1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đường Trường Sơn-Con đường huyền thoại-Những bước chân kỳ diệu

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi hoibihay, 29/05/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. kyto

    kyto Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/08/2005
    Bài viết:
    344
    Đã được thích:
    0
    Ký ức chiến tranh của Vương Khải Sơn viết về đường Trường Sơn khá hay, có ai hứng thú thì mình đưa lên.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ký ức chiến tranh của Vương Khải Sơn viết về đường Trường Sơn khá hay, có ai hứng thú thì mình đưa lên.
    => Bác cứ đưa lên đi nhá.
    Hôm sau Thành đưa tôi đến xem xét các khu vực tập kết cho vượt trọng điểm, xem các ngầm vượt nhánh Sê Băng Phai. Anh nói khá kỹ về quy luật nước lên xuống ở đây. Chúng tôi đi xong các phân đội ở đông Seng Phan mất hết buổi sáng. Mấy anh em chúng tôi dừng lại ăn lương khô ở trạm hộ tống ngầm N1. Anh Thành hỏi đồng chí công binh phụ trách về tình hình địch.
    -Mấy hôm nay thằng Nixon hoạt động ở khúc này ra sao?
    -Báo cáo thủ trưởng!-Ba hôm nay cứ gà gáy lên thứ hai, thế là thằng phản lực bắt đầu rẹt-Anh đưa mạnh cánh tay kéo một vệt ngang mặt-từ đỉnh Phu Ác nhào tới. Thả bom đánh rầm. Thế là chiếc thứ hai bắt đầu rẹt tiếp. Thả rắc rắc? bom vướng nổ bắt đầu?
    Thành hỏi cắt ngang:-Bao nhiêu lâu nó lại đánh một trận!
    Anh công binh xoay hẳn người về phía lèn đá trước mặt:
    -Cứ bắt đầu 1 giờ hai mươi phút. Không hơn kém. Bắt đầu hai thằng phản lực?
    Thành phì cười:
    -Sao cứ bắt đầu mãi! Từ sáng đến giờ nó đánh mấy trận rồi?
    Anh công binh cũng cười thật dễ dãi:
    -Dạ bắt đầu trận thứ 6 rồi.
    Tôi đang ngửa cổ theo dõi sự hoạt động của chiếc OV10 lượn vòng trên khúc đường phía trước, nghe anh công binh nói cũng bật cười, quay lại nhìn anh.
    Anh có khuôn mặt thanh mảnh rất trẻ, nước da trắng mát, nếu không bị vết sẹo dài kia làm cho vầng trán dăn dúm, thì anh có thể lẫn với đám thiếu niên. Đồng chí lái xe đứng bên cạnh tôi vừa cười vừa nói.
    -Trước cậu ấy phụ lái xe húc trực chiến ở trọng điểm đấy, thủ trưởng ạ!
    -Đã lái được chưa?
    -Nó đã kéo xe của bọn em bị sa lầy ở Pắc Pha Năng đấy.
    -Sao lại không ở xe húc nữa?
    -Mùa mưa vừa rồi cậu ấy bị thương.
    -Tên đồng chí ấy là gì nhỉ?
    -Nguyễn Như Khuê. Người Vĩnh Phúc đất tổ Hùng Vương đấy. Trông thế mà tinh thần lắm.
    Tôi thấy cái tên quen quen đã nghe ai nhắc tới ở đâu rồi. Tôi ngẫm kĩ lại khuôn mặt anh lính trẻ. Cái lúm đồng tiền trên má, đôi môi đỏ chót, nước da trắng của Khuê đang bị binh trạm trưởng truy hỏi tình hình, đỏ lựng. Nếu không có mảnh đất khét nghẹt mùi thuốc súng, ngày bỏng nắng, đêm gió buốt thì ít cô gái có nước da đẹp như thế. Tôi bỗng nhớ ra, phải rồi! Đồng chí trợ lý cục chính trị đã báo cáo về những chiến sĩ quyết thắng. Nguyễn Như Khuê nhập ngũ đúng vào ngày Bác Hồ mất. Năm ấy Khuê mười bảy tuổi già hai tháng. Bố mẹ Khuê đông con, nhưng chỉ mình Khuê là con trai, lại út nên được thương chiều lắm. Khuê đã học hết cấp ba, thế mà ngày tết độc lập anh lên thị xã, bố còn sợ Khuê lạc, vẫn phải đi kèm.
    Khuê có văn hoá, quân lực xếp vào ngành kỹ thuật. Từ nhỏ Khuê chưa thấy cái tàu húc. Vào bộ đội, được học điều khiển nó anh cũng thích. Về đây, gặp ngay hồi địch đang đánh mạnh, Khuê ngại quá. Sao lúc nào cũng có nó. Khuê tụt vào hầm, cái tiếng phản lực cứ oằng oặc? oằng oặc xé màng tai. Khuê lùi mãi vào tận góc đáy hầm, tiếng thằng hai thân lại o o? ò ò ò? ì ì ì? ò ò ò? rền rĩ, dai dẳng như tiếng hú một cách dễ sợ. Khi được phân công ra mặt đường, mới nghe tiếng kẻng ở đài quan sát, Khuê đã chạy thật nhanh nhảy phắt vào hầm. Được anh em trong tổ, nhất là đồng chí An tiểu đội trưởng, người đồng hương tận tình dìu dắt. An vừa làm vừa nhủ:?o-Cứ trông tớ mà làm. Trước tớ cũng cáy lắm. Sau quen đi và cứ nghĩ mình sợ nó thì nó càng hung hăng, lo chạy trốn thì nó bắn càng dễ trúng. Khuê cảm thấy đung đúng, qua thử thách anh dạn dần.
    Một bận Khuê theo tiểu đội trưởng đi lĩnh thuốc nổ, giữa đường bị địch đánh. Khuê vọt đi, chui luôn vào hầm. Khi hoàn hồn không thấy tiểu đội trưởng đâu cả. Khuê bò ra, thấy An bị gãy chân không đi được nữa. Khuê vội ôm lấy tiểu đội trưởng, ghé vai dùng hết sức cõng An, vừa khóc sụt sịt. An nghe tiếng khóc mở mắt bảo: ?oĐừng khóc thằng địch nhòm thấy nó cười cho đấy??. Rồi An bảo Khuê đặt mình xuống hố bom và chạy vào hang đi. Khuê khóc không chịu làm theo lời tiểu đội trưởng. Máy bay địch vẫn bắn rèn rẹt. Khuê cố sức luồn lách vượt qua được, đưa An vào chỗ trú ẩn. Máy bay địch phát hiện, nó lao như bổ thẳng vào mặt, luồng gió từ trên ập xuống tối mắt. Khuê liền xách súng, nhảy vọt ra khỏi chỗ nấp, chạy miết ra những hố bom ngã ba đường. Khuê nhảy xuống, vật ngửa ra thành hố bom, lên đạn, giương súng. Chiếc máy bay đã nhìn thấy cái bóng đổ dài trên nền đường cát trắng xoá, nó sầm sập phóng tới, thả bom rồi nhào xuống. Khuê ù hết tai, tim đập phùm phụp, nhưng giọng nói của An bỗng rành rọt trong đầu ?oMình sợ nó, nó càng hung hăng. Chạy trốn thì nó bắn càng dễ trúng??. Khuê hít hơi nén chặt ***g ngực, nghiến răng, nheo mắt nhằm thẳng nó. Lại mở mắt hồi hộp. Nó lao thẳng xuống kìa! Khuê nghiến chặt răng, không kịp nheo mắt, anh mở trừng trừng, nén thở xiết mạnh ngón tay trỏ.
    Chiếc phản lực đang chúc xuống, trông gần như thẳng đứng. Bất ngờ một bó lửa dày đặc, nối đuôi nhao ào ạt phùn phụt từ cái hố bom đỏ loét vọt thẳng lên. Thằng giặc lái vội ngoặt mạnh sang bên. Một tiếng nổ khủng khiếp, chói sáng cả một vùng. Chiếc máy bay đã húc đầu vào ngọn núi, cùng lúc những loạt cao xạ của bộ đội phòng không bắn vãi lửa lên trời.
    Sau trận đó, Khuê như khám phá điều bí ẩn. Đồng chí tiểu đội phó lên thay đồng chí An làm tiểu đội trưởng. Khuê được học lái xe húc, làm lái phụ. Một số lần Khuê đã thay đồng chí lái chính ốm để hộ tống xe qua ngầm. Khuê bị thương trong trận cứu xe hàng trên trọng điểm đầu mùa mưa?
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Mẩu chuyện tân binh Nguyễn Như Khuê đại thể như vậy, tôi đã ghi trong sổ tay. Bây giờ trước con người thật, việc thật, tôi chăm chú nhìn Khuê đang cuống quýt trả lời binh trạm trưởng. Tôi nảy ra ý nghĩ vui vẻ: ?oSẽ dành một buổi nào để nó chuyện với cậu lính trẻ này?.
    Da mặt của Khuê đã đỏ lựng vì binh trạm trưởng cứ hỏi lắm câu hắc búa quá?
    -Này! Cậu có ghi tình hình địch hoạt động trên đường không đấy?
    -Báo cáo! Bắt đầu tôi nhận nhiệm vụ thay đồng chí trạm trưởng hộ tống. Hôm qua tôi bắt đầu có ghi ạ!
    -Ừ. Nhưng còn số liệu cũ chứ?
    -Vâng! Tôi bắt đầu xem lại ạ!
    Thành cười giòn tan.
    -Này ông bạn trẻ! Thành nhìn chằm chằm vào đôi mắt trong veo như trẻ thơ của Khuê-?oBắt đầu? từ đầu xem lại sổ đăng ký. Khi tôi quay về phải ?obắt đầu? ngay bằng bản báo cáo rõ ràng số lần địch trinh sát, địch đã đánh phá ở đây trong bảy ngày qua. Rõ chưa?
    Khuê vội giật chân đứng nghiêm.
    -Rõ!
    -Thế bây giờ tôi vượt ngầm được không? Có còn bom vướng dưới ngầm không?
    -Báo cáo hết. Vì địch bắt đầu?
    Thành giơ tay:
    -Thế đủ rồi. Còn bao nhiêu phút địch sẽ đánh lại?
    Khuê nghiêng đầu vào cửa hầm nhìn chiếc đồng hồ để bàn:
    -Báo cáo bắt đầu ba mươi phút nữa, bắt đầu địch đánh trận thứ 7.
    Thành gật mạnh.
    -Được tôi đi đây-Anh quay sang tôi-Ta đi anh! 20 phút kịp đến T3 vào thăm trạm hộ tống và tổ thông tin 2W ở đấy.
    Đồng chí lái xe đã ngồi sau vành lái, khởi động máy. Chúng tôi dập cửa xe, giơ tay chào đồng chí Khuê. Chiếc xe liền chạy xấn xuống mép nước, đồng chí lái xe nhấn phanh, chiếc xe từ từ bám lấy mặt ngầm trơn trượt vì những cục đá đầu sư. Nước toé ra hai bên như vòi phun xe tưới đường.
    Lên khỏi ngầm năm chục thước, xe dừng lại trước mấy bảng sơn đen, ký hiệu trắng. Một tấm bảng to cao trội, vẽ mũi tên chỉ đường đi tới trạm hộ tống. Một tấm bảng chỉ vào chỗ cứu thương. Một tấm bảng ghi những ký hiệu bom nổ chậm. Một tấm nữa-chắc mới cắm vội. Một cây le kẹp miếng giấy ghi chữ ?obom vướng?. Đồng chí lái xe quặt theo đường có mũi tên. Con đường mới xan để tránh bom, vừa hẹp vừa lổn nhổn những tảng đá to bằng chiếc mũ, bốn bánh xe cứ nhẩy cẫng, đá va vào gầm lục khục. Chúng tôi nắm chắc lấy thành xe mà chốc chốc lại tung người lên khỏi đệm-Tôi cố ghì chặt thành xe nghiêng đầu ra cửa quan sát kỹ thế đất thế núi của đoạn đường qua trọng điểm.
    Con sông Băng Phai hứng lấy các dòng suối nhỏ rồi đổ vào thung lũng Seng Phan. Con đường 128 công binh mở bắt đầu từ cây số 50 đường 12 theo những bình độ thấp và kín. Khi nó vào thung lũng Seng Phan cũng phải uốn theo sườn núi đá dọc theo dòng sông. Ngồi trên xe nhìn về phía trước con đường như một tấm vải trắng nhờ nhờ, hơi vòng vèo lên xuống chạy miết theo hướng Tây Nam. Bên cạnh nó, con sông là một đường xanh đen lúc nằm bên phải lúc ở bên trái. Những chặng núi đá nhiều chỏm liên tiếp, chúng gần như bằng nhau về độ cao, tạo nên những bức tường đá đồ sộ, xếp thành lớp xa lớp gần ôm hai bên đường và dòng sông. Trước kia cây lớn mọc chen vào kẽ đá thành rừng, thũng lũng Seng Phan quanh năm ẩm ướt. Nhưng bây giờ không còn mỏm núi nào là không có vết bom. Những bức tường đá kề đường trắng bóc, nhiều mỏm bị lửa na pan nung mãi thành vôi.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Xe chạy 20 phút. Đồng chí lái xe đột ngột dừng lại nép bên vách đá, tắt máy nghênh tai. Anh vẫn ngửa mặt lên trời nói:
    -Các thủ trưởng nghe xem!
    Chúng tôi cũng nghiêng đầu. Trời im phắc. Những tiếng i i o o của OV10 tắt hẳn. Cả những tiếng ràn rạt của phản lực bay xa cũng không còn nữa. Thành giơ tay xem giờ, gật gật đầu.
    -B52 sắp đến-Anh vỗ vỗ vào cửa xe-chạy nhanh tới T3.
    Chiếc xe chồm lên giật ngửa chúng tôi về phía sau. Đoạn đường này ít đá cục, chiếc xe lao vùn vụt, cuốn bụi lên tận lưng chừng vách núi. Chúng tôi đến T3 độ bốn năm phút thì cả vùng trời Seng Phan bỗng nổi lên tiếng ù ù như tiếng xay lúa nặng trình trịch, mỗi lúc càng to dần như nén chặt không khí ép xuống ngay đỉnh đầu. Những chú chó con của chốt vừa nãy nhẩy quẩng xuống đường ganh nhau sủa, chồm lên chân mọi người mà đánh hơi, chạy lăng xăng, vẫy đuôi rối rít, bây giờ rúc hết vào hang đá. Mọi âm thanh của rừng núi bỗng lặng đi, biến mất trong cái tiếng rù rù nặng trịch dữ tợn, đe doạ sự huỷ diệt. Đột nhiên mắt chúng tôi nhoà đi. Trước mặt bật lên những lằn chớp giật, núi rùng rùng. Tai bỗng như bị nút chặt, bùng bùng trong nhĩ. Khói, bột đất đá bốc lên từng cuồn tới tấp, ngùn ngụt, đặc sệt. Ánh chớp giần giật đổ dồn, cả trái núi T3 rùng rình. Những cột khói đất đá đen kịt lô nhô vọt lên. Thành vớ lấy máy điện thoại quay nhẹ tênh. Anh đặt xuống nói gì đó. Không nghe, nhưng tôi đoán anh phàn nàn về việc mất liên lạc. Đồng chí trạm trưởng giơ tay ra hiệu và nói như gào vào tai chúng tôi:
    -Nó sắp đánh đúng vào đây.
    Tôi gật gật. Thành vẫy đồng chí thông tin vô tuyến bảo lên máy. Nhưng bỗng vô vàn ánh chớp chói lọi vụt loé. Chúng tôi vội thụt sâu xuống. Lần này luồng bão đất, đá, mảnh bom ập vào cửa hang. Đất, khói, thốc sâu xuống tận đáy, oặc vào tận ngoc ngách kẽ hang. Đàn chó rít ăng ẳng, ư ử như bị chịt cổ cắt tiết. Mấy chiếc ca nhôm trên bàn bật xuống sàn đá. Mọi người chộp vội lấy sách vở, luồng gió cứ giật phành phạch, xé tướp tấm bản đồ khu vực đã ghìm chặt vào chiếc bàn gỗ trong hang. Mồm người nào cũng lạo xạo cát. Đợt bom thứ 3 vừa dứt khói bụi chưa tan, trên trời đã vang lên tiếng o o i i đáng ghét. Thành đứng dậy hỏi như quát:
    -Có ai việc gì không?
    Đồng chí trạm trưởng chạy vào các ngách hang, kiểm tra một lượt.
    -Báo cáo thủ trưởng an toàn cả.
    Thành rút khăn lau mặt dính đầy đất, rồi nói:
    -Cắt người nối dây ngay đi. Vô tuyến lên máy bắt với các trạm. Cử người đi kiểm tra đường rồi đồng chí đến làm việc.
    Người trạm trưởng lại tất bật chạy đi. Tôi nhìn theo dáng người to ngang hơi nặng nề của anh công binh, chiếc sơ mi quân phục kiểu chiến sĩ, vải dày cộp đã xờn hết các đường viền, cổ áo bắt đầu bợt tướp. Mông quần bạc phếch, nhấp nhổm theo các bước chân tiến sâu vào các ngách hang.
    -Dân Châu Quỳ cùng huyện anh đấy-Thành cười nói với tôi-Dáng người hơi cổ nhưng khá lắm anh ạ! Cậu ta tên là Nguynh-Thành cười giòn tan Hoàng Văn Nguynh, cái tên mới khó gọi! Tôi cứ gọi là Nghinh.
    Tôi nhìn Thành gật gật. Tuy chưa rõ. Nguynh khá thế nào, nhưng qua trận bom B52 đã cho tôi ấn tượng tốt về người cán bộ trạm hộ tống này. Bom nổ rầm rầm, Nguynh vẫn điềm tĩnh dọn giường gấp chiếu phủ lên mấy chiếc ba lô, bê phích nước nhẹ nhàng giấu vào tận kẽ đá, nâng vội chiếc ảnh Bác Hồ cất vào ngăn bàn? Cậu ta làm rất nhanh nhưng không vội. Thành vui vẻ kể về Nguynh.
    -Mùa mưa vừa rồi, trạm này đáng nhẽ chỉ để ba người nhưng vì phải vận chuyển gạo cấp cứu cho bạn và mặt trận B, nên phải tăng lên tám người hộ tống. Ở đâu không rõ, chứ ở đây thời gian đầu và cuối mùa mưa phải chống trơn lầy ác liệt lắm. Tụi tôi lo sốt vó thực hiện chỉ tiêu của đoàn. Quên tiệt mất việc bổ sung gạo thực phẩm cho tổ này. Khi lũ ập đến, tổ chốt giữa trọng điểm coi như là bị cô lập trong biển nước. Sóng cồn lên như thác. Dây dợ thông tin mùa mưa thì anh biết đấy. Với lại cái dịp binh trạm 12 cơ động vào binh trạm 34 đã đưa đi quá nửa khí tài vật tư thông tin rồi. Hướng cửa khẩu này tụt xuống hàng thứ yếu-Thành cười-Vô tuyến hết cả ắc quy mới chết tắc chứ. Tụi tôi chẳng liên lạc được đều đặn với các trạm hộ tống?
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Thành cúi xuống gầm bàn nhấc khay nhôm úp mấy chiếc ca. Tôi cầm phích nước lại, tráng ấm. Thành mở xắc lấy túi ni lông đựng chè ra pha. Đợi ngấm, Thành nói tiếp:
    -Nhưng cái ông Nghinh này cổ lắm-Đại đội một của D770 di chuyển sau cùng, bị bom đánh rồi bị nước, mắc kẹt ba xe gạo. Một lái xe hy sinh, một bị thương, một bị sốt ác tính. Các cậu ở đây phải lo hết. Chôn cất liệt sĩ, nuôi người bệnh rồi đưa về đội điều trị, đưa xe vào chỗ an toàn, do Nghinh lái. Cậu ấy thì làm được nhiều việc lắm. Cả lái xe húc, xe phóng từ, hễ thiếu lái, tạm phải có người thay thì gọi Nghinh-Chính vì vậy mà bọn tôi phải giữ dịt cậu ấy không cho đi dự lớp đào tạo trung đội trưởng.
    Thành rót nước ra hai chiếc ca. Đẩy đến trước mặt tôi một ca, rồi nhấm nháp một ngụm-Chè Thái đấy. Cậu Nghinh uống chè nhịn ăn được đấy.
    Tôi sợ Thành lan man sang chuyện chè thuốc, khẽ cười và hỏi:
    -Rồi sao nữa. Trạm hộ tống này làm ăn thế nào?
    -Anh tính thế này Nghinh có cổ lỗ không. Ba xe gạo bị tắc lại. Tất nhiên xe nào cũng có phiếu xuất kèm theo. Nghinh huy động anh em khuân tất cả 12 tấn gạo lên hàng tốt nhất. Dùng bạt ni lông phủ kín, niêm phong kỹ cửa hàng. Đến khi nước lũ về Nghinh biết không còn cách liên lạc với binh trạm. Cậu ta họp anh em, trước tiên đổ gạo của trạm ra đong lại, chia cho sáu mươi lăm ngày lũ, thực sự không thể đi về binh trạm bằng bất cứ cách nào. Tính ra mỗi ngày tám người chỉ có ba lạng gạo nấu cháo. Ở đây toàn là núi đá, chẳng có củ mài, ngay củ nầng, củ dáy cũng không sao. Anh em đề nghị tính tiêu chuẩn rồi vay gạo kho để ăn, sau lĩnh về sẽ trả vào. Nghinh không chịu. Hôm đói quá anh em lại đề nghị, chỉ mượn một nửa tiêu chuẩn thôi. Nginh gạt phắt: ?oĐã là của công khi xuất phải có lệnh. Cứ tự do lấy được một, sẽ tặc lưỡi lấy mười. Quân nhân cách mạng chết chẳng sợ, thì đói phải tự khắc phục?.
    Anh em ai cũng ngán. Nhưng không giám làm ẩu. Vì Nghinh rất nghiêm khắc và gương mẫu đối với tài sản chung. Song chủ yếu là cậu ấy có uy tín, anh em rất thương. Nghinh đã rình bắt dơi, bắt chuột, bắt ếch, cá để ăn. Sông Băng Phai nhiều cá, nhưng mưa lũ, chỗ này chảy xiết lắm, chẳng kiếm được bao nhiêu. Rồi chuột, dơi cũng cạn dần đi. Anh em đói nôn nao, lả người đi, suất gạo cứ chia nhỏ mãi để cầm hơi bằng nước cháo mà sống. Cuối mùa lũ đại đội xe cho người tìm. Đến hang T3 thì cả tám anh em gầy tóp, mắt trũng sâu đến thẫm lại, môi nhợt nhạt, có đồng chí phù khắp người. Trong ống pháo sáng của anh em chỉ còn miệng bát gạo đã mốc. May mà không ai việc gì. Thành cười-Anh xem chất đạo đức cậu ấy có cổ không.
    Nguynh chạy ùn vào, bùn bết lên tận cổ giầy vải, hai ống quần sắn quá gối, anh nói thông một mạch qua hơi thở gấp:
    -Báo cáo thủ trưởng! Anh em đang kiểm tra đường. Tôi đã đảo xuống một đoạn trước hang mà đã bẩy qua trúng. Nước sông oặc vào lầy ghê gớm. Đề nghị cho tôi ra khôi phục đường. Tôi chẳng phải chuẩn bị, làm xong đường, thủ trưởng hỏi gì tôi báo cáo nấy.
    Nguynh ngừng lại lo lắng nhìn binh trạm trưởng không nói gì, cứ xếp sổ sách vào xác cốt. Tôi thấy vậy liền nói với Thành:
    -Nắm tình hình sau cũng được anh ạ. Bây giờ chúng mình xuống đường xem B52 đạt hiệu quả thực tế ra sao.
    Thành gật đầu. Nguynh cười rộng miệng không thành tiếng, không kịp chào ngoắt nhanh ra cửa hang, quơ choòng cuốc. Tôi nhìn theo cái mông quần bạc phếch cứ nẩy lên, hai bậc một lao xuống đường.
    Chiều và cả đêm hôm đó chúng tôi đi vào tận Ka Vát, đầu mút của Binh trạm 12 rồi lại quay về theo đường tránh, vòng phía tây bắc lớp núi đá thung lũng Seng Phan. Con đường này hẹp, loại xe lớn một cầu qua không được nên đã lâu không sử dụng nay lại càng khó đi. Một tiểu đội công binh hộ tống, chúng tôi mới qua nổi. Về đến Na Tông trời đã sáng rõ. Chiếc phản lực trinh sát đang sèn sẹt từ T1 đến T3 dọc thung lũng Seng Phan.
    Đồng chí trực ban đón chúng tôi ở cửa, cười cởi mở.
    -Các thủ trưởng làm bọn tôi theo dõi căng quá. Hôm qua 7 trận 21 đợt B52 đánh T1 và T3.
    Chúng tôi bắt tay đồng chí trực ban. Thành rút bao thuốc ra:
    -Cảm ơn cậu đã bám kỹ, thông báo các trạm hộ tống chu đáo-Anh quay sang tôi cười giòn tan-Sức anh cũng khá đấy. Đi dài, đường ê ẩm thế mà vẫn tỉnh,
    Tôi cũng cười, chỉ bàn bóng kê ở cửa hang:
    -Còn đủ ca-lo tiếp anh ba hiệp đấy.
    Sau cuộc thị sát chiến địa dữ dằn năm hôm, lúc này mới được dãn gân cốt, nhưng không sao ngủ ngay được. Không phải vì công việc thúc bách, mà vì ?ocái? tôi thấy ở Khúc Trường Thành, nó trái ngược với những điều đánh giá nghiệt ngã về anh? Những tổn thất?, cứ cho là ?othất bại? bộ phận đi, thì có phải do người binh trạm trưởng đương nhiệm không? Hay do cấp tổ chức quyết định ?othể trạng? nó hôm nay chứ?... Bất giác tôi nhếch mép, cũng chẳng phải cười: Thì ra các cụ ta bảo ?oMuốn nói gian, làm quan mà nói? ngày nay vẫn còn đúng đấy?
    Ngày 3 tháng 2 năm 1970 cuộc họp Đảng uỷ Binh trạm mở rộng đủ các thành phần tác chiến, vận tải, công binh tập trung vào nội dung tìm biện pháp thực hiện bằng được nhiệm vụ vận tải chi viện. Tổ chức lại tuyến vận chuyển của binh trạm, chia thành hai cung tiếp sức nhau: Cổng Trời-đồi Xăng Lẻ-Ka Vát, lấy đường 128 vượt qua Seng Phan làm trục tiến quân chủ yếu, đường 12 đi vòng Khe Lét, dùng làm trục nghi binh. Sở chỉ huy cơ bản lên Na Toong còn chỉ huy hậu phương thì đặt ở Cổng Trời tổ chức tiếp nhận hàng hậu phương, xuất lên chiến trường. Tổ chức việc chỉ huy đốc chiến, đánh máy bay địch, mở thêm đường tránh. Tổ chức lại các phân đội công binh của Tiểu đoàn 2 bảo đảm đường luôn luôn thông suốt. Tổ chức lực lượng tiểu đoàn xe cho cân đối hoạt động trên hai cung tiếp sức cho nhau. Củng cố kho cơ bản. Khôi phục mạng lưới thông tin hữu tuyến đến từng phân đội?
    Chúng tôi được duyệt phương án hoạt động này. Đồng chí Nguyên chỉ thị: ?oSau năm ngày thử nghiệm phải đi vào quỹ đạo?.
    Sau cuộc hội nghị này, cơ quan binh trạm tổ chức các bộ phận gọn nhẹ, có chất lượng công tác tốt; đến sở chỉ huy trọng điểm.
    Khúc Trường Thành vốn làm nghề kiến trúc, nhưng khi có chiến tranh lại đi vào nghề vận chuyển nên khi bàn công việc xây dựng anh rất hào hứng. Thành cười giòn tan, nói sôi nổi: ?oĐây là một công trình, một thế trận vận tải chiến đấu hợp đồng dưới hoả lực dày đặc của địch?? Anh nghĩ và làm mọi công việc như vậy đó!
    Ngày 6 tháng 12 chúng tôi hồi hộp nhận làn sóng vô tuyến điện thoại từ chốt chỉ huy đốc chiến do anh Kỉnh trực tiếp báo về:
    ?oChiếc xe thứ sáu mươi lăm đã giao cho Binh trạm 31?.
    Tiếng cười của mọi người như bật ra từ ***g ngực chứ không phải từ thanh quản. Giọng cười của Thành to vui nhất. Con số đó có gì lớn đâu. Song đã mười lăm ngày không một chuyến xe nào tới đích trọn vẹn cả.
  6. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Câu chủ đề lên:
    ?oTàu không số? ăn Tết ở Vũng Rô

    Biết anh Hồ Đắc Thạnh, nguyên thuyền trưởng tàu 41, con tàu đã ba lần đưa vũ khí vào Vũng Rô trong những năm chiến tranh, hiện sống ở Quy Nhơn, tôi tìm đến đó. Kinh đô của xứ võ, kinh đô thi ca một thuở đang giữa hè. Tiếng ve gọi nắng ong ong, nghiêng ngả. Hoa phượng đỏ rực. Và biển biêng biếc như không phải là thế. Đứng trên Gềnh Ráng, nơi có phần mộ Hàn Mặc Tử trông xuống, biển sẫm xanh, ngăn ngắt, có cảm giác như khối nước khổng lồ ấy đặc quánh, dẻo quẹo, có thể xắn ra được.
    Anh Thạnh ở trong một ngõ nhỏ. Ngôi nhà không mấy lớn, nhưng tạo được cảm giác thoáng. Lối đi hẹp, hai bên trồng hoa. Góc sân vườn phải đủ để đặt vài ba cây cảnh...
    Anh Thạnh cao, lớn. Đã bảy mươi, nom vẫn sung sức, tráng kiện. Những gian nan vất vả những năm tuổi trẻ thời dường như không ảnh hưởng đến sức khỏe khi đã bước vào tuổi thất thập.
    Anh rất vui, thậm chí xúc động khi biết mục đích của tôi. Những chuyện của một thời, hình như đã được sắp đặt, suy ngẫm, nên khi tôi gợi ý, anh bắt vào ngay. Kể say sưa. Lưu loát. Sôi nổi. Chuyện đã hơn ba mươi lăm năm, anh vẫn nhớ từng chi tiết.
    - Đầu tháng 11 năm 1964, chúng tôi vừa chở ?ohàng? vào Cà Mau trở về thì nhận được chỉ thị của Bộ Tư lệnh Hải quân: đưa tàu 41 đột phá vào Vũng Rô - Phú Yên... Đây là một nhiệm vụ khó khăn và cả nguy hiểm nữa. Bến mới, địa hình lạ; địa phương tổ chức bốc hàng ra sao, chưa rõ... Song, để bảo đảm an toàn và giữ được bí mật, tàu chỉ được phép vào bến khoảng từ 23 đến 24 giờ. Và nhất thiết phải rời bến trước ba giờ sáng hôm sau.
    Nhận nhiệm vụ rồi, tôi vừa mừng, vừa lo. Mừng vì Phú Yên là quê tôi, có niềm vui nào hơn niềm vui sau bao năm xa cách được trở lại nơi chôn rau cắt rốn, hơn thế, được chở vũ khí về cho quê hương đánh giặc! Mừng vì cấp trên tin tưởng. Song không khỏi lo lắng. Tôi khá am tường địa hình Vũng Rô: ở đó nước sâu, vách đá đổ ra biển chênh vênh; đứng trên đèo Cả, kẻ địch quan sát Vũng Rô rất rõ. Vào Vũng Rô chỉ có một lối hẹp, nếu một tàu địch chặn giữa Mũi Điện và Hòn Nưa là tàu ta không có lối thoát...
    Những ngày kế đó chúng tôi tập trung vào công tác chuẩn bị. Phải tính toán sao cho khi vào, con nước cường nhất, để kịp rút ra ngay trong đêm. 24 giờ ngày 16 tháng 11 năm 1964, tàu 41 rời bến.
    Thôi khỏi kể những gian khổ trên đường đi. Sóng to gió lớn là chuyện thường tình. Khác chăng lần này chúng tôi gặp khá nhiều máy bay và tàu chiến địch. Chúng theo dõi, quan sát... Tuy vậy, ba ngày sau, chúng tôi cũng vào được bến.
    Đêm. Con tàu giảm tốc độ, lách vào chân núi, dò dẫm đi vào, rồi thả trôi trong vịnh. Bóng tối đặc quánh. Thỉnh thoảng chiếc đèn pin trong tay chính trị viên Chiếu hướng vào bờ, chớp sáng. Trong bờ vẫn lặng phắc. Mọi người đứng trên boong căng thẳng nhìn vào mảng đen trước mặt. Hồi hộp. Lo lắng. Bồn chồn. ?oChừ ta tính sao đây?? - Anh Chiếu nháy đèn lần nữa, hỏi. Tôi không quay lại, vẫn nhìn ra phía trước. Rồi tôi cho hạ xuồng, và cử một tổ, người địa phương vào bờ bắt liên lạc... Nửa tiếng sau, một chiếc xuồng con dè dặt tiến đến. Mọi người ngóng xuống, dõi theo... Chiếc xuồng áp vào tàu. Từ dưới đó có tiếng Lê Kim Tự rất vui, nói lên: ?oBáo cáo thuyền trưởng, có các đồng chí ở bến tới!?.
    Tôi mừng quá, vội cho thả thang dây.
    Lê Kim Tự trèo lên trước, sau anh là vài ba du kích. Chúng tôi ùa tới. Lê Kim Tự chỉ người gầy, nhỏ: ?oBáo cáo thuyền trưởng, đây là anh Sáu Suyền, bến trưởng?.
    Tôi hơi sững lại, rồi chợt hỏi: ?oCó phải thầy Trần Suyền đó không??. ?oAi vậy ta? Sao biết tên tôi?? - Trần Suyền cũng ngạc nhiên. ?oĐúng thầy Sáu rồi - Tôi reo to: Thầy Sáu, em là Hồ Đắc Thạnh, ở cạnh làng thầy. ?oHả, Thạnh thiệt sao? Hồi đi tập kết còn thanh niên... Khác quá!? - Chúng tôi ôm chầm lấy nhau...
    - Chuyện cứ như trong mơ... - Anh Hồ Đắc Thạnh kể tiếp - Ai ngờ người ra đón tôi lại là anh Sáu... Trần Suyền, ông tú đầu tiên và duy nhất ở vùng Hòa Hiệp. Nhà anh cách nhà tôi chỉ hai mươi phút đi bộ. Hồi nhỏ bọn tôi vẫn lén lên làng trên nghe anh giảng bài, đọc sách... Sau này anh Sáu là bí thư Tỉnh ủy, rồi Bí thư Khu ủy... Chúng tôi xiết tay nhau, cười mà nước mắt trào ra. Tôi mừng. Anh Sáu cũng mừng. Tôi nói với anh Sáu rằng, mấy đêm rồi, biết sắp được trở về quê sau hơn chục năm biền biệt, thao thức không sao ngủ được. Anh Sáu nói, các anh cũng vậy, tuần qua, đêm nào cũng trõm mắt thấp thỏm ngó ra biển... Không ngờ tàu mình lại to đến vầy.
    Đêm đó, Vũng Rô rậm rịch. Dân công từ các hướng đổ về ngày mỗi đông. Người khiêng. Người vác. Người gùi. Vũng Rô trở nên bé nhỏ. Anh Sáu chạy tới, chạy lui, la hét chỗ này, đốc thúc chỗ kia: ?oSố này đưa đi cầu Cây Khế. Đội hai cho hàng xuống Bãi Tiên. Cứ tới đó, đội kho sẽ tiếp nhận?. Trên con đường từ bãi Chính, bãi Chùa đến Cây Khế, bãi Môn, bãi Tiên, đặc người. Người đi ra, người đi vào. Gương mặt ai cũng hồ hởi, cũng tươi... ở những chỗ dốc cheo leo, người đứng dưới phải đưa thùng hàng qua đầu cho người trên đỡ. Người này đứng trên đầu người kia... Một người đã có tuổi vừa chuyển thùng hàng cho cô gái, chợt trượt chân, lăn xuống dốc. ?oChú Năm!? - Cô gái bỏ thùng đạn, tuột xuống theo. Ông Năm nằm nghiêng, trán rỉ máu. ?oChú Năm, để cháu dìu chú về?. ?oKhỏi! Mày vác thùng đạn đi, kẻo tắc đường?. Tiếng Sáu Suyền nhắc: ?oTốn bao công sức, xương máu mới đưa được khẩu súng vô, cẩn thận nghe bà con?. Từ đâu đó, vẳng lại câu hò ?oAi ơi giữ chí cho bền - Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai?. Giọng khác đáp: ?oAnh về báo nghĩa sinh thành - Chừng nào bóng xế rủ mành sẽ hay...? Rồi có tiếng ai đó xì xầm; ?oLàm sao nẫu biết nẫu dô?. Kế đó một giọng chao chát: ?oTao giã chạt vào mặt mày chớ lúc nãy tới giờ đi đâu, không làm?. Tôi run người, lặng đi. Đã hơn chục năm nay mới lại được nghe điệu hò quê hương, mới lại được nghe hai tiếng ?oNẫu?, ?oGiã chạt?, đặc trưng ngôn ngữ Phú Yên... Quen quá! Thương quá!... Quê tôi đó, bình dị, hồn hậu, chất phác mà gần gũi lạ.
    - Mấy tháng sau, tàu 41 vào Vũng Rô lần thứ hai? - Tôi hỏi.
    - Chưa đầy một tháng! - Anh Thạnh đáp - Cuối tháng mười một, chúng tôi về đến căn cứ thì hai mươi tháng mười hai năm sáu tư có lệnh vào Vũng Rô lần nữa...
    - Nghe nói chuyến đó, ngoài vũ khí, các anh còn chở cả gạo...
    - Phải rồi! Vậy nên tụi tôi gọi đây là chuyến chở hàng đặc biệt mà. Chuyện là thế này. Sau lần chở 80 tấn vũ khí vào Vũng Rô thành công, bộ Tư lệnh Hải quân tổ chức họp để rút kinh nghiệm. Tôi được tham dự. Bộ Tư lệnh biểu dương tàu 41 đã hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời quyết định chúng tôi tiếp tục vào Vũng Rô lần nữa. Tôi thưa với đồng chí Tư lệnh: ?oBáo cáo thủ trưởng, chuyến đi vào Phú Yên vừa rồi, chúng tôi mới rõ ở bến Vũng Rô, anh em rất đói. Hàng ngày du kích nấu cháo với rau rừng, ăn cầm hơi để đón tàu vào...?. Tư lệnh hỏi: ?oý đồng chí là...?. Tôi đáp: ?oVâng, tôi xin được đề xuất để các thủ trưởng nghiên cứu, nếu có thể, chuyến đi này của tàu 41 nên chở cho Vũng Rô ít gạo... Chúng tôi vẫn ý thức, vũ khí vẫn phải ưu tiên hàng đầu, nhưng...?. Không ngờ Tư lệnh rất quan tâm đến việc này và ủng hộ. Ông nói: ?oĐề xuất của anh Thạnh hợp lý và cần thiết. Tôi đề nghị các anh bên hậu cần và đoàn 125 tổ chức sao để có ngay ba tấn gạo, gạo ngon, chuyển vào bến trong chuyến đi này của tàu 41, coi đó là quà của Bộ Tư lệnh Hải quân tặng bến Vũng Rô...?. Chuyện là vậy... Nhớ lại vẫn xúc động...
    ... Tàu 41 vừa thả neo, từ mọi hướng, thanh niên, dân công ùn ùn đổ ra. Tiếng nói chuyện lao xao: ?oTàu thuyền trưởng Thạnh lại vô!?. ?oVẫn tàu chuyến trước, vui quá ta...?. Một cô gái nói to: ?oChào tàu nẫu lại dô...?.
    Mấy cô gái đứng bên khúc khích... ?oCười chi, tao giả chạt vào mày, đến muộn còn cười... Xuống lấy hàng đi...?.
    Rồi họ lội xuống nước.
    Từ những bãi quanh Vũng Rô, những con thuyền mới đóng, hớt hải chèo về phía chiếc tàu.
    Trên boong, tôi khoe với anh Sáu:
    ?oNgoài vũ khí, chuyến này chúng tôi có chở ba tấn gạo ngon là quà của Bộ Tư lệnh Hải quân tặng bến Vũng Rô?. ?oHả, có cả gạo à?...? - Niềm vui bất ngờ khiến Sáu Suyền luýnh quýnh, ông ôm lấy tôi, riết mạnh - Chu đáo quá - Rồi quay về phía đám đông, ông nói to: Bà con.. Tôi xin thông báo, miền Bắc tặng chúng ta ba tấn gạo ngon - Sáu Suyền xúc động - tấm lòng của nhân dân ngoài đó, miền Nam xin ghi nhớ... Phú Yên xin ghi nhớ.
    - Rồi cũng như lần trước, bốn giờ sáng, chúng tôi cho tàu rời Vũng Rô... - Anh Thạnh kể tiếp - Đưa được nhiều vũ khí về cho quê hương đánh giặc, thiệt là mừng... Nhưng kế đó, còn có một niềm vui lớn hơn: chuyến đi thứ ba, tôi được ăn tết ngay tại quê nhà. Điều này ngoài sự mong đợi. Chuyện thật mà mỗi lần nghĩ lại ngỡ như mơ. Sau chuyến thứ hai, Tư lệnh quân chủng gọi tôi lên và giao nhiệm vụ tiếp tục đưa vũ khí vào Vũng Rô lần thứ ba. Ông nói: ?oĐể tạo yếu tố bất ngờ, tàu 41 phải vào bến đúng đêm giao thừa?. Vậy là được đón tết tại Phú Yên thật rồi! Nhận xong mệnh lệnh, lòng tôi nôn nao, khấp khởi. Đưa vũ khí về quê đã là điều may mắn, nay lại được đón tết tại nơi mình sinh thành, nơi đã bao năm xa cách, còn gì sung sướng hơn... Nhưng mừng mà không khỏi lo. Hôm nay đã là hai mươi ba tháng chạp, làm thế nào để kịp đưa tàu vào Vũng Rô đúng đêm giao thừa khi còn bao việc phải làm...
    Những ngày đó bọn tôi bận túi bụi. Lo dầu, lo nước. Lo thực phẩm và nhận vũ khí... Bận, vẫn không quên sắm tết...
  7. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    ... Hồi kỷ niệm bốn mươi năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển, tôi có gặp anh Mười Bang, vốn là xã đội trưởng xã Hòa Hiệp, một trong những người tổ chức lấy hàng ở Vũng Rô, anh kể rằng tết đó, Tết ất Tỵ năm 1965, người Tuy Hòa đón năm mới hết sức đặc biệt. Chập tối, mấy làng quanh Vũng Rô rộn rịp như ngày hội. Thanh niên, phụ nữ náo nức đi làm nhiệm vụ. Từ Hòa Hiệp đến Vũng Rô, người nườm nượp. Nhiều gia đình tranh thủ thắp hương, cúng tất niên, mời tổ tiên, mời ông bà, các cố về đón xuân, rồi hối hả lên đường... Làng Cát chộn rộn, í ới tiếng gọi nhau ?oHòa ơi, đi chưa??. ?oNgũ, đi thôi, trễ rồi?. ?oCon đi má nghe?. ?oChúng mày không kịp ăn gì sao??. ?oNhiệm vụ đặc biệt mà, má!?. ?oThì cũng vái các cụ rồi hãy đi, để các cụ phù hộ cho?... Trong các ngõ, tiếng người lao xao. ?oMấy năm rồi, tết nào cũng chạy càn, chạy giặc, tết này được đi làm nhiệm vụ cách mạng, vui không bà con??. ?oTết mà ở nhà rồi đi chơi, đi nhậu thì thường quá... Tết đi làm nhiệm vụ mới ý nghĩa chớ?. ?oGiáp tết, bên Phú Lạc được mùa cá, lại chống càn thắng lợi, sang năm chắc hên?. ?oRảo cẳng lên... khéo mà có khẩu súng nào, có hòm đạn nào bên Hòa Xuân họ rớ hết?. ?oThím mới đi, không rành rồi... Súng, đạn, từng thùng chất như cồn rạ. Tha hồ thím chuyển, chỉ sợ không có sức?. Từ các lối đoàn người như dòng nước nhỏ, chảy vào Vũng Rô...
    Vào thời điểm ấy, do thời tiết không thuận, mấy ngày qua gió mùa đông bắc tràn về, sóng to, trên đường đi, thường xuyên gặp địch, phải vòng tránh, nên hơn hai ba giờ, tàu 41 mới vào được Vũng Rô. Thạnh cho thả trôi. Trời tối đen. Hết thảy thủy thủ đều lên boong, thấp thỏm ngóng với bờ. Thạnh đi tới, đi lui, chốc lại đưa tay nhìn đồng hồ. Có lúc, anh ngước lên Đèo Cả. Nơi đó loang loáng ánh đèn pha ô tô.
    - Sắp giao thừa rồi! - Có ai đó nói bâng quơ...
    - Thuyền trưởng, có thuyền ra!
    Thạnh quay nhìn xuống. Từ hõm núi trước mặt, một chiếc thuyền con đang hướng tới. Một lúc thuyền cập mạn tàu.
    Anh Sáu Suyền, anh Sáu Cao và năm cán bộ nữa của bến leo lên. Thạnh giang rộng hai tay ôm lấy Sáu Suyền.
    - Anh Sáu ! - Thạnh nghẹn ngào. Rồi lần lượt ôm từng người...
    Người của bến và thủy thủ lần bắt tay nhau. Vui quá! Mừng quá! Mọi người hỏi han sức khỏe, chúc năm mới. Tíu tít...
    - Chú mạnh chớ!
    - Năm nay ăn tết ở Phú Yên, hiếm có.
    - Các anh vô thiệt đúng lúc. Sắp sang năm mới rồi...
    Chợt phía Đèo Cả, nhiều pháo hiệu vọt lên. Thạnh lo lắng đánh mắt nhìn. Sáu Suyền giải thích:
    -Giao thừa... Bọn địch trên đó bắn pháo hiệu đón tết... Vậy là đã bước sang năm mới, chúc anh em thủy thủ sức khỏe, chúc mấy anh chở được nhiều vũ khí cho miền Nam đánh giặc, Bắc Nam sớm xum họp...
    Thạnh nói:
    - Thay mặt thủy thủ trên tàu, xin chúc sức khỏe anh Sáu, xin chúc sức khỏe các anh. Chúc nhân dân Phú Yên đánh giặc thắng lợi... Hơn mười năm rồi mới lại được ăn tết trên quê hương, thưa các anh, xúc động lắm - Giọng Thạnh nghẹn ngào.
    Mọi người lại bắt tay nhau:
    - Chúc mừng năm mới!
    - Chúc mừng một năm có nhiều thắng lợi.
    - Chúc mừng năm sau tàu 41 chở được nhiều vũ khí hơn năm nay...
    - Báo cáo thuyền trưởng, Bác Hồ chúc tết! - Từ trong buồng báo vụ, chiến sĩ thông tin bước ra, thông báo.
    Mọi người cùng nhào tới phía buồng lái. Yên lặng. Từ chiếc máy, phát ra giọng nói của Bác Hồ:
    ?oĐồng bào và chiến sĩ yêu quí!? - Có tiếng khóc.
    ?oNhân dịp năm mới, tôi gửi lời chúc mừng thân ái nhất đến toàn thể đồng bào miền Bắc và miền Nam, toàn thể chiến sĩ cán bộ, đến các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng, đến kiều bào ta ở nước ngoài...?.
    - Bác!... Tiếng Bác Hồ... - Sáu Suyền nghẹn ngào và gương mặt gầy xọp của anh giàn dụa nước mắt. Có ai đó sụt sùi.
    - Thưa Bác, nhân dân Phú Yên xin hứa sẽ đánh giặc giỏi để Bác vui lòng, để Nam Bắc sớm được sum họp, thỏa lòng mong đợi của Bác - Sáu Suyền xúc động nói - Chúng con quyết không phụ tấm lòng của Bác, của nhân dân miền Bắc... Có vũ khí rồi, chúng ta nhất định sẽ lập nhiều chiến công hơn nữa.
    Tiếng pháo trong chiếc đài bán dẫn nổ dồn dập.
    Đêm đó tàu ém vào Bãi Chùa.
    Sáng mồng một, thủy thủ và đại diện của bến cùng đón tết. Con tàu đã được ngụy trang, nép bên vách núi. Ngồi trên boong tàu, có cảm giác như ngồi trong một lùm cây kín... Cười vui, thăm nom, nói chuyện rôm rả. Cuộc tiếp xúc có bánh chưng, bánh tét, có kẹo, có thuốc lá... Tất cả những thứ bày ra bàn đều không có ?omác?. Mọi người ngồi quây quần bên cành mai vàng... Khuôn mặt ai cũng hồ hởi... Các thủy thủ trong vai chủ nhà, chạy qua rót nước chỗ này, lại tiếp thuốc chỗ kia. Bận rộn, tíu tít.
    - Thưa anh Sáu và các anh các chị ở bến Vũng Rô - Hồ Đắc Thạnh nói - tôi là người con của Phú Yên. Thời gian qua vinh dự được chở vũ khí về cho quê hương đánh giặc, vui sướng vô cùng. Hôm nay lại được ăn tết tại quê nhà, không có hạnh phúc nào lớn hơn. Thay mặt anh em thủy thủ, chúc các đồng chí lãnh đạo bến và bà con ta một năm mới nhiều thắng lợi... Biết vô Vũng Rô đúng vào dịp tết, thủy thủ tàu có món quà nho nhỏ tặng bến, đó là hai chiếc đàn ghi ta...
    Mọi người vỗ tay... Trần Suyền nói với một cô gái:
    - Cháu thay mặt đoàn thanh niên, lên nhận và chúc tết các anh thủy thủ đi!
    Cô gái bẽn lẽn đứng dậy, đón hai chiếc đàn từ tay Thạnh... Rồi cô nói:
    - Bác Hồ và Đảng lo cho chúng tôi còn hơn ba má lo cho con. Đồng bào miền Bắc còn gian khổ nhưng đã chắt chiu gom góp lo cho miền Nam từng khẩu súng, từng viên đạn để đánh giặc. Các anh thủy thủ không ngại hy sinh gian khổ, đưa súng đạn vô đây, nhân dân Phú Yên, bà con Tuy Hòa cảm động lắm... - Cô gái nghẹn ngào...
    - So với đồng bào chiến sĩ miền Nam, so với nhân dân Phú Yên, sự hy sinh gian khổ của chúng tôi đã thấm vào đâu... - Chính trị viên Chiếu đỡ lời.
    Trần Suyền ghé tai cô gái:
    - Cháu chưa chúc tết thủy thủ đó nghe... Nào, mạnh bạo lên...
    Cô gái đứng dậy, gạt nước mắt:
    - Xin thay mặt các đoàn viên thanh niên đang làm nhiệm vụ ở Vũng Rô, chúng tôi xin chúc các anh thủy thủ dồi dào sức khỏe, mong các anh chở nhiều vũ khí cho Vũng Rô hơn nữa... Và khi các anh trở ra Bắc, cho chúng tôi gởi lời kính chúc sức khỏe Bác Hồ, kính mong Bác sống lâu muôn tuổi. Kính chức sức khỏe Trung ương Đảng và lãnh đạo Hải quân.
    Tiếng vỗ tay ran ran. Chiếu tiếp lời:
    - Mỗi lần trở về miền Bắc, chúng tôi đều báo cáo với đơn vị và kể với đồng đội những tấm gương chiến đấu dũng cảm của nhân dân Phú Yên; và sự chịu đựng gian khổ, thiếu thốn cùng những mất mát của nhân dân Tuy Hòa. Ai cũng khâm phục và đều cố gắng làm hết sức mình để đền đáp những mất mát, hy sinh đó...
    Trần Suyền nói:
    - Kể tới hy sinh mất mát của nhân dân Phú Yên thật vô bờ. Xin kể với anh em thủy thủ câu chuyện này: Cách đây bảy ngày, địch cho máy bay ném bom, cho quân càn vào Hòa Lạc, giết một lúc chín mươi sáu đồng bào. Rất nhiều người bị thương... - Trần Suyền chỉ vào một cháu bé mười ba tuổi, đội khăn tang, ngồi bên cạnh. Trong trận càn năm ngoái, ba cháu nhỏ này hy sinh. Ngày ngày cháu phải đi lưới, đi câu nuôi mẹ và hai em nhỏ. Trận càn vừa rồi, địch đặt mìn giật hầm giết chết mẹ cháu... Vậy mà cháu vẫn đòi với xã, xin được đi Vũng Rô vận chuyển vũ khí... Hưng, cháu nói với mấy chú Hải quân vài lời đi.
    Mọi người quay về phía cháu bé. Cháu rơm rớm nước mắt:
    - Cháu chỉ có một nguyện vọng là các chú các bác tiêu diệt thật nhiều giặc, để trả thù cho cha mẹ cháu... Và cho cháu được đi vận chuyển vũ khí...
    Mọi người im lặng.
    Sáu Suyền nói:
    - Báo cáo các anh là bà con Hòa Lạc nhà nào cũng khăn tang, nhưng mọi người đều gạt nước mắt, bỏ tết để xin đi công tác... Do vậy so với hai chuyến trước, lần này số người vận chuyển còn đông hơn...
    - Không mấy khi được cùng nhau đón tết trong điều kiện đặc biệt thế này, xin anh Sáu và bà con nâng cốc, ăn bánh, ăn kẹo từ miền Bắc đưa vào...
    Rượu được rót ra. Không khí trở lại vui vẻ. Một người cầm điếu thuốc lá, đánh diêm, rồi nói:
    - Thuốc cũng không có nhãn, kẹo cũng không có nhãn, không hình vẽ... hay thiệt.
    - Vậy tàu mới có tên là ?otàu không số? - Người ngồi bên cạnh nói - Để giữ bí mật mà...
    Một phụ nữ đứng lên:
    - Tôi đề nghị, đã là quà miền Bắc thì phải chia đều. Lúc nữa tôi xin cầm bánh kẹo và thuốc lá về cho đội của mình...
    Boong tàu chật tiếng cười. Thạnh nói:
    - Thưa các anh các chị, của ít lòng nhiều... Tuy không là bao, nhưng chúng tôi đã chuẩn bị đầy đủ, lúc nữa mời các anh các chị chuyển cho những người không có mặt.
    Tiếng vỗ tay lại nổi lên.
    - Rồi đêm ấy, đêm mồng một Tết năm ất Tỵ, chúng tôi và anh em ở bến tổ chức dỡ hàng - Ngừng một lát, anh Thạnh kể - Chiếc cầu tầu làm bằng cây rừng không chịu nổi lượng người qua lại, nên dân công du kích phải dầm mình dưới nước để chuyển hàng. Từ đèo Cả, chốc chốc có ánh pháo hiệu vọt lên. Nơi đó vẫn rì rầm vọng tới tiếng ô tô vượt dốc... Trở về quê lần thứ ba này, có một chuyện mà cho tới tận bây giờ, hơn ba mươi lăm năm rồi, tôi vẫn không thể quên... Khi tầu chuẩn bị rời bến, ông già Năm tuông đi tìm tôi. Gặp ai cũng hỏi: ?oCó thấy thuyền trưởng Thạnh mô không??. Khi tôi xuống cầu tàu, ông Năm xấn vô, đưa ra một bọc nhỏ gói trong chiếc khăn. Ông nói: ?oBà con Hòa Hiệp xin gửi theo tầu nắm đất Vũng Rô, nắm đất Tuy Hòa, một vùng đất giặc chà đi xát lại nhiều lần, nhưng vẫn kiên cường hướng theo cách mạng; nơi từng ăn trái sung thay cơm để đánh giặc, vẫn một lòng hướng theo Bác Hồ, theo Đảng... Tấm lòng và lời hứa của Phú Yên gói gọn trong này...?. Tôi run run đỡ nắm đất quê hương, xúc động đưa lên môi: ?oThưa chú Năm, thưa cô bác, chúng con xin nhận nắm đất này, và coi đây là lời dặn dò thiêng liêng của đất mẹ Phú Yên... Chúng con nguyện xứng đáng...?. Tôi không nói hết được ý mình, bởi lúc ấy, giọng tắc nghẽn và nước mắt đã chảy giàn trên má...
    ... Lúc này, trước mặt tôi, người thuyền trưởng ấy cũng gần như khóc. Anh ngồi lặng, đưa mắt nhìn ra ngoài qua khung cửa sổ. ở đó là ngõ, qua ngõ ra phố. Phố ồn ào và nhộn nhạo. Mặt trời tỏa nắng xuống, vàng óng. Âm điệu cuộc sống đủ sắc dội vào căn phòng. Tiếng xe máy rồ ga. Tiếng ô tô phanh gấp. Và, rất lạ, đâu đó có tiếng chim vẳng lại, gợi sự yên ả thanh bình. Tôi đã nhận ra, đó là tiếng con chim gáy.
    (Văn nghệ Quân đội số Tết Giáp Thân )
    http://vanhoagiaitri.vnn.vn/VanXuoi-C.asp?PostID=1465&Page=19
  8. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Bùng nổ sự kiện Vũng Rô
    Cập nhật lúc 10h04" , ngày 22/12/2004
    Chúng tôi dỡ hết hàng thì trời đã sáng bạch. Nhanh chóng chuyển hàng vào các hang đá. Và giấu tàu.
    Mỏm đá lạ trên vách núi
    Vũng Rô ba bề vách đá dựng đứng. Trên những vách sừng sững ấy, thỉnh thoảng có những chòm cây mọc bám vào đá, lơ lửng giữa không trung hay sát mặt nước.
    Chúng tôi cho tàu áp sát vào một vách đá đen gồ ghề và chặt những cành cây lớn phủ kín. Từ trên nhìn xuống chẳng khác gì một mỏm đá hơi nhô ra, có một chòm cây lá mọc từ vách đá che phủ.
    6h sáng...
    Trên đỉnh đèo Cả, ngay từ mũi tàu ta nhìn lên, cách vài trăm mét là một đồn địch lù lù. Nhìn ra phía biển, cách 500m là một đồn địch khác: đồn Mũi Điệng.
    Thật tình lúc này rất lo nhưng lại tự an ủi: càng ở ngay trước mũi chúng càng bất ngờ. Chúng không thể nghĩ ta dám vào tận đây đâu.
    7h sáng, có ba chiếc trực thăng từ phía nam bay ra...
    Trong chiến tranh, những sự kiện vang dội nhất lắm khi lại bắt đầu từ một ngẫu nhiên không đâu. Ngày hôm ấy một ngẫu nhiên như vậy đã xảy đến, mãi về sau này, sau năm 1975 giải phóng miền Nam rồi, qua tài liệu của địch chúng tôi mới biết.
    Ngày 15/2/1965, tức là đúng cái ngày chúng tôi đến điểm chuyển hàng trên vùng biển quốc tế ngang Phú Yên, Khánh Hòa, trên chiến trường Khu 5 đã diễn ra một trận đánh lớn đặc sắc: trung đoàn 2, sư đoàn 3 quân giải phóng Khu 5 chặn đánh tiêu diệt hoàn toàn hai tiểu đoàn địch tại đèo Nhông thuộc huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.
    Gần chục xe tăng của địch bị bắn cháy tan tành. Đây là lần đầu tiên trên chiến trường Khu 5 quân ta sử dụng súng chống tăng B41. Số súng này do chính các tàu ta đưa vào Khu 5 trong những chuyến trước.
    Thương binh địch ngổn ngang trên trận địa đèo Nhông. Chúng phải dùng trực thăng chở về các bệnh viện ở Quảng Ngãi, Quy Nhơn. Bệnh viện Quy Nhơn cũng chật cứng rồi, chúng lại phải chuyển về Nha Trang.
    Chính trên một chiếc trực thăng UH1B tải thương đó, bay dọc đường số 1 ven biển từ Quy Nhơn về Nha Trang, lúc qua đèo Cả khoảng 12h trưa, viên phi công đã tình cờ nhận thấy ?omột mỏm đá lạ nhô ra trên vách núi phía tây Vũng Rô? mà những ngày trước chưa hề thấy. Hắn liền báo về bộ chỉ huy quân đoàn 2 ngụy ở Nha Trang.
    Phải nói công tác tham mưu của bọn này rất chặt chẽ, tỉ mỉ. Ngày nào cũng có hai lượt máy bay trinh sát bay chụp ảnh suốt dọc vùng ven biển. Đối chiếu các không ảnh chụp những ngày trước, chúng thấy quả là ?omỏm đá lạ trên vách núi phía tây Vũng Rô? mới xuất hiện từ sáng nay.
    Bấy giờ là khoảng 1h chiều. Một máy bay trinh sát từ phía Nha Trang ra, quần mấy vòng trên Vũng Rô rồi bắn một quả mù đúng vào chỗ ta giấu tàu. Lập tức hai chiếc khu trục AD6 lao tới, bổ nhào, ném một loạt bom xăng trúng tàu. Tất cả lớp lá ngụy trang của ta bốc cháy rừng rực. Tan khói, toàn bộ hình tàu lộ ra rõ mồn một.
    Từ đó đến sẩm tối, hàng chục tốp khu trục liên tiếp đến ném bom. Tới 5h chiều thì tàu chìm hoàn toàn.
    Cuộc đụng độ không cân sức
    Trước đó, khoảng 4h chiều, tôi được lệnh cùng đồng chí máy trưởng tìm mọi cách xuống tàu để đánh bộc phá. Trong tàu đã đặt sẵn một khối bộc phá 500kg, đảm bảo giật nổ tung tàu, phi tang. Khối bộc phá này bố trí ở khoang máy.
    Chúng tôi vượt qua bom đạn mù mịt, tiếp cận được tàu nhưng không vào được khoang máy. Tàu bị trúng bom nghiêng hẳn về một bên, cửa khoang máy chúi xuống phía đáy vịnh, bị sức ép mạnh của nước, chúng tôi lặn xuống nhiều lần không cách nào mở ra được.
    Tối, máy bay địch lại đến thả pháo sáng. Mặc pháo sáng, chúng tôi trở lại tàu, lặn xuống, cố lấy hết số súng đạn còn lại trong tàu.
    Mờ sáng hôm sau địch lại đến ném bom.
    Tối 17/2, quân khu phái xuống một tiểu đội công binh, dùng 1 tấn bộc phá quyết phá tan tàu, thủ tiêu tung tích. Nhưng giật nổ bộc phá xong, chúng tôi trở lại xem thấy tàu chỉ vỡ đôi.
    Chiều 17/2 có hiện tượng mới: một chiếc tàu LSM405 của địch có hai tàu chiến PC04 và DCE2 yểm trợ từ phía biển tiến vào, đồng thời trực thăng đổ hai tiểu đoàn bộ binh chiếm các đỉnh cao quanh vịnh. Chúng dùng bộ binh từ các điểm cao đánh xuống, kết hợp tàu thủy đổ bộ, cả máy bay liên tục ném bom yểm hộ. Về sau này chúng tôi mới biết thêm: một tên tướng ngụy từ Sài Gòn bay ra trực tiếp chỉ huy trận này.
    Lực lượng ta lúc này chỉ có một trung đội du kích Hòa Hiệp, hai tiểu đội bộ đội địa phương huyện và 18 thủy thủ, trong đó thuyền trưởng Thêm đã bị thương. Chúng tôi chia nhau đánh chặn không cho địch đến gần chỗ tàu và các hang đá còn giấu một số hàng từ các chuyến trước chở vào chưa kịp chuyển đi hết.
    Suốt các ngày 17, 18 và 19 địch cố đổ bộ lên bờ mấy lần đều bị ta đánh bật lại. Đến chiều 19, một đại đội địch mới đặt chân được lên bờ. Ta vẫn tiếp tục bám đánh, ngày từng tổ đánh chặn, đêm tập kích bọn địch trú quân trên các đồi trọc. Cứ như vậy suốt các ngày 20, 21, 22 và 23.
    Sáng 24, địch lại đổ thêm quân, triển khai từ đường số 1 và các điểm cao phía nam, phía bắc đánh xuống, siết vòng vây chúng tôi lại.
    Nhận định lực lượng đã quá chênh lệch, đêm 24 chúng tôi dùng mìn phá nổ hết các hang đá chứa hàng và tổ chức thoát khỏi vòng vây.
    Giai đoạn mới sau Vũng Rô
    Anh Trần Phong, nguyên tham mưu trưởng Lữ đoàn 125, nói với chúng tôi:
    - Vụ Vũng Rô là sự kiện lớn trong lịch sử con đường biển Đông. Nó chấm dứt một giai đoạn hoàn toàn bí mật của con đường này. Nhưng đương nhiên nó không kết thúc con đường, không dập tắt được quyết tâm lớn của chúng ta dùng biển Đông làm con đường quan trọng vận chuyển vũ khí cho chiến trường miền Nam đang ngày càng đánh lớn hơn. Nó chỉ mở ra một giai đoạn mới của quyết tâm đó. Gian nan hơn, ác liệt hơn, mặt đối mặt thi gan với kẻ thù trên mặt biển mênh mông.
    Chúng tôi ráo riết theo dõi động tĩnh của địch.
    Tháng 4/1965, tức chỉ gần hai tháng sau vụ Vũng Rô, chúng đã bắt đầu triển khai một chiến dịch mang tên Market time, phân công rõ ràng: hải quân ngụy tuần tiễu ven bờ, hải quân Mỹ, tức một bộ phận quan trọng hạm đội 7, ngăn chặn ngoài khơi. Một lực lượng đặc nhiệm của quân đội ngụy được tổ chức lấy tên là lực lượng 115, gồm bảy tàu khu trục hộ vệ, hai tàu quét mìn, hai tàu vận tải đổ bộ cỡ lớn, năm máy bay trinh sát.
    Hải quân Mỹ thì đưa vào công việc này 54 tàu hiện đại. Đến tháng 9/1965, chúng lại tăng thêm năm tàu tuần tiễu ngoài khơi, 30 tàu tuần tiễu trên sông, chín tàu tuần tiễu ven bờ. Toàn bộ vùng ven biển miền Nam được tổ chức lại thành chín khu vực chiến đấu và năm trung tâm giám sát lớn...
    Còn ta? Ta tạm dừng một thời gian để rút kinh nghiệm; ráo riết tổ chức, huấn luyện lại lực lượng; tăng thêm 12 tàu cao tốc. Cần có tàu cao tốc là vì chiến thuật thay đổi: tàu đi đến những vùng biển rất xa, đánh lạc hướng địch, rồi bất ngờ dùng tốc độ rất cao lao thẳng vào bờ, thời gian tàu đi trên vùng biển thuộc miền Nam do địch kiểm soát sẽ rất ngắn, vào bờ cất hàng xong, lại dùng tốc độ cao vượt qua thật nhanh vùng biển địch kiểm soát, lao ra vùng biển quốc tế an toàn.
    Đó chính là để hạn chế khả năng chạm địch, buộc phải đánh địch trên biển hết sức bất lợi. Hạn chế chứ không loại trừ hoàn toàn được. Bởi Mỹ dùng máy bay trinh sát ngày đêm kiểm soát vùng trời rất rộng, tàu ta rời bến miền Bắc là nó có thể phát hiện được rồi và sẽ theo dõi ta suốt hành trình dài, chờ khi ta vào hải phận miền Nam là vây đánh...
    Nghĩa là sau Vũng Rô, tiếp tục đi trên con đường biển Đông sẽ là một trò chơi ú tim lớn, ta hết sức cố gắng lừa địch, tránh địch, nhưng đồng thời cũng sẵn sàng chấp nhận đánh địch trên biển khi không còn khả năng nào khác.
    Tháng 10/1965, tiếp tục mở lại con đường.
    Một thời kỳ mới của con đường biển Đông đã bắt đầu...
    Trò chơi ú tim trên biển Đông ngày càng quyết liệt. Từ 1966-1972, hầu như không chuyến đi nào của tàu không số là hoàn toàn yên ổn, trót lọt...
    Nhưng cuộc chiến đấu thì không dừng lại. Vũng Rô hiểm yếu bị phát hiện thì những bãi cát dài trống trải ven biển miền Trung lại được tìm làm bến đậu....
  9. kyto

    kyto Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/08/2005
    Bài viết:
    344
    Đã được thích:
    0
    XẺ DỌC TRƯỜNG SƠN
    17 giờ, ngày 11-11-1971 chúng tôi được lệnh lên xe từ rừng cao su của nông trường 1-5 tại địa phận xã Cự Nẫm (Bố Trạch, Quảng Bình). Vào đầu mùa khô nhưng trời vẫn lất phất mưa và se lạnh. Đoàn xe Gat 63, mấy chục chiếc nối đuôi nhau lầm lũi tiến sang phía Tây. Càng đi sâu vào Trường Sơn tiết trời càng lạnh. Chúng tôi ngồi trên ôtô rất chật nhưng vẫn phải trùm lên mình những tấm poncho (tăng ni lon), vậy mà hai hàm răng vẫn va vào nhau lập cập. Thỉnh thoảng, bắt gặp một vài chiếc xe đi ngược chiều trở ra, chở trên mình là những thương binh về từ các chiến trường. Vào sâu hơn, qua ánh đèn dù của lũ máy bay đánh đêm ở các trọng điểm, chúng tôi thấy dưới chân dốc, bên cạnh những hố bom nham nhở là những chiếc Zin ba cầu nằm chổng kềnh, cháy xém. Những chiếc xe quân sự đó chở gạo hoặc khí tài vào từ miền Bắc đã gặp những trận oanh kích ác liệt của không quân Mỹ. Đang đi, xe chúng tôi như bị ai nhấc lên rồi đẩy xuống. Trên thùng xe, mọi người bị xô lệch về một phía, nháo nhác, đứng cả lên; có người định nhảy xuống. Thì ra chiếc Gat đang đi, qua ánh đèn gầm, phát hiện ra một ổ voi lớn, liền tránh sang phải. Không may, xe bám mép sườn dốc trơn nên bị tuột nghiêng xuống, thiếu tý chút nữa thì cả xe và người đổ nhào xuống vực. Thật hú vía! Đó là kỷ niệm hành quân đầu tiên trên đường Trường Sơn.
    Sau cú trượt kinh hoàng đó, chúng tôi quyết định xuống xe và hành quân bộ. Chừng 30 phút sau tất cả các xe chở quân đều quay trở ra. Một mặt, càng vào sâu trọng điểm càng dốc và trơn trượt; mặt khác, cánh lái xe cũng sợ bị máy bay C130 và F4 (Con ma) bay đêm phát hiện ra. Từ đây, mở đầu cho cuộc hành quân bộ hơn ba tháng trời trên đường mòn Hồ Chí Minh.
    Khoảng 3 giờ sáng, chúng tôi vượt qua một bãi lầy. Trên vai tôi là cái bàn đế cối 82 ly (15kg) cùng với ba lô quần áo, tăng, võng, thịt hộp, cá hộp, đường, sữa, bột, mì chính, bao gạo 7kg và lỉnh kỉnh quanh thắt lưng là túi mặt nạ phòng hóa, bi đông, dao găm, lựu đạn, túi thuốc cá nhân... ngót ngét 40kg. Không rõ đi được bao lâu và đã cố gắng hết sức nhưng tôi không thể nổi thêm một bước chân nào nữa trên bãi lầy đó. Ngồi bệt xuống vũng bùn sền sệt, tôi kéo vội balô ra tấm poncho trùm lên người, bởi trời càng về khuya mưa càng nặng hạt và lạnh thấu xương...
    Khoảng 7 giờ sáng, đang ngủ say trên vũng bùn, tôi giật mình vì ai đó đang nắm lấy vai tôi lay và gọi lớn: "Sơn! Sơn! Dậy đi, đơn vị đi xa rồi!" Tôi hoảng hốt, mở mắt. Thì ra đó là anh Trần Văn Chương, khẩu đội phó đang quay lại tìm chúng tôi (sau này anh hy sinh trong trận tôi bị thương ngày 18-5-1972). Đảo mắt nhìn quanh một lượt, tôi thấy trước và sau có rất nhiều người cũng tư thế giống mình. Chương giúp vác bàn đế cối 82 và kéo tôi đứng dậy. Bước đi, tôi kịp quay lại nhìn vào chỗ mình vừa ngồi, hơi nước bốc lên lãng đãng như sương. Nhiệt từ cơ thể tôi ngấm vào bùn, lúc ấy mới tỏa ra.
    Khoảng 9 giờ sáng, mình đầy bùn đất, tôi thất thểu vào tới binh trạm 5, binh trạm đầu tiên để từ đây, chúng tôi bắt đầu xẻ dọc Trường Sơn. Ngày ấy, tôi vốn là một cậu học sinh mảnh mai với cân nặng 47kg, sức khỏe B1 và còn thiếu ba tháng nữa mới đầy tuổi 18. Ba tháng huấn luyện tân binh chưa đủ tiềm năng thử thách để vượt qua khó khăn ban đầu.
    Hai ngày nghỉ ngơi, tắm giặt, phơi phong quần áo tại binh trạm, chúng tôi đã lại sức. Ở đây, hàng ngày các loại máy bay trinh sát L19, OV10, A3J vè vè trên đầu như ong suốt từ sáng đền tối, tạo nên một không khí chiến trường căng thẳng, sôi động. Nếu nấu bếp Hoàng Cầm không cẩn thận, chỉ cần một tia khói nhỏ bay lên để bọn trinh sát này phát hiện được thì hậu quả sẽ khôn lường. Trước tiên sẽ là các vụ không kích bằng bom, rốc két và đạn 20 li của Thần sấm, Con ma (các loại chiến đấu cơ cường kích F105, F4); không lâu sau đó, sẽ là hàng loạt phi vụ B52 rải thảm, hủy diệt. (Chúng tôi đã được nghe kể và sau đó là nạn nhân trực tiếp của tình huống trên ở binh trạm 36).
    Ngày thứ tư, anh nuôi dậy từ 4 giờ sáng để lo cơm nước cho bộ đội (ở đường dây này, không có anh nuôi cố định mà là cắt phiên nhau nấu ăn hàng ngày, mỗi ngày hai người). Bởi vậy, sau mấy tháng hành quân trên đường Trường Sơn, chúng tôi anh nào cũng biết nấu cơm ngon, dẻo sau những thất bại ban đầu như cháy, khê, nhão nhoét...
    Đúng 7 giờ, bộ đội bắt đầu xuất phát. Ở rừng nên mặt trời đến muộn. Ai cũng hăm hở. Có vào các binh trạm Trường Sơn mới biết sức mạnh của chiến tranh nhân dân thật kỳ diệu. Cuộc chiến đã huy động được hàng triệu lượt người náo nức ra trận. Đó là cái khí thế của "Những binh đoàn nối nhau ra tiền tuyến. Như tình yêu nối lời vô tận" (Phạm Tiến Duật). Trung đoàn 271 chúng tôi khi vào Trường Sơn được mang biệt danh là "Đoàn 2005". Trước và sau chúng tôi còn biết bao đoàn đã và đang đi...
    271 khi vượt Trường Sơn là trung đoàn thực binh, ngoài lương thực, thực phẩm dự trữ và quân, tư trang cá nhân, còn phải mang vác vũ khí, khí tài nặng từ ĐKZ 75 ly, 12,7 ly, cối 82, cối 60, đại liên, B40, B41 máy thông tin 2W, 15W... Bởi vậy nên thường bị các Đoàn 2006, 2007 vượt lên trước. Đó là các đoàn thuộc Quân khu 2, Quân khu 3, Quân khu Việt Bắc... gồm hầu hết lính từ Thanh Hóa, Hà Nam Ninh trở ra. Họ mang vác nhẹ, chỉ có ba lô quần áo và bao gạo trên vai. Trẻ, sung sức, cùng một quyết tâm ra trận nên lúc nào cũng chen lấn để vượt đoàn chúng tôi. Bởi vậy, đôi lúc đã có những xích mích nhỏ giữa chúng tôi với họ. Dù sao đó cũng là những kỷ niệm đáng nhớ và đáng... yêu trên chặng đường hành quân đầy thử thách, hy sinh của những năm tháng hào hùng đó. (còn tiếp)
  10. kyto

    kyto Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/08/2005
    Bài viết:
    344
    Đã được thích:
    0
    Đến binh trạm 15, lác đác đã có người bị sốt rét. Có thể nói những anh chàng nào to mập, trông khỏe mạnh, sung sức nhất xem ra lại bị quật đổ trước tiên. Thêm một nỗi lo và gánh nặng cho những đồng chí còn lại. Bởi vì, theo quy định và quyết tâm của trung đoàn trước khi hành quân là 100% quân số phải đến đích tập kết an toàn. Đoàn chúng tôi theo kế hoạch, phải tập kết tại Bộ Tư lệnh 470 thuộc B3 ở Tây Nguyên. Như vậy, không còn cách nào khác là buộc phải khiêng cáng những anh em bị sốt, không được gửi lại ở các binh trạm. Phải công nhận một thực tế là ai đã từng bị sốt rét mới thấy hết được sức tàn phá khủng khiếp của căn bệnh quái ác đó. Chỉ vài ba ngày sốt cấp tính, người bệnh gần như không thể bước được nữa. Những cơn sốt kinh người với nhiệt độ cơ thể có khi lên đến 40, 41 độ C. Chỉ một tuần sau khi lâm bệnh thì dù đó là thanh niên khỏe mạnh, cường tráng cũng biến thành một hình hài tiều tụy, suy sụp đứng không vững nữa. Có người chỉ sau vài cơn co giật là trút hơi thở cuối cùng. Đó là trường hợp những ca bị ác tính. Tôi đã đau xót chứng kiến cái chết của người bạn thân cùng trung đội tên là Trần Văn Mão quê ở Nghi Lộc, Nghệ An. Mới buổi chiều còn cùng tôi ăn chuối (cậu ta tìm đâu được một buồn chuối rừng chín bói) ăn xong lại còn tặng tôi 40 đồng tiền (tiền miền Bắc lúc đó), nói để ngày nào ra Bắc dành dụm mua quà cho người thân. Đêm. Khoảng 12 giờ, cậu ta lên cơn sốt cao, co giật mấy cái rồi im bặt. Mão hy sinh lúc tròn 20 tuổi. Chúng tôi mai táng Mão bên cạnh một gốc lim lớn rồi đánh dấu vào đó, hy vọng sau này ai đó có thể tìm lại được. Nhưng... có lẽ chẳng bao giờ hài cốt của Mão có cơ hội trở về quê cha đất tổ được nữa bởi hai lý do: Thứ nhất, chúng tôi phải cuốn theo cơn lốc của cuộc hành quân thần tốc, thứ hai là mối ở Trường Sơn thật kinh khủng. Thi thể cậu ta sẽ bị đàn mối rừng xông trong vài hôm là hết sạch. Ngủ rừng ban đêm ở đây, nếu bất cẩn thì sáng ra ba lô của anh chỉ còn một đống đất và súng AK thì chỉ còn lại phần thép mà thôi... Mối đã xông hết tự lúc nào!
    Đêm nghỉ, ngày đi thấm thoắc đã đến binh trạm 36. Trước đó, chúng tôi đã vượt qua đường 9, đoạn nối từ Khe Sanh lên. Chứng tích về thảm bại chiến dịch Lam Sơn 719 của Mỹ - ngụy phơi bày ra trước mắt. Xác chiến xa M41, M48 cùng xe bọc thép M113 và các loại chiến cụ khác ngổn ngang cả một bãi chiến trường. Vì phải đảm bảo bí mật đội hình hành quân nên chúng tôi phải vượt qua nhanh đoạn đường này. (Đây là binh trạm có cung đường xa nhất trong suốt chặng đường hành quân trên Trường Sơn). Mấy ngày sau đó chúng tôi vượt sông Xê Pôn. Nước sông ở đoạn này chảy rất xiết. Các chiến sĩ công binh Trường Sơn đã lợi dụng các tảng đá chìm giữa lòng sông để bắc cầu ngầm tránh sự phát hiện của lũ trinh sát OV10 và L19 suốt ngày o o trên đầu. Tại đây, chúng tôi có một kỷ niệm khó quên. Đó là việc anh Trần Văn Khánh (Hưng Nguyên, Nghệ An) trung đội phó, khi vượt sông, do sơ ý trượt chân, đã làm rơi khẩu AK xuống dòng nước xiết. Cả anh và chúng tôi thay nhau lặn mò nhưng không thể tìm thấy. Khánh bị lưu Đảng và bị giáng chức từ B phó (trung đội phó)xuống làm A phó (tiểu đội phó)... Sau này trong trận đánh tại ngã ba Lộc Giang (Đức Hòa) vào tháng 5-1972 Khánh đã hy sinh.
    Trạm 36 là một binh trạm nằm giữa đại ngàn Trường Sơn với bạt ngàn cây cổ thụ thuộc các nhóm gỗ quý như lim, trắc, sến, săng lẻ... Có nhứng rừng lim hoặc săng lẻ đi cả ngày đường không hết. Ngày ấy, chúng tôi nghĩ: Sau này, khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, nguồn lâm sản quý giá và phong phú chủng loại ấy sẽ góp phần làm giàu cho hai nước Việt - Lào.

Chia sẻ trang này