tay của lính ta phải làm việc liên tục. Những con muỗi bị đập chết to như con ruồi, bụng dài có nhiều đốt. Chúng giống như lũ thiêu thân không ngán sợ tránh né gì. Cậu Điển đập muỗi chết không kịp, tự phong cho mình là "dũng sĩ diệt muỗi? làm ai cũng phì cười. Tôi tự hỏi, phải chăng lũ muỗi khủng khiếp này là một trong nhưng nguyên nhân gây nên cái chết của bao đồng đội suốt mấy tháng nay. Chúng mang vi trùng sốt rét của người này cấy sang cơ thể người khác, nên bệnh lan truyền nhanh như nạn dịch. Muỗi Trường Sơn không giống muỗi xứ nào, chúng cắn đau như chó cắn và rất nguy hiểm cho tính mạng con người.
    Tuy thế, hai thứ côn trùng vừa kể trên vẫn không kinh hãi bằng con bọ mắt. Cái đêm đoàn qua sông Đa quít, con sông cuối cùng của cuộc hành trình vạn dặm, lại làm tôi nhớ nhất. Đây là con sông duy nhất mà bộ đội phải chống đỡ ác liệt với loại côn trung vô cùng quái ác. Tôi đã đi nhiều nơi, nhưng chưa thấy đâu xuất hiện thứ bọ mắt rợp trời này. Gặp người là chúng đốt không kịp vuốt mặt. Trên cơ thể hở da thịt nơi nào là chúng đáp vào hút máu. Cả một vùng không gian như dày đặc những con bọ mắt li ti. Từ khi xuống tập kết bên bờ sông làm công tác chuẩn bị vượt sông cho tới khi qua sông chúng tôi như bị một cuộc tra tấn tàn bạo. Cao điểm là khi đi qua cầu phao, tay người nao cũng vướng bận, bọ mắt tha hỗ châm chích, da mặt tưởng như đắp thêm một lớp dày cui nóng bỏng. Tôi nghĩ nếu lòng sông rộng thêm quãng nữa, có lẽ chúng tôi chết ngất vĩ chúng.
    Tiết trời đã sang tháng 7. Đoàn quân và cánh rừng như ngấm nước mưa đến độ bão hoà, không gian vẫn nặng một màu chì, nghe chìm ảm đạm hơn. Không ai quan tâm đến thời gian nữa, bởi chân đã chôn, gối đã mỏi. Mỗi người phải chống chọi với sức ỳ của chính mình và sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Giữa lúc đó thì một tia hy vọng lóe lên.
    Tại một trạm dừng quân trong khu rừng bằng phẳng thưa thoáng, chính trị viên Nguyễn Hoành tập trung đơn vị, phổ biến một tin sốt dẻo quan trọng. Không còn úp mở nữa, ông nói với vẻ xúc động:
    - Chỉ còn mươi lăm trạm nữa là đoàn ta tới vị trì tập kết cuối cùng. Tạm coi như tới nơi. Ở đó, sẽ có thịt cá, đường sữa, mắm ruốc?
    Thông tin đầy chất lượng đó như một luồng gió mới thổi vào đơn vị, xua đi những cảm giác nặng nề ngự trị lâu nay trong chúng tôi. Mọi người mắt sáng lên, phấn chấn, sức khỏe như trỗi dậy từ những cơ thể ốm yếu mỏi mòn. Gian truân hàng mấy tháng trời nay nghe nói còn mười lăm trạm là tới nơi nghỉ ngơi, ăn uống có chất tươi, cái tin đó hơn cả một liễu thần dược xốc cả đoàn quân mệt mỏi rời rã đứng dậy, đi tới. ?oThiên đường? đã ở trong tầm tay. Chúng tôi lao xao bàn tản. Những nụ cười trở lại trên những cặp môi thâm tím. Ông Hoành đưa tay ra hiệu im lặng, hào hứng nói thêm:
    - Các đồng chí hãy cố gắng lên? Đại hội 17 của ta quyết tâm tới vị trí qui định một trăm phần trăm quân số có mặt hôm nay.

Chia sẻ trang này