1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Em ơi, Hà Nội phố...(Sưu tầm những bài viết về Hà Nội)

Chủ đề trong 'Public Hà Nội' bởi doanminhhang17681, 06/02/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. doanminhhang17681

    doanminhhang17681 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    1.691
    Đã được thích:
    0
    thoiky11a.jpeg
    Cây cơm nguội
    Mang một cái tên xấu xí, cây cơm nguội chẳng có hương thơm, cành cũng không thẳng và lá không to... nhưng nó là sức bền, là sự kiên tâm, bất chấp đổi thay thời tiết...
    Nhưng cây cơm nguội có vẻ riêng mà không cây nào sánh được.
    Hà Nội có những đường cây khá đẹp. Nó là niềm yêu của ai đang ở Hà Nội, là nỗi nhớ của người đi xa, cũng là mong chờ của ai chưa đến.

    Phố Trần Hưng Đạo có rặng sấu sum suê, tán tròn, xanh quanh năm . Phố Lò Đúc có hàng sao đen cao vút, thân thẳng tắp, đầy bóng mát. Đường Thanh Niên có phượng đỏ rực trời hè, nay còn thêm hoa ban tím. Phố Hàng Dầu có hoa sữa, nay còn thêm dâu da xoan. Đặc biệt phố Lý Thường Kiệt và quãng cửa Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội, phố Đinh Tiên Hoàng, có hàng cây cơm nguội. Cái tên xấu xí, nhưng nó có vẻ riêng, không cây nào sánh được. Nó còn có tên nữa là sếu. Hình như chỉ Hà Nội mới có nhiều cây này. Bóng mát lăn tăn, mùa hè xanh ngát. Mùa đông rụng hết lá, cành trơ ra từ to đến nhỏ trong sương mờ, trong mây bạc nhìn cành khẳng khiu mà tưởng ta đang đi trong tranh thuỷ mặc.
    Cây cơm nguội rụng lá trước mọi loại cây. Tháng mười, khi hoa sữa toả hương trong đêm thì lá cơm nguội vàng au, bay đầy mặt đất. Thu đã đến hẳn rồi Hà Nội ạ.
    Nhưng nó cũng lại hồi sinh cùng mùa xuân sớm nhất... Ngay từ tháng chạp, khi những cây bàng còn thả những tờ thư đỏ cho mặt đường, thì từ những cành tưởng đã chết khô, chết héo kia bật ra những cái chấm màu đồng điếu, màu tím hồng, rồi chẳng bao lâu thành màu xanh lá mạ, xanh non như màu nõn chuối, tắm trong mưa xuân sớm, nắng xuân sớm. Lá ấy trông ngon như màu cốm, hấp dẫn trẻ thơ ngắt quả chơi, hấp dẫn cả những ai yêu nhau phải hò hẹn tìm nhau.
    Cây cơm nguội sống hàng trăm năm, có khi còn dài hơn một đời người. Cây cơm nguội mọc thành hàng, cho phố thêm thơ mộng. Trong bóng hàng cây ấy, ai là người có những kỷ niệm vui buồn của đời mình với một gốc cụ thể nào? Có thể đó là buổi không thuộc bài, hôm đi bắt ve sầu, lúc đánh mất hòn bi ve, hôm đi tiễn đưa người bạn, cái buổi lần đầu tiên cầm tay ai, hồi hộp không nói nên lời. Cũng có thể đó là chỗ hai người chia tay vĩnh biệt, hoặc cắt đứt mọi ràng buộc một đời...
    Cây cơm nguội hẳn biết chia sẻ nỗi niềm, tình cảm ấy. Vì thế mà nó cứ thì thầm lao xao, mà rung rinh sáng lên trong nắng ấm, trong mưa phùn, trong dòng đời của bao cây khác, hoa rực rỡ hoặc thơm ngát hoặc thơm nồng... Cây cơm nguội khiêm tốn vì hoa không thơm, cành không thẳng, lá không to... nhưng nó là sức bền, là sự kiên tâm, bất chấp đổi thay thời tiết...
    Tuy vậy, cũng có những cây cơm nguội quá già nua, bị sâu ăn ruỗng, phải nhường chỗ cho cây non, có khi là khác loài. Nhưng nó im lặng, vui lòng.
    Băng Sơn
    Da yeu xin yeu tu noi dau chan thanh cua trai tim
  2. doanminhhang17681

    doanminhhang17681 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    1.691
    Đã được thích:
    0
    Hoa trong thành phố

    Dù đã đi khá nhiều nơi nhưng chỉ riêng ở Hà Nội tôi mới gặp được những bông hoa trong thành phố. Những chỗ tôi đến, hoa thường được bày sẵn trong chậu xô, hoa đứng ngoài đường, trong chợ, hoa ở trong shop kiêu sa, lộng lẫy... nhưng chẳng có nơi nào mà hoa lại "di động" đi khắp phố phường như ở thủ đô.
    Ngay từ sáng sớm, khoảng 3, 4 giờ, các chị các cô đã cần mẫn lên tận chợ hoa để lấy hàng. Vào cái lúc chưa rõ mặt người ấy, cả chợ hoa họp trên một bãi đất trống, rộng ven đê Yên Phụ nhấp nháy những đèn là đèn. Nhìn từ xa cũng chỉ thấy đèn trong y như hội hoa đăng giữa đêm đen. Hình như mỗi "mối" hoa một ngọn đèn. Thôi thì đủ thứ: hồng, cúc, huệ, phăng, thược dược... mùa nào hoa ấy. Hoa được bó lại thành từng bó lớn, thường là bó từ 30 bông, 50 bông, 70 bông, rồi 90 bông... Riêng hoa hồng bao giờ cũng được mặc một lớp áo bằng giấy báo hoặc cuốn ni lông quanh bông để chống sương. Khoảng 5 giờ, 5 rưỡi, trời tang tảng sáng là chợ hoa tan. Sau khi lấy hoa, mỗi loại một ít, các chị bắt đầu sắp lên xe và đi vào thành phố.
    Người bán hoa thường đi bằng xe đạp. Chị cứ thong thả đi, thỉnh thoảng lại dừng lại để phun nước lên những bông hoa cho tươi mát. Mỗi chị hàng lại bày hoa theo một cách khác nhau. Có chị để hoa nằm xuống, bông quay ra ngoài, gốc hướng vào trong, hết lớp này đến lớp kia xếp sát vào nhau. Nhìn từ xa, ta chỉ thấy một vòng vàng rực ở ngoài cùng, tiếp đến là một vòng đỏ, rồi lại vòng tím, trắng... trông thật rực rỡ và tươi tắn. ở giữa là một xô nhỏ cắm đầy hoa cao vút lên. Nhiều khi nhìn từ đằng sau, ta chỉ thấy một vườn hoa tí hon đang di chuyển theo vòng bánh xe, chứ cô hàng hoa chịu khó, cần cù thì đã bị lấp phía đằng trước bởi một cái nấm hoa khổng lồ. Mỗi xe hoa là một tác phẩm nghệ thuật đầy màu sắc khác nhau. Mà dù có cùng loại hoa đi chăng nữa thì mỗi chị, mỗi cô hàng lại có cách sắp xếp, có "con mắt xanh" khác nhau để "trưng bày" tác phẩm của mình. Và ta, người lãng du trên phố cứ việc ngắm thoải mái, thoả thích, ngắm no con mắt của mình một vẻ đẹp thiên nhiên giữa bụi bặm phố phường.
    Trời Hà Nội có bốn mùa thì hoa Hà Nội cũng đủ cả bốn mùa. Mùa xuân - khởi đầu của một năm - khi cây cối qua giá lạnh mùa đông, bắt đầu khoác lên mình bộ áo mới xanh nõn của chồi non và lộc biếc thì hình như hoa cũng nhiều hơn, đẹp hơn, mê hoặc lòng người hơn. Những ngày giáp Tết, sắp sang xuân, bên cạnh rực rỡ tím viôlét, vàng cúc, đỏ hồng thược dược... mỗi hàng hoa bao giờ cũng có thêm vài cành đào con, đào vụn nằm khiêm tốn lấp ló giữa đám hoa đủ màu sắc. Những nhánh đào này đầy nụ, lại còn có cả lá non đang đâm chồi. Ai đó mong xuân sang sớm, hay muốn thay đổi không khí, mua vài cành đào về cắm chơi, vừa rẻ, vừa đẹp làm căn nhà như bừng lên một sức sống mới lạ hẳn, trẻ trung hẳn. Cái nhánh đào con con, trông tưởng như khô héo, gầy guộc ấy lại có một vẻ đẹp riêng. Và chỉ những hàng hoa rong trên phố mới có thể có loại hoa như vậy.
    Tháng tư. Giao mùa. Hoa loa kèn theo chân các cô gái hàng hoa "nghênh ngang" khắp phố phường. Loa kèn thường chỉ có vào cuối tháng ba và rộ lên vào tháng tư. Khoảng thời gian ngắn ngủi ấy nếu ai lỡ quên, không để ý, hay bị những bận rộn đời thường làm cho xao nhãng thì đến khi chợt nhớ ra, muốn cắm một vài bông, gọi cô hàng hoa vào hỏi thì loa kèn đã chia tay với mùa tự bao giờ...
    Đầu hè, hoa lưu ly tím ngắt, đồng tiền đơn, kép, cẩm chướng đủ màu thi nhau tranh sắc trên gánh hàng hoa. Ngày xưa, chỉ đến mùa thu mới có cúc vàng. Thế nhưng bây giờ gần như mùa nào cũng có. Mà không chỉ có mỗi một loại cúc đâu nhé: cúc Tây, cúc Tàu, cúc Nhật... thôi thì đủ cả. Thế nhưng, tôi vẫn thích nhất loại hoa cúc vàng của mình.

    Sang thu, cũng vẫn hoa cúc ấy, màu sắc ấy nhưng đúng mùa, đúng thời tiết - hoa cúc cũng vàng hơn, đẹp hơn, tươi hơn và "thật sự cúc" hơn. Màu hoa cúc lúc ấy y như màu nắng thu: rực rỡ nhưng không chói chang, màu gam nóng mà lại không làm người ta thấy nóng. Có một bó cúc cắm vào lọ gốm Bát Tràng để ở góc nhà thì chẳng khác gì một vầng nắng vàng làm sáng bừng cả căn nhà.
    Loài hoa mà mùa nào cũng có, cũng "sống" trên hàng hoa là hoa hồng: hồng ý, hồng Pháp không gai, hồng Đà Lạt, hồng lai... bông nào cũng to, mập, cành dài và cao đủ các màu sắc.
    Vào ngày rằm, mùng một hoa được gói vào trong lá nhẹ nhàng, tinh khiết. Rồi các bà, các mẹ tảo tần của chúng ta lại dịu dàng cắm vào lọ, đặt lên bàn thờ cùng với ly nước thuỷ tinh trong suốt để chứng tỏ lòng thành với ông bà, tổ tiên... Các cô gái hàng hoa tươi cười chào mời khách. Miệng cười của các cô còn tươi hơn hoa. Tay các cô thoăn thoắt chọn hoa, gói hoa cho khách. Tôi chợt nhớ đến "gánh" hàng hoa trong truyện ngày xưa, với cô gái bán hoa ăn mặc nền nã gánh hoa đi khắp phố phường Hà Nội.
    Mỗi sáng sớm ra đường gặp một vườn hoa nhỏ. Đi trên phố gặp một "gánh hàng hoa", tự nhiên thấy vui hơn, yêu đời hơn, lòng thanh thản hơn khi có những bông hoa trong thành phố.
    (Hà Nội Mới)
    hoa-tp.jpeg
    Da yeu xin yeu tu noi dau chan thanh cua trai tim
  3. doanminhhang17681

    doanminhhang17681 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    1.691
    Đã được thích:
    0
    Thành phố giận thương
    Một người bạn từ Vacsava thư cho tôi: ?oMình về Hà Nội, ở lâu thấy chật chội, nhếch nhác, nếu do sánh thì còn thua Huế (chỗ này), thua Sài Gòn (chỗ kia)?nhưng lạ lắm, hễ xa Hà Nội là ai cũng nhớ quay nhớ quắt. Nhớ từ bát phở nhớ đi. NHớ Hồ Tây, Bờ Hồ, nhớ mùa này là mùa hồng mùa cốm. Đêm xa nhà mở băng ca nhạc về Hà Nội. Có lẽ trên thế giới không có thành phố nào lị có nhiều bài hát ca nhợi tuyệt vời như Hà Nội??
    Người bạn nói đúng. Ai sống ở Hà Nội vào những ngày này, dù giàu sang hay còn thiếu thốn cũng không thể ?oghét? được Hà Nội. Đã sắp nghìn năm tuổi mà ngày một đẹp ra. Chưa ai đi hết 500 con phố Hà Nội. Các đô thị mới thì ngạo nghễ vươn lên trời. Có người đến khu Linh Đàm đã ngạc nhiên: Xinhgapo!
    Ba phần tư dân Hà Nội sống không mặt tiền, trong các ngõ ngách chằng chịt. Nhưng nhìn các dòng xe cuồn cuộn kia ai biết ai trong ngõ, ngoài đường? Thành phố căng cứng vì dân ngoại tỉnh lên kiếm sống. Nhưng khi màn đêm tiễn chân ngày, nhịp phố phường trùng xuống, Hà Nội lại phô bày một cách đúng mực về vẻ đẹp thanh lịch của Thăng Long. Chưa có gì hơn được mùi hoa sữa váng vất trong đêm cuối thu. Dù không muốn, mùi hoa sữa vẫn chầm chậm len lỏi vào trong phòng bạn. Quái lạ, ban ngày có ai nhìn thấy ?onó? ở đâu mà tối đến ?onó? cứ cố tình đến với ta. Chính mùi hoa nhắc ta Hà Nội đã sang mùa. ?oChiếu trúc đêm nằm đã lạnh lưng/ Người xa, nhớ quá, nhớ vô cùng?? Đắp cái chăn đơn lên thì hết lạnh. Bỏ chiếu trúc, trải đệm lại sợ nhỡ mai Hà Nội lại nóng. Ôi cái thành phố vừa giận vừa thương, cứ hành nhau như thế mà ?oxa là nhớ, gần nhau là cười?.
    (Một bài tản văn về Hà Nội trên báo Lao Động ngày 10-10)
    Da yeu xin yeu tu noi dau chan thanh cua trai tim
  4. doanminhhang17681

    doanminhhang17681 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    1.691
    Đã được thích:
    0


    Tiếng rao Hà Nội ngày ấy... bây giờ

    Hà Nội nhộn nhịp mà sâu lắng, vừa thâm trầm tuổi nghìn năm, vừa tràn trề sức sống tuổi thanh xuân. Những con phố từ lâu đã quen với những tiếng rao, quen đến nỗi đôi khi người ta không còn nhận thấy nữa. Nhưng những người thủ đô đi xa lâu ngày, bất chợt nghe một tiếng rao lại giật mình, chợt nhận ra đó là một phận của quãng đời mình.
    Trong ký ức của người Hà Nội xưa còn văng vẳng tiếng rao thời trước. Tiếng rao dường như là toàn bộ âm thanh của những đêm Hà Nội thanh vắng, dài và buồn. Hồi đó, những người bán hàng đêm ở khu phố cổ Hà Nội chủ yếu là Hoa kiều. Trời nhá nhem tối đã vang lên từ đầu ngõ tiếng rao "phàn sôi, phá sa" uể oải của người bán lạc rang nóng, "chế ma phù" của người bán chè vừng đen. Quãng 8 giờ tối, khi những âm thanh nhộn nhịp của ban ngày đã lắng xuống là lúc bắt đầu nhịp điệu chậm rãi trong tĩnh lặng của buổi đêm. Người ta lại nghe thấy tiếng rao "lục tào sá" kéo dài. Đó là tiếng của ông bán chè đỗ xanh. Còn nếu đáp lại lời rao "suỵch chế, suỵch chế...", người bán sẽ ngừng bước, đắt gánh xuống mở vung nồi và đưa cho khách những khẩu mía hấp nóng hổi, ngọt lịm. Những ai đau lưng, mỏi người, vào giờ này lại mong chờ tiếng rao "tầm quéc" với tiếng gậy khua lộc cộc của mấy anh chàng tẩm quất. Khi đêm đã khuya, ai đó còn thức thì nghe thấy tiếng "tỉm săm bao" (bánh bao nóng)... Đêm càng khuya, tiếng rao càng nhỏ, nhưng lại vang xa, ngân dài từ đầu phố đến cuối phố, nhẫn nại và chậm chạp. Tiếng rao nối những con phố dài vắng lặng hun hút với những ánh đèn dầu leo lét làm cho đêm sâu hơn. Sự tĩnh lặng vốn có của phố đêm Hà Nội càng rõ hơn. Quãng gần về sáng là thời gian cho người bán bánh cuốn nhân thịt, cháo gà, mỳ vằn thắn. Khi những tiếng "lò mải phàn" của người bán lạp xường nóng cất lên là lúc bình minh bắt đầu. Rồi tiếng rao bánh mì, lạc rang, ngô rang, hạt dẻ lẫn với tiếng guốc loẹt quẹt trên hè phố, đôi lúc kèm theo tiếng chổi tre quét đường xào xạc... tạo thành một âm thanh xôn xao đánh thức mọi người sau một đêm yên giấc, báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Phố cổ càng duyên dáng thêm bởi những bước chân mềm mại ăn nhịp với giọng rao ngọt ngào của các cô hàng bánh, hàng quà trên đất Hà thành.
    Nhiều năm sau, Hà Nội có thêm những âm thanh mới. Tiếng toe toe inh ỏi phát ra từ chiếc còi hơi gắn ở đầu ghi đông chiếc xe đạp đã tróc hết sơn của chú bé bán kem đã thay cho lời rao bán: "Ai kem đây!". Tiếng rao kéo dài, ngân nga của các bà đồng nát, đổi xoong nồi, đội nón, khăn che kín mặt, gánh hai chiếc tải xộc xệch bạc phếch, loang lổ màu thời gian. Tiếng rao của anh chàng kẹo kéo vừa hóm hỉnh vừa dụ dỗ: "Kẹo kéo đây! Kẹo kéo càng kéo càng dài càng nhai càng ngọt nào..." rất hấp dẫn đối với trẻ con. Chúng luôn để ý tìm nhặt những thứ cũ hỏng để đổi lấy một chút ngọt ngào nho nhỏ. Những bà đồng nát ngày nay là những người thu mua giấy loại, vỏ lon bia, vỏ chai và nhiều thứ khác. Họ gánh đôi thúng len lỏi giữa các khu dân cư. Phố thì ồn, nhà thì cao tầng, tiếng rao của họ cũng như của những người bán bánh, rượu nếp, thợ mài dao kéo... không còn ngân nga như trước. Người ta cố vươn dài cổ, hét thật to để át đi những âm thanh hỗn độn của cuộc sống.
    Người Hà Nội bây giờ có lẽ đã quen dần với những tiếng ồn. Vào buổi sáng, tiếng rao không còn dễ đánh thức họ như trước, bởi nó lẫn vào muôn vàn âm thanh khác từ lúc sớm tinh mơ. Tiếng rao bắt đầu được điện tử hoá, ban đầu là một cái đài nhỏ được vặn hết volume chạy bằng ác quy, sau là cả một dàn tăng âm với loa thùng, loa nén lưu động. Khắp các chợ, các khu dân cư từ sáng đến tối vang lên giọng the thé nhưng đặc biệt: "Ai đã tống tiền hoa hậu... Cháu họ giết cô chỉ vì một chỉ vàng... Vì sao H từ một học sinh ngoan ngoãn biết nghe lời cha mẹ lại tìm đến cái chết?... Muốn biết chi tiết, mời các bạn đón đọc báo Công an Nhân dân, báo An ninh Thủ đô, báo An ninh Thế giới đăng bài về vụ...". Đó là mục "điểm báo" của những anh chàng bán báo rong thông qua chiếc băng cassette đã được ghi sẵn một nội dung. Nó kích thích sự hiếu kỳ của mọi người, khiến báo bán được nhiều hơn, nhưng đôi khi làm người yếu bóng vía phải rợn mình kinh sợ trước những chuyện bạo lực giật gân như trong lời rao báo. Khi tiếng nhạc vàng ai oán di chuyển từ xa đến gần, từ gần đến xa có nghĩa là anh bán dạo băng đĩa nhạc và trăm thứ lỉnh kỉnh như lót giày, đeo chìa khoá, bơm ga bật lửa... đang quanh quất đâu đó. Thuốc tẩy Hoàng Tiến đã từng "nổi tiếng" nhờ những cuộn băng giọng Nam bộ, quảng cáo cho một hãng thuốc ở thành phố Hồ Chí Minh với thứ nước javen mà người ta có thể mua nó ở bất kỳ cửa hàng hoá chất nào với giá rẻ hơn nhiều lần. Không ít người Hà Nội đã phải khó chịu khi nghe tiếng loa: "Xin mời bà con hãy mua thuốc diệt chuột của Hoàng tử..." và sau đó là một chuỗi dài theo điệu: "Chuột Pháp, chuột Mỹ, chuột Tuynidi, chuột Thổ Nhĩ Kỳ, chuột gì cũng chết...". Những tiếng rao được lặp đi, lặp lại khiến nhiều người (đặc biệt là trẻ em) đã thuộc làu... Thay cho tiếng tàu điện leng keng trước kia là tiếng mời chào đến khản đặc của mấy anh lơ xe buýt: "Giám, Cửa Nam, Bờ Hồ, Bác Cổ lên đê...". Sau mỗi tiếng như vậy, mọi người vội vàng lên, xuống xe nhanh như ma đuổi. Thời buổi công nghiệp hoá mà, ai cũng phải cố tỏ ra năng động hơn. Vào chập choạng tối, người ta đã quá quen với những tiếng trẻ em lanh lảnh rao bán kết quả xổ số: "Kết quả đây", mà ai đó ác khẩu, đã vui tính đọc chệch đi thành "Chết cả đây". Mà cũng chết thật. Không ít gia đình phải tan vỡ hạnh phúc chỉ vì hy vọng vào vận may mỏng manh từ những cuộc chơi lô, đề đỏ đen đang len lỏi vào từng ngõ ngách, khu tập thể của thành phố.
    Đêm xuống, tiếng rao không còn là phần sống động duy nhất nữa. Lẫn trong tiếng ôtô, xe máy là tiếng rao của những người bán bánh như cố gào lên cho to hơn như giục giã khách mua hàng: "Mỳ nóng đê", "Bánh khúc đê"... Chỉ vào những đêm mưa phùn gió bấc, khi ngoài đường vắng tanh, thì tiếng rao bây giờ mới còn phảng phất được màu sắc của tiếng rao xưa. Nó văng vẳng từ ngoài vào trong, từ mặt phố lên đến tận tầng 4, tầng 5 của các khu nhà cao tầng. Nó đem đến cho người ta chút ấm áp được ủ kín trong nhiều lớp bông, vải của thùng xốp đựng đầy bánh mỳ, bánh khúc. Cái phần đêm này khiến người ta còn nhận ra một Hà Nội yên tĩnh đến sâu lắng sau cái phần ngày ồn ào, náo nhiệt kia...
    Rõ ràng, sự ồn ào của đô thị trong nền kinh tế thị trường đã và đang len lỏi vào từng làn da, thớ thịt của thủ đô. Nhưng, những người đã từng gắn bó với Hà Nội, hay hoài niệm về một Hà Nội xưa, không khỏi chạnh buồn khi thấy những tiếng rao - một phần của hồn Hà Nội đang lùi dần vào quá khứ...
    Trọng Quang (Hà Nội mới cuối tuần)
    Da yeu xin yeu tu noi dau chan thanh cua trai tim
  5. doanminhhang17681

    doanminhhang17681 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    1.691
    Đã được thích:
    0
    Phố yên tĩnh

    Không rõ mình đã giữ lại được chút gì của mùa thu, của con phố lang thang buổi chiều đạp xe một mình và bất chợt cười như kẻ khùng? Lối cũ dịu dàng, xôn xao bên những vòng xe quay mê mải. Gió cuốn theo một chiếc lá đỏ dễ thương. Này em, cô bé tóc ngắn đừng vội nghĩ rằng chỉ riêng em mới biết níu dài thêm con đường tan học để được đi qua phố- yên- tĩnh.
    Phố-yên-tĩnh trải dài hai hàng cây xa tít tắp như chờ người xa về lại hay làm cho có kẻ không dứt nổi để ra đi. Phố nhiều hoàng lan và hoa sữa, hai thứ cây chỉ mùa thu mới biết mình duyên dáng. Bây giờ không phải vô cớ mà giờ tan trường nào học trò của mấy ngôi trường trung học kế đấy Chu Văn An - Hoàng Diệu - Phan Đình Phùng cũng có nhóm đạp xe dọc theo phố nhẩn nha thong dong, ngắm hè phố quen và những ngôi nhà không đổi khác. Ừ, mấy năm rồi nhà bên đường không có gì đổi khác. Bờ rào ngang vai mình xanh rêu, vôi tường cũ kỹ và khu vườn yên , tôi ngày xưa chỉ dám đứng ngắm, rồi lặng lẽ đi qua. Để lại đây và mang theo khá nhiều kỷ niệm. Những con bồ câu ngày xưa đã đi đâu mất, bóng đôi cánh trắng còn vướng lại trên gióng ngang treo đèn đường.
    Hồi ấy, con đường buổi chiều thân mật thả lá rụng từ bên này sang mái phố bên kia. Xác lá khô dạt bên hè đường, tiếng lăn nghe gai gai buồn. Phố chia hình xương cá, hàng loạt phố nhỏ chạy ngang qua giống như những gân lá xinh xinh. Ngõ hẹp hoa sữa thơm về đêm. Hoàng lan cũng thơm đêm, ký ức nôn nao và nghe lòng mình trĩu nặng. Kỷ niệm góp nhặt bằng dư âm của nốt nhạc trong trẻo ngân thầm nơi ký ức. Đêm về trên phố, tôi vẫn khe khẽ hát bản tình ca một mình. Gió của hồ thảng hoặc gõ cửa một giấc mơ đêm nào đó, kẻ độc hành đôi khi nghe thấy tiếng sóng trong lòng, buồn buồn và không rõ nét.
    Ngày xưa còn đường ray, xe điện chạy túc tắc giữa phố làm người khách lạ nhiều khi ngẩn ra.Tôi đi giữa phố, để mặc nỗi nhớ xuôi về những năm nào tuổi thơ xa lắc, nghe tiếng chuông tàu điện leng keng mỗi sáng, chở những lao xao dọc phố, và hoa, và mùa thu đi vào trong phía trung tâm. Bây giờ không còn xe điện, lòng đường không còn dấu tích hai vệt đường ray in hằn tháng năm nữa. Đã mấy mùa thu hoa sữa lẫm chẫm sắc bông li ti tri suốt từ đầu phố Thụy Khuê đến vườn hoa Hàng Đậu. Hoàng lan vườn ai cong cành lá, đu đưa mơ màng. Học trò qua đây ít người nghển cổ nhìn vào tận trong vườn nhà người như tôi xưa. Buổi chiều, tôi đạp xe dọc phố, ngửa mặt nhìn bầu trời xanh yên bình một thủa, tìm đến nơi mà kỷ niệm đã sinh ra. Tôi cố tìm gió, nắng, hoa của mùa thu ấy, dù biết rằng mình đã xa lắm tuổi mười bảy. Nhớ có lần nghe Nam kêu: Phố của hương hoàng lan... Tôi không chịu thế: Đó là hương hoa sữa!... Giờ đi lạc giữa đám học trò tan trường mới thấy mình lạc lõng, thấy mình buồn bã và nuối tiếc cồn cào. Mới hay mình giờ như cơn gió cô độc, chẳng bao giờ hiểu rằng mùa thu nào cũng vẫn dịu dàng như thế, duy chỉ có những người thân yêu là xa, ngày tháng cũ cũng đã cách xa. Tôi buồn, và cười như kẻ khùng, thấy mình đánh mất hết thứ này đến thứ khác quý giá.
    Phố - yên - tĩnh chìm nửa trong chiều. Hoa sữa non màu xanh, nở ra trắng ngà. Hoàng lan trong vườn ai cũng đã nở hoa vàng, kín đáo trong chùm nụ non xanh. Mái phố ấp ủ hương thơm, tán lá che chở bình yên cho hồi tưởng âm thầm, đêm xuống mới hào phóng ban phát tất cả cho kẻ độc hành. Mùa thu tóc dài - mùa thu yêu thương, và còn mùa kỷ niệm cho những kẻ cũ tìm về nhận ra nhau dưới những hàng cây đan nhau trong lòng phố.
    Trang Hạ (Hoa học trò)
    Da yeu xin yeu tu noi dau chan thanh cua trai tim
  6. doanminhhang17681

    doanminhhang17681 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    1.691
    Đã được thích:
    0
    Nếu một ngày xích lô rời phố

    Người xích lô già vui tính chấp nhận đổi chỗ cho tôi trên chiếc xe ba bánh cũng già nua, để cùng dạo một vòng Hà Nội, đặng tìm hiểu nghề xích lô sau ngày thu hồi giấy phép. Tôi làm người đạp xe, còn ông già bỗng trở thành "thượng đế" bất đắc dĩ... suốt từ Ô Quan Chưởng sang Quan Thánh, về Bưởi, Cầu Giấy, đường Láng, Ngã Tư Sở, phố Tàu Bay ra Minh Khai về lại hồ Thiền Quang... Câu chuyện giữa chúng tôi cứ bị ngắt quãng, ngắt quãng. Không phải vì đèn đỏ, vì "sự cố đường tắc, mà là sự ngắt quãng của ký ức ông già"...
    Ông kể: Đời bố tôi, rồi đời tôi đều theo nghề xích lô. Bố tôi bảo rằng khoảng sau năm 1945 Hà Nội mới có xích lô nhưng lịch sử của loại xe thô sơ hạng nhất này bắt đầu từ Pháp quốc, đâu khoảng đầu thế chiến thứ hai. Xích lô sang Đông Dương lần đầu tiên tại Phnompenh, sau đến Sài Gòn và cuối cùng có mặt tại Hà Nội... Cũng như đời con người, xích lô cũng có lúc thịnh lúc suy. Một thời đi trên phố, xích lô liên tục xuôi ngược như là một loại phương tiện thông dụng bên cạnh xe đạp. Rồi có lúc người ta ngại ngồi xích lô, sợ bị coi là bắt người khác hầu hạ. Rồi xích lô vào hợp tác xã, ít người đi xe thì chở hàng hoá. Được việc ra trò...
    Một thời trước khi đổi mới, chiếc xích lô mới tàn tạ làm sao. Nó phải làm đủ chức năng, nên không ai chăm chút hình thức. Đến thời mở cửa, xích lô có dịp bung ra. Lúc cao điểm, Hà Nội có trên 4.000 chiếc và lúc này xích lô cũng bắt đầu chia ra thứ hạng. Hạng sang chuyên chở khách du lịch, phục vụ cưới hỏi, nên đẹp mã hơn với ghế ngồi đệm mút, mui đính tua rua vàng, gọng xe bọc nhôm hoặc inox sáng choang. Loại xe bình dân xù xì khung sắt như vốn có từ xưa, nay có thêm cái đệm mút thay cho mảnh chiếu một thời.
    Trước mặt chúng tôi ngang qua phố Tuệ Tĩnh, một đoàn gần chục chiếc xích lô đi lễ hỏi, ai cũng đẹp. Đi đầu là mấy bà già tóc vấn khăn, mặc áo dài nhung, kế đến là xe các thiếu nữ xinh tươi tay đỡ hộp "quả cưới". Tất cả gợi một nét cổ truyền dân tộc, dù xích lô không có gốc gác Việt Nam.
    Lúc này ông già giành đạp xe, nhịp chân ông uể oải. Giọng ông trầm trầm: Xích lô là một phần của đời tôi, là sinh kế của gia đình tôi chú ạ, bây giờ nếu bỏ xích lô bình dân... - Ông chợt trầm ngâm ngồi nhìn vại bia vàng óng sủi bọt tôi rót mời để nguyên trước mặt. Tôi biết ông đang rất tâm trạng...
    Nghề xích lô nặng nhọc và lam lũ. Người đạp xe nào tôi gặp cũng một nét chân chất lành hiền. Đó là một nghề lương thiện trong muôn nghề. Từng đã thuê xích lô đạp một thời, kiếm cơm độ nhật, tôi được sống với nghề này cùng tháng ngày gió nắng phố phường và cảm thấy hình như người đạp xích lô có phong cách rất riêng. Họ không xô bồ chèo kéo khách như cánh xe ôm. Họ lẳng lặng đạp xe, lang thang trên phố ai gọi gì thì chở nấy...
    Hồi ấy có một ông già đạp xe tôi quen, người gốc Huế. Râu tóc ông trắng phơ, nhưng gân cốt còn săn chắc. Quen đã lâu, thế mà khi hỏi tên, ông bảo người đời cứ kêu là ông xích lô, thế thôi! Ông thường ghé lại mỗi chiều trên con phố Tống Duy Tân nhâm nhi chén rượu, sau đó đẩy xe ra phố Trần Phú nằm chờ khách, hay xuống ga Trần Quý Cáp đợi tàu xuôi...
    Giã từ những ngày lênh đênh ấy, tôi đã dừng ở một ngã tư phố Điện Biên như một định mệnh rồi rẽ sang nghề làm báo. Còn những con người ấy, vẫn lam lũ đạp xe, cho đến hôm nay... Những người đàn ông và không ít phụ nữ Hà Nội đã tự nguyện gắn đời mình với nghề đạp xe xích lô. Công chức nghỉ việc, bộ đội xuất ngũ và cả những thanh niên chọn công việc này. Có một dạo, dân Hà Nội kháo nhau về một cô gái khá xinh đạp xích lô. Người phụ nữ trẻ ấy có cái tên nghe như một... bút danh nhà báo hay nhà thơ gì đó: D.L. Cô nguyên là diễn viên ca Huế, gặp lúc gia cảnh lâm nạn, cô dạt ra Hà Nội bắt đầu làm lại cuộc đời bằng nghề xích lô.
    Người đàn ông quê Hưng Yên ngồi trên cái xích lô cà tàng ở ngõ Văn Chương bảo tôi: xã hội phát triển, có những thứ tự phải mất đi là quy luật rồi. Nhưng xích lô thì xã hội còn cần lắm. Cấm bây giờ hơi sớm. Có lẽ để cho nhu cầu của xã hội văn minh không còn, khi đó xích lô tự đào thải thì hay hơn. Hơi chậm chạp một chút, nhưng đa dụng lắm, giới bình dân còn cần đến nó lắm. Này nhé, nhà nghèo có người cần đi cấp cứu, bà chửa bà đẻ hay hàng họ cồng kềnh xe tải nhẹ không kham nổi, xích lô chở tất, từ một gói hàng tới cả nửa tấn xi măng... Giá cả có thể nói là bình dân nhất trong các loại phương tiện vận tải, đến taxi, xe ôm không cạnh tranh nổi... Bao nhiêu người đang cần xích lô và còn hàng nghìn người gắn bó vui buồn với cái xe ba bánh mỏng manh và tiện dụng.
    Mấy ngày hôm nay, đi qua các "trung tâm" - nơi tụ tập của xích lô Hà Nội, tôi có dịp tiếp xúc với các bác "xế" và những nỗi niềm của họ, khi nghe tin báo chí đưa về quyết định thu hồi giấy phép hành nghề của thành phố. Nhiều người lo rồi đây không biết tìm sinh kế thế nào khi không còn chiếc xe ba bánh thân thuộc. Đa số dân đạp xe hy vọng thành phố sẽ tiếp tục cho xích lô tồn tại, dù buộc phải tân trang xe cho đẹp, dù bắt đóng thuế đủ, và quy định tuyến đi, giờ hoạt động của xích lô... Nghề xích lô từng lận đận gian nan vì đủ thứ phạt, từng đứt ruột tiễn đưa những chiếc xe của mình bị tịch thu đem lên Thái Nguyên nấu thép...
    Một ngày-đêm với giới xích lô Hà thành, sau những câu chuyện tếu táo hay thâm trầm, tôi chợt nhận ra xích lô gắn với đất này như một nét văn hoá đời thường. Trong lòng người yêu Hà Nội, phố ngày cũ có những chiếc xích lô đi lằng lặng cuối đêm, có tiếng lanh canh của thứ chuông quen thuộc. Câu chuyện với các "xế" lô cứ gợi một chút gì hoài niệm, dù xích lô chưa rời bỏ phố phường. Hôm nay dù nườm nượp xe hơi, xe máy bóng lộn chạy nhanh chóng mặt, nhưng sao vẫn như thiếu cái gì nếu trên phố không còn bóng dáng những chiếc lô, sau nó nhấp nhô vành mũ lá theo nhịp đạp, dù biết rằng phố phường bây giờ đã chở nên quá chật chội.../.
    Tân Linh (Văn hoá)
    Da yeu xin yeu tu noi dau chan thanh cua trai tim
  7. doanminhhang17681

    doanminhhang17681 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    1.691
    Đã được thích:
    0
    GIAO THỪA HỒ GƯƠM
    Cứ mỗi độ xuân về, Tết đến, người Hà Nội lại bâng khuâng, náo nức trước nhịp quay của thời gian, sự chuyển vần, giao hoà của trời đất. Thẳm sâu trong tâm hồn mỗi người đều hướng về chốn linh thiêng của đất Thăng Long nghìn năm, đó là hồ Hoàn Kiếm hay thường gọi là hồ Gươm. Không chỉ người Hà Nội mà người ở mọi miền của Tổ quốc đang ở bốn phương ngoài biên giới đều chung nỗi khắc khoải hướng về Hồ Gươm, về Hà Nội...
    Sự phân định của thiên nhiên, địa lý cho miền Bắc cái rét về mùa đông với những cánh đào thắm; cái nắng nồng ở phương Nam với mai vàng khoe sắc. Cũng thiên tạo mà giao thừa ở Hà Nội, giao thừa ở Hồ Gươm mang một sắc thái, phong vị rất riêng không giống bất cứ nơi đâu.
    Hồ Gươm - nơi trả kiếm (hoàn kiếm) cho thần Kim Quy (Rùa vàng) của người anh hùng dân tộc - vua Lê Lợi, sau chiến thắng giặc Minh đã trở thành một hồ huyền thoại, linh thiêng với đầy ắp sắc màu của huyền tích, lịch sử, văn hoá... Hồ Gươm ngày nay qua thăng trầm của lịch sử, biến thiên của trời đất, con người còn lại rất nhỏ so với thời vua Lê trả kiếm (chu vi hiện nay khoảng gần 2km). Cũng không biết tự bao giờ Hồ Gươm thành trung tâm, trái tim của Hà Nội, là một vùng không gian mở để vào khu phố cổ Hà Nội. Cũng bởi là trung tâm của trung tâm mà mọi ngả đường của đất nước, của Hà Nội cũng đều đổ về đây và từ đây toả đi bốn phương. Người Pháp thời trước và ngày nay chúng ta đều lấy mốc cây số 0 bắt đầu từ Hồ Gươm mà tính. Mọi ngả phố của Hà Nội cũng được đánh số nhà bắt đầu từ Hồ Gươm mà lớn dần, vươn xa... Ngày nay, bao quanh Hồ Gươm có gần 20 đường phố đổ về và từ đây toả đi, với những phố: Tràng Tiền, Tràng Thi, Hàng Bài, Bà Triệu, Lê Thạch, Lê Lai, Trần Nguyên Hãn, Hàng Dầu, Lò Sũ, Ðinh Tiên Hoàng, Ðinh Lễ, Hàng Ðào, Lương Văn Can, Hàng Gai, Hàng Khay, Bảo Khánh, Hàng Trống, Lê Thái Tổ...
    Cũng bởi vậy, đêm giao thừa ở Hồ Gươm mang một ý nghĩa rất thiêng liêng, nhuốm màu tâm linh, lễ hội với mọi người dân Hà Nội. Người Hà Nội đi đón giao thừa, chơi giao thừa đồng nghĩa với đến Hồ Gươm.
    Những ngày trước Tết, Hồ Gươm đã được trang hoàng lộng lẫy. Các hàng cây ven hồ được khoác tấm áo muôn sắc bởi các sắc đèn toả sáng. Khi tấm voan sương mùa đông bắt đầu buông bóng, cả không gian Hồ Gươm hiện lên rực rỡ, lung linh, huyền ảo đến ngỡ ngàng. Tháp Rùa lộng lẫy mà tao nhã bồng bềnh như trong mơ, xa xa hướng Bắc rực rỡ mà trang nghiêm hiện lên một quầng ánh sáng là đảo Ngọc Sơn với đình Trấn Ba và đền Ngọc Sơn. Vắt như dải lụa cong, như vành trăng khuyết, như chiếc lược mềm chải vào mái tóc - nước hồ là dáng đỏ đến thổn thức, lay động của cầu Thê Húc... cả một không gian huyền ảo như mơ mà có thực mà náo nức vẫy gọi người Hà Nội đến với giao thừa Hồ Gươm.
    Cái giá rét của mùa đông không làm vợi đi lòng người đến với Hồ Gươm vào thời khắc trời đất giao hoà, trái lại như một chút men say khiến lòng người thêm rộn rã, lâng lâng... Sau bữa cơm Tất Niên chiều tối 30 của đại gia đình với nhiều thế hệ: ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu... Sau mọi lo toan của công việc làm ăn trong năm với những tất bật mua sắm những ngày giáp Tết, người Hà Nội thảnh thơi, ung dung đi đón giao thừa, chơi giao thừa. Cái rét xứ Bắc mang theo cả mùa xuân ẩm ướt vào dịp chớm xuân khiến thời khắc của đêm giao thừa Hồ Gươm mỗi năm mỗi khác: năm thì khô ráo, se se lạnh; năm vừa mưa phùn vừa rét đậm đến cắt da cắt thịt... Nhưng cho dù thời tiết thế nào, người Hà Nội đã trở thành một phong tục văn hoá đều đổ về Hồ Gươm đón giao thừa. Khoảng 8-9 giờ tối, người Hà Nội với những trang phục đẹp, lịch sự, sang trọng nhất từ mọi nơi, mọi nẻo phố như những dòng sông người chảy về Hồ Gươm. Ðông nhất trong dòng người vẫn là lớp trai gái trẻ tuổi, nhiều gia đình cả vợ chồng con cái trên chiếc xe máy trôi về Hồ Gươm. Trên các vỉa hè không thiếu các cụ ông, cụ bà ăn vận sang trọng lững thững đi bách bộ đến với Hồ Gươm đêm giao thừa để "ôn cố tri tân", để được sống trong không khí lễ hội mà thiêng liêng mỗi năm chỉ có một lần... Khoảng 10 giờ (22 giờ), xung quanh Hồ Gươm, người đã đông như nêm đủ mọi lứa tuổi, thành phần, không phân biệt sang hèn... gương mặt ai cũng rạng rỡ, hồ hởi và phơi phới nét xuân. Người Hà Nội ung dung thả bộ ngắm nhìn, hít thở thật sâu, cảm nhận thật đầy đủ cái không khí, cái hơi thở của đất trời, của lòng người ở chốn linh thiêng tích tụ hồn khí núi sông... Người Hà Nội đi đón giao thừa, chơi giao thừa mỗi năm lịch sự hơn, tao nhã hơn; không mấy còn những cảnh thiếu văn hoá, quậy phá của lớp người mới bước vào đời...
    Năm nào Hà Nội cũng tổ chức rất nhiều hoạt động văn hoá, lễ hội xung quanh Hồ Gươm trong đêm giao thừa và những ngày Tết. Mấy năm nay, mỗi độ giao thừa, Hồ Gươm là biểu tượng, là đầu cầu truyền hình về thủ đô đón giao thừa. Năm nay, cùng nhân loại chào đón thế kỷ mới, giao thừa Hồ Gươm mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Khởi đầu thời khắc của thế kỷ 21, từ Hồ Gươm tiếng trống của dàn trống Thăng Long, tiếng đàn của dàn nhạc giao hưởng và những lời ca điệu múa, những lời chúc đất nước vào xuân sang thiên niên kỷ mới của *************... cùng lòng người Hà Nội cất lên trong bản hoà tấu thiêng liêng mùa xuân...
    Kim đồng hồ trên nóc nhà Bưu điện thành phố đang nhích dần, năm mới đang đến. Nhiều đôi trai gái hối hả giục nhau mà trong lòng đầy nuối tiếc phải về nhà trước giao thừa (theo tập tục cũ). Không giờ đã điểm. Cả không gian Hồ Gươm tĩnh lặng đi giây lát rồi bừng lên sống động hơn, nhộn nhịp hơn, náo nức hơn... Ai cũng muốn hít thật sâu và thả tâm hồn vào cái không khí hữu tình và vô hình đầy huyền hoặc cuả giao thừa Hồ Gươm. Mưa, nếu có, mặc mưa; rét mặc rét! Sức ấm từ con người, từ chiều sâu lịch sử - văn hoá - văn hiến, từ không khí hoà nhập cộng đồng được toả lan và trào lên sức xuân một năm mới...
    Hồ Gươm đêm giao thừa, nếu chưa một lần được tận hưởng e rằng trong cõi tâm linh, tâm hồn vẫn còn trống, thiếu.

    Da yeu xin yeu tu noi dau chan thanh cua trai tim
  8. doanminhhang17681

    doanminhhang17681 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    1.691
    Đã được thích:
    0
    NGHĨA TÊN GỌI HÀ NỘI
    Sau khi diệt triều Tây Sơn, vua Gia Long đã đổi phủ Phụng Thiên ( vốn là đất đai của kinh thành Thăng Long cũ ) thành phủ Hoài Đức và vẫn coi là một đơn vị trực thuộc ngang với trấn tức trực thuộc trung ương mà đại diện là Tổng trấn Bắc Thành. Đến năm Minh Mạng thứ 12 ( 1831 ) vị vua này tiến hành một đợt cải cách hành chính lớn, xoá bỏ Bắc Thành ( gồm 11 trấn và 1 phủ trực thuộc ) ở miền Bắc, chia cả nước ra làm 29 tỉnh trong đó có 15 tỉnh trực thuộc trung ương. Tỉnh Hà Nội gồm thành Thăng Long, phủ Hoài Đức của trấn Tây Sơn, và ba phủ Ứng Hoà, Thường Tín, Lý Nhân của trấn Sơn Nam.
    - phủ Hoài Đức gồm 3 huyện : Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm
    - phủ Thường Tín gồm 3 huyện : Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên
    - phủ Ứng Hoà gồm 4 huyện : Sơn Minh ( nay là Ứng Hòa ), Hoài An ( nay là phía nam Ứng Hòa và một phần Mỹ Đức ), Chương Đức ( Nay là Chương Mỹ - Thanh Oai )
    - phủ Lý Nhân gồm 5 huyện : Nam Xang ( nay là Lý Nhân ), Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục
    Danh từ Hà Nội bắt đầu có từ bấy giờ ( 1831 ).
    Hà Nội có nghĩa là phía trong các con sông, vì tỉnh mới Hà Nội được bao bọc bởi 2 con sông : sông Hồng và sông Đáy. Như vậy tỉnh Hà Nội lúc đó gồm thành phố Hà Nội, nửa chính đông tỉnh Hà Tây ( chính là tỉnh Hà Tây thời Pháp thuộc ) và toàn bộ tỉnh Hà Nam. Như vậy rõ ràng tỉnh Hà Nội có đại bộ phận nằm kẹp giữa sông Hồng và sông Đáy.

    Có người cho rằng chữ Hà Nội là lấy từ câu trong sách Mạnh Tử ( Thiên Lương Huệ Vương ) : "Hà Nội hung tắc di kỳ dân ư Hà Đông, chuyển kỳ tức ư Hà Nội" ( nghĩa là : Hà Nội bị tai hoạ thì đưa dân về Hà Đông, đưa thóc từ Hà Đông về Hà Nội ). Nguyên ở Trung Quốc thời Mạnh Tử ( thế kỷ III tr.CN ) phía bắc sông Hoàng gọi là đất Hà Nội, phía Nam là Hà Ngoại. Vùng đất Hà Nội ấy nay ứng với tỉnh Hà Bắc. Lại do sông Hoàng khi tới địa đầu tỉnh Sơn Tây ngày nay thì chạy theo hướng Bắc - Nam, trở thành ranh giới giữa hai tỉnh Thiểm Tây và Sơn Tây. Sơn Tây ở phía đông sông Hoàng nên thời cổ có tên là đất Hà Đông, còn Thiểm Tây là Hà Tây. Thực sự cũng có việc dùng câu sách Mạnh Tử nói trên, nhưng đó là trường hợp năm 1904 khi muốn đổi tên tỉnh Cầu Đơ cho khỏi nôm na, người ta mới dùng tên Hà Đông ( dựa vào tên Hà Nội đã có từ trước )
    ( Theo "Hỏi Đáp - 1000 năm Thăng Long - Hà Nội" - Tô Hoài, Nguyễn Vinh Phúc )

    NHỮNG TÊN GỌI CỦA HÀ NỘI QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ
    THĂNG LONG - HÀ NỘI là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Mảnh đất địa linh nhân kiệt này từ trước khi trở thành kinh đô của nước Ðại Việt dưới triều Lý (1010) đã là đất đặt cơ sở trấn trị của quan lại thời kỳ nhà Tuỳ (581 - 618), Ðường (618 - 907) của phong kiến phương Bắc. Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long - Hà Nội có nhiều tên gọi, được chia thành hai loại: chính quy và không chính quy, theo thứ tự thời gian như sau:
    Tên chính quy: Là những tên được chép trong sử sách do các triều đại phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra:
    Long Ðỗ: Truyền thuyết kể rằng, lúc Cao Biền nhà Ðường, vào năm 866 mới đắp thành Ðại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Ðỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Ðỗ. Thí dụ vào năm Quang Thái thứ 10 (1397) đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời kinh đô về đất An Tôn, phủ Thanh Hoá. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: "Ngày xưa, nhà Chu, nhà Nguỵ dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Ðỗ có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị (tức sông Hồng ngày nay), núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi". Ðiều đó cho thấy, Long Ðỗ đã từng là tên gọi đất Hà Nội thời cổ.
    Tống Bình: Tống Bình là tên trị sở của bọn đô hộ phương Bắc thời Tuỳ (581-618), Ðường (618 - 907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đời Tuỳ chúng mới chuyển đến Tống Bình.
    Ðại La: Ðại La hay Ðại La thành nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy Kinh Ðô. Theo kiến trúc xưa, Kinh Ðô thường có "Tam trùng thành quách": Trong cùng là Tử Cấm thành (tức bức thành màu đỏ tía) nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Ðại La thành. Năm 866 Cao Biền bồi đắp thêm Ðại La thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là thành Ðại La. Thí dụ trong Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có viết: "... Huống chi thành Ðại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biền) ở giữa khu vực trời đất..." (Toàn thư, Tập I, H, 1993, tr 241).
    Thăng Long (Rồng bay lên). Ðây là cái tên có tính văn chương nhất, gợi cảm nhất trong số các tên của Hà Nội. Sách Ðại Việt sử ký toàn thư cho biết lý do hình thành tên gọi này như sau: "Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010) vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra Kinh phủ thành Ðại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long" (Toàn thư, Tập I, H, tr 241).
    Ðông Ðô: Sách Ðại Việt sử ký toàn thư cho biết: "Mùa hạ tháng 4 năm Ðinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương - TM) coi phủ đô hộ là Ðông Ðô" (Toàn thư Sđd - tr 192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà Nguyễn chú thích: "Ðông Ðô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hoá là Tây Ðô, Thăng Long là Ðông Ðô" (Cương mục - Tập 2, H 1998, tr 700).
    Ðông Quan: Ðây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của Việt Nam, chỉ được ví là "cửa quan phía Ðông" của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết, năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở thành Ðông Ðô, đổi tên thành Ðông Quan. Sách Ðại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 12 năm Mậu Tý (1408), Giản Ðịnh đế bảo các quân "Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh thành Ðông Quan thì chắc phá được chúng" (Toàn thư Sđd - Tập 2, tr224).
    Ðông Kinh: Sách Ðại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: "Mùa hạ, tháng 4 năm Ðinh Mùi (1427), Vua (tức Lê Lợi - TM) từ điện tranh ở Bồ Ðề, vào đóng ở thành Ðông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Ðại Việt đóng đô ở Ðông Kinh. Ngày 15 vua lên ngôi ở Ðông Kinh, tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hoá có Tây Ðô, cho nên gọi thành Thăng Long là Ðông Kinh" (Toàn thư - Sđd. Tập 2, tr 293).
    Bắc Thành: Ðời Tây Sơn (Nguyễn Huệ - Quang Trung 1787 - 1802 - TM). Vì kinh đô đóng ở Phú Xuân (tức Huế - TM) nên gọi Thăng Long là Bắc thành"(Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá - Ðường phố Hà Nội - H. 1979, tr 12).
    Thăng Long: (Thịnh vượng lên). Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân (tức Huế - TM), không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn miền Bắc và đổi kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền Bắc. Kinh thành đã chuyến làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời, quen dùng trong nhân dân toàn quốc, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ "Long" là Rồng thành chữ "Long" là Thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "rồng" (Trần Huy Liệu (chủ biên). Lịch sử thủ đô Hà Nội, H. 1960, tr 81).
    Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805, sau đó vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ hoàng thành cũ, vì vua không đóng đô ở Thăng Long, mà hoàng thành Thăng Long lại lớn rộng quá.
    Hà Nội: Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ Ứng Hoà, phủ Lý Nhân VÀ phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội". (Trần Huy Liệu (chủ biên). Lịch sử thủ đô Hà NỘI. H. 1960, TR 82).

    Tên không chính quy: Là những tên trong văn thơ, ca dao, khẩu ngữ... dùng để chỉ thành Thăng Long - Hà Nội:
    Trường An (Tràng An): Vốn là tên Kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nước Trung Quốc: Tiền Hán (206 tr CN - 8 sau CN) và Ðường (618 - 907). Do đó, được các nhà nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh đô. Từ đó cũng được người bình dân sử dụng nhiều trong ca dao, tục ngữ chỉ kinh đô Thăng Long.
    Thí dụ:
    Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
    Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An
    Rõ ràng chữ Tràng An ở đây là để chỉ kinh đô Thăng Long.
    Phượng Thành (Phụng Thành):
    Vào đầu thế kỷ XVI, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh người Bắc Ninh có bài phú nôm rất nổi tiếng:
    Phượng Thành xuân sắc phú
    (Tả cảnh sắc mùa xuân ở thành Phượng).
    Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa xuân của Thăng Long đời Lê. Phụng thành hay Phượng thành được dùng trong văn học Việt Nam để chỉ thành Thăng Long.
    Long Biên: Vốn là nơi quan lại nhà Hán, Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều (thế kỷ III, IV, V và VI) đóng trị sở của Giao Châu (tên nước Việt Nam thời đó). Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ văn để chỉ Thăng Long - Hà Nội. Sách Quốc triều đăng khoa lục có đoạn chép về tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San (1838 - 1877); ghi lại bài thơ của vua Tự Ðức viếng ông, có hai câu đầu như sau:
    Long Biên tài hướng Phượng thành hồi
    Triệu đối do hi, vĩnh biệt thôi!
    Dịch nghĩa:
    Nhớ người vừa từ thành Long Biên về tới Phượng Thành.
    Trẫm còn đang hy vọng triệu ngươi và triều bàn đối, bỗng vĩnh biệt ngay.
    Thành Long Biên ở đây, vua Tự Ðức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giờ Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877 vua Tự Ðức triệu ông về kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.
    Long Thành: Là tên viết tắt của Kinh thành Thăng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dương, từ nhỏ theo ông nội lên Thăng Long mở trường dạy học và làm thuốc. Ngô Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Ðống Ða - Ngọc Hồi của vua Quang Trung. Sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu (1789), Ngô Ngọc Du có viết bài Long thành quang phục kỷ thực (Ghi chép việc khôi phục Long thành).
    Hà Thành: Là tên viết tắt của thành phố Hà Nội được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn Văn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh (khuyết danh), Hà Thành hiểu vọng của Ba Giai?...
    Hoàng Diệu: Ngay sau Cách mạng tháng Tám - 1945, đôi khi trong các báo chí của Việt Nam sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.
    Ngoài ra, trong cách nói dân gian, còn nhiều từ được dùng để chỉ Thăng Long - Hà Nội như: Kẻ Chợ (Khéo tay hay nghề đất lề Kẻ Chợ - Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ), Thượng Kinh, tên này để nói đất kinh đô ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ kinh đô Thăng Long (Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh). Kinh Kỳ, tên này nói đất có kinh đô đóng (Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến).
    Và đôi khi chỉ dùng một từ kinh như "¡n Bắc, mặc Kinh". Bắc đây chỉ vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh), Kinh chỉ kinh đô Thăng Long.
    Loại tên "không chính quy" của Thăng Long - Hà Nội còn nhiều được sử dụng khá linh hoạt trong văn học, ca dao... kể ra đây không hết được
    Tường Minh (Tạp chí Xưa và Nay)
    Da yeu xin yeu tu noi dau chan thanh cua trai tim
  9. doanminhhang17681

    doanminhhang17681 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    1.691
    Đã được thích:
    0
    THẾ NÀO LÀ "HÀ NỘI 36 PHỐ PHƯỜNG"
    Nội thành Hà Nội hiện nay có 7 quận gồm 102 phường, tức 102 đơn vị hành chính cấp cơ sở với trên 400 phố và ngõ.
    Nhưng đó là phường và phố Hà Nội hiện nay. Còn ca dao cổ có câu:
    Hà Nội băm sáu phố phường
    Hàng Gạo, Hàng Ðường, Hàng Muối trắng tinh...
    Câu ca dao đó nay ai cũng thuộc nhưng không chính xác!
    Thực ra, phố và phường là hai phạm trù khác nhau.
    Vào thời Lê, "phường" ngoài nội dung chỉ các tổ chức của những người cùng làm một nghề (phường chèo, phường thợ) thì còn một nội dung nữa, chỉ những khu vực địa lý được coi là đơn vị hành chính cấp cơ sở ở kinh thành Thăng Long. Sử cũ còn ghi Thăng Long đời Lê gọi là phủ Phụng Thiên. Chia ra hai huyện Vĩnh Xương (sau đổi ra Thọ Xương) và Quảng Ðức (sau đổi ra Vĩnh Thuận). Mỗi huyện 18 phường. Như vậy Thăng Long có 36 phường. Suốt ba thế kỷ, nhà Lê vẫn giữ nguyên sự phân định hành chính đó.
    Sang đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đổi gọi Thăng Long là phủ Hoài Ðức và chia nhỏ ra làm nhiều đơn vị mới, có tên gọi là phường, thôn, trại. Huyện Thọ Xương bị chia ra làm 8 tổng với 183 phường, thôn, trại; huyện Vĩnh Thuận bị chia ra làm 5 tổng với 56 phường, thôn, trại. Tổng cộng phủ Hoài Ðức, tức kinh thành Thăng Long cũ, gồm 13 tổng, 239 phường, thôn, trại.
    Ðến khoảng giữa thế kỷ XIX, hai huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận vẫn y nguyên 13 tổng nhưng con số các phường, thôn, trại rút xuống mạnh (do sáp nhập): Thọ Xương còn 113 phường, thôn, trại. Vĩnh Thuận còn 40 phường, thôn, trại. Tổng cộng là 153 phường, thôn, trại. Như vậy là nhà Lê cho Thăng Long hưởng một quy chế riêng (gọi là Phủ, trực thuộc trung ương và suốt ba thế kỷ chỉ gồm có 36 phường). Ngược lại, nhà Nguyễn đã đánh đồng Thăng Long với các phủ khác, phải lệ thuộc vào tỉnh và cũng có tổng, có thôn, có trại như mọi nơi. Ðó là một việc làm của chủ trương "hạ cấp" Thăng Long.
    Như thế, không làm gì có cái gọi là "Hà Nội 36 phố phường". Chỉ có Thăng Long thời Lê có 36 phường hoặc là Hà Nội thời Minh Mạng có 239 phường, thôn, trại và Hà Nội thời Tự Ðức với 153 phường, thôn, trại. Do tình hình chia nhỏ Thăng Long nên một phường đời Lê đã phân ra làm nhiều phường, thôn, trại thời Nguyễn.
    Bây giờ sang vấn đề "phố". Phố khác hẳn phường. Nếu phường nguyên nghĩa là một khu vực hành chính thì phố nguyên nghĩa là chỗ bán hàng, nơi bày hàng, tức là như ta nói ngày nay là cửa hàng, cửa hiệu. Phố có thể là một ngôi nhà bày bán hàng mà cũng có thể ban đầu chỉ là một chỗ trống nhưng lấy làm nơi bày hàng hoá để buôn bán. Cho nên ví dụ như cụm từ phố Hàng Trống nguyên nghĩa chỉ là một ngôi nhà, một cửa hàng có bán mặt hàng là trống. Cũng vậy phố Hàng Chiếu vốn chỉ một nhà có bán mặt hàng chiếu... Song do các "phố" tập trung ken sát nhau thành một dãy (dài hoặc ngắn là tuỳ) nên cái dãy gồm nhiều phố ấy (phố với nghĩa là cửa hàng, cửa hiệu) cũng được gọi tắt là phố. Và dần dần cái từ phố với biến nghĩa là một dãy các cửa hàng cửa hiệu đã lấn át cái từ phố có nguyên nghĩa là một ngôi nhà bày bán hàng. Và thế là thay vì nói dãy phố Hàng Chiếu, người ta nói phố Hàng Chiếu, phố Hàng Bạc... để chỉ những con đường mà hai bên là những ngôi nhà bày bán chiếu, bán vàng bạc... Hiện nay trong ngôn ngữ miền Bắc, từ phố với nguyên nghĩa là ngôi nhà, cửa hàng đã phai mờ hoàn toàn, song miền Trung, miền Nam thì lớp trung niên trở lên vẫn sử dụng.
    Do sự hình thành như vậy mà trong một phường cổ có nhiều phố. Như cùng trong phường Ðông Các có phố Hàng Bạc, phố Hàng Mắm, phố Hàng Giày... Cho nên phường không bao giờ lại ngang hàng với phố mà là trùm lên các phố. Và cũng vì thế, 36 phường thời Lê không thể là 36 phố + phường được.
    ( Theo "Hỏi Đáp 1000 năm Thăng Long - Hà Nội" - Tô Hoài, Nguyễn Vinh Phúc )
    Da yeu xin yeu tu noi dau chan thanh cua trai tim
  10. doanminhhang17681

    doanminhhang17681 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    1.691
    Đã được thích:
    0
    VĂN HIẾN THĂNG LONG
    Từ lâu, đã có một thành ngữ quen thuộc với mọi người khi nói về đặc tính của Thăng Long - Hà Nội: Ngàn năm văn hiến. Vậy văn hiến là gì? Nếu như hai khái niệm văn hoá và văn minh hiện được dùng phổ biến có nguồn gốc từ phương Tây thì khái niệm văn hiến là hoàn toàn gốc từ phương Ðông. Phương Tây không có khái niệm này. Chỉ ở Việt Nam và Trung Quốc, khái niệm văn hiến mới được dùng phổ biến.
    Ở Việt Nam, từ văn hiến xuất hiện trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi (1428) rồi sau đó được tiếp tục sử dụng trong ngôn ngữ Việt Nam.
    Như nước Ðại Việt ta từ trước
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
    Nền văn hiến mà Nguyễn Trãi nói đó mang một nội dung khá rộng. Nó thể hiện bản sắc của dân tộc Việt Nam không chỉ ở "núi sông bờ cõi đã chia" mà còn ở "phong tục Bắc, Nam cũng khác". Bản sắc ấy không chỉ ở truyền thống văn hoá Việt Nam qua các thời kỳ mạnh yếu khác nhau mà còn ở sự tiếp nối không ngừng của các thế hệ anh hùng hào kiệt trong lịch sử Việt Nam.
    Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
    Nhưng hào kiệt đời nào cũng có
    Ở Nguyễn Trãi, con người hào kiệt và văn hoá là những nhân tố cấu thành của nền văn hiến Việt Nam. Nói tới văn hiến Việt Nam, Nguyễn Trãi đã khái quát những truyền thống tốt đẹp đã tạo nên sức mạnh tinh thần bất diệt của dân tộc Việt Nam. Văn hiến Thăng Long chính là sự thu nhỏ lại của văn hiến dân tộc và là biểu hiện tập trung nhất của nền văn hiến ấy.
    Kỷ niệm 990 năm và chuẩn bị kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long cũng là kỷ niệm những thành tựu của cả nước được hội nhập ở Thăng Long và lại từ Thăng Long toả sáng trên mọi miền của đất nước.
    Văn hiến Thăng Long không phải là của riêng vùng đất Thăng Long mà là tự hào chung của cả dân tộc Việt Nam.
    Cũng ở thế kỷ 15, bia tiến sĩ Văn Miếu năm Quang Thuận thứ 4 (1463) do Tiến sĩ Ðào Cử soạn, có ghi: "Học trò may được khắc trên bia đá này, phải theo danh nghĩa sửa đức hạnh, bắt chước tính giữ gìn văn hiến".
    Thế kỷ 19 trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú viết: "Khi nhà Lê dựng nước, văn hoá lại thịnh dần, hơn 300 nắm tác đầy đủ kỹ càng, văn hiến đứng đầu trung châu điển chương rạng cả triều đại" (Văn tịch chí, bản dịch, quyển 4, trang 41).
    Vậy nội dung văn hiến là gì?
    Chu Hy (đời Tống, Trung Quốc) giải thích: "Văn, điển tịch dã; hiến, hiền dã". Có thể hiểu văn tức là văn hoá chỉ khuôn phép, trước tác, sách vở, hiến chỉ người hiền tài của đất nước.
    Như vậy, có thể khẳng định rằng khái niệm văn hiến bao hàm không chỉ nội dung của khái niệm văn hoá, văn minh mà còn nhấn mạnh một yếu tố quan trọng nữa, đó là những hiền tài của đất nước. Nền văn hiến của một dân tộc bao gồm cả trình độ văn hoá và số lượng hiền tài của dân tộc ấy.
    Cách viết như trên chính là cách hiểu ở Việt Nam, kể từ Nguyễn Trãi.
    Tóm lại, văn hiến là trạng thái phát triển nhất định của mỗi dân tộc. Nó nói lên xu hướng luôn luôn khắc phục tình trạng nguyên sơ lạc hậu và thấp kém để vươn tới cuộc sống ngày một phát triển hơn, tiến bộ hơn, cao đẹp hơn, với sự phong phú của đời sống vật chất và tinh thần, với sự xuất hiện ngày một nhiều những hiền tài của đất nước. Nó đánh dấu trình độ của một dân tộc đã đạt được trong quá trình sử dụng thiên nhiên, hoàn thiện đời sống xã hội và không ngừng đào tạo ra những con người ưu tú cả về trí tuệ phẩm chất và tài năng.
    Với quan niệm trên đây, chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được văn hiến Thăng Long từ nguồn gốc ra đời đến những biểu hiện phong phú của nó trên các lĩnh vực của đời sống và qua các thời kỳ lịch sử.
    - Sự ra đời của văn hiến Thăng Long có thể bắt đầu từ Chiếu dời đô, từ ngày kinh đô Thăng Long ra đời (1010). Tuy nhiên, văn hiến Thăng Long không phải đã được hình thành từ con số không. Hàng ngàn năm lịch sử trước đây đã chuẩn bị cho sự ra đời và phát triển của nó. Văn hiến Thăng là sự tiếp nối và nâng cao của những phẩm chất bất diệt của con người Việt Nam đã được rèn đúc suốt bao nhiêu thế kỷ chiến đấu để tồn tại và phát triển. Không thể hiểu được văn hiến Thăng Long nếu như bỏ qua những giá trị vật chất và tinh thần mà tổ tiên đã tạo dựng từ trước Thăng Long và để lại cho Thăng Long.
    Sự dời đô từ Hoa Lư đến Thăng Long không phải là sự thay đổi địa điểm một cách bình thường như bao nhiêu cuộc thay đổi Thủ đô đã từng diễn ra trong lịch sử Việt Nam cũng như ở các quốc gia khác trên thế giới. Sự dời đô của Việt Nam năm 1010 mang một ý nghĩa đặc biệt. Nó đánh dấu một sự chuyển biến quan trọng trong lịch sử Việt Nam từ thời dựng nước cho đến ngày năm đó.
    Sự dời đô của Việt Nam và sự ra đời của Thăng Long thể hiện đỉnh cao của tâm hồn và bản lĩnh Việt Nam, thể hiện đầu óc tự cường của dân tộc, thể hiện khí phách anh hùng của cả lãnh tụ và toàn thể nhân dân Việt Nam.
    Việc dời đô này là sự tuyên bố vang dội bốn phương về chủ quyền bất khả xâm phạm của đất nước Việt Nam, về sức mạnh bất khả chiến thắng của dân tộc Việt Nam trên con đường độc lập và phát triển.
    Thăng Long lại là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước. Cho nên văn hiến Thăng Long không phải là sản phẩm riêng của những con người sinh sống trên mảnh đất gọi là Thăng Long này. Nó là sự hội tụ, sự chắt lọc và nâng cao những tinh hoa trí tuệ và tâm hồn của cả nước và từ đây lại lan toả mọi miền, trở thành di sản tinh thần và niềm tự hào chung của cả đất nước.
    Văn hiến Thăng Long phản ánh tinh hoa đời sống tinh thần của dân tộc. Ðặc điểm của nền văn hiến ấy thể hiện từ cung cách tư duy đến sinh hoạt hàng ngày, từ sự bảo vệ một cách ngoan cường bản sắc dân tộc đến sự tiếp thu nhạy bén và sáng tạo những tinh hoa của nhân loại, từ sự phát minh khoa học đến sự sáng tạo văn học nghệ thuật. Chính vì thế mà văn hiến Thăng Long là đỉnh cao của văn hiến dân tộc.
    Văn hiến Thăng Long cũng thể hiện ở trình độ thẩm mỹ sâu sắc và tế nhị trong hoạt động nghệ thuật cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Nó khiến cho Thủ đô luôn luôn đi đầu, luôn luôn là mẫu mực về một cuộc sống thanh lịch trong ăn, mặc, ở, trong mọi ứng xử hàng ngày.
    Người Hà Nội ngày nay đã và đang phát huy truyền thống ngàn năm văn hiến đó để xây dựng thành phố của mình đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy truyền thống kết hợp với hội nhập thế giới văn minh, cùng cả nước vững vàng và hào hùng tiến vào thiên niên kỷ thứ ba

    Da yeu xin yeu tu noi dau chan thanh cua trai tim

Chia sẻ trang này