1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đường Trường Sơn-Con đường huyền thoại-Những bước chân kỳ diệu

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi hoibihay, 29/05/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Không phải trung đoàn động viên xôi thịt mà những điều trên phổ biến là sự thật. Bao nhiêu ngày gian khổ ta đã vượt qua, bây giờ chỉ còn một đoạn chót, chỉ cần mỗi người ràng thêm một chút xíu nữa là ta hoàn thành nhiệm vụ.
    Lời động viên của thủ trưởng chính trị khiến bầu không khí nóng lên chốc lát, nhưng nhìn lại đơn vị thấy cái cảnh nao lòng. Một trăm phần trăm quân số C.1 7 lúc này "nấu nồi canh không ngọt" . Khi xuất phát ở Kim Bôi (Hòa Bình), đại đội trợ chiến cối 82 ly biên chế 110 người, đầy đủ sáu khẩu cối, phụ tùng, đạn và vũ khí cá nhân giờ đây chỉ còn hơn 30 người với hai khẩu cối "rưỡi". Các thùng gỗ đựng đạn cối đóng xi nặng 18 ki-lô-gam trang bị cho pháo thủ, phần lớn đã nằm lại dọc đường. Súng AK, CKC, đạn nhọn, nhiều anh em đã đem "biếu" giao liên để đi cho nhẹ. Cánh giao liên rất khoái các thứ này để tăng hiệu quả săn thú cải thiện đời sống. Có anh còn đem cho cả trung liên. Cũng nhờ thế, họ mới mang được cái thân mình ốm yếu tới đây. Có nơi đại đội làm thủ tục ban giao vũ khí cho trạm giao liên, nhưng có nơi anh em tự bàn giao để đuổi theo đơn vị. Không phải anh em coi thường kỷ luật, nhưng phải đi đến đích là quan trọng hơn cả.
    Tuy động viên cán bộ, chiến sĩ như vậy nhưng ông Hoành không giấu được nỗi buồn. Có bao giờ ông nghĩ ngày nào đó đại đội 17 ?oQuyết thắng" thân yêu của ông lại lâm vào tình ảnh này. Nhưng đó là một sự thật phũ phàng mà ông phải nhận ra. Không có cuộc chiến đấu nào không tổn thất, mất mát. "Chân đồng, vai sắt, mắt ngựa, bụng thần tiên"; đi bằng đầu chứ không đi bằng chân"... Những khẩu hiệu đó có tác dụng nhất thời trong một hoàn cảnh nhất định. Còn ngươi lính cũng chỉ là những người bằng xương bằng thịt thì không thể đi mãi bằng khẩu hiệu đó được.
    Tuy nhiên, để chuẩn bị lực lượng cho "Kế hoạch X" đề ra từ năm 1964 tập trung lực lượng cho chiến dịch Mậu Thân giải phóng Sài Gòn, cấp trên đã điều quân cấp tốc vào chiến rường và phần nào không lường hết những khó khăn nảy sinh trong quá trình hành quân, nên đã bị tổn thất lớn về quân số. Hậu quả lớn lao của Đoàn 307 và 308 là bài học đắt giá nhất vê sự quan liêu, đơn giản, bất chấp qui luật khách quan, đã được kịp thời rút kinh nghiệm trong việc tổ chức lại đương dây những năm sau đó.
    Nhờ thế mà các đơn vị hãnh quân sau này đi nhanh hơn và phần lớn là bảo đảm tốt quân số tới nơi bổ sung cho chiến trường khu 4 và Nam Bộ.
    Bên cạnh những tổn thất của C.17, ông Tụ, đại đội trưởng đại đội vận tải cũng mếu máo:
    - Anh Ty, anh Hoành ơi, đại đội tôi chỉ còn có chừng ấy...
    Ai cũng thương ông Tụ. Đại đội của ông mới là kỷ lục của sự hao hụt. Lúc xuất phát 200 người, nay con số chỉ hỉnh hơn C.17 hiện tại vài mươi người. Nghĩa là quân sô hùng hậu trong tay ông đã bị mất hơn ba phần tư. Rồi đây ông biết ăn nói thế nào với cấp trên. Ông khóc phần vĩ thương anh em hy sinh, bệnh đau, phần vì trách nhiệm của người chỉ huy không hoàn thành. Nhưng trên thực tế ông Tụ và ban chỉ huy cũng đã làm hết sức mình. Sự lo âu day dứt từng ngày không riêng gì ông Tụ mà tất cả các cán bộ chỉ huy đều có tâm trạng như vậy.
    Tôi để ý trong C.17 của tôi, phó chính trị viên Lý thế Vinh không còn đi theo đơn vị. Anh được chỉ đinh làm cán bộ thu dung, thu vén số anh em rơi rớt từ quãng Khu 6 trở vào. Anh quả là con ngươi không mệt mỏi, một phẩm chát kiên cường của cuộc hành quân. Một số nhân vật trụ cột cũng đã vắng mặt. Mẫn, Hưng, Dương, Ty anh nuôi... cũng đã qua đời. ?oTổ tam tam Hòa Xá" (Hà Tây) mà có lân tôi ca ngợi họ bằng một bài trên báo Quân đội nhân dân cũng không còn. Quê hương của các anh chính la xuất xứ của bài ca nổi tiếng chiếc gậy ?oTrường Sơn" của nhạc sĩ Phạm Tuyên. Hôm nay, chiếc gậy Trường Sơn đã rời khỏi tay ba chang thanh niên trong "tổ tam tam" ấy nhưng giai điệu của bài ca, truyền thống của mảnh đất Hòa Xá vẫn tiếp tục thôi thúc bao người ra trận.
    Thủ trưởng Đỗ Phạm lại xuất hiện ở trạm này để động viên cán bộ chiến sĩ. Trong ban chỉ huy trung đoàn, thiếu tá trung đoàn phó Đỗ Phạm xuất hiện nhiều nhất trên các chặng hành quân của Đoàn 308. Dường như ông đi tuốt lên đâu đội hình cách chúng tôi cả chục ngày đường rồi lại chờ "cái đuôi" đi tới. Ông có dáng người cao lớn, tác phong linh hoạt, chưa biết sốt rét là gì. Khi nào ông cũng xắn cao ống quần và tay áo bà ba đen, mang ba lô gọn bưng trên vai, kể cả khi nghỉ giải lao, đi lại nói năng rổ rảng giữa ba quân trông rất phong độ. Đi Trường Sơn ai cũng ước được nhưng ông. Nhưng hình như toàn trung đoàn "người mẫu" thân tượng như ông chỉ có một.
    Đến đây nhìn thấy sắc khí của lính, thủ trưởng Đỗ Phạm không còn tung ra nhũng câu động viên chung chung, thiếu thực tế như trước kia. Và từ đó trở đi, tôi không còn trông thấy ông nữa. Vai trò của ông rất nặng nề, phải bao chót đoàn quân phía sau lưng chúng tôi đang dãn ra như dây thun... Nghe nói khi trung đoàn vào đến vị trí tập kết cuối cúng, thiếu tá Đỗ Phạm được cấp trên triệu hồi ra Bắc báo cáo tình hình. Chưa được nghỉ ngơi gì, ông lại phải lộn ngược theo con đường cũ quay ra. Chắc chắn là ông không được biểu dương gì ngoài việc phải tường trình về thực trạng tổn thất của Đoàn 308.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Mười lăm trạm nữa, cùng lắm thì cũng đi trên hai mươi ngày. Dù sao chúng tôi cũng phải ngốn nốt chặng cuối cũng này để kết thúc nhiệm vụ của mình. "Có đi có đến". Khó hay dễ cũng quyết định ở đôi chân con người. Nhưng quãng đương ?ongắn" này lại là một thách thức đỉnh của cuộc hành trình cao chứ không phải là cái "đuôi thừa của cuộc viễn du. Nó giống như người đi tải gạo sắp về tới căn cứ, hoặc người bơi sắp tới bờ. Những giây phút cuối cùng thường bết bát, đuối sức muốn hụt hơi và có khi mất cả tính mạng. Tôi không ngờ chặng đường đi sau cùng này lại phức tạp đến thế. Nó không bí hiểm de dọa như những cung đoạn giữa chừng nhưng vô cùng bất trắc. Có cung đoạn chúng tôi hoàn toàn đi trong bùn ngập đến bụng chân, giống như vùng nông thôn đồng trũng bị mưa lụt lâu ngày. Người yếu, mang nặng, chân cắm sâu dưới bùn, cực nhọc không như leo núi nhưng dai dẳng ê càng. Đi suốt buổi không thể nghỉ giải lao, "xả mệt" bởi không tìm đâu ra một mô đất để đặt ba lô, đành chịu trận cho hết quãng đường lầy lội. Ai cũng hết sức ngạc nhiên tại sao những người phụ trách hành lang lại chọn đoạn đường này để hành quân. Không còn lối đi nào khác giữa rùng núi mênh mông này chăng?
    Có chặng đường không hiểu sao lại là lòng suối lô nhô đá cuội, đá ong. Đi như đánh vật suốt mấy ngày liễn, hai bàn chân dầm nước như nở ra, trắng ợt. Có đoạn như chơi trò ú tim. Đoàn quân bị ?ođẩy" xuống suối, lần mò một quãng dài lại leo lên đồi đánh đu với cây cối hang hốc cực kỳ khó chịu. Đến hôm đi lên triền núi, bỏ xa con suối kỳ quái ấy vẫn như nghe nó kêu réo ngày đêm. Nỗi ám ảnh này kéo dài khá lâu với nhiều người. Tinh hình tiếp tục trở nên căng thảng, khó khăn khi nhiều người ngã bệnh phải chuyển vào trạm thu dung. Trong các trạm này xảy ra không ít chuyện lạ lùng. Có người hành động đáng được tôn vinh, nhưng cũng có khi là sự tệ hại đáng lên án. Một chiến sĩ bị cây đâm xuyên qua mu bàn chân, vết thương nhiễm rùng, sưng húp, nhưng anh vẫn cắn răng bám theo đơn vị, khiến nhiều người cảm phục. Nhưng cũng có người đầu hàng số phận, tự tìm đến cái chết để thoát khỏi đau đớn của con bệnh... Hành động tiêu cực ấy của họ vừa đáng chê trách nhưng cũng không dễ dàng giải thích hết nguyên nhân.
    Khi tiếng con suối nỉ non ấy xa dần và mất hẳn, đoàn quân bắt đầu lên cao. Có lẽ đây là những đỉnh núi chia tay với dãy Trường Sơn hùng vĩ mà chúng tôi phải đương đầu. Nó không cao nhưng có độ dốc đáng nể. Đầu người sau chỉ ngang với gót chân người đi trước. Các bậc đất đi lắm nhão ra trơn ruột như muốn đẩy đoàn người trở xuống chân dốc. Lính 12 ly 8, cối 82 trần ai là thế nhưng vẫn còn ngon lành hơn lính ĐKZ 75 và cối 120 ly. Lúc này không phải là "đê ca nhếch" nữa mà la "đê ca khóc". Cối khổng lồ 120 ly không còn xem thường cối 82 là những "dõng nứa" nữa mà thèm được làm anh cối tép. Việc bảo quản vũ khí từ khi bước vào mùa mưa và phải vận hành qua nhiều sông suối, không còn ý nghĩa. Không có cách gì ngăn nước mưa xâm nhập. Các khẩu súng bám đầy bún đất, sét gỉ đóng cứng lại. Nhiều khẩu súng bộ binh phải dùng dao tông dọng mới nhả qui lát. Có thể nói gặp địch, những khẩu súng này không thể chiến đấu được.
    Lúc này ĐKZ, cối 120 ly, pháo thủ không con khiêng vác nữa mà hè nhau lôi lên đỉnh dốc rồi từ từ thả xuống.
    Những ai hành quân thực binh mới thấu cảnh này. Vũ khí trang bị là tiền bạc, của cải của nhân dân, xương máu của chiên sĩ nhưng khó lòng bảo quản được khi gân cốt đã chùng, thời tiết khắc nghiệt. Cán bộ thu dung có thể quay lại đường dây gom nhặt chiến si của mình nhưng vũ khí thì không thể. Tới quãng này, gần 30 anh em trong đại đội còn lại, chịu đựng quá sức, nên thêm một số nữa "lọt sàng", dạt vào trạm thu dung.
    Lên cao rồi xuống thấp... cuộc vật lộn khủng khiếp cả mười mấy ngày đường, cuối cùng đoàn quân đã thoát ra được con đường đất gan gà phẳng lì. Những ngọn núi khiếp đảm khuất dạng sau lưng cây bạt ngàn của miền Đông Nam Bộ. Trong một đêm tối trời, giao liên dẫn đoàn người im lặng cắt ngang sân bay Bù Gia Mập. Tôi không còn phải đau lòng chứng kiến cảnh người chiến sĩ quáng gà ngã đập đầu vào gốc cây, mỏm đá. Lục đó chẳng ai biết đây là điểm cuối cùng của con đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử. Đoàn 308 về tới trạm dừng quân vào hạ tuần tháng 8 năm 1966. Trung đoàn hình thành một khu vục đóng quân rộng lớn trong một cánh rừng thuộc địa phận tỉnh Phước Long. Khi đứng giữa rừng bương, nghe thủ trưởng Hoành nói ?ođã đến nơi", tôi bàng hoàng như mình vừa đặt chân xuống hành tinh lạ.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    ?oHạ cánh? nơi vùng rốn tử thần sốt rét
    Đại đội 17 dừng chân với con số khiêm tốn ngoài sức tưởng tượng: tất cả còn lại 18 người sau sáu tháng hành quân. Tôi may mắn có mặt trong con số 18 này. Ban chỉ huy đại đội có đại đội trưởng Ty và chính trị viên Hoành. Một bản tổng kết thu gọn đến sững người: đại đội có ba trung đội gồm sáu khẩu đội và một C bộ, quân số vũ khí trang bị hoàn chỉnh khi xuất quân, giờ đây chỉ còn một phần hai C bộ, non hai tiểu đội với một khẩu cối và một chân cối. Năm khẩu bỏ lại dọc đường và 92 cán bộ, chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm lại hoặc đang bươn bải trên đường về sum họp với đơn vị.
    Dù sao thì đơn vị cũng đã về tới đích cùng với hàng chục đơn vị khác trong đoàn. Có đi có đến! Bước chân đầu tiên ở Kim Bôi-Hạ Bì, bước chân cuối cùng ở rừng Bà Rá Phước Long. Con đường ở lại sau lưng đã đi vào lịch sử như một huyền thoại của cuộc chiến tranh thần thánh nhưng đối với chúng tôi là nỗi ám ảnh khôn nguôi. Nó chuyển tải sức sống cho nửa thân thể phía nam Tổ quốc, nhưng lại là nơi yên nghỉ vĩnh hằng của một thế hệ mãi mãi tuổi 20.
    Tâm trạng về đích của người linh sau khi vượt hàng ngàn ki-lô-mét đường rừng hiểm trở thật hoan hỉ lạ lùng như vừa rời khỏi một cơn mơ dài chen lấn biết bao sự kiện, bao nỗi vui buồn. Những đám mây u uẩn của bệnh tật, của sự mất mát vẫn bao trùm lấy mỗi người. Những con bệnh hiểm nghèo vẫn đang từng ngày cướp đi những đồng chí, đồng đội đã bỏ biết bao tâm sức lặn lội tới đây.
    Dù đại đội có 18 người vẫn biên chế đội hình đóng quân đàng hoàng. Tôi vẫn ở chung với C bộ giúp việc cho ông Hoành, ông Ty. Hai trung đội chia ra hai bên bảo vệ C bộ. Tất cả đều tiếp quản những chiếc lán cũ nằm dưới rừng tre nứa xen lẫn những cây cao miên lực lưỡng. Những người trước đó làm lán toàn bộ bằng tre, bương rất khéo léo. Mái lán không lợp bằng lá mà bằng các ống tre chẻ đôi úp lên nhau, cứ cây sấp úp vào cây ngửa nối tiếp cho đến khi hết mái, kín còn hơn lợp ngói. Nước mưa theo rãnh ngửa mà chảy xuống đất. Tấm dát kê trong lán để nằm cũng làm toàn bằng nứa đập dập ra hoặc kết bằng dây rừng. Tuy thế, hình như lán trại dựng đã lâu nên hư mục và mốc thếch do trời mưa liên miên.
    Trung đoàn tọa lạc trên một vùng rừng rộng lớn cả vài chục cây số vuông. Đây là hậu cứ của Trung đoàn 16, một đơn vị chính qui vào Nam vào hàng sóm nhất, hầu hết là người Khu 4 cũ. Trước khi Đoàn 308 tới đây, họ đã chuyển xuống chiến trường phía dưới gần đông bằng hơn. Đêm đầu tiên nằm nghỉ trong vị trí "an cư" dưới trơi mưa rả rích, cảm tưởng thật mãn nguyện như vừa trút xong một gánh nặng đường xa. Chiếc đài bán dẫn ORIONTON đến đây vẫn còn pin để nghe tin tức và ca nhạc của đài tiếng nồi Việt Nam. Pin yếu, tôi phải vặn hết cỡ cho anh em nằm chung quanh cùng nghe. Vẫn tiếng nói quen thuộc ấy, vẫn những bài ca sôi nổi hào hùng ấy đi theo ngươi lính tới tận rừng xanh núi đỏ. Có chiếc radio không khí như được hâm nóng lên một chút giữa mưa lạnh của núi rừng miên Đông Nam bộ. Mối dây liên hệ với miền Bắc và thế giới của chúng tôi là chiếc đài nhỏ bé này. Nó cũng đã hành quân tới đây và có công trạng như nhưng người lính chúng tôi.
    Chúng tôi đoán điểm tập kết còn xa đồng bằng lắm, không biết đến khi nào mới thấy ngôi nhà, người dân của vùng đồng bằng Nam Bộ. Ông Hoành đã nói thật. Tại đây, quản lý đại đội lên hậu cần trung đoàn lĩnh về các tiêu chuẩn đường sữa, mắm ruốc đậu lạc đậu xanh là những thực phẩm cao cấp nhất lúc này. Lính ta mặt mày tươi rói khi được nhìn thấy các thứ đồ ăn như một phép mầu đưa lại. Hộp sữa thì có lạ gì nhưng bây giờ sao nó quí giá thế, câm trên tay cứ như là báu vật. Bảy, tám người được một hộp sữa, một ki-lô-gam đường chia nhau thật đồng đều, ăn riêng, không ai xâm phạm của ai. Mấy tháng trời ăn toàn ruốc muối, người khô đét, nay đường sữa uống vào tới đâu thấm tới đó ngọt tận ruột gan, giống như cái cây ủ rũ sắp chết khô gặp
    cơn mưa đầu mùa bỗng dưng tỉnh lại. Bữa cơm có canh mắm ruốc lểnh loảng, lính ta chan lấy chan để. Chất cá của biển làm tôi nhớ tới hương vị của những bữa ăn quê nhã. Chất dinh dưỡng dù hiếm hoi nhưng có hiệu lực như một liều thần dược. Chúng tôi ai nấy da dẻ tươi dần rồi ửng lên sắc máu chỉ sau một tuần nghỉ ngơi, ăn uống có chất tươi.
    Không biết dừng quân ở đây bao lâu và sẽ làm gì, nhưng đơn vị được lệnh của trung đoàn củng cố căn cứ ăn ở lâu dài, sàn sàng chiến đấu chống quân bộ và đào hầm tránh máy bay B52 oanh tạc. Thời điểm này, máy bay B52 đối với lính trẻ chúng tôi vẫn còn xa lạ. Chỉ nghe nói nó có sức tàn phá khủng khiếp lắm, nó như hung thần... chứ chưa ai trong chúng tôi thấy B52 cả.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Căn cứ rộng mênh mông mà chỉ lác đác bóng người, trời lại mưa dầm dã thật âm u trì nặng. Ông Hoành, ông Ty mang xắc cốt lên trung đoàn báo cáo, nhận lệnh, họp hành liên tục. Chúng tôi ở nhà vào sâu trong rừng chặt bương, nứa sửa lại lán trại. Vài tuần sau đã thấy đàng hoàng ấm cúng. Chỗ ban chỉ huy đại đội có bàn uống trà, phía dưới có nhà bếp, bàn ăn tươm tất. Vậy cũng là sung sướng lắm rồi, trưởng giả trăm lần so với những ngày lao đao lận đận trên đường.
    Ông Hoành ghiền trà, thích ăn ngọt nên dặn anh nuôi làm kẹo đậu phộng, kêu mọi người đến ăn uống xôm tụ. Ông có nét đặc trưng cho tỉnh cách dân Nam Bộ, đặc biệt hão phóng. Ở miên Bắc, độc thân, lương nhiều, ông ăn uống xả láng, càng đông vui ông càng thích. Một tuần vài lần ông bảo tôi vào xóm mua gà về nấu cháo, kêu anh em lại ăn, uống rượu nhâm nhi, cười nói ồn ào.
    Giờ đây về đến đất Nam bộ, ông Hoành vui mừng ra mặt, biết đâu vai chục ngày đường nữa là về tới Bến Tre, quê cha đất tổ. Bởi thế ông có vẻ "lên nước", nói cười rốn ráng nhen nhóm lên cái không khí "anh Hai, anh Ba" trong các cuộc "tiệc tung". Ông cố gắng khôi phục lại các ngôn từ Nam Bộ mà khi ở miền Bắc hơn mười lăm đã phần nào mai một. Ông vẽ ra một viên cảnh như mơ khi về đông bằng với những xóm làng trù phú sum xuê cây trái, đầy ắp cá tôm, con người làm chơi ăn thật, khiến ai cũng háo hức nôn nao. Ông làm quen rất nhanh với anh chị em giao hên, hoặc các đơn vị cung ứng hậu cần trong vùng. Những thứ chúng tôi ăn hầu như đều qua tay họ chuyển từ biên giới Cam-pu-chia về đây. Ông Hoành có thêm nhiều đồng hương, bạn bè nên được biếu thịt rừng, sữa hộp, trái cây hoặc thực phẩm quý hiếm khá nhiều. Nhờ thế mà lính C bộ bọn tôi được hưởng xái đều đều.
    Độ nửa tháng sau, lác đác có anh em về tới đơn vị, khi một người, khi vài người. Họ cũng đã tới ?obãi đáp" nhưng trông nhếch nhác tiêu tuỵ lạ lùng. Đó là số cán bộ, chiến sĩ "thuyền ai nấy lạo? vất vưởng trên dọc đường từ cuối Khu 5 trở vào. Họ đi với ý chí kiên nhẫn để chiến thắng con đường bằng phần sức lực cuối cùng. Có người hụt hơi ngã xuống khi chỉ cách đơn vị chừng dăm trạm. Thật chẳng khác nào con cái lưu lạc về với gia đình. Người nào cũng mừng mừng tủi tủi khi đặt chân đến căn cứ đại đội, gặp lại anh em đồng đội thân quen. Phó chính trị viên Lý Thế Vinh là người thứ ngoài hai mươi về đến đơn vị. Anh ôm lấy ông Hoành khóc nức. Nhiệm vụ gian nan của anh đã hoàn thành. Giờ đây anh thật xứng đáng được nghỉ ngơi.
    Đại đội ngày một đông vui hơn và hoạt động đi dần vào nếp bình thường. Đã bắt đầu thực hiện chế độ báo thức, tập thể dục, báo cáo, phản ánh, học tập chính trị, thời sự hướng tới nhiệm vụ xây dụng, chiến đấu. Sinh khí của đơn vị tăng dần lên, nhưng tôi vẫn thấy nó mông lung, chưa hiểu rồi đây sẽ làm gì với một đội quân ốm đau suốt lượt như thế...
    Nhưng ở thời điểm dừng chân nghỉ ngơi là sự "xuống cấp" chưa từng thấy của các đơn vị trong trung đoàn. Con bệnh bắt đâu hoành hành ác liệt không trừ một ai. Đã có một ít thựục phẩm làm tăng dinh dưỡng trong cơ thể nhưng thức ăn chủ yếu là măng nên không thể chống nổi bệnh tật với nhưng thể trạng suy sụp nghiêm trọng. Giống như cái cây bị mối ăn trong gốc, chỉ một cơn gió mạnh là đổ. Chưa khi nào tôi được chúng kiến sinh mạng cơn người bị cướp đi một cách dễ dàng như lính Trường Sơn lúc này. Anh em bị sốt ác tính, phù thũng lân lượt qua đời không cách gì cứu nổi. Cứ một ngày hoặc cách hai, ba ngày lại có người từ trần. Lại đào huyệt, lại truy điệu. Cứ cái đà này thì không biết C.17 có tôn tại nữa không.
    Có hôm ngủ dậy, anh em lắc võng, cậu Bá chẳng động đậy gì cả, mở chăn ra thì đã chết cứng lúc nào. Cậu Sơn tiểu đội trưởng, quê ở Đồ Sơn rất đô con, đang ngồi nhặt rau, bỗng kêu lên:
    - Trời ơi, sao khó thở quá!
    Rỗi Sơn ngã lăn ra đất, tắt thở. Anh Vinh làm động tác hô hấp nhân tạo cả mười phút cũng đành thúc thủ trước hiểm bệnh. Thì ra Sơn bị phù tim, máu không còn lưu thông được nữa nên rơi vào tình trạng "đột tử".
    Cậu Hữu còn trẻ măng, trông đã lại súức, da dẻ hồng hào, hôm trước tôi đưa lên bệnh xá vì có triệu chứng nguy hiểm, hôm sau Hữu đã qua đời.
    Cái chức y tá bất đắc dĩ của tôi lúc này trở nên có giá, do y tá Phiêu vẫn chưa về tới đơn vị. Hàng ngày tôi được thủ trưởng giao nhiệm vụ lãnh thuốc trên quân y trung đoàn và đưa bệnh nhân ?onhập viện". Từ đại đội lên trạm xá quân y xa chừng hai giờ đi bộ, qua nhiều đồi dốc, khe suối. Đưa bệnh nhân đi "viện? rất vất vả.
    Anh em chiến sĩ tử vong vì sốt rét, vì đột tử do phù tim, phù phổi, tả ly, suy kiệt thể lực, trụy tim mạch... đã tới mức báo động nhưng chưa có phương pháp nào ngăn chặn. Thuốc men chỉ có chừng đó, phương tiện kỹ thuật, kiến thức, tay nghề của đội ngũ thầy thuốc chỉ có thế. Sốt cao thì uống kinin, vinaquin, tiêm liều cao cắt sốt, tiêm thuốc bổ dưỡng nâng đỡ cơ thể. Những liều hồi dương đắt tiền cũng đành vô hiệu khi "lưỡi hái ác tính" đã đặt vào cổ bệnh nhân.
    Hồi đó ta chịu bó tay trước tử thần ác tính, hôn mê, chứ bây giờ gặp ác tính chỉ cần làm cho hạ nhiệt trước hết, rồi sau điều trị bằng thuốc là có thể qua khỏi. Đúng là tiến bộ vê y học cộng với phương tiện hiện đại ngày nay có thể cứu được người sốt rét ác tính, nhưng khi đó rất khác bây giờ. Các thầy thuốc cũng đã làm hết sức mình nhưng do thời kỳ "hậu Trường Sơn" rất phức tạp. Khí hậu trầm uất, môi trường khắc nghiệt, con bệnh tích tụ lâu ngày nên thường là thập tử nhất sinh, bác sĩ giỏi mấy cũng chào thua.
    Các thủ trưởng và cả chúng tôi đều suy nghĩ về sức chiến đấu của một trung đoàn chủ lực nổi tiếng ở đồng bằng Bắc Bộ có anh hùng nổi tiếng Trương Công Man, giờ đây nằm chờ để tiêu hao một cách đáng sợ. Bổ sung quân cho chiến trrường là yêu cầu nóng bỏng chuẩn bị cho thời cơ chiến lược nhưng không tổ chức tốt đường dây nên hậu quả thật tai hại. Giờ đây những đơn vị chính qui được huấn luyện hết sức công phu đã mất sức, chỉ còn chờ xé lẻ đi bổ sung cho đơn vị khác. Dĩ nhiên đến khi đó phiên hiệu của trung đoàn cũng bị cáo chung.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Y tá Phiêu đã lặn lội quảy gánh thuốc và ba lô về tới đại đội, người bốc lên mùi kinin và nước tiểu lưu niên khiến nhiều người phải né ra. Có dễ mấy tháng trời Phiêu không tắm giặt. Tôi sung sướng được giải nghệ cái chức y tá "trời ơi đất hỡi", nhưng bắt đầu sốt nặng, không còn cách nhật nữa mà liên miên. Đầu nhức muốn bung ra, miệng nhạt thếch, đắng chát chẳng thèm cơm cháo, chân tay bải hoải, chỉ có nằm chứ hết đi nổi. Mây ngày sau thì nôn khan, mắt tối sầm. Tôi cảm thấy nguy cơ ác tính đã đến gần nhưng không làm sao dậy nổi. Người cứ chìm xuống tấm dát giường. Thủ trưởng Hoành bảo y tá Phiêu tổ chức cáng tôi lên trạm xá trung đoàn. Tôi thấy người yếu lắm, thà chết ở đơn vị có đông anh em cũng đỡ buồn. Nhất quyết như thế nên khi hai người giở võng ghé sát vào tấm dát giường, tôi xua tay:
    - Tôi không lên bệnh xá đâu. Để tôi nằm đây thôi. Đằng nào cũng chết!
    Ông Hoành, ông Ty hình như không để ý đến chuyện cự tuyệt của tôi. Anh em dẹp cáng. Tôi nằm thiếp đi trong tấm vỏ chăn, phó mặc cho số phận. Phiêu tiêm kinin liều cao cho tôi nhằm cắt sốt. Chiêu hôm đó tôi ráng lấy hết tinh thần ngồi dậy nuốt mấy thìa cháo và ?ovận hạn? bỗng chốc lùi ra. Cơn sốt giảm dần, đầu nhẹ bớt. Hôm sau tôi xuống khỏi giường ngôi chồm hổm để tập đi đứng nhưng khi vịn cây đứng lên chỉ thấy trước mắt mình một màu vàng khè chứ không có một vật gì khác. Tôi ngỡ mình bị mù, nhưng chỉ một lúc, màu vàng tan đi nhường cho những cảnh vật quen thuộc hiện ra. Tôi phát hiện ra các đốt tay mình đau nhức dữ dội và khi súc miệng răng đau như muốn long hết. Cơn sốt vừa qua đã hủy hoại ám trọng cơ thể, tôi bị mất hồng câu quá nhiều may mà không dẫn đến tử vong.
    Tôi khỏe dần và đi đứng bình thường. Thủ trưởng cử đi công tác ra một tràng trống xa căn cứ khoảng ba, bốn tiếng đồng hồ để chuẩn bị phần tử cho pháo bắn khi trực thăng địch đổ quân. Ở đây có ánh mặt trời chiếu vàng trên thảm cỏ trông thật khoáng đãng vui mắt. Đã lâu rồi tôi mới... thấy đồng cỏ xanh bát ngát nhưng hơi chạnh lòng vì hình như đây là xạ trường của những sát thủ săn voi bò tót, niễn nai, lâu lâu lại nghe tiếng súng vang lên đâu đó người đánh thức, tôi tỉnh dậy để ý thấy bắp chân mình bị vặn đi và cứng ngắc như đá. Lúc đó đau kinh khủng và tiếng kêu la tự nhiên bật lên. Mãi lúc sau cơ thể mới trở lại bình thường.
    Xong đợt công tác, trên đường về ghé vào một căn cứ, cũng rừng nứa, tôi gặp Giang ở C8 hỏa lực, là bạn viết văn từ hồi mới nhập ngũ đầu năm 1965. Vừa mới khoác áo lính cậu ta đã có những bài ký rất hay đăng trên tạp chí Văn nghệ quân đội, với bút danh Giang Cao. Đến bây giờ tôi cũng không hiểu vì sao mà hắn tài thể. Lần đầu viết bài cho tạp chí là được đăng ngay, còn tôi thì mãi mười năm sau mới được đăng truyện ngắn đầu tiên ở tạp chí này. Hai đứa mừng lắm, nhắc đủ mọi thừ chuyện trên đường hanh quân, nhưng khi nói về chuyện môn trinh sát pháo binh, đo đạc ngoài trận địa thì cậu ta phát hiện tôi nói sai cả.
    Tôi cũng tự thấy mình nói không bĩnh thường, hình như không điều khiển được những câu nói có tính chất kỹ thuật. Ai cũng ngạc nhiên, nhưng ông đại đội trưởng của Giang nói thẳng ra là tôi bị ốm nặng, tâm thần không ổn đinh. Tôi thấy lo lo nhưng biết làm sao khi trong đầu cứ trống rỗng ong ong. Giang mời tôi một bát chè gạo và nói đùa: "Mình làm đúng thủ tục tiếp khách đấy nhé". Tôi chia tay Giang trong cái lán nứa ấy, và đõ là lần gặp cuối cùng.
    Đại đội 17 đã hội tụ được gần 50 người. Mỗi người về đến nơi lại báo những người khác đã từ trần trên đường ở cung đoạn nào đó, hoặc gặp ai đang nằm lại hay sắp về với đơn vị. Nhờ thế nên tin tức ít khi bị gián đoạn. Ngồi lại hậu cứ mà vẫn biết tình hình trên đường dây hành quân. Nhưng đó là đoạn chót của cuộc hành trình lớn của Đoàn 308, mà mỗi người về tới đích đều mang trên mình cả gánh vi trùng sốt rét. Rất nhiều người cơ thể bị hao mòn, biến chứng sang phù nề, ghẻ lở, rối loạn thần kinh chức năng rất nguy hiểm, khả năng đề kháng suy giảm.
    Khoảng tháng 10 năm 1966, sau hai tháng tập kết, quân số đại đội 17 chưa được một nửa. Có người về thêm nhưng lại có người "ra đi"... Cán bộ đại đội thiếu ông Vân. Ông lãnh trọng trách thu dung và biết đâu từ lâu ông đã là quân số của trạm thu dung. Vì thế đến giờ này bộ từ thiếu mặt ông, cũng là điều dễ hiểu. Dàn cán bộ trung đội thiếu trung đội trưởng Cậy. Còn dàn cán bộ tiểu đội và chiến sĩ đảm trách các số pháo thủ coi như phải làm lại sơ đồ biên chế, vì thiếu vắng quá nhiều.
    Mùa khô đến. Rừng già bắt đâu trút lá trên mặt đất lạnh đang rắn lại dần. Một tia hy vọng nhóm lên: bệnh sốt rét giảm thiểu, hàn thử biểu tử vong tụt xuống.
    Đúng lúc ấy, một làn gió mới thổi tới. Ông Hoành đi nhận lệnh trên trung đoàn về trịnh trọng phổ biến: sẽ có một bộ phận của đơn vị đi chiến đấu. Tin này làm thay đổi không khí trầm lắng của đại đội. Đây là niềm vinh dự dành cho người lính chiến trường. Đã làm lính chẳng ai muốn mình ngồi ru rú trong rừng, hoặc tụt hậu phía sau, suốt đời không nhìn thấy mặt thằng giặc.
    Ông Hoành tập hợp đơn vị phát động tinh thần. Bài bản công tác chính trì được ông đẩy lên đúng lúc.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đang trong vòng vây u ám của bệnh tật, chết chóc, vậy mà mọi người nhóng lên nghe ngóng. Khi ông Hoành nói: "Ai đi chiến đấu thì giơ tay?". Tất cả mấy chục người đưa cánh tay gầy gò xám mét lên. Thế mới hay lính ta sợ ốm đau chứ không sợ chết. Đằng khác đã vào Nam, chẳng ai muốn ở nơi rừng sâu nước độc. Tốt nhất là được chuyển ra mặt trận hoặc xuống đồng bằng. Thâm tâm tôi cũng muốn đi chiến đấu hoặc chuyển đến đơn vị khác chứ không muốn sống trong C bộ; ở bên cạnh thủ trưởng có cái hay là học hỏi nhiều lượng thông tin phong phú nhưng lâu ngày cũng trở nên nhàm chán cần phải có một cái gì đó thay đổi lúc này.
    Mấy chục người giơ tay xung phong, nhưng đại đội chỉ chọn đúng 15 người đi đợt này. Không ngờ trong số đó có tôi. Tôi vừa mừng lại vừa bần thân suy nghĩ. Mừng vì có cái gĩ mới mẻ "đổi mới", bần thần vì từ nay mình phải xa đại đội 17 đã gắn bó từ ngày nhập ngũ (tháng 3 năm 1965) cho đến bây giờ đã hơn năm rưỡi. Biết bao kỷ niệm đời tân binh, nhất là những ngày vượt Trường Sơn. Ông Hoành chỉ giữ lại bên cạnh có Thìn và Nam?
    Phải rời khỏi đơn vị đột ngột, tôi bâng khung lưu luyến chia tay những người đã cùng tôi thục hiện cuộc hành trình vạn dặm đầy hy sinh, gian khổ vừa qua. Lòng tôi se lại nhớ tới nhiều gương mặt thân quen không còn nữa. Hôm tôi mang ba lô lên đường đi bổ sung cho đơn vị mới, đại dội 17 "báo tử" đến người thứ 24, tính từ khi Cường là chiến sĩ đầu tiên nằm xuống trên đất Kontum. Tuy nhiên, đây chỉ là số liệu đầu tiên. Ban chỉ huy đại đội dự đoán còn cao hơn thế rất nhiều, vì thực tế không nằm hết được các trường hợp khác...
    Các đại đội khác cũng có người đi bổ sung như đại đội 17 cho các đơn vị chủ lực Miền.
    Ngày đi đêm nghỉ trên một địa hình dễ chịu hơn, không còn đồi dốc, sông sâu nữa, mà rừng thấp và bằng phẳng dần, chúng tôi ai cũng hứng khởi hơn. Các anh Bảy Ria, Út Ích, Sáu Tấn, Hai Ly rất đặc trưng cho lính Nam Bộ, đi đứng nhanh lẹ, trang bị gọn nhẹ, bận quân phục đen, thắt khăn rằn, đội nón tai bèo hướng dẫn và tổ chúức cho đoàn quân hỗn hợp mấy chục người đi mải miết nửa tháng thì về tới biên giới Việt Nam-Cam-pu-chia ở Quãng Cà Tum (Tây Ninh). Đến đây tôi mới biết mình được bổ sung cho một đơn vị của R có nhiệm vụ bảo vệ vòng ngoài Bộ Chỉ huy Miền va các cơ quan đầu não của Mặt trận dân tộc giải phóng miên Nam Việt Nam. Đó là thời điểm vào tháng 11 năm 1966. Tôi đã nhập vào một gia đình mới mà vốn trước đó một trăm phẫn trăm quân số là người Nam Bộ. Đơn vị mới mang phiên hiệu Đoàn 170 chốt dài theo vùng cửa khẩu biên giới Tây Ninh thuộc Liên khu C.
    Tại vùng chiến khu quan trọng nay, đầu năm 1967, tôi tham gia trong đội hình của nhiều đơn vị chiến đấu đánh phá cuộc càn lớn mang tên Gianxơn Xity của 45 ngàn quân Mỹ do ương Ximan chỉ huy. Từ ngày 22-2-1967 đến ngày 15-4-1967, ta đã tiến hành chiến dịch phản công đánh lại cuộc hành quân lớn nhất của giặc Mỹ vào căn cứ kháng chiến, trong cuộc chiến anh Việt Nam. Trong những ngày chiến đấu căng thẳng bảo vệ đầu não Trung ương Cục, tôi gặp nhiều anh em của đại đội 17 cùng đi bổ sung cho nhiều đơn vị khác như tôi. Nhưng chỉ trong chốc lát, chưa kịp hỏi han gì mỗi người lại đi một ngả, biến vào trong các trận địa giăng kín trong rừng. Hầu hết anh em bổ sung về Sư đoàn 9 và Sư đoàn 7 là những đơn vị chủ lực "xương sống? của miền Đông Nam Bộ.
    Tháng 2 năm 1968, nổ ra cuộc Tổng tiến công vã nổi dậy Tết Mậu Thân, chúng tôi đã có mặt ở vùng ven Sài Gòn trong không khí bão táp của cách mạng miền Nam. Sau đợt 1 tết Mậu Thân, đơn vị trú quân ở rừng Bời Lời (Tây Ninh), tôi bất ngờ gặp Bảo và Miễu của đại đội 17. Các anh kể rằng anh em mình thương vong nhiều trong chiến đấu phá cuộc hành quân Gianxơn Xity của địch và trong tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân. Số anh em bổ sung vào Đoàn 170 làm nòng cốt thành tập trung đoàn 268 bám trụ vùng trung tuyến Củ Chi-Trảng Bành thuộc Phân khu 1 Sài Gòn-Gia Định đến đầu năm 1970 coi như xóa sổ. Hạ sĩ Phùng Bình quê ở Hòa Xã (Hà Tây) là người hy sinh sau cùng tại căn cứ Tràng Bàng. Năm 1975, sau khi vào Sài Gòn tôi may mắn gặp lại phó chính trì viên Lý Thế Vinh và anh Nho trung đội phó, các anh đều khỏe mạnh, là những cán bộ có kinh nghiệm chỉ huy chiến đấu, xây dựng đơn vị. Đó là những cuộc hội ngộ thật quý hiềm sau gần 10 năm chia xa đơn vị.
    Vượt Trường Sơn năm 1966 là như vậy. Đó là toàn bộ bức tranh hoành tráng của cuộc hành trình đầy gian khổ trên con đường không cột số. Vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, những người lính miền Bắc đã hoàn thành xuất sắc cuộc đi bộ qua 2.500 ki-lô-mét sau gần 200 ngày mưa nắng trong điều kiện cực kỳ khắc nghiệt của núi rừng Trường Sơn. Bằng đôi chân của mình, chúng tôi tự hào đã góp phần viết nên bản anh hùng ca của những năm tháng mở đầu "xẻ dọc Trường sơn đi cứu nuớc? của cả dân tộc. Cuộc hành trình trên con đường vạn dặm đã đưa những binh đoàn tới vùng đất phía Nam của Tổ quốc, góp phần làm nên cuộc tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Xuân - Hè rực lửa 1972, dẫn tới bão táp Mùa Xuân 1975, cuốn sạch quân thù, thống nhất đất nước Việt Nam.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Những người đi tới đích đã chiến thắng dải Trường Sơn hùng vĩ và cả sức trì nặng của chính mình. Đó là một kỳ công, nhắc nhở các thế hệ mai sau không quên những người lính âm thầm nối liền mạch máu của Tổ quốc bằng những đôi chân rớm máu, trong số đó có rất nhiều người đã vĩnh viễn nằm lại trên dãy Trường Sơn. Họ đã hóa thân thành bức phù điêu vĩ đại kỳ diệu nhất trong thời đại Hồ Chí Minh.
    Đường Thẳng Sơn đã trở thành kỷ niệm thiêng liêng trong đời linh chúng tôi.
    Đi ?ođôi dép Bác Hồ" trên con đường mòn mang tên Bác, chúng tôi đã tới thành phô Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng, cột mốc cuối cùng của cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
    Mới đó mà đã bốn thập kỷ trôi qua. Con đường mòn của thuở "xẻ dọc Trương Sơn đi cứu nước? đã khép lại dưới đại ngàn hùng vĩ. Những dấu chân người lính đã bồi đắp cho Trường Sơn một vóc dáng lịch sử và trở thành huyền thoại của thế kỷ 20. Một dự án: đường Trương Sơn công nghiệp hóa hay xa lộ Trường Sơn đã được Nhà nước thông qua. Chắc chắn khi con đường siêu tốc hiện đại ra đời sẽ có cột số ghi những địa danh mà chúng tôi đã đi qua ?otrên con đường không cột số? năm xưa.
    Trường Sơn-Đại lộ Hồ Chí Minh-Tượng đài chiến thắng của hoà bình
    Trường Sơn-đường Hồ Chí minh đã đi vào lịch sử với vóc dáng của một bản anh hùng ca bất tử tưởng như đã khép lại khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc toàn thắng, nhưng lịch sử đã nối tiếp như một cơ duyên ky ngộ. Trường Sơn đầy gian truân bí hiểm năm xưa đã lật sang trang mới. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã quyết định mở con đường Trường Sơn công nghiệp hóa, góp phần đưa đất nước tiến vào một thời kỳ mới trên bước đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một ý tưởng vĩ đại nhưng khả năng hiện thực rõ đem đến một luồng sinh khí mới lay động núi rừng, đánh thức tiềm lực miền đất trải dài phía tây Tổ quốc. Con đường chiến lược, một huyết mạch mới của đất nước như một kỳ quan rực rỡ, nhưng mỗi thước đường đã thấm biết bao máu xương đồng đội.
    Khi tôi viết đoạn nối tiếp này của "con đường không cột số", đường Hồ Chí Minh đã làm lễ thông xe chặng 1 giai đoạn 1, chính thức "hòa mạng? vào hệ thống đường giao thông cả nước. Theo phương án đã định thì tuyến đường Hồ Chí Minh sẽ nối liên từ Pắc Bó, Cao Bằng đến Đất mũi Cà Mau với tổng chiều dài 3.129km. Chặng đầu tiên của giai đoạn 1 khởi công ngày 5-4-2002, từ khe Cò Hà Tĩnh đến Ngọc Hồi Kon Tum dài 962 km, chưa đầy 1/3 chiều dài toàn tuyến, nhưng địa thế và điều kiện thi công khó khăn hơn cả.
    Theo các nhà quy hoạch, đường Hồ Chí Minh phần lớn đi qua các vùng lãnh thổ thuộc thềm chuyển tiếp từ trung du lên miên núi, bao gồm 27 tỉnh và thành phố các vùng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia là Bắc Bộ, Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
    Qua kết quả nghiên cứu khẳng định: Tuyến đồng Hồ Chí Minh không những là hành lang giao lưu kinh tế mà còn là hành lang phát triển kinh tế công nghiệp của thềm Trung du-Miền núi, Biên giới tạo nên sự cân bằng phát triển kinh tê, an ninh-quốc phòng. 83% chiều dài tuyến dương bám theo đường cũ sẽ được tải tạo và nâng cấp theo đúng tiêu chuẩn đường bộ. Toàn tuyến đường đi qua 18 khu di tích, bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia như Cúc Phương, Yoc Đôn, Bến Em, Bạch Mã, Phong Nha Kẻ Bàng, các danh lam thắng cảnh như khu lòng hô Yaly, bãi đá thiên nhiên, thác Song Queen Biển Hồ, thác Trinh Nữ, hồ Ea Nhái...
    Các nhà khoa học dự kiến, nhiều khả năng dọc tuyến đường này sau khi hoàn thiện sẽ có 5 cụm kinh tế có khả năng phát triển thành các cơ sở kinh tế chủ đạo vã liên hệ mật thiết với các vùng kinh tế đang phát triển; gồm các cụm Hà Tây-Hòa Bình; Thanh Hóa-Nghệ An, Hà Tinh; Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc; Bình Phước, Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh.
    Để tạo ảnh quan môi trường, góp phần phủ xanh vùng đất rống đồi trọc, Thủ tướng chính phủ chỉ đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các tỉnh có đường Hồ Chí Minh đi qua, thực hiện dự án trông hai băng rừng dọc hai bên tuyến đường.
    Trên dọc tuyến đường Hồ Chí Minh đi qua có khoảng 28 triệu dân thuộc 36 dân tộc sinh sống, sẽ có điều kiện cải thiện đời sống kinh tế-văn hóa-xã hội, nhất là 200/1700 xã đặc biệt khó khăn. Toàn tuyến đường có trên 600 cầu lớn nhỏ và trên 6.000 cống thoát nước.
    Đi trên đại lộ Hồ Chí Minh hôm nay, quá khứ hiện về trên mỗi thước đường. Ở đó, những đồng đội tôi đã gửi lại tuổi xuân của mình trong lòng đất. Cảm xúc đan xen hòa trộn giữ kỷ niệm của một thời bi tráng với thực tại, tương lai cứ theo suốt đường đi không dứt. Con đương của thời kỳ công nghiệp hóa-hiện đại hóa phục vụ quốc kế dân sinh cũng là ơn đến nghĩa trả đối với hơn hai vạn cán bộ, chiến sĩ nằm lại dưới đại ngàn Trường Sơn và đồng bào dân tộc sống dọc theo con đường, là gạch nối giữa quá khứ và tương lai.
    Hai bên đường, những địa danh lịch sử luôn là những mốc giới vô cùng trân trọng như Ngã ba Đông Lộc, nơi 10 nữ thanh niên xung phong hi sinh vì nhiệm vụ bảo đảm thông đường ra mặt trận. Ngắm Cà Tang (nay dưới một cây cầu sừng sững vụt qua) dòng suối trong veo luồn lách giữa những tảng đá phủ ngổn ngang. Ai có thể nghĩ đây là một trọng điểm mà các chiến sĩ mở đường phải chịu đựng liên miên những trận bom tàu khốc của quân thù. Vậy mà ngày đêm xe, người vẫn nối nhau qua. Rồi khe Ve, làng Ho, Sê Lông. Đá Bạc... những cái tên chỉ nhắc tới là lòng ta lại rung lên cảm xúc.
    Để có được xa lộ Hồ Chí Minh hoành tráng hôm nay, những người làm đường phải trải qua muôn vàn khó khăn thử thách chẳng kẽm gì cha anh năm xưa đã làm nên con đường mòn Trường Sơn huyền thoại. Tổng giám đốc dự án đường Hồ Chí Minh Hà Đình Cẩn, ngươi dẫn đầu đoàn thị sát tuyến đường đấu tiên tháng 11-1996 ngay sau khi có sự chỉ đạo của thủ tướng Chính phủ còn ghi mãi ấn tượng: Sau 25 năm chiến tranh, con đường mạch máu của miền Bắc tiếp sức cho miền Nam-biểu tượng của ý chí Việt Nam-bị thời gian tàn phá ghê gớm và gần như mất lối dưới cây rừng tái sinh phủ kín; phải phát cây, vạch cỏ mà đi.
    Công lao đấu tiên của công cuộc xây dựng đường Hồ Chí Minh hiện đại thuộc về hơn 1.000 cán bộ kỹ sư khảo sát thiết kế thuộc Tổng cục Địa chính và Viện khảo sát thiết kế Bộ Quốc phòng. Họ có sự trợ giúp của đủ loại máy móc nhưng vẫn phải đi bộ cắt rừng, băng núi, vượt đèo cao, xuống vực sâu, đu bám vào vách đá nhiều phen nhịn đói nhịn khát mà đo đạc đánh dấu từng mỏm núi, bờ suối... Có máy mà vẫn có tốp khảo sát lạc 21 ngày trong rừng, khiến ai cũng nghĩ phải làm mồi cho thú dữ. Có cung đường phải mở mới hoan toàn như đoạn Tây Trường Sơn, không thể đi nhờ qua đất Lào vì nay là thời bình. Có đoạn thay đổi cho ngắn lại 50km vì kỹ thuật mới cho phép đào hầm xuyên núi được. Thế mà chỉ hơn một năm sau, các đơn vị khảo sát thiết kế đã hoàn thành một khối lượng hồ sơ thiết kế khổng lồ. Một khối lượng mà theo cách làm cũ phải mất 10 năm mới xong.
    Ngày 5-4-2000, lễ khởi công công trình đường Hồ Chí Minh diễn ra trang trọng ở bến phà Xuân Sơn, một dịa danh nổi tiếng của đường Trường Sơn năm xưa. Thủ tướng Phan Văn Khải phát lệnh khởi công đường Hồ Chí Minh. Đồng loạt trên tuyến đường, các đơn vị phụ trách tìm công đoạn ra quân. Núi rừng đại ngàn Trường Sơn lại rùng rùng chuyển động bởi trên 4000 đầu máy: xe máy ủi, máy xúc, xe lăn, xe cẩu, xe tải... cùng tiếng mìn phà đá với hàng vạn con người lao động.
    Huyền thoại lần thứ hai của Trường Sơn từ đây... Để đến hôm nay trên dãy núi cao chất ngất phủ kín từ ngàn đời thâm u, huyền bi, con đường cứ vươn dài ra mãi. Đường như dải lụa vắt lên vắt xuống, lúc hiện lúc khuất trong những đồi mây ôm ấp bảng lảng khói sương.
    Giờ đây đường Hồ Chí Minh hiện đại đã làm xong đến 98% giai đoạn 1. Chỉ nay mai thôi, đại lộ Trường Sơn hoàn tất, đường số 1, con ớ đường quen thuộc chạy dọc bờ biển miền Trung, tuyến giao thông duy nhất xuyên Việt sẽ chẫm dứt thế độc đạo của mình.
    Trong cuộc phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ (9-2003), Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên từng là Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn mở đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử, nay là đặc phái viên của Thủ tướng Chính phủ, tiếp tục gắn tâm huyết của mình vào con đường Hồ Chí Minh công nghiệp hóa, cho biết: Qui hoạch toàn tuyến đường đã hoàn tất từ Pắc Bó đến mũi Cà Mau. Mục tiêu đến năm 2010, đường Hồ Chí Minh sẽ hoãn chỉnh hai làn ô tô suốt dọc gần 3129km, đồng thời mở rộng mặt cắt ngang một số đoạn cục bộ để đáp ứng nhu cầu bức xúc phát triển kinh tế.
    Một huyền thoại mới Trường Sơn sẽ mở ra biết bao điều kỳ diệu đầu thế kỷ 21, khi Việt Nam vươn lên hội nhập cùng thời đại mới. Đại lộ Trường Sơn rồi sẽ có những cột số dựng lên như mọi con đương, nhưng làm sao có thể lãng quên ?ocon đường không cột số" vô cùng gian khổ của những năm vận mệnh đất nước lâm nguy. Những trở trăn day dứt về một thời Trường Sơn bi tráng hãy còn đỏ, nhưng con đường mới thênh thang đang ru êm bao giấc ngủ đồng đội dưới đại ngàn.
    Thành phố Hồ Chí Minh 1991-1993
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Em tiếp tục hầu các bác ạ:
    Đường cổng trời
    Đến cuối tháng 11 năm 1970 thì âm mưu chiến lược của Nhà Trắng đã lộ rõ. Vì sau khi Mỹ xâm lăng Campuchia thất bại, thì cuộc chiến tranh giải phóng của ta và bạn càng lên mạnh. Nixon vội quyết định mở chiến dịch tấn công lên đường Hồ Chí Minh để hòng cứu vãn bọn nguỵ miền Nam. Nhưng bọn địch vẫn giữ kín hướng tấn công chủ yếu. Máy bay địch tăng cường độ đánh phá gấp hai đến ba lần vào các đường vượt khẩu bằng các thủ đoạn mới rất khốc liệt.
    Đường 20, kẻ địch bỏ khu vực Ta Lê, B52 tập trung đánh suốt ngày đêm vào dốc Chà Là, cứ cách 1 giờ đến 1 giờ 45 phút chúng đánh một trận trên đoạn dốc kéo dài 7 km. Cắt ở chỗ này thì mọi đường vòng tránh khu vực Ta Lê, Phu La Nhích trở nên vô nghĩa.
    Đường 12 kẻ địch bỏ khu vực 050 sau khi đã có đường tránh mới. Nó tập trung B52 và phản lực đổ bom đạn xuống con đường chạy trong thung lũng Seng Phan. Hai đầu khoá bằng bom từ trường. Muốn đi tránh cái ?otúi lửa?, hai bên núi đá dựng đứng thì phải vòng xa hơn 70 km.
    Đường 16, máy bay Mỹ cứ nhè vào khu vực ngã ba đường 9-đường 16 mà đổ ào bom các loại.
    Đường 18 men sông M. Nó bắt đầu từ đoạn đường tránh chân đèo lên đỉnh ngàn linh một quặt sang phải, đi vào lòng ngọn rào rồi bắt sang lòng sông M.
    Hai đội khảo sát đã lặn lội mấy tháng trời tìm hướng vừa khảo sát vạch đường đi từ lòng nhánh sống này bắt sang nhánh sông khác, quanh queo luồn lạch dưới chân hệ thống núi đá vôi đi ngược mãi lên, hướng ra đường 9. Một trung đoàn công binh làm suốt cả mùa khô năm trước mới dọn được đá, phá thác làm được mặt đường dưới lòng sông nước chảy xâm xấp. Con đường này hoàn toàn bịt được mắt địch. Nhưng do vụ cháy xăng trong lòng sông, kẻ địch bắt đầu chặn đánh một vài chỗ. Thời gian này nó cứ nhè vào đấy mà đổ bom đạn.
    Như vậy là tất cả mọi trục đường, mọi hướng vượt khẩu đều bị địch đánh mạnh. Các binh trạm dồn dập báo cáo về sở chỉ huy Bộ tư lệnh những thông tin không vui.
    Ngày 5 tháng 12, đánh đỉnh đèo Y đường 16, sụp ba nghìn khối, tắc đường, bị thương bẩy chiến sĩ. Cùng ngày, B52 đánh tám trận vào dốc Chà Là, đường 20 hy sinh tám đồng chí công binh và thanh niên xung phong?
    Ngày 6 tháng 12, B52 đánh đường 18, tắc suốt đêm?
    Ngày 7 tháng?
    Tình hình thương vong, tổn thất xe máy, súng, pháo cứ tăng lên. Tình hình vận chuyển các cửa khẩu rất căng thẳng.
    Binh trạm 12 đã tắc chín ngày, các binh trạm khác đều không đi được. Binh trạm 12 tổ chức cho một trung đoàn xe đi đường tránh qua bản Đủ-bản Xiêng Đao-Khe Lét vòng trở lại đường 128, vượt qua Păc Pha Năng. Nhưng 6, 7 ngày không gọn một chuyến, mà chẳng nắm được tình hình của đơn vị.
    Nguyễn Lang phó tư lệnh trực chỉ huy, cả đêm bám máy điện thoại gọi đi các hướng kiểm tra, đôn đốc thực hiện. Nhưng đến buổi giao ban anh cứ như ngồi phải lửa, rít khe khẽ trong miệng:-Vận tải chứ có phải dựng nhà đâu? Không chỉ huy thì vận mệ gì nổi? Ai lại chọn cậu ấy?...-Chiếc đầu tròn, tóc cắt ngắn bạc phếch của anh cứ day day qua day lại, cất giọng chát chúa:
    -Ôi!... Thông tin, thông tin quái quỷ như thế? cao xạ đánh chẳng ra cái đếch gì? Thủ trưởng các cục phải xuống đi thôi, cần thiết phải nắm lấy mà chỉ huy? Nhất là cái đường Cổng Trời ấy?
    Tôi chưa thấy không khí buổi giao ban nào lại nặng nề đến thế. Sau cuộc họp, tôi về phòng làm việc. Nhìn vào bảng kế hoạch do các trợ lý đã lên những dãy số chỉ tiêu tiến độ mà ngại. Phải có biện pháp cụ thẻ thế nào chứ không thì? Tôi chớp mắt. Không dám nghĩ nốt. Vì những hàng chữ số đó đâu phải do suy nghĩ giản đơn, mà nó đã được thông qua bao nhiêu cuộc bàn cãi, cân đối giữa nhiều ngành, tham khảo ý kiến của đơn vị thực hiện, căn cứ vào khả năng thực tế, nhất là dựa theo yêu cầu tối đa và tối thiểu của các mặt trận? Thế mà bây giờ gạt đi, cắt xén bớt đi ư!...
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Hồi chuông điện thoại chợt réo lên cắt ngang dòng suy nghĩ, tôi ngẩng đầu, với tay cầm máy. Tiếng Mai Trung:
    -Mời anh lên gặp tư lệnh.
    -Chuyện gì gấp thế?
    -Tôi cũng không rõ. Anh Nguyên bảo gọi anh.
    Tôi nghĩ một chút rồi đứng lên đeo ?oxắc cốt? mang súng, đội mũ, chống gậy đi lên đồi chỗ đồng chí tư lệnh vừa ở, vừa làm việc.
    Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên thấy tôi ăn mặc khác mọi ngày, hơi ngạc nhiên:
    -Hôm nay cậu nai nịt cẩn thận thế!
    -Báo cáo anh! Vào giờ này được lệnh gọi bất thường thì chỉ có đi công tác đột xuất.
    Đồng chí Nguyên cười khe khẽ thành tiếng:
    -Ừ! Thì đồng chí nghe nhiệm vụ rồi đi.
    Đồng chí Nguyên nói lại chủ trương của Thường vụ Đảng uỷ họp bất thường. Vẫn kiên trì quyết tâm thực hiện bằng được những chỉ tiêu không giảm yêu cầu. Ngược lại, khi có thời cơ thì tăng lên? Kẻ địch lợi hại thật, nhưng do ta còn kẽ hở trong tổ chức chỉ huy, khắc phục điểm đó sẽ thắng lợi? Bộ tư lệnh chủ trương, tăng cường sự chỉ huy trực tiếp cơ sở. Đường 20 do đồng chí Hoàng Thế Thiện phó chính uỷ trực tiếp đến kiểm tra, có cán bộ vận tải tác chiến công binh đi cùng. Khu vực Binh trạm 32, đồng chí Quang Bích phó tư lệnh trực tiếp chỉ đạo tác chiến ở đây. Với đường Cổng Trời cử tôi là phó cục trưởng vận chuyển phải xuống giúp Binh trạm 12 gỡ tắc khấn cấp. Cần chọn ai đi cùng thì bàn với cơ quan?
    Tôi ghi đầy đủ những điều phổ biến rồi ngẩng đầu nhìn đồng chí tư lệnh.
    -Đường 12 hiện nay đã giảm xuống hướng thứ yếu?-Tôi ngừng lại một chút để chọn lời nói.
    Chừng như nhận ra điều đó, đồng chí Nguyên cười nhẹ nhàng!
    -Trước thế. Vận tải đường đó tới chiến trường xa hơn trăm cây. Đồng chí cũng biết đấy, nó không kinh tế. Nhưng bây giờ phải cơ động các đơn vị vượt khẩu, ta lại khôi phục vị trí đường 12 thành một trong những hướng chủ yếu!
    -Phức tạp là bước vào chiến dịch rồi mà thực lực của nó đã bị điều đi quá nửa?
    -Ta làm chủ, khi ta cần lại tạo điều kiện cho nó được chứ?
    Tôi lắng nghe những ý kiến của đồng chí Nguyên về yêu cầu cấp thiết khôi phục sự hoạt động của đường 12 đối với nhiệm vụ vận tải và có giá trị lớn về tác chiến trên mặt trận đường 9, lại vừa có tác dụng chia lửa cho đường 20 và hỗ trợ cho việc phát triển trục đường 129 nối với đường 23 ép địch ở hướng tây thọc vào thủ phủ Saravan chi viện lớn cho cách mạng Lào. Binh trạm 12 cần phải tăng lực lượng mọi mặt, không phải bằng cũ mà nhiều hơn. Tổ chức lực lượng lớn vào lúc đang chiến đấu thì khó, nhưng làm được miễn là có gan, biết cách làm đúng?
    Tôi thấy vấn đề sáng tỏ và nghĩ: ?oNhư vậy trước đây có những ý kiến đòi hỏi hẳn đường 12 là sai. Mà giảm bớt nhiệm vụ của nó cũng vội vàng quá đấy?.
    Đồng chí Nguyên phân tích mọi lẽ về nhiệm vụ rồi hỏi:
    -Cậu đồng ý với mình chứ? Có cần đề nghị gì?
    Thấy tôi không có ý kiến. Đồng chí gật gật nói:-Cứ làm đi nhé. Còn gì nữa bàn sau. Mà cậu phải hợp đồng chặt chẽ với thông tin. Bảo Trọng và Quý đặt đường dây trực tiếp với Bộ tư lệnh. Gọi điện trước cho cậu Thường vật tư chuẩn bị xe tốt. Đường qua Đá Đẽo, Khe Rinh bây giờ xấu lắm. Nhớ mang thuốc dạ dày theo. Sáng mai đi được chứ?
    -Vâng!-Tôi xúc động với tính chu đáo của ông.
    -Hai ngày nữa đồng chí đã ở binh trạm 12 báo cáo về đây.
    -Rõ!
    Tôi nhìn vào đôi mắt người tư lệnh để bắt lấy tính cách làm việc cứ như nhảy vọt của ông. Đôi mắt đen dài vẫn nhấp nháy như cười, chẳng để lại gì cả mà chỉ xoá đi những nét già trên khuôn mặt hơi dài, nước da tai tái của ông vì trận ốm vừa qua. Ở trong ông cái chất hăng say sôi nổi hoà với phong cách điềm tĩnh, lời nói ráo riết được thoa đi bởi tình người, khơi động người nghe say sưa hành động. Tôi đứng dậy, tuy vẫn còn có điều muốn đề nghị, nhưng lại cảm thấy như vậy cũng được. Rồi mọi việc sẽ tốt đẹp cả?
    Đồng chí Nguyên đưa tay tôi nắm lấy. Ông rung mạnh.
    -Vất vả đấy. Nhưng mình tin các cậu sẽ thắng lớn.
    Chiều ấy tôi vội bàn giao công việc đang làm dở cho đồng chí khác và chuẩn bị mai đi sớm.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Binh trạm 12 ở khu vực Cổng Trời. Sở chỉ huy nằm chân núi Cha Lo. Những chiếc nhà nửa chìm nửa nổi, trần bằng cây lồ ô xếp ba tầng đủ sức đỡ mảnh đạn và bom bi. Sở chỉ huy nằm trên đồi đất bồi pha sỏi, áp vách núi. Dòng suối Cha Lo như quấn lấy doi đất. Nước suối lúc nào cũng đầy ắp, trước kia trong xanh ngọt lịm, bây giờ thì đục ngầu khen khét mùi thuốc bom.
    Đồng chí cảnh vệ dẫn tôi vào ban chỉ huy binh trạm. Chỉ có anh Cần chính uỷ, anh Trang phó chính uỷ, anh Căn binh trạm phó, còn anh Thành binh trạm trưởng lên Na Tông. Tôi đưa giấy của tư lệnh rồi truyền đạt cặn kẽ chủ trương của Đảng uỷ. Sáng hôm sau tôi đến chỗ Thành ở sát trọng điểm Seng Phan.
    Đoạn đường hơn hai mươi kilômét từ Mụ Giạ tới Na Tông. Mấy năm trước qua đoạn này như đi trong đường hầm. Cánh rừng xăng lẻ cổ thụ nối tiếp với rừng lim, gội và sến trải dài mênh mông, ôm lấy sườn dãy Giăng Màn. Các hòn Phu Chiêng, Phu Nọi lọt thỏm trong biển cây nguyên sinh đó. Rừng ở đây mùa nào cũng xanh tươi rậm rạp, vì nó không thuần một giống dây leo hướng dương, cây gai, song mây quấn quít nhau, leo chót vót tận ngọn cây cổ thụ, chúng xoè những phiến lá to như những chiếc tai voi để hứng ánh nắng. Chúng tạo thành khu rừng có bốn năm tầng lá làm nóc. Các đại đội xe đi lại nhận hàng ra, trả hàng vào và bộ đội hành quân lên phía trước cứ nườm nượp. Thế mà hôm nay như là vùng đất mới khai hoang, chiếc xe con của chúng tôi bị trống trếnh quá chừng và bỗng thấy ngờm ngợp với màu đỏ lựng, vần bụi đất và tro nóng đến ngột ngạt.
    Đi hơn một giờ, đến chỗ Thành đang ở trong lèn, chân ngọn núi bị bom đánh trụi, nhưng giờ đã bật nhiều mầm xanh ở những mảng đá đen nhẻm. Trên nóc hang bị bom đào nham nhở, nay bắt đầu phủ rêu. Có lẽ địch bỏ quên cái hóc núi này qua một mùa mưa. Khúc Trường Thành đón tôi ở cửa hang. Nói luôn:
    -Đề nghị anh nghe và xem tình hình tại thực địa.
    -Hay đấy. Càng đỡ phải giở bản đồ. Anh chuẩn bị rồi đi.
    Thành cười giòn tan. Anh có giọng cười đến vui:
    -Sẵn sàng. Đi ngay được đấy.
    Tôi có cảm tình tốt với phong cách vào việc rất tự nhiên giản dị của Thành. Tôi bàn với anh tổ chức bốn bộ phận gồm cán bộ chủ chốt các ngành đi hết các cơ sở nắm ngay các khâu: cầu đường, kho tàng, đơn vị vận tải và phòng không đánh địch. Riêng tôi với Thành sẽ đi tới các trọng điểm. Thành nhất trí, họp ngay cán bộ thảo luận các nội dung cần nắm và phân công thực hiện gấp để kịp hội nghị.

Chia sẻ trang này