1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Erich von Manstein - Chiến thắng bị đánh mất.

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi huytop, 05/05/2020.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927
    Theo như những gì được biết đến mối quan hệ của Brauchitsch với Hitler, tôi tin chắc rằng Brauchitsch đã tự làm tổn thương tinh thần mình trong cuộc đối đầu tranh cãi với một người đàn ông có ý chí không thương xót như Hitler. Tâm tính, dòng dõi và sự giáo dục ngăn cản Brauchitsch, trong các cuộc gặp gỡ với Hitler, từ việc sau này dùng đến vũ khí, dựa vào vị trí Quốc Trưởng, đã không do dự khi lợi dụng chính vị trí đó. Brauchitsch kìm nén sự bực tức và khó chịu, đặc biệt khi Brauchitsch không thể là đối thủ của Hitler một cách biện chứng. Và thế là sự chịu đựng tiếp tục cho đến khi một cơn đau tim cuối cùng đã buộc v. Brauchitsch phải nghỉ hưu vào thời điểm thuận tiện nhất với Hitler.

    Điều này chỉ đúng khi nói thêm rằng ngay từ đầu Brauchitsch đã tự ở một vị trí bất lợi hơn nhiều so với Hitler so với người tiền nhiệm trước. Bắt đầu, kể từ khi Blomberg từ bỏ chiếc ghế Tổng tư lệnh Wehrmacht, Hitler không chỉ là Quốc Trương mà còn là Tổng tư lệnh tối cao. Tai họa cuối cùng giáng vào quân đội từ Bộ trưởng Chiến tranh v. Blomberg đó là đề nghị Hitler ông ta nên nắm quyền chỉ huy Wehrmacht - mặc dù vậy, tất nhiên, vẫn sẵn sàng tranh luận liệu Hitler có tính đến giải pháp này không, với có hoặc không sự cố vấn của Blomberg.

    Trên hết, vào thời điểm Brauchitsch nhậm chức, Hitler đã có một thái độ rất khác với quân đội, và đặc biệt là đối với O K.H., nơi mà Hitler đã bắt đầu từ nhiêu năm trước. Theo những gì tôi biết khi ban đầu lên nắm quyền, Hitler đã dành cho các nhà lãnh đạo quân sự một sự tôn trọng nhất định và đánh giá cao khả năng chuyên môn của họ. Đó là một thái độ Hitler giữ lại cho đến trường hợp cuối cùng, một người như Thống chế v. Rundstedt, mặc dù đã hai lần Hitler từ bỏ mệnh lệnh của mình trong cuộc chiến.

    Có hai điểm chính khiến Hitler thay đổi quan điểm về quân đội trong những năm trước chiến tranh bắt đầu nổ ra.

    Điều dầu tiên cần nhận ra rằng dưới thời Đại tướng Nam tước v. Fritsch (thực sự là theo v. Brauchitsch), quân đội kiên quyết giữ vững quan niệm truyền thống về sự đơn giản và hào hiệp và quan niệm về danh dự người lính của mình. Mặc dù Hitler chắc chắn không thể chỉ trích quân đội không trung thành với Nhà nước, nhưng rõ ràng là sẽ không ném các quan niệm quân sự của mình đi để ủng hộ 'Chủ nghĩa Quốc xã'. Hơn nữa, điều đó cũng rõ ràng không kém, đây chính là điều về quân đội khiến nó trở nên phổ biến hơn với nhiều người dân. Mặc dù Hitler ban đầu đã từ chối lắng nghe các lời vu khống chống lại các nhân vật quân sự cấp cao phục vụ cho ông từ nhiều nguồn đảng khác nhau, những chiến dịch kích động quần chúng chống lại quân đội, chủ yếu là công việc của những người như Göring, Himmler và Goebbels, cuối cùng đã mang lại kết quả. Tuy nhiên vô tình, ngay cả Bộ trưởng Chiến tranh v. Blomberg cũng đã giúp khơi dậy sự ngờ vực của Hitler, bằng cách đi chệch khỏi đường lối của Hitler nhấn mạnh nhiệm vụ của mình là "kết hợp Quân đội với Chủ nghĩa Quốc Xã". Kết quả của sự kích động này đã trở nên rõ ràng khi Göring, rõ ràng là một 'sĩ quan cao cấp của Wehrmacht', đã đọc một bài diễn văn liên quan đến một nhóm các chỉ huy quân sự cấp cao vào mùa xuân năm 1939. Trong bài phát biểu của mình, Göring, giống như làm việc cho cả hai bên, khá trơ tráo khi quở trách quân đội, vì duy trì những quan điểm đã đi sâu vào truyền thống mà không phù hợp với hệ thống quan điểm của Chủ nghĩa Quốc Xã. Đó là một bài phát biểu mà Đại tướng v. Brauchitsch, người nằm trong số những người có mặt, không nên chấp nhận.

    Thứ hai trong mối quan hệ của Hitler với O.K.H. bao gồm những gì mà sau này Hitler thường dùng để mô tả - trích dẫn những lời ít lăng mạ nhất - như 'sự do dự bất diệt của các Tướng quân'.

    Hàm ý ở đây nhiều hơn. Ý Hitler muốn nói rằng những nỗ lực riêng của O.K.H. cản trở từng bước tái vũ trang, ổn định tốc độ tăng trưởng tái vũ trang gây bất lợi cho chất lượng của quân đội. Thứ hai, Hitler khẳng định rằng tất cả những thành công của mình trong chính sách đối ngoại đã đạt được trước sự phản đối của các Tướng lĩnh, những người trong từng trường hợp đã quá thận trọng để hành động. Câu trả lời cho điều này là Đại tướng v. Fritsch - tức là O.K.H. - đã không đưa ra bất kỳ sự phản đối nào đối với các kế hoạch của Hitler liên quan đến quá trình mở đầu sự cưỡng bức hay chiếm đóng vùng Rhineland. Cả Tướng Beck cũng không phản đối (v. Brauchitsch vắng mặt ở Berlin vào thời điểm này) khi Hitler quyết định xâm chiếm Áo. Đó là v. Blomberg Bộ trưởng Chiến tranh, vị tướng đầu tiên phản đối sự cưỡng bức đó, làm như vậy vì hiện tại Hitler đã từ bỏ các chính sách đối ngoại. Đó cũng là Blomberg, tại thời điểm hành quân vào Rhineland là người đã khuyên Hitler - O.K.H không biết đến - để rút lại các đơn vị Đức đóng ở bờ trái của dòng sông khi người Pháp ra lệnh huy động một phần lực lượng. Thực tế là Hitler gần như đã làm theo lời khuyên này, chỉ bị can ngăn bởi sự phê bình của Bộ trưởng Ngoại giao v. Neurath, đây không phải là lúc để bị kích động, cũng có thể nếu tôi không lầm - như một lời nhắc nhở kiên định về điểm yếu của chính Hitler - tăng cường sự phẫn nộ chung của Hitler đối với các Tướng trong tương lai. Và khi O.K.H. nhiều lần chỉ ra rằng sau những năm tái vũ trang Quân đội vẫn chưa sẵn sàng cho chiến tranh, họ không làm gì hơn nghĩa vụ của mình ngoài việc đưa ra những cảnh báo này. Chính thức Hitler luôn đồng ý với họ, nhưng họ cũng có thể đã tăng sự không thích O.K.H của Hitler….

    Lần đầu tiên chính sách đối ngoại của Hitler gặp phải sự phản đối chính thức là tại hội nghị với Bộ trưởng Ngoại giao và 3 Tư lệnh ba quân chủng vào ngày 5 tháng 11 năm 1937, lúc đó Hitler đã tiết lộ ý định của mình đối với Tiệp Khắc. Việc bất đồng với Bộ trưởng Ngoại giao, v. Neurath, cũng như Bộ trưởng Chiến tranh, v. Blomberg, và Tổng tư lệnh quân đội, Nam tước v. Fritsch, chắc chắn là một trong những lý do để Hitler loại bỏ những lời khuyên răn này ngay khi có thể.

    Ngày nay đa phần người ta tin rằng việc chấp nhận sự phế truất Đại tướng Nam tước v. Fritsch của các tướng Đức cho Hitler thấy rằng Hitler có thể đối xử với O.K.H. như cách mà mình muốn từ đó về sau. Cho dù đây là kết luận Hitler rút ra vào thời điểm tôi không nên quan tâm. Nếu Hitler nghĩ vậy, Hitler chắc chắn đã nhầm về động cơ của các tướng. Không phải là một dấu hiệu của sự yếu đuối, thái độ của họ là hoàn toàn không biết gì về sự thật , khuôn phép của người lính không cho phép họ tin rằng Quốc trưởng có khả năng gây ra một mưu đồ như vậy, và thực tế bất khả thi để thực hiện đảo chính.

    Cuối cùng, không thể nghi ngờ cá nhân những con người mà tôi đã đề cập ở trên đã kéo dài liên tục 'sự bất mãn bất diệt của các Tướng quân' trong các cuộc trò chuyện với Hitler.

    Do đó, khá chắc chắn rằng ngay từ đầu v. Brauchitsch đã thấy mình ở một vị trí cực kỳ khó khăn theo những gì Hitler cảm thấy. Ngoài ra, khi đảm nhiệm chức vụ, v. Brauchitsch đã nhẹ dạ đưa ra một quyết định nhân nhượng ảnh hưởng đến nhân sự, bao gồm cả việc sa thải khá bất công một số tướng lĩnh có thành tích xuất sắc và bổ nhiệm anh trai của Tướng Keitel làm người đứng đầu Phòng nhân sự Lục quân Heere-spersonalamt.

    Nước đi tai họa đầu tiên của Brauchitsch……

    Nước cờ hiểm độc nhất của Hitler đối với chỗ đứng O.K.H. đến vào thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng Sudeten đó là nhờ vào sự dễ dãi của các cường quốc phương Tây, Hitler đã chứng tỏ mình phải đối mặt với mọi sự phản đối và nghi ngờ của quân đội. Hành động của v. Brauchitsch trong việc hy sinh Tham mưu trưởng của mình trong dịp này tự nhiên làm suy yếu vị trí của v. Brauchitsch hơn nữa trong mắt Hitler.

    Thứ hai, O.K.H đã tự mình giải quyết mọi chuyện với Hitler sau khi Beck bị sa thải, Tướng Halder, là người có thể ngang bằng Thống chế v. Brauchitsch về mặt chuyên môn quân sự. Trong công việc, Brauchitsch và Halder làm việc cùng nhau trên cơ sở thân thiết nói riêng, và tôi có xu hướng tin rằng khi v. Brauchitsch đồng ý với các khuyến nghị của Halder, Brauchitsch đã làm như vậy vì niềm tin. Giống như hầu hết các sĩ quan đã bắt đầu sự nghiệp của họ trong Bộ Tổng tham mưu Bavaria, Halder có khả năng đáng chú ý là nắm bắt đáng kể mọi khía cạnh của nhiệm vụ tham mưu và là một người không mệt mỏi trong cuộc mặc cả. Một câu nói của Moltke, 'Thiên tài là siêng năng', có lẽ cũng là phương châm của Halder. Tuy nhiên, người đàn ông này hầu như không thể bừng sáng ngọn lửa thiêng được cho là truyền cảm hứng cho những người lính giỏi. Trong khi nó nói lên tinh thần trách nhiệm cao của mình, Halder đã chuẩn bị cho chiến dịch Nga bằng cách lên kế hoạch hoạt động 'được lập ra' bởi Phó Tổng tham mưu - Oberquartiermeister I, Tướng Paulus, trên cơ sở các nghiên cứu được thực hiện bởi Tham mưu trưởng các Cụm tập đoàn quân, thực tế vẫn là tư tưởng cơ bản của một kế hoạch chiến dịch nên được hình thành trong tâm trí của người phải chỉ đạo chiến dịch đó…..
    caonam_vOz, viagraless, tatpcit2 người khác thích bài này.
  2. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927
    Ở bên ngoài, Halder không có sự tao nhã của v. Brauchitsch. Halder rất khách quan trong những phát ngôn của mình, và chính tôi cũng biết Halder đã chỉ trích Hitler bằng sự thẳng thắn tối đa. Nhân tiện, mọi người cũng thấy Halder đã nhiệt tình đứng lên vì lợi ích của binh lính chiến đấu và Halder cảm thấy thế nào cho họ khi đưa ra những quyết định sai lầm. Thật không may, tính khách quan và chừng mực không phải là phẩm chất có thể gây ấn tượng với Hitler và bất kỳ sự đồng cảm nào đối với quân đội khiến Halder hoàn toàn bị bỏ mặc.

    Điều cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của Halder, theo ý kiến riêng của tôi, là lòng trung thành bị chia rẽ của chính mình. Ngay cả khi Halder tiếp quản vị trí của Beck, nghiễm nhiên Halder lại trở thành kẻ địch công khai của Hitler. Theo Walter Görlitz, trong cuốn sách Bộ tổng tham mưu Đức, Halder nói với v. Brauchitsch về việc nhậm chức rằng lý do duy nhất của mình chấp nhận là để chống lại Hitler. Halder được tin là có tham gia vào nhiều kế hoạch lật đổ Hitler, mặc dù khó có thể nói triển vọng thực sự của những thành công này sẽ có trong thực tế.

    Mặt khác, Halder là Tổng tham mưu trưởng của quân đội Đức và của Hitler cho đến khi Hitler nắm quyền chỉ huy quân đội. Việc này nên được trao trách nhiệm cho một chính trị gia để đóng vai trò kép của cố vấn và người âm mưu, những người lính sẽ không thể lấp vào chỗ trống của cả 2 vị trí này. Trên hết, theo truyền thống ở Đức, không thể tưởng tượng được rằng một Tổng tham mưu trưởng không có sự tin tưởng của Tổng tư lệnh của mình. Ngay cả khi, kết quả của các hoạt động của Hitler, việc chấp nhận một Tham mưu trưởng lên kế hoạch lật đổ Quốc Trưởng kiêm Tổng tư lệnh trong thời bình, vai trò kép của Tham mưu trưởng kiêm kẻ chủ mưu trong thời chiến chắc chắn tạo ra một tình huống tiến thoái lưỡng nan không giải quyết được.

    Với tư cách là Tổng tham mưu trưởng, nhiệm vụ của Halder là cố gắng giành chiến thắng cho quân đội mà mình chịu trách nhiệm dẫn dắt - nói cách khác, để thấy rằng các hoạt động quân sự của Tổng tư lệnh do mình cố vấn đã thành công. Tuy nhiên, trong vai trò thứ hai, Halder không thể mong muốn một chiến thắng như vậy. Không thể đòi hỏi Halder, khi phải đối mặt với lựa chọn khó khăn này, đã chọn nghĩa vụ quân sự và làm mọi thứ trong khả năng của mình để phục vụ Quân đội Đức trong cuộc đấu tranh gian khổ. Đồng thời, vai trò khác của Halder yêu cầu bằng mọi giá phải giữ vững chỗ đứng mà Halder hy vọng, một ngày nào đó sẽ cho phép mình tìm ra cách loại bỏ Hitler. Tuy nhiên, cuối cùng, Halder đã phải cúi đầu trước các quyết định quân sự của Hitler, ngay cả khi không đồng ý với các quyết định đó. Chắc chắn lý do chính của Halder là do nghĩ rằng đây là hy vọng tốt nhất của mình để bảo vệ quân đội khỏi hậu quả của những sai lầm ngớ ngẩn của Hitler. Nhưng khi làm như vậy, Halder sẽ phải trả giá khi thi hành các mệnh lệnh mà niềm tin quân sự của Halder ngăn cản bản thân Halder đồng ý. Sự xung đột bên trong thâm tâm bào mòn Halder và cuối cùng dẫn đến sự thoái trào của Halder. Có một điều chắc chắn: đó là cái thú vị của việc bị đe dọa, và không phải của chính con người Halder, rằng Tướng Halder đã mắc kẹt với nó quá lâu với tư cách Tham mưu trưởng.

    Tôi đã cố gắng để miêu tả hai góc nhìn mà vào mùa thu năm 1939, đã đạt đến đỉnh điểm một quá trình dẫn đến sự lu mờ của O.K.H. Từ những gì tôi đã kể, sẽ rõ ràng tại sao cả hai sĩ quan hạng nhất mặc dù họ chắc chắn là, đối thủ cho một người như Hitler. Đồng thời, việc O.K.H. xuống hạng một cơ quan điều hành thuần túy đã thực sự được hoàn thành ngay sau khi nó giành được những chiến thắng rực rỡ như vậy ở Ba Lan cũng là do cách Hitler và O.K.H. tương ứng tiếp cận vấn đề làm thế nào để chiến tranh nên được tiếp tục.

    Cho đến và ngay sau khi chiến tranh bùng nổ, nước Đức đương nhiên đã chuẩn bị chỉ để phòng thủ ở phía Tây. Ai có thể đoán rằng các cường quốc phương Tây sẽ bỏ mặc khiến Ba Lan thất vọng nặng nề sau khi nhận được sự bảo lãnh từ phía họ? Sự nhu nhược khiến họ chỉ dám bước vào khu vực phía trước của Phòng tuyến Siegfried dọc theo Saar - ngay sau đó là một cuộc rút quân về lãnh thổ Pháp - không thể được coi là bước chuẩn bị cho bất kỳ cuộc tấn công lớn nào sau này.

    Miễn rằng một cuộc tấn công được dự tính một cách dứt khoát, thì chỉ có thể chờ và xem xét liệu chắc rằng chúng ta có thành công trong việc ngăn chặn nó tại Phòng tuyến Siegfried Line hay - trong trường hợp đó chúng tôi nên hành quân theo hướng Ruhr qua Luxembourg và Bỉ - trong việc tiến hành một cuộc phản công một khi các lực lượng cần thiết đã được giải phóng khỏi Chiến dịch Ba Lan.Tuy nhiên, bây giờ, tình huống đã thay đổi hoàn toàn do không có sự can thiệp của các cường quốc phương Tây. Ngay cả khi người Pháp sẵn sáng các hành đồng can thiệp và người Anh có thêm thời gian hành động, các cường quốc phương Tây không thể hy vọng một cuộc tấn công ngay trước mắt, bây giờ Ba Lan đã bị đánh bại và toàn bộ Quân đội Đức đã sẵn sàng cho phía Tây. Số phận của Ba Lan đã được định đoạt muộn nhất vào ngày 18 tháng 9, khi Trận Bzura kết thúc và Liên Xô đã vượt qua biên giới phía đông của Ba Lan vào ngày hôm trước. Điều này, sau đó, lẽ ra là hạn chót để trao đổi quan điểm giữa Hitler và Tổng tư lệnh quân đội về những hành động cần thực hiện ở phía Tây. Tuy nhiên, đánh giá qua các tài liệu công bố cho đến nay (đáng chú ý là của Tướng v. Lossberg, vào thời điểm đó, sĩ quan điều hành cấp cao tại O.K.W., và Trợ lí bộ trưởng Greiner, người ghi lại hồi kí cho O.K.W.), không có cuộc thảo luận nào như vậy.

    Có thể giả định rằng phản ứng của Hitler và các chỉ huy O.K.H. cho sự thành công rực rỡ ở Ba Lan và sự không can thiệp của các cường quốc phương Tây là hoàn toàn khác nhau. Hitler chắc đã hiểu theo một cách nào đó việc thiếu khả năng thực hiện một cuộc tiến công của các lực lượng Anh-Pháp là một dấu hiệu của sự yếu đuối sẽ cho phép mình tấn công ở phía Tây. Hơn nữa, những gì đã xảy ra ở Ba Lan đã thuyết phục Hỉtler rằng từ đó đến nay không thể có nhiệm vụ nào quá lớn đối để giải quyết với Quân đội Đức.

    O.K.H., như sẽ thấy, đã không chia sẻ quan điểm này bằng bất kỳ cách nào. Mặt khác, được phép suy luận từ thái độ của các cường quốc phương Tây rằng họ chỉ tham gia vào cuộc chiến để giữ thể diện và do đó phải có thể đi đến thỏa thuận với họ. Ngoài ra, Tướng Halder có thể đã đùa giỡn với ý tưởng mở đường cho sự hiểu biết như vậy bằng cách loại bỏ Hitler, do đó, bất kỳ cuộc tấn công nào của Đức ở phía Tây tại thời điểm đặc biệt đó sẽ không được thực hiện.

    Dù câu trả lời là gì, O.K.H. có thể chắc chắn rằng cho đến lúc đó Hitler chưa bao giờ xem xét, ngay cả sau khi Ba Lan sụp đổ, ý tưởng về một cuộc tấn công ở phía Tây. Tôi đã dẫn ra bằng chứng không thể sai lầm về điều này trong mùa đông 1939-40. Vào một trong nhiều lần khi Hitler ban hành từ mã để chuẩn bị để di chuyển các đơn vị cuối cùng vào các khu vực tập kết bằng xe lửa, tôi đã được viếng thăm bởi Tham mưu trưởng của Tập đoàn không quân sẽ hỗ trợ cho Cụm tập đoàn quân A, Tướng Sperrle, người nói với tôi rằng các máy bay của Tập đoàn quân sẽ không thể cất cánh từ các sân bay bị ngập nước. Khi tôi phản đối rằng Luftwaffe đã có nhiều tháng để xây dựng những đường băng vững chắc, Sperrle đảm bảo với tôi rằng Hitler trong một dịp trước đó đã nghiêm cấm mọi loại công việc liên quan đến một cuộc tấn công trong tương lai. Cùng với đó, lưu ý rằng đạn dược được sản xuất đã không đạt được mức độ cần thiết cho một cuộc tấn công vào phía Tây...
    caonam_vOz, viagraless, tatpcit2 người khác thích bài này.
  3. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927
    Rõ ràng là O.K.H. đã đánh giá sai tâm lý của Hitler khi cho rằng quan điểm của Hitler là bất biến. Greiner nói với chúng tôi rằng trong nửa cuối tháng 9, khi kết thúc đang đến gần ở Ba Lan, O.K.H. đã có một báo cáo về việc tiến hành chiến tranh ở phía Tây do Tướng Heinrich v. Stülpnagel chuẩn bị. Kết luận mà v. Stülpnagel đưa ra là Quân đội Đức sẽ không được trang bị đầy đủ để vượt qua Phòng tuyến Maginot trước năm 1942. Stülpnagel đã không cân nhắc đến khả năng đi vòng qua Bỉ và Hà Lan vì Chính phủ Đế chế mơi đây đã đảm bảo với các nước này rằng tính trung lập của họ sẽ được tôn trọng. Cho đến nay, trên giấy trắng và dựa vào thái độ của Hitler, O.K.H. hiển nhiên đã suy diễn rằng chính sách ở phía Tây sẽ là tiếp tục phòng thủ. Vào cuối chiến dịch Ba Lan, O.K.H đã ra lệnh cho việc triển khai phòng thủ của quân đội ở phía tây được tăng cường, rõ ràng mà không có sự chấp thuận trước của Hitler.

    Trong tình huống chưa từng có được hình thành bởi sự sụp đổ hoàn toàn của Ba Lan, một chính sách như vậy cuả Anh - Pháp tương đương với từ bỏ thế chủ động cho Hitler đối với bất kỳ kế hoạch nào trong tương lai. Đó chắc chắn không phải là cách đúng đắn để các chỉ huy quân sự bảo vệ ảnh hưởng của họ trong quá trình tiếp theo của cuộc chiến, bất kể hình thức này có thể diễn ra như thế nào. Ngoài ra, các kết luận mà v. Stülpnagel đạt được không thể được coi là một câu trả lời cho vấn đề chính sách chiến tranh trong tương lai của Đức. Nếu chúng ta phải đợi đến năm 1942 để mới có thể vượt qua Phòng tuyến Maginot, các cường quốc phương Tây rất có thể đã bắt kịp sự dẫn đầu của chúng ta trong sản xuất vũ khí. Ngoài ra, sẽ không bao giờ có thể tiến hành một chiến dịch quyết định sau khi vượt qua Phòng tuyến Maginot thành công.

    Chống lại tối thiểu 100 sư đoàn địch có sẵn từ năm 1939, đây không phải là cách để đạt được kết quả quyết định. Ngay cả khi địch thực tế chỉ tập trung lực lượng mạnh để bảo vệ cho Tuyến Maginot, địch vẫn sẽ có một lực lượng dự bị chiến lược từ 40 đến 60 sư đoàn trang bị đầy đủ mà ngay lập tức có thể củng cố ngăn chặn ngay cả một cuộc đột phá quy mô lớn. Không còn nghi ngờ gì nữa, cuộc chiến sẽ đuối dần, mập mờ rồi được đưa vào chiến tranh chiến hào. Đó không thể là mục tiêu của chiến lược Đức.

    Dĩ nhiên, người ta không thể cho rằng Đại tướng v. Brauchitsch và Tham mưu trưởng của ông nghĩ rằng họ sẽ đạt được bất cứ điều gì với chiến lược phòng thủ thuần túy trong thời gian dài. Tuy nhiên, ban đầu họ đã đặt hy vọng vào khả năng các cường quốc phương Tây hoặc vẫn sẽ đi đến thỏa thuận hoặc cuối cùng tự tấn công. Thật không may, họ không đủ khả năng để đưa ra quyết định trong tình huống trước đây và hy vọng của họ về một cuộc tấn công của Đồng minh là, như sẽ được thể hiện, là không thực tế. Thực tế của vấn đề là từ quan điểm quân sự vào mùa xuân năm 1940 không chỉ là lần đầu tiên mà còn là dịp cuối cùng mà Đức có thể hy vọng chống lại một cuộc tấn công thành công ở phía Tây.

    Theo Greiner, Hitler không được thông báo về bản đề xuất của Stülpnagel, nhưng vẫn nhận thức được rằng O.K.H. sẽ bám lấy chính sách phòng thủ ở phía tây. Thay vì kịp thời thảo luận về diễn biến của cuộc chiến trong tương lai nên diễn ra muộn nhất vào giữa tháng 9, giờ đây, Hitler đã đương đầu trực tiếp với Tổng tư lệnh quân đội về quyết định chính thức của mình vào ngày 27 tháng 9 và O.K.W. chỉ thị tiếp theo vào ngày 9 tháng 10. Không có bất kỳ tham khảo ý kiến nào trước đây với Tổng tư lệnh, Hitler không chỉ lệnh tiến công ở phía Tây mà thậm chí còn quyết định thời điểm và phương thức được thông qua. Tất cả những điều này là những vấn đề không nên giải quyết nếu không có sự đồng tình của Tổng tư lệnh. Hitler yêu cầu cuộc tấn công phải được phát động vào ngày sớm nhất có thể - trong bất kỳ bối cảnh nào trước khi mùa thu kết thúc. Ban đầu, theo Tướng v. Lossberg, Hitler ấn định ngày 15 tháng 10 là hạn chót. Cuối cùng, điều này có nghĩa là sẽ rút thiết giáp và máy bay ở Ba Lan vào cuối Trận Bzura. Hơn nữa, Hitler đã đặt ra cách thức tiến hành chiến dịch tấn công được đề xuất, cụ thể là vòng qua Phòng tuyến Maginot bằng cách qua Bỉ và Hà Lan.

    Tổng tư lệnh quân đội chỉ còn lại đơn thuần thực thi một chiến dịch cho đúng chuyên môn của mình mà đã cố tình không được hỏi ý kiến và do đó, vào mùa thu năm 1939, trong tất cả các công việc, ông chắc chắn không thể kiên quyết đảm bảo thành công bất cứ một viễn cảnh nào . Đối với những người tự hỏi làm thế nào mà Tổng tư lệnh quân đội có thể chấp nhận một vị trí bị đàn áp về năng lực như vậy theo ý Hitler, Greiner có lẽ đã đưa ra câu trả lời đúng trong cuốn sách của mình, Die Oberste Wehrmachtführung. Greiner thừa nhận rằng v. Brauchitsch cảm thấy khó có thể đạt được bất cứ điều gì bởi sự phản đối ngay lập tức, hy vọng rằng nếu v. Brauchitsch đưa ra một thiện ý tiềm năng ngay từ đầu, v. Brauchitsch cuối cùng sẽ có thể nói chuyện ngoài những gì kế hoạch của Hitler.Ngẫu nhiên, cách nhìn tiến bộ đó cũng được Tướng v. Lossberg thừa nhận căn cứ vào những hiểu biết của mình về Hitler và thái độ của Hitler vào thời điểm đó. Brauchitsch cũng có thể đã dựa vào thời tiết để không thể tiến hành một cuộc tiến công vào cuối mùa thu hoặc mùa đông khi thời điểm đến. Nếu quyết định tiến công đó vì thế có thể bị trì hoãn cho đến mùa xuân năm sau, chiều hướng và cách thức để kết thúc chiến tranh có thể đặt được bằng một thỏa hiệp chính trị.

    Nếu đây thực sự là những suy nghĩ của Tổng tư lệnh và Tổng tham mưu trưởng, thì chắc chắn họ đã chứng minh đúng theo thời tiết.

    Nhưng quan niệm rằng Hitler có thể 'thảo luận một quyết định cơ bản như vậy’, ngay cả bởi Tướng v. Reichenau, người mà O.K.H. thực sự giao phó nhiệm vụ này, làm tôi thấy khá vô ích. Hy vọng duy nhất sẽ có nếu O.K.H. đã có thể đưa ra một giải pháp tốt hơn của riêng mình, thứ sẽ gây ấn tượng với Hitler.

    Như vậy,đối với bất kỳ khả năng kết thúc chiến tranh tại thời điểm đó bằng đàm phán hòa bình, tuyệt đối không thể xảy ra. Lời đề nghị hòa bình được Hitler đưa ra cho các cường quốc phương Tây sau khi chiến dịch của Ba Lan gặp phải sự từ chối thẳng thừng. Bên cạnh đó, Hitler có lẽ sẽ không chấp nhận bất kỳ sự giải quyết hợp lý nào cho vấn đề Ba Lan mà có thể đạt được nhờ sự thỏa thuận với phương Tây. Trong mọi trường hợp, một sự dàn xếp như vậy hầu như không được khi nước Nga Xô viết đã nuốt chửng nửa phía đông của Ba Lan. Một điểm rất đáng nghi ngờ khác là làm thế nào Đức có thể đạt được một nền hòa bình danh dự mà không có Hitler vào thời điểm đó. Làm thế nào Hitler bị lật đổ? Nếu Tướng Halder có bất kỳ kế hoạch quân sự mới nào để hành động chống lại Berlin vào tháng 10 năm 1939, tất cả những gì tôi có thể nói là Halder sẽ tìm thấy sự hỗ trợ ít hơn trong quân đội so với mùa thu năm 1938.

    Sau đó, mọi thứ bắt đầu với việc Đại tướng v. Brauchitsch rơi rụng vào ý định của Hitler và O.K.H. soạn thảo ‘Kế hoạch Vàng " theo chính chỉ thị mà Hitler đã đặt ra. Tuy nhiên, đến ngày 27 tháng 10, Tổng tư lệnh, được hậu thuẫn bởi Tổng tham mưu trưởng, đã cố gắng thuyết phục Hitler dựa trên thực trạng quân đội Đức lúc bấy giờ để hoãn cuộc tấn công, cho đến thời điểm thuận lợi hơn trong năm, theo đó, có nghĩa là mùa xuân năm 1940. Theo Greiner, lời đề nghị tương tự đã được đưa ra cho Hitler vài ngày trước đó bởi Tướng v. Reichenau - có lẽ là theo yêu cầu của Brauchitsch. Mặc dù Hitler không hoàn toàn từ chối các cuộc tranh luận với v. Reichenau, ngày mà Hitler đã ấn định từ ngày 22 tháng 10 để bắt đầu cuộc tấn công - ngày 12 tháng 11 - tiếp tục chờ đợi.

    Vào ngày 5 tháng 11, Brauchitsch đã có một nỗ lực khác để khiến Hitler tỉnh ngộ. Đấy là ngày - giả sử rằng cuộc tấn công thực sự bắt đầu vào ngày 12 tháng 11, trong đó từ mã phải được ban hành cho binh lính bắt đầu di chuyển vào khu vực tập kết.

    Mặc dù cuộc trò chuyện này là riêng tư, [Keitel không được gọi đến mãi sau, Tác giả] nhưng chi tiết về cuộc trò chuyện vẫn bị rò rỉ, và kết quả của nó tôi tin là đã gây ra sự tuyệt giao không thể khắc phục giữa Hitler và các tướng. Theo những gì Greiner thu thập được từ Keitel, v. Brauchitsch đã đọc Hitler một bản ghi nhớ bao gồm tất cả các lý do của mình để phản đối một cuộc tấn công vào mùa thu đó. Bên cạnh việc trích dẫn những sự thật không thể thay đổi như tình trạng của thời tiết và sự không sẵn sàng của các đơn vị mới, v. Brauchitsch đã đưa ra một lập luận khiến Hitler nổi giận. Đó là một chỉ trích về hiệu suất của binh lính chiến đấu trong chiến dịch Ba Lan. Brauchitsch dẫn ra thực tế rằng bộ binh đã không thể hiện tinh thần xông xáo như năm 1914 và rằng kỷ luật và sức mạnh bền bỉ của các đơn vị chiến đấu không phải lúc nào cũng hoàn toàn đạt tiêu chuẩn do tốc độ của việc tái vũ trang.

    Nếu v. Brauchitsch đã hội kiến với các chỉ huy cấp cao, họ sẽ hiểu ý của ông. Phải thừa nhận rằng v. Brauchitsch có lý do chính đang cho lời nhận xét của mình rằng bộ binh đã không thể hiện sự xông xáo như năm 1914 - ít nhất miễn là v. Brauchitsch thể hiện điều đó trong những điều kiện tổng quát. Điều này là do sự hiểu lầm về sự biến đổi quy cách của cuộc tấn công bộ binh trong những năm qua. Các phương pháp tấn công năm 1914 không còn có thể hiểu được nữa tại thời điểm này. Mặt khác, không thể phủ nhận - và điều này xảy ra với binh lính chưa có kinh nghiệm khi bắt đầu vào mỗi cuộc chiến - rằng cá nhân các đơn vị thỉnh thoảng có dấu hiệu của những kẻ hốt hoảng, đặc biệt là phải chiến đấu khi còn đang huấn luyện. Hơn nữa, một vài Sở chỉ huy cấp cao khác nhau đã thấy cần phải trấn áp các trường hợp thiếu kỷ luật. Những điều này không có gì đáng ngạc nhiên nếu người ta cho rằng trong khoảng vài năm, lực lượng Reichswehr gồm 100.000 người đã được tăng lên thành một đội quân vài triệu quân nhân, một con số tương quan lớn thành công với quân đội kể từ khi tổng động viên. Nhưng không gì trong số những điều này - dưới ánh hào quang của chiến thắng tại Ba Lan - có thể là lý do thích đáng để kết luận rằng quân đội không thể thực hiện được một cuộc tiến công về phía Tây.

    (NGUỒN : LÊ TIỆP)
    caonam_vOz, viagraless, meo-u1 người khác thích bài này.
  4. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927
    Nếu chính Đại tướng v. Brauchitsch tự giới hạn bản thân mình để nhấn mạnh rằng các sư đoàn mới thành lập vẫn thiếu sự huấn luyện và sự ổn định bên trong của họ khi đi vào hành động và cuộc tiến công không thể được thực hiện bởi các sư đoàn có kinh nghiệm nói riêng, thì v. Brauchitsch vẫn giữ vị trí thận trọng như những gì Brauchitsch vẫn làm trong suốt những năm tháng qua. Tuy nhiên, khái quát về điều này đã được đề cập ở trên, đây nên là những lý lẽ cuối cùng mà v. Brauchitsch nên đưa ra trong bất kỳ cuộc trò chuyện nào với Hitler, người tự coi mình là người tạo ra Wehrmacht, người mà lại đang đặt câu hỏi về chất lượng chiến đấu. Thật vậy, Hitler đã đúng đến mức nếu không phải vì sự táo bạo chính trị của mình trong việc thúc đẩy sự tái vũ trang và đóng vai trò của Chủ Nghĩa Quốc Xã trong việc hồi sinh tinh thần quân đội ngay cả trong các tầng lớp xã hội nơi nó bị tẩy chay trong thời Cộng hòa Weimar , Wehrmacht này sẽ không bao giờ đạt được sức mạnh mà mình sở hữu vào năm 1939. Điều mà Hitler chọn bỏ qua là thành tích của Reichswehr trước đây hoàn toàn ngang tầm với chính mình. Nếu không có các sĩ quan và hạ sĩ quan xuất thân từ Reichswehr hết lòng chuẩn bị các kế hoạch sơ bộ và vật chất, Hitler sẽ không thấy được Wehrmacht mà giờ đây Hitler coi là 'sáng tạo' của riêng mình và cũng không thể có được chiến thắng ở Ba Lan.

    Bằng cách đưa ra những lập luận phản đối như vậy trước Hitler, lòng tự trọng của nhà độc tài đã bị thổi phồng, v. Brauchitsch đã đạt được điều ngược lại với những gì mình dự định. Bất chấp tất cả các lập luận thực tế của v. Brauchitsch, Hitler cảm thấy bị xúc phạm bởi những lời chỉ trích mà Hitler cho là để chống lại chính mình - những thành tựu của chính Hitler - một cách cộc cằn và đột ngột ngắt cuộc tranh luận . Hitler nhấn mạnh vào ngày 12 tháng 11 là ngày triển khai.

    May mắn thay, Thần thời tiết đã ra tay trong thời điểm này và buộc hoãn lại - một quá trình sẽ lặp lại 15 lần trước khi kết thúc tháng một.

    Do đó, mặc dù O.K.H. cuối cùng đã chứng minh quan điểm của mình về ngày có thể xảy ra cuộc tấn công, kết quả là một cuộc khủng hoảng trong chỉ huy mà hậu quả của nó trở nên rõ ràng trong quá trình tiếp theo của cuộc chiến. Hiệu lực tức thì là Hitler và Brauchitsch ngừng gặp nhau. Tướng Heusinger , Sĩ quan tham mưu I - G.S.O.I tương lai thuộc Ban tác chiến, nói với tôi vào ngày 18 tháng 1 năm 1940 rằng Brauchitsch đã không gặp Hitler kể từ ngày 5 tháng 11 - một tình huống khá bất khả thi với mọi thứ. Một hệ quả nữa về sự tuyệt giao ngày 5 tháng 11 là cuộc nói chuyện của Hitler với các tư lệnh và ban tham mưu của tất cả Cụm tập đoàn quân, Tập đoàn quân và Quân đoàn trong Reich Chancellory vào ngày 23 tháng 11. Tôi không cần phải đi sâu vào vấn đề này, vì nó đã được biết đến qua các ấn phẩm khác. Điểm cốt yếu của nó là sự nhấn mạnh của Hitler về quyết định không thể chối bỏ của mình là tấn công phía Tây vào ngày sớm nhất có thể và những nghi ngờ mà Hitler thậm chí giải thích về việc trong bao lâu Reich sẽ không bị tấn công ở phía Đông.

    Theo như lời giải thích thực tế của Hitler về đòi hỏi thiết yếu để tiến hành tấn công phía Tây, các nhận xét của Hitler được cân nhắc kỹ lưỡng và, tôi nghĩ, rất thuyết phục, ngoại trừ câu hỏi về thời gian. Mặt khác, bài phát biểu của Hitler như là sự vỗ mặt không chỉ vào O.K.H., mà cả các Tướng, những người mà Hitler cho rằng đã liên tục cản trở sự dũng cảm và hoạt động của mình. Về mặt này, đó là bài phát biểu thiên vị nhất mà tôi từng nghe Hitler nói. Tổng tư lệnh quân đội đã làm điều duy nhất có thể và đã đề nghị từ chức. Hitler từ chối chấp nhận điều này, mặc dù đó rõ ràng không phải là giải pháp cho cuộc khủng hoảng. O.K.H. vẫn ở trong tình trạng không vui khi phải chuẩn bị cho một cuộc tấn công mà nó vẫn không được chấp thuận. Tổng tư lệnh vẫn bị từ chối với tư cách là cố vấn về chính sách chiến tranh tổng thể và xuống hạng một vị tướng điều hành thuần túy.

    Bất kỳ câu hỏi nào về lý do cho sự thay đổi như vậy trong mối quan hệ giữa Quốc trưởng và các chỉ huy quân đội sẽ cho thấy yếu tố quyết định là sự khao khát quyền lực của Hitler và sự tự phụ ngày càng tăng của mình, cả hai đều được tăng cường bởi sự ranh mãnh - có ý kiến cho rằng do Göring và Himmler. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng O.K.H. đóng góp không nhỏ vào việc loại bỏ chính nó dưới tay Hitler bằng cách nó xử lý vấn đề làm thế nào cuộc chiến nên được theo đuổi sau chiến dịch Ba Lan.

    Bằng cách quyết định duy trì tình trạng phòng thủ ở phía Tây, O.K.H. đã chấp nhận nhường thế chủ động cho Hitler - mặc dù không có gì phải nghi ngờ nhưng đầu tiên việc của O.K.H. là đề xuất với Quốc trưởng những bước cần thực hiện sau khi quân đội, được Luftwaffe hỗ trợ một cách hiệu quả, đã đánh bại Ba Lan rất nhanh chóng.

    O.K.H. chắc chắn là đúng khi đưa ra quan điểm vào mùa thu năm 1939 rằng thời điểm trong năm và sự non nớt của các đơn vị mới thành lập đã khiến cho một cuộc tấn công không thích hợp ở giai đoạn đó. Nhưng cả một báo cáo thực tế đơn giản này hay sự sắp xếp tăng viện để củng cố các vị trí phòng thủ ở phía Tây đều không cho một câu trả lời thỏa đáng cho vấn đề làm thế nào để đưa cuộc chiến đến một cái kết thỏa đáng theo nghĩa quân sự. Câu hỏi này O.K.H. trả lời sẽ khẳng định ảnh hưởng của O.K.H đối với chiến lược tổng thể.

    Tổng tư lệnh quân đội chắc chắn có quyền đề nghị tiến trình dàn xếp về chính trị với các cường quốc phương Tây. Nhưng điều gì xảy ra nếu không có triển vọng giải quyết như vậy xuất hiện? Với một người đàn ông kiểu Hitler, điều đó đặc biệt cần thiết - ngay cả khi một cuộc tấn công ở phía Tây dường như không phù hợp vào thời điểm đó - O.K.H. nên sau đó ở đó và chỉ ra đường lối quân sự để kết thúc chiến tranh.

    Do đó, có ba câu hỏi để xem xét khi chiến dịch Ba Lan kết thúc:

    Đầu tiên, chiến tranh có thể đưa tới một cái kết có lợi bằng cách bám sát các chiến thuật phòng thủ, hoặc liệu cái kết đó có thể đạt được chỉ bằng một cuộc tiến công chiến thắng của Đức ở phía Tây?

    Thứ hai, nếu một cuộc tiến công như vậy là cần thiết, khi nào cuộc tiến công có thể được triển khai với bất kỳ triển vọng thành công quyết định nào?

    Thứ ba, cuộc tiến công phải được tiến hành như thế nào để đảm bảo chiến thắng hiệu quả ở Châu Âu lục địa?

    Theo như câu hỏi đầu tiên, có hai khả năng.

    Một là Reich sẽ đạt được một thỏa thuận với các cường quốc phương Tây sau khi Ba Lan sụp đổ. O.K.H. đã bị giới hạn và phải xem xét vấn đề này ngay từ đầu, một phần vì tính cách đất nước con người Anh, điều này khiến cho Vương quốc Anh không thể chấp nhận được, và một phần vì chính Hitler nên không chắc có thể, một khi Ba Lan đã bị đánh bại, để chuẩn bị cho việc giải quyết hợp lí vấn đề biên giới Đức-Ba Lan theo nghĩa thỏa hiệp. Rốt cuộc, để đạt được thỏa thuận với các cường quốc phương Tây, Hitler phải tái lập Ba Lan, và điều này không thể làm được sau khi đã nhượng phần phía Đông của Ba Lan cho Liên Xô. Đó hoàn toàn là thực tế mà ngay cả một Chính phủ Đức khác cũng không đạt được sau khi Hitler bị lật đổ.

    Khả năng khác là kết thúc thành công cuộc chiến bằng cách duy trì thế phòng thủ có thể xảy ra: nếu các cường quốc phương Tây quyết định, sau tất cả, sẽ tiến hành cuộc tấn công. Điều này sẽ mang đến cho người Đức hy vọng đạt được một chiến thắng quyết định ở phía Tây trong quá trình triển khai một cuộc phản công. Ý tưởng tương tự xuất hiện trong cuốn sách Gespräche mit Halder, trích dẫn câu nói của Halder trong đó khi nói về một 'hành động phản ứng lại'. Theo Tướng Heusinger, tuy nhiên, O.K.H. chỉ bắt đầu xem xét điều đó muộn hơn nhiều - tức là vào một thời điểm nào đó trong tháng 12 - và không phải vào đầu tháng 9 và tháng 10, giai đoạn rất quan trọng đối với vị trí của chính O.K.H.

    Chắc chắn có một thứ gì đó rất hấp dẫn khi chiến đấu trong một chiến dịch với sự phấn khởi, vì ý tưởng dồn gánh nặng lên kẻ địch bằng một cuộc tấn công vào phòng tuyến Siegfried hoặc sự dè bỉu khi vi phạm tính trung lập của Luxembourg, Bỉ, và có lẽ cả Hà Lan chắc chắn là vô cùng hấp dẫn. Nhưng liệu đây có thực sự không phải là một trường hợp suy nghĩ viển vông, ít nhất là trong tương lai gần? Liệu có thể cho rằng các cường quốc phương Tây - những người không dám triển khai một cuộc tấn công trong khi hàng loạt lực lượng Đức bị trói chặt ở Ba Lan - sẽ tấn công ngay bây giờ khi Wehrmacht sẽ đối mặt với họ đầy đủ sức mạnh? Tôi không tin và cũng không tin là vào thời điểm đó - tồn tại bất kỳ cơ sở thực tiễn nào như thế cho hoạt động 'phản ứng lại' của Đức…..

    (NGUỒN : LÊ TIỆP)
    caonam_vOz, viagraless, meo-u1 người khác thích bài này.
  5. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927
    Quan điểm này đã được chứng thực rõ ràng trong "kế hoạch triển khai" được soạn thảo vào thời điểm đó theo lệnh của Tổng tư lệnh đồng minh, Tướng Gamelin. Ý tưởng chính được phản ánh trong tài liệu này, sau này rơi vào tay quân Đức, như sau:

    Trước mùa xuân năm 1941, các lực lượng Đồng minh sẽ không tích lũy đủ sức mạnh cần thiết để tiến hành cuộc tấn công chống lại Đức ở phía Tây. Các nước Đồng minh phải đạt được sự vượt trội về số lượng các lực lượng trên bộ mới giành được chiến thắng.

    Người Anh không chuẩn bị để tham gia một cuộc tấn công lớn trước năm 1941, trừ trường hợp Đức sụp đổ một phần. (Nhận xét này, rõ ràng ngụ ý hy vọng một sự thay đổi, cho thấy những gì chúng tôi nên có mong chờ một cuộc đảo chính.)

    Nhiệm vụ chính của các cường quốc phương Tây năm 1940 là phải bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ Pháp và tất nhiên phải nhanh chóng hỗ trợ cho Bỉ và Hà Lan nếu họ bị tấn công. Ngoài ra, mọi nỗ lực sẽ được thực hiện để tạo thêm các chiến trường nhằm tiêu hao quân Đức. Những chiến trường đó là các quốc gia Bắc Âu và - nếu Ý vẫn trung lập - vùng Balkan. Đương nhiên, những nỗ lực mang Bỉ và Hà Lan về phía quân Đồng minh sẽ tiếp tục.

    Cuối cùng, những nỗ lực nhằm tước đi những nguyên vật liệu nhập khẩu thiết yếu cho sự sống còn của Reich, cả bằng việc tạo ra các chiến trường mới đã được đề cập và bằng cách thắt chặt sự phong tỏa thông qua áp lực đối với các Quốc gia trung lập.

    Từ "kế hoạch thời chiến" này, có thể thấy rõ rằng các cường quốc phương Tây dự định tiến hành một cuộc chiến tiêu hao - ở càng nhiều chiến trường khác nhau càng tốt - cho đến khi họ đạt được những ưu thế rõ ràng sẽ cho phép họ - trong mọi trường hợp sẽ không thể trước 1941 - để phát động một cuộc tấn công ở phía Tây.

    Mặc dù O.K.H. vào thời điểm đó không hề biết về kế hoạch thời chiến của phía Đồng minh này, rất có khả năng các cường quốc phương Tây sẽ chiến đấu trong một cuộc chiến dài hạn theo đúng nghĩa đã được chỉ ra.

    Trước viễn cảnh đẫm máu, một cuộc tiến công vào Phòng tuyến Siegfried sẽ kéo theo, hy vọng rằng người dân Pháp và Anh sẽ mệt mỏi với 'cuộc chiến kỳ quặc' hầu như không phải là cơ sở thực tế cho bất kỳ quyết định nào cua O.K.H.. Trong mọi trường hợp, Đức không thể đợi cho đến khi kẻ địch của mình xây dựng được lực lượng vũ trang của riêng mình (vì thái độ của Roosevelt, Hoa-kỳ sẽ thực hiện việc viện trợ) đến mức địch sẽ mạnh hơn kể cả trên đất liền và trên không cũng như trên biển. Ít nhất Hoa-kỳ có thể đủ khả năng để làm điều đó ở với Liên Xô ở phía sau. Sau khi Liên Xô có được tất cả những mình cần từ Hitler thì hầu như các lợi ích chung quan trọng với Reich sẽ không còn tồn tại đồng thời các cường quốc phương Tây càng phát triển, vị thế của Đức sẽ càng bấp bênh.

    Do đó, theo như các nhà lãnh đạo quân sự quan tâm, thì tình huống sau chiến dịch của Ba Lan là: Câu trả lời cho câu hỏi đầu tiên trong ba câu hỏi trên - tức là liệu cuộc chiến sẽ có một kết quả thành công hay không khi tiếp tục phòng thủ ở phía Tây - chắc chắn là không, trừ khi giới lãnh đạo chính trị vẫn có thể xoay sở để đạt được thỏa hiệp với các cường quốc phương Tây. Dễ thấy Tổng tư lệnh quân đội khuyên Hitler phải dùng đến sự thỏa hiệp, vì nguy cơ quân sự là một cuộc chiến kéo dài sẽ kéo theo. Tất nhiên, hành động như vậy sẽ liên quan đến việc chấp nhận sự chậm trễ tạm thời ở Mặt trận phía Tây. Tuy nhiên, bất kể điều đó, nghĩa vụ và quyền của các nhà lãnh đạo quân đội là đưa ra chỉ dẫn hành động quân sự cho Hitler. Họ phải nói với Hitler những bước đi quân sự nào sẽ được thực hiện nếu không có giải pháp chính trị đạt được cho cuộc xung đột!

    Nói cách khác, O.K.H. phải trình bày cho Hitler một kế hoạch quân sự thay thế nếu không thể đạt được thỏa hiệp chính trị với các cường quốc phương Tây như Hitler hy vọng. O.K.H không được phép cho rằng Hitler sẽ tiếp tục nói không cho một cuộc tiến công ở phía Tây một khi Ba Lan đã bị đánh bại, cũng không được đợi cho đến khi Hitler quyết định tiến công theo ý riêng mình.

    Không có bất cứ khuyến nghị mang tính quân sự nào về việc tiếp tục chiến tranh mà duy trì phòng thủ ở phía Tây trừ khi ai đó nghĩ rằng có thể buộc người Anh quỳ gối bằng cuộc triến trên bầu trời và trên biển - một giả định không có nền tảng thực sự tồn tại.

    Do đó, về mặt quân sự, giả sử rằng một sự đồng ý chính trị không thể đạt được, khuyến nghị duy nhất người ta có thể đưa ra là cuộc chiến ở phía Tây sẽ là một cuộc tiến công. Hơn nữa, khi một khuyến nghị như vậy được đệ trình, O.K.H. cần thiết phải tự mình đảm bảo việc quyết định thời gian và phương pháp.

    Theo thời gian, O.K.H. đã đồng ý với tất cả các Tư lệnh ở Mặt trận phía Tây rằng không một thành công quyết định nào có thể đạt được từ việc phát động cuộc tấn công vào cuối mùa thu hoặc mùa đông.

    Lý do chính cho điều này là mùa. Vào mùa thu và mùa đông, Wehrmacht sẽ bị ngăn cản bởi các điều kiện thời tiết khi hai con át chủ bài, thiết giápLuftwaffe, sẽ không phát huy hết hiệu quả. Ngoài ra, khoảng thời gian ban ngày ngắn vào thời điểm này trong năm cho thấy hầu như không thể giành được một quyết định chiến thuật nào trong không gian của một ngày, do đó làm giảm tốc độ hoạt động.

    Lý do khác là tiêu chuẩn đào tạo của tất cả các đội hình mới được thiết lập khi chiến tranh bùng nổ vẫn chưa đầy đủ. Đội quân duy nhất thực sự phù hợp để đi vào hoạt động vào mùa thu năm 1939 là các sư đoàn có sẵn. Sĩ quan mới và tân binh chưa có đủ kinh nghiệm sử dụng vũ khí hoặc vận hành chiến dịch như một phần không thể thiếu của một lực lượng lớn: họ cũng chưa sở hữu mức độ ổn định cần thiết bên trong. Hơn nữa, việc trang bị lại các lực lượng thiết giáp sau chiến dịch Ba Lan vẫn chưa hoàn tất. Nếu đã dự định bắt đầu một cuộc tấn công ở phía tây trước khi kết thúc mùa thu năm 1939, các sư đoàn cơ giới ở Ba Lan nên được đưa về sớm hơn, nhưng đó là một điều mà Hitler đã không nghĩ đến. Hơn hết, những thiếu sót nghiêm trọng còn tồn tại ở Luftwaffe.

    Do đó, rõ ràng không hợp lý nếu tiến công ở phía tây trước mùa xuân năm 1940. Điều này đủ thời gian để tìm kiếm một giải pháp chính trị cho cuộc xung đột từ quan điểm quân sự, ít được tính với Hitler sau khi đề nghị hòa bình của Hitler vào đầu tháng Mười bị từ chối.

    Vì vấn đề về phương pháp, cụ thể là sự chuẩn bị chiến lược của một cuộc tấn công ở phía tây, là chủ đề của chương tiếp theo, không có lý do nào để đi sâu vào vấn đề này nữa.

    Chỉ điều này có thể được nói trước. Kế hoạch tấn công do Hitler áp đặt vào ngày 9 tháng 10 là một biện pháp nửa vời. Thay vì nhắm đến một chiến thắng quyết định hoàn toàn trên Châu Âu lục địa, kế hoạch này - ban đầu ở bất kỳ mức nào - chỉ liên quan đến một mục tiêu tạm thời.

    Đây điều mang đến cơ hội để O.K.H chứng mình cho Hitler rằng các cố vấn quân sự của Hitler có một thứ tốt hơn để cung cấp hơn là một giải pháp không hoàn chỉnh không xứng đáng với nguy cơ liên quan. Tất nhiên luôn luôn miễn rằng O.K.H. chính họ tin rằng bằng cách phát động một cuộc tấn công, cuộc tấn công đó có thể đạt được một chiến thắng quyết định hoàn toàn trên Châu Âu lục địa.

    Hiện vẫn chưa biết điều gì đã khiến những người đứng đầu O.K.H. vẫn không bày tỏ điều mình ủng hộ về chính sách tương lai ở phía Tây trong những tuần đầy quan trọng sau chiến dịch Ba Lan, mà quyết định quân sự thực sự lại được đặt vào tay Hitler. Họ có thể đã bị lay động bởi một mong muốn rất đúng đắn để khiến Hitler tìm kiếm một sự thỏa hiệp chính trị. Họ cũng có thể đã đúng khi lảng tránh tái diễn sự vi phạm tính trung lập của Bỉ và tất cả những gì đi kèm với nó. Tuy nhiên, vào thời điểm xảy ra, nhẹ nhàng mà nói, những kẻ ngoài cuộc lầm tưởng những người đứng đầu O.K.H. nghi ngờ việc liệu chiến dịch của Đức có thể đạt được thành công quyết định.

    Tuy thế mà O.K.H. để cho Hitler nắm thế chủ động để đưa ra các quyết định quân sự. Bằng cách tiếp tục cúi đầu trước mong muốn của Hitler và đưa ra mệnh lệnh cho một hoạt động mà bản thân những người đứng đầu O.K.H. không đồng ý , họ đã tự từ chức vì thực tế mục đích của cơ quan là chịu trách nhiệm về chiến tranh trên bộ.

    Ngay sau đó, khi các đề xuất hoạt động chiến dịch được Tổng dành dinh H.Q. Cụm tập đoàn quân A gửi cho O.K.H., O.K.H. đã có một cơ hội để lấy lại vị trí đã mất, nhưng O.K.H đã để cơ hội trôi qua tay.

    Chính những đề xuất này, cuộc tiến công phía Tây trong thực tế đã đạt được mức độ thành công vượt xa cả mong đợi ban đầu của Hitler, nhờ đó sau này Hitler có thể coi O.K.H. như một phần chính yếu mà Hitler không thể lờ đi tránh không hỏi ý kiến trong các chiến dịch quy mô lớn.

    Hitler đã đóng vai trò một chế độ tam hùng vua, chính khách và tướng quân mà Schlieffen tin rằng chế độ này tốt nhất có thể được thực hiện trong thời đại của chúng tôi. Bây giờ Hitler cũng đã chiếm đoạt vai trò của tướng. Nhưng liệu "giọt dầu xức của Samuel" mà Schlieffen coi là không thể thiếu đối với ít nhất một trong ba vai trò đều đã rơi vào tay Hitler?....


    (NGUỒN : LÊ TIỆP)

    caonam_vOz, tatpcitviagraless thích bài này.
  6. vuanthai

    vuanthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/03/2004
    Bài viết:
    385
    Đã được thích:
    68
    Đọc lướt thấy đổ tội cho Hitler nhiều quá. Có gì không đúng ở đây khi cuốn sách đã không đề cập tới thái độ phục thù thua trận WW1 của đám tướng lãnh Đức. Chắc chắn trong thời điểm này hầu hết người Đức đều muốn chiến tranh. Những kẻ xét lại cho rằng nếu ko có hiệp ước Xô Đức thì WW2 ko xảy ra là ăn nói hồ đồ. Nếu Đức không đi đêm được với Xô thì nó cũng sẽ phải đi đêm với Anh Pháp để đánh Balan với cái cớ cần đường sang đánh Nga. Xong Balan rồi chưa chắc nó đã đánh Nga ngay mà lại đi đêm với Nga lật lọng đánh Pháp. Lật lọng, xảo trá lừa đảo thì Hitler là bậc thầy. Kiểu gì thì WW2 cũng xảy ra thôi và chắc chắn nó sẽ xảy ra trước năm 1942 là cái mốc mà theo tính toán của Đức là năm trình độ quân sự của Anh, Pháp, Nga sẽ đổi kịp Đức và lúc đó Balan cũng hiện đại hoá xong lực lượng vũ trang.
    ngthi96, viagralesshuytop thích bài này.
  7. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927


    5 - CUỘC TRANH LUẬN KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG.



    Cho đến khi chiến tranh kết thúc, bối cảnh kế hoạch thay thế ‘kế hoạch Vàng' ban đầu của OKH vào ngày 19 và 29 tháng 10 năm 1939 như là tiền đề của cuộc tấn công của chúng tôi ở phía Tây - kế hoạch để dành lấy một chiến thắng quyết định và nhanh chóng trước quân đội Anh-Pháp và các lực lượng của Bỉ và Hà Lan mới được biết đến. Người đầu tiên tiết lộ kế hoạch 'mới' này xuất hiện như thế nào có lẽ là Liddell Hart, người đã đặt tên tôi với nó, là kết quả của bản trình bày được chuyển tới cho Liddell Hart bởi Thống chế v. Rundstedt và Tướng Blumentritt, Trưởng phòng tác chiến của chúng tôi trong suốt thời gian bị chất vấn.

    [Xem Phía bên kia của ngọn đồi, Cassell, 1948. Tr.]

    Vì tôi có thể được coi là nhân vật chính trong vấn đề này, nên có vẻ như bây giờ tôi nên tự mình cố gắng, trên cơ sở các ghi chép đã được sắp xếp lại của tôi, để cho thấy kế hoạch ra đời như thế nào, đặc biệt là kể từ khi nó có được một ý nghĩa nhất định. Rốt cuộc, những ý tưởng đằng sau kế hoạch là của tôi, cũng giống như tôi là người soạn thảo tất cả các bản đề xuất cho O.K.H. theo đó, chúng tôi đã tìm cách để kế hoạch hoạt động theo một hướng duy nhất có lợi, theo ý kiến của chúng tôi, để quyết định thành công ở phía Tây. Cuối cùng, chính tôi - người đã bị thay thế khỏi vị trí Tham mưu trưởng của Cụm tập đoàn quân - đã có cơ hội để tiếp cận Hitler với những ý tưởng mà Sở chỉ huy của chúng tôi đã thất bại từ lâu để có được sự chấp thuận của O.K.H. Chỉ vài ngày sau đó, O.K.H. đưa ra một Phương án tác chiến mới dựa trên các khuyến nghị của chúng tôi!

    Đồng thời tôi cũng nhấn mạnh rằng tư lệnh của tôi, Đại tướng v. Rundstedt, và các cộng sự của tôi Blumentritt và Tresckow, đã đồng ý với quan điểm của tôi trong suốt thời gian và rằng Rundstedt đã ủng hộ hoàn toàn các kiến nghị của chúng tôi bằng chữ ký của chính mình. Nếu không có sự phê chuẩn của Rundstedt, chúng tôi không bao giờ có thể tiếp tục cố gắng thay đổi suy nghĩ của O.K.H. bằng những bản đềxuất lặp đi lặp lại này.

    Nhà sử học chiến tranh hoặc sĩ quan đọc lịch sử quân sự cũng có thể thấy cuộc đối đầu tư duy này trong toàn bộ kế hoạch hành quân đáng để nghiên cứu. Tuy nhiên, với mục đích của cuốn sách này, ban đầu tôi sẽ giới hạn bản thân để phác họa những nét chính kế hoạch của O.K.H. và để giải thích những gì tôi không thể giúp đỡ về những thiếu sót trong ý đồ chiến lược của O.K.H (hay chính xác hơn là về Hitler). Tiếp theo, bằng cách đối chiếu với kế hoạch của O.K.H., tôi đề xuất để giải quyết các luận cứ thiết yếu mà Cụm tập đoàn quân dựa trên các cân nhắc chiến lược của nó. Cuối cùng, tôi sẽ trình bày ngắn gọn về việc, sau một loạt dài thất vọng, kế hoạch hoạt động ban đầu cuối cùng đã được sửa đổi - chắc chắn là theo chỉ thị của Hitler - trùng với quan điểm của Sở chỉ huy của chúng tôi.



    KẾ HOẠCH CỦA O.K.H. (HAY KẾ HOẠCH CỦA HITLER)



    Nếu được yêu cầu xác định, sự rõ ràng của Phương án tác chiến do O.K.H. ban hành, chiến lược cơ bản mà phần chính yếu (và Hitler) dự định áp dụng ở phía Tây, tôi sẽ diễn tả như sau: (Xem hình 2)
    --- Gộp bài viết: 19/05/2020, Bài cũ từ: 19/05/2020 ---
    [​IMG]
    BẢN ĐỒ SỐ 2 : SỰ THAY ĐỔI CỦA KẾ HOẠCH VÀNG...
    .............................
    O.K.H. đề xuất - theo chỉ thị của Hitler ngày 9 tháng Mười - đưa một lực lượng mạnh của Đức ở bên cánh phải vượt qua Hà Lan tràn vào miền bắc Bỉ để đánh bại lực lượng Anh-Pháp, dự kiến ở đó sẽ có sự kết của các lực lượng Bỉ và Hà Lan. Nói cách khác, chủ định là một cú thọc sâu vào cánh phải. Cánh tấn công này bao gồm Cụm tác chiến N (tương đương 1 Tập đoàn quân - Armee-Abteilung - là một đội quân nhỏ gồm hai hoặc ba quân đoàn) và Cụm tập đoàn quân B (Đại tướng v. Bock) được tập trung tại khu vực Hạ Rhine và phía bắc Eifel. Cụm tập đoàn quân B có 3 tập đoàn quân dưới quyền. Hoàn toàn, cánh phía bắc gồm 30 sư đoàn bộ binh và phần lớn các sư đoàn cơ giới (9 Sư đoàn thiết giáp và 4 Sư đoàn bộ binh cơ giới). Vì tổng số sư đoàn Đức có sẵn ở Mặt trận phía Tây là 102, do đó, chúng chiếm gần một nửa toàn bộ lực lượng của chúng tôi.

    Trong khi nhiệm vụ của Cụm tác chiến N là loại bỏ Hà Lan, 3 tập đoàn quân trong Cụm tập đoàn quân B sẽ tấn công qua miền bắc Bỉ, đi qua phía bắc và phía nam Liege. Phần lớn các lực lượng xe tăng được dự định đóng một vai trò quyết định ở đây trong một nỗ lực để tràn qua địch.(Xem hình 3)
    --- Gộp bài viết: 19/05/2020 ---
    [​IMG]
    BẢN ĐỒ SỐ3 : PHƯƠNG ÁN TÁC CHIẾN BAN ĐẦU CỦA O.K.H...(PHƯƠNG ÁN TÁC CHIẾN SỐ 1)
    ..............................
    Vào ngày 29 tháng 10, Phương án tác chiến số 1 đã được sửa đổi để đưa Hà Lan ra khỏi viễn cảnh trong giai đoạn đầu. Điều này có thể là do O.K.H. chủ trì…(Xem hình 4)
    --- Gộp bài viết: 19/05/2020 ---
    [​IMG]
    BẢN ĐỒ SỐ4 : PHƯƠNG ÁN TÁC CHIẾN SỬA ĐỔI CỦA O.K.H...(PHƯƠNG ÁN TÁC CHIẾN SỐ 2)
    ..............................
    Do đó, Tập đoàn quân B sẽ tấn công thẳng vào Liege trên 2 hướng với hai Tập đoàn quân ( 4 và 6) và hai Tập đoàn quân (2 và 18) theo sau tương ứng. Tuy nhiên, sau đó, hướng Hà Lan lại được đưa vào chiến dịch , việc loại bỏ Hà Lan lần này được giao cho Tập đoàn quân 18.

    Mũi thọc sâu tấn công chính của Cụm tập đoàn quân B sẽ được hỗ trợ sườn phía nam bởi Cụm tập đoàn quân A. Về sau, Cụm tập đoàn quân A gồm hai Tập đoàn quân (12 và 16) và tổng cộng 22 sư đoàn (không có bất kì lực lượng cơ giới nào) sẽ tiến qua miền nam Bỉ và Luxembourg, sau khi tập trung ở phía nam Eifel và Hunsrück. Tập đoàn quân 12 sẽ theo sườn trái của Cụm tập đoàn quân B, thiết lập một hệ thống phòng thủ bậc thang ngay khi nó đi đến để che chắn cho mũi tiến công của Cụm tập đoàn quân B nhằm chống lại các cuộc đột kích bất ngờ của kẻ địch.

    Tập đoàn quân 16 bẻ hướng xuống phía nam sau khi vượt qua Luxembourg để bảo vệ sườn sâu của toàn bộ chiến dịch bằng cách thiết lập một vị trí phòng thủ chạy dọc theo phía bắc của Phòng tuyến Maginot về phía Tây giữa vùng Saar và sông Meuse phía Đông Sedan.

    Cụm tập đoàn quân C được giữ lại với 2 tập đoàn quân gồm 18 sư đoàn bộ binh để giữ Phòng tuyến Siegfried từ biên giới Luxembourg xuống Thụy Sĩ. 17 sư đoàn bộ binh và 2 sư đoàn cơ động có sẵn đóng vai trò là quân dự bị.

    Mục tiêu của chiến dịch này được xác định trong Đoạn 1 của Phương án tác chiến của O.K.H. ngày 19 tháng 10 dưới tiêu đề 'Mục tiêu chung' (theo Chỉ thị trực tiếp Hitler và O.K.W. ngày 9 tháng 10). Đó là:

    'Đánh bại nhiều nhất có thể các lực lượng của Pháp và Đồng minh, đồng thời giành được nhiều nhất có thể lãnh thổ nhất ở Hà Lan, Bỉ và bắc Pháp để làm bàn đạp cho các hoạt động trên không và trên biển để chống lại Anh và mở rộng không gian bảo vệ cho vùng Ruhr. '

    Đoạn 2 của Phương án tác chiến chỉ ra rằng nhiệm vụ đầu tiên trong cuộc tiến công của hai tập đoàn quân, được hiệp đồng dưới quyền Tổng tư lệnh quân đội, v. Brauchitsch, phải là:

    'Trong khi tiêu diệt các lực lượng vũ trang Hà Lan, để đánh các đơn vị của Quân đội Bỉ nhiều nhất có thể trong các công sự vùng lân cận đường biên giới và, bằng cách nhanh chóng tập trung các lực lượng cơ giới mạnh mẽ, để tạo bàn đạp ngay lập tức tiếp tục cuộc tấn công bằng bên cánh phải mạnh mẽ và sự chiếm đóng nhanh chóng của bờ biển Bỉ. '

    Trong bản sửa đổi được đề cập trước đây về Phương án tác chiến được ban hành vào ngày 29 tháng 10, O.K.H. phần nào mở rộng mục tiêu hoạt động của Tập đoàn quân B bằng cách diễn đạt lại 'Mục tiêu chung'. Do đó, điều này bao gồm:

    'Giao chiến và hủy diệt các lực lượng Pháp - Anh lớn nhất có thể ở miền bắc Pháp và Bỉ, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp tục cuộc chiến chống lại Anh và Pháp bằng đường bộ và đường không.'

    Trong đoạn đầu của 'Mệnh lệnh triển khai và nhiệm vụ', O.K.H. đặt cho Cụm tập đoàn quân mục tiêu: 'Tiêu diệt lực lượng Đồng minh ở phía bắc Somme và di chuyển qua bờ biển Channel'.

    Vai trò hỗ trợ của Cụm tập đoàn quân A, chủ yếu là tiếp tục phòng thủ, đã được mở rộng mà Tập đoàn quân 12 bên cánh phải của nó giờ phải được đẩy qua Meuse đối diện và phía nam Fumay rồi đi qua khu biên giới kiên cố của Pháp theo hướng Laon.

    Mục tiêu chung cho các hoạt động của cả hai Phương án tác chiến có thể được miêu tả rõ nhất bằng cách nói rằng chúng tôi dự kiến sẽ đối đầu trực diện các lực lượng Anh-Pháp ở Bỉ bằng một cánh quân bên phải (mạnh mẽ) trong khi cánh trái (yếu hơn) của chúng tôi nhằm yểm trợ. Mục tiêu lãnh thổ là đường bờ biển Channel. Những gì sẽ theo sau cú huých đầu tiên này, chúng tôi không được nói rõ......

    (NGUỒN : LÊ TIỆP)
    Lần cập nhật cuối: 19/05/2020
    caonam_vOz, tatpcit, meo-u1 người khác thích bài này.
  8. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927


    NHIỆM VỤ




    Ở một mức độ đáng kể, phản ứng đầu tiên của tôi đối với kế hoạch được đặt ra trong hai Phương án tác chiến này là về mặt cảm xúc chứ không phải nhận thức. Bản chất ý định chiến lược của O.K.H. là bắt chước Kế hoạch Schlieffen nổi tiếng năm 1914. Không quá khi nói rằng tôi thấy thật nhục nhã, thế hệ của chúng tôi không thể sáng tạo ra một cái gì đó tốt hơn là lặp lại một cách làm cũ, ngay cả khi đây là sản phẩm của một người như Schlieffen. Liệu chúng tôi có thể giành được một cái gì đó bằng cách lặp lại một kế hoạch mà đối thủ của chúng tôi đã chạm trán một lần trước đó và trước sự chuẩn bị đầy đủ phòng ngừa sự lặp lại kế hoạch? Vì rõ ràng với bất kỳ bộ óc quân sự nào của người Đức ít nhạy bén hơn liệu chúng tôi chắc chắn sẽ không tấn công Phòng tuyến Maginot năm 1939 so với các công sự Verdun-Toul Toul Nancy-Epinal năm 1914.

    Tuy nhiên, một phần nào đó phản ứng bằng cảm xúc, tôi đã đánh giá không chính xác về O.K.H.. Một lý do là kế hoạch này đến từ phía Hitler; một điều nữa là kế hoạch không thực sự lặp lại hoàn toàn của Schlie-ffen. Đa phần chỉ đúng ở hai khía cạnh - là kế hoạch vào năm 1939 dự định, như năm 1914, đặt mũi chủ công cuộc tiến công của Đức vào cánh phía bắc; và điểm tương đồng của cả hai kế hoạch đều là hành quân qua Bỉ. Mặt khác, kế hoạch năm 1914 và 1939 rất khác nhau.

    Đầu tiên, tình huống hoàn toàn khác nhau. Vào năm 1914, vẫn có khả năng xảy ra - như Schlieffen đã dự đoán - tính đến bất ngờ chiến lược. Ngay cả khi điều này không bao gồm cuộc hành quân qua Bỉ, kế hoạch chắc chắn được áp dụng cho việc tập trung lực lượng của Đức vào cánh cực bắc. Năm 1939, ý định tương ứng về của Hitler không thể che giấu khỏi kẻ địch.

    Hơn nữa, có lý do để hy vọng vào năm 1914 - như Schlieffen đã dự đoán - rằng người Pháp sẽ phát động một cuộc tấn công sớm vào Lorraine. Năm 1939, không có diễn biến nào có thể được mong đợi. Kẻ địch sẽ ngay lập tức đưa các lực lượng chủ lực để đáp trả cuộc tiến quân của chúng tôi qua Bỉ và Hà Lan, những tình huống này - trái ngược với năm 1914 - sẽ phải đối đầu trực diện là chủ yếu. Thay vì sớm giành thế chủ động ở trung tâm của mặt trận, người Pháp có khả năng giáng một đòn phản kích vào sườn phía nam của lực lượng chính của chúng tôi trong cuộc tiến công qua Bỉ. Nói cách khác, Kế hoạch Schlieffen không thể lặp lại.

    Ngoài ra, tôi sớm nhận ra rằng cả O.K.H. lẫn Hitler đều không tái diễn ý đồ có tầm quan trọng của Kế hoạch Schlieffen. Schlieffen đã phác thảo kế hoạch của mình để nhằm đến thất bại cuối cùng và hoàn toàn của toàn bộ Quân đội Pháp. Mục đích của Schlieffen là bọc sườn địch ở phía bắc bằng một cú móc bên phải và sau đó, sau khi đã dọn sạch toàn bộ miền bắc nước Pháp, dồn xuống phía tây Paris và đẩy toàn bộ quân Pháp trở lại một trận tuyến kéo dài từ Metz qua Vosges đến biên giới Thụy Sĩ, cuối cùng buộc phải đầu hàng. Để đạt được điều này, Schlieffen đã chấp nhận đánh đổi rủi ro ban đầu ở Alsace, đồng thời hy vọng rằng kẻ địch, bằng cách mở một cuộc tấn công ở Lorraine, sẽ biến nỗ lực của mình thành sự thành công hoàn toàn cho chiến dịch lớn của Đức.

    Mặt khác, kế hoạch năm 1939, không có ý định rõ ràng nào về một chiến dịch chiến đấu nhắm đến một chiến thắng cuối cùng. Mục tiêu của kế hoạch là, khá rõ ràng, chiến thắng một phần (đánh bại lực lượng Đồng Minh ở miền Bắc Bỉ) và giành được lãnh thổ (chiếm hữu bờ biển Channel làm cơ sở cho các hoạt động trong tương lai).

    Có thể là khi Đại tướng v. Brauchitsch và Tham mưu trưởng của mình lúc đó đang soạn thảo Phương án tác chiến 1939, họ đã nhớ lại về những gì Moltke đã viết trong lời mở đầu chuyên luận của Bộ Tổng tham mưu về Chiến tranh 1870-71:

    'Không một kế hoạch hành động kéo dài với bất kỳ sự chắc chắn nào tới khi lần chạm trán đầu tiên với lực lượng chủ lực của địch. Chỉ có những kẻ không hiểu biết gì, khi một chiến dịch phát triển, nghĩ rằng mình thấy kế hoạch ban đầu được thực hiện một cách có hệ thống đến từng chi tiết cho tới kết luận định trước của nó. '

    Nếu luận điểm này đã truyền cảm hứng cho kế hoạch của O.K.H, điều đó có nghĩa là bên thứ hai có quyền quyết định liệu, và bằng cách nào, cuộc tấn công nên được tiếp tục một khi các mục tiêu đầu tiên - chiến thắng một phần ở cánh phải ở phía bắc Bỉ và chiếm đóng bờ biển Channel - đã đạt được.

    Tuy nhiên, phán đoán dựa theo những gì tôi nhận được khi Phương án tác chiến được chuyển đến cho tôi ở Zossen, tôi chỉ có thể cho rằng O.K.H. coi cơ hội đạt được kết quả quyết định trong chiến tranh Pháp là vô cùng mỏng manh, nếu không nói là không tồn tại. Suy nghĩ này sau đó đã được chứng thực bởi nhiều chuyến thăm của Tổng tư lệnh quân đội và Tổng tham mưu trưởng của mình, không ai trong số họ chú ý nghiêm túc đến sự khăng khăng lặp đi lặp lại của chúng tôi về sự cần thiết phải cố gắng chiến thắng. Tương tự tôi nghi ngờ nếu chính Hitler sau đó tin tưởng vào khả năng loại bỏ hoàn toàn nước Pháp trong quá trình hoạt động dự kiến. Thật vậy, mối quan tâm hàng đầu của Hitler có lẽ là hồi ức rằng khi cuộc tấn công của chúng tôi bị thất bại vào năm 1914, chúng tôi đã thấy mình thiếu điều kiện cơ sở cần thiết cho chiến tranh tàu ngầm chống lại Anh. Đó là lý do tại sao bây giờ Hitler coi trọng việc giành được điều kiện đó - nói cách khác là sở hữu bờ biển Channel.

    Bây giờ đã hoàn toàn rõ ràng rằng một chiến dịch nhằm vào sự thất bại hoàn toàn của Pháp không còn có thể được thực hiện bằng một đòn, như Schlieffen đã lên kế hoạch thực hiện. Như đã được giải thích ở trên, các điều kiện cần thiết không còn có được. Tuy nhiên, nếu kế hoạch được đề xuất - một khi chiến thắng một phần như O.K.H dự tính, đã giành được - bắt nguồn từ việc loại bỏ hoàn toàn đối thủ là Pháp, thì chiến dịch hiện tại ít nhất có liên quan đến mục tiêu cuối cùng này! Đầu tiên, nó phải mang lại sự hủy diệt hoàn toàn cho cánh phía bắc của kẻ địch, để thiết lập ưu thế quyết định cho bước đi thứ hai, mục đích của nó là tiêu diệt các lực lượng Pháp còn lại ở phía tây.

    Thứ hai, nó phải đồng thời tạo ra một tình huống chiến lược thuận lợi để từ đó phát động bước đột phá thứ hai. Theo tôi, hoạt động như kế hoạch được đưa ra bởi O.K.H không đảm bảo đáp ứng hai yêu cầu cơ bản này.

    Khi mũi tấn công của Đức, Cụm tập đoàn quân B, có binh lực gồm 43 sư đoàn, đến Bỉ, lực lượng này sẽ chạm mặt với 20 sư đoàn Bỉ và - nếu Hà Lan nhập cuộc - thêm 10 sư đoàn Hà Lan. Tuy nhiên, những sư đoàn này được đánh giá có chất lượng kém hơn sư đoàn Đức, khả năng cầm cự của họ phần lớn nhờ vào các công sự kiên cố (ở cả hai phía Liege và dọc theo Kênh Albert) và các chướng ngại vật tự nhiên (ở Bỉ Kênh Albert chạy xuống pháo đài Antwerp và tuyến đường kiên cố của Meuse xoay quanh Namur, ở Hà Lan, nhiều tuyến đường thủy). Hơn nữa, trong một vài ngày, các lực lượng này sẽ kết hợp với quân đội Anh-Pháp (bao gồm tất cả các sư đoàn xe tăng và cơ giới) đã được tập hợp trên biên giới Pháp-Bỉ để đáp trả một cuộc xâm lược của Đức.

    Do đó, mũi tấn công của Đức sẽ không có cơ hội, như vào năm 1914, để đạt được bất ngờ chiến lược bằng một cú thọc sâu quy mô lớn. Với sự xuất hiện của lực lượng Anh-Pháp, Cụm tập đoàn quân B sẽ phải chiến đấu với một đối thủ mạnh và hứng chịu những đòn tấn công trực diện. Do đó, thành công của cú đòn đầu tiên này phải đạt được bằng các phương thức chiến thuật, vì không có bất kỳ thiên hướng chiến lược cho cuộc tấn công.

    Nếu thực sự kẻ địch có tầm nhìn, chúng có thể hình dung thành công trong việc tránh một thất bại hoàn toàn ở Bỉ. Ngay cả khi kẻ địch không giữ được tuyến phòng thủ kiên cố Antwerp-Liege-Meuse(hoặc Semois), vẫn có thể đoán được chúng có thể rút lại phía sau ở hạ Somme theo thứ tự hợp lý. Khi đó, kẻ địch có thể rút ra các lực lượng dự bị dồi dào của mình để xây dựng một tuyến mặt trận mới. Đến lúc đó, cuộc tấn công của Đức sẽ mất đà, và Cụm tập đoàn quân A sẽ không thể, dù bằng sự chuẩn bị hoặc sức mạnh của lực lượng của mình, để ngăn chặn kẻ địch hình thành tuyến phòng thủ từ cuối phía đông tuyến phòng thủ Maginot của Sedan đến vùng Hạ Somme . Theo cách này, quân đội Đức sẽ rơi vào tình huống tương tự như năm 1914 sau khi những trận đánh mùa thu kết thúc. Lợi thế duy nhất của nó là sở hữu một loạt các bàn đạp rộng hơn dọc theo bờ biển Channel. Do đó, chúng tôi sẽ không thể tiêu diệt hoàn toàn các lực lượng địch ở Bỉ - điều rất cần thiết nếu chúng tôi có được sự áp đảo hoàn toàn lực lượng trong giai đoạn quyết định - chúng tôi cũng không thể ở trong một tình huống chiến lược thuận lợi cho những trận đánh cuối cùng. Kế hoạch của O.K.H. sẽ chỉ mang lại chiến thắng một phần, không gì hơn.

    Khi đi vào thực tế, kẻ địch đã vượt Bỉ vào năm 1940, nhờ có sự xử lý khéo léo của Cụm tập đoàn quân B, kết quả là quân đội Bỉ và Hà Lan đã buộc phải đầu hàng. Nhưng tuy nhiên, bằng niềm tin mãnh liệt vào các chỉ huy của Đức và sức mạnh nổi trội của thiết giáp chúng tôi, đây không phải là những thành công có thể tính trước. Nếu phía bên kia được dẫn dắt tốt hơn, câu chuyện có thể đi theo hướng rất khác.

    Sự thất bại toàn tập mà kẻ địch phải gánh chịu ở miền bắc Bỉ gần như chắc chắn là do kết quả của những thay đổi sau đó đối với kế hoạch tác chiến, các đơn vị xe tăng của Cụm tập đoàn quân A đã có thể cắt thẳng tuyến giao liên và đẩy chúng ra khỏi Somme.

    Cuối cùng, có một điều mà kế hoạch của O.K.H. đã không hề tính đến - sự táo bạo và cương quyết trong phạm vi điều động của một chỉ huy địch. O.K.H. không được phép cho rằng sẽ thiếu sự chỉ huy, đặc biệt là về danh tiếng mà Tướng Gamelin. Gamelin chắc chắn đã gây ấn tượng tuyệt vời với Tướng Beck khi có dịp tiếp xúc trước chiến tranh.

    Trong vị thế ngăn chặn các cuộc tấn công Đức có khả năng thông qua Bỉ, một chỉ huy táo bạo có thể đồng thời thực hiện một cuộc phản công quy mô lớn vào sườn phía nam của cánh phía quân phía bắc của Đức. Ngay cả khi các lực lượng dành cho sự hỗ trợ cho Bỉ và Hà Lan đã được đưa tới Bỉ, 50 hoặc 60 sư đoàn cho một cuộc phản công như vậy chắc chắn vẫn sẵn sàng ở Phòng tuyến Maginot, lực lượng dự bị này dễ dàng có thừa. Cụm tập đoàn quân B càng tiến về phía trước phía eo biển Channel và cửa sông Somme, địch càng có cơ hội thọc sâu vào sườn của cánh phía bắc của quân Đức. Cho dù là với 22 sư đoàn của Cụm tập đoàn quân A, Cụm tập đoàn quân A chắc chắn sẽ không đủ khả năng để ngăn chặn điều này. Dù câu trả lời là gì, bất kỳ sự thay đổi nào trong một chuỗi các sự kiện này sẽ khó có thể có giải pháp chiến lược cuối cùng cho mặt trận phía Tây.



    (NGUỒN : LÊ TIỆP)
    caonam_vOz, tatpcitmeo-u thích bài này.
  9. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927
    KẾ HOẠCH CỦA CỤM TẬP ĐOÀN QUÂN A




    Những phản đối trên được khắc họa khi tôi nghiên cứu về Phương án tác chiến của O.K.H. , hình thành nên cơ sở cho các đề xuất mà chúng tôi đặt ra trong một loạt các bản đề xuất nhằm đưa các chỉ huy cấp cao của quân đội đi theo quan điểm của chúng tôi. Vì các đề xuất này chắc chắn có phần lặp đi lặp lại, tôi sẽ chỉ tóm tắt chúng ở đây, đồng thời chỉ ra nơi chúng tương phản với ý định hoạt động của O.K.H. :

    1. Mục tiêu tấn công phương Tây như tôi đã trình bày bắt buộc giải quyết bằng Lục quân. Việc chỉ cố gắng đạt được những mục tiêu giới hạn trong Phương án tác chiến của O.K.H không những tạo thành các mối nguy hiểm chính trị (vi phạm tính trung lập của ba quốc gia) cũng như những rủi ro quân sự liên quan. Khả năng tiến công của Quân đội Đức bằng Lục quân là con át chủ bài của chúng tôi, việc phung phí nó bằng các biện pháp thỏa hiệp là không chấp nhận được - nếu chỉ vì Liên Xô.

    2. Mũi chủ công của cuộc tấn công của chúng tôi phải giao cho Cụm tập đoàn quân A, chứ không phải B. Mũi tấn công như dự định bởi Cụm tập đoàn quân B sẽ đánh vào kẻ địch đang chờ đợi ít nhiều ở phía trước; ngay cả khi mũi chủ công như trong Phương án tác chiến đạt được một số thành công ban đầu, những thành công nãy cũng sẽ đuối dần khi đến Somme.

    Cơ hội thực sự nằm ở Cụm tập đoàn quân A, tiến hành một cuộc tiến công bất ngờ xuyên qua vùng Ardennes - nơi mà kẻ địch chắc chắn vì địa hình sẽ không tính đến sự có mặt của bất kì lực lượng thiết giáp nào - về phía vùng hạ Somme phía trước dòng sông để cắt dời lực lượng địch được đưa vào Bỉ. Đây là phương án khả thi duy nhất để tiêu diệt toàn bộ cánh phía Bắc của kẻ địch ở Bỉ chuẩn bị cho chiến thắng cuối cùng ở Pháp.

    3. Bên cạnh việc mang đến cơ hội chính, Cụm tập đoàn quân A cũng chứa đựng mối nguy hiểm chính cho cuộc tấn công của Đức.
    --- Gộp bài viết: 20/05/2020, Bài cũ từ: 20/05/2020 ---
    [​IMG]
    BẢN ĐỒ 5 : KẾ HOẠCH MANSTEIN
    ..........................
    Nếu kẻ địch hành động đúng đắn, địch sẽ tìm cách trốn tránh một cuộc giao tranh không có lợi ở Bỉ, có thể bằng cách rút về phía sau Somme. Đồng thời, sẽ triển khai tất cả các lực lượng sẵn có của mình cho một cuộc phản công lớn chống lại sườn phía nam của chúng tôi với mục đích bao vây khối lực lượng chính của Quân đội Đức ở Bỉ hoặc tiến về Hạ lưu sông Rhine. Mặc dù tôi không tin rằng Bộ Tư lệnh Pháp với giả pháp táo bạo như vậy, và mặc dù chắc chắn các đồng minh của Pháp sẽ phản đối một giải pháp khả dĩ như vậy, nhưng chúng tôi vẫn không thể coi thường khả năng này.

    Nếu cuộc tấn công của chúng tôi qua miền bắc Bỉ dừng lại ở hạ Somme, kẻ địch ít nhất sẽ thành công trong việc hình thành một trận tuyến phòng thủ không thể phá bởi các lực lượng dự bị có sẵn trong tay. Trận tuyến này có thể bắt đầu ở đầu phía tây bắc của Phòng tuyến Maginot phía Đông của Sedan và, lợi dụng Aisne và Somme, chạy thẳng xuống Channel.

    Để ngăn chặn điều này, điều quan trọng là phải đập tan mọi sự tập trung của kẻ địch vào sườn phía nam của chúng tôi, ở cả hai bên của Meuse hoặc giữa Meuse và Oise, trước khi sự tập trung này hoàn thành. Sự liên tục của trận tuyến địch trong khu vực này phải bị phá hủy ngay từ đầu với mục đích quay lại bọc sườn Phòng tuyến Maginot sau này.

    4. Cụm tập đoàn quân A, với nhiệm vụ chính của chiến dịch phải được chấp nhận (ngay cả khi ban đầu, vì lý do không gian, nhiều sư đoàn hơn phải được cung cấp so với Cụm tập đoàn quân B), phải được trao 3 Tập đoàn quân thay vì chỉ có hai.

    Một Tập đoàn quân sẽ vượt qua miền nam Bỉ và băng qua Meuse như đã vạch ra, nhưng sau đó nó phải thọc sâu về phía vùng hạ Somme để tấn công lực lượng địch đang đối mặt với Cụm tập đoàn quân B ở phía sau.

    Một Tập đoàn quân khác phải sẵn sàng hành động theo hướng tây nam với nhiệm vụ tấn công và đánh tan mọi lực lượng địch tập trung ở phía tây Meuse với ý định phản công nhằm vào sườn phía nam của chúng tôi.

    Một Tập đoàn quân thứ ba như đã dự tính, phải hỗ trợ sườn sâu của chiến dịch tổng thể từ phía bắc của Phòng tuyến Maginot giữa Sierk và Mouzon (phía đông của Sedan).

    Để thực hiện việc chuyển giao mũi chủ công của chiến dịch từ Cụm tập đoàn quân B sang Cụm tập đoàn quân A, chúng tôi yêu cầu đủ:

    (i) thêm một Tập đoàn quân (không được phép chuyển giao từng bước cho đến khi cuộc tiến công tiến hành, mà phải có sẵn ngay từ đầu) và (ii) phần lớn lực lượng thiết giáp.

    Những điều cô đọng này là những điểm chính của kiến nghị liên tục lặp đi lặp lại trong các bản đề xuất đa dạng của Cụm tập đoàn quân chúng tôi đối với O.K.H.

    (NGUỒN : LÊ TIỆP)
    caonam_vOz, tatpcitmeo-u thích bài này.
  10. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927


    CUỘC ĐẤU TRANH CHO KẾ HOẠCH CỦA CỤM TẬP ĐOÀN QUÂN A.





    Đương nhiên tôi không trực tiếp cảm thấy kế hoạch tác chiến có gì độc đáo tại thời điểm đó vào tháng 10 năm 1939. Người phàm trần phải luôn làm việc cần mẫn và nỗ lực trước khi đạt được mục tiêu. Không có tác phẩm nghệ thuật sẵn có nào có thể nảy ra từ não của người như Pallas Athene từ đầu Zeus.

    Tuy nhiên, các đề xuất đầu tiên của Cụm tập đoàn quân gửi cho O.K.H. (ngày 31 tháng 10 năm 1939) về đường lối hoạt động trong trường hợp tiến công của Đức đã chứa đựng các nguyên tắc cơ bản của kế hoạch 'mới'.

    Nói chính xác hơn, có hai tài liệu liên quan. Đầu tiên là một lá thư của Tư lệnh Cụm tập đoàn quân gửi Tổng tư lệnh để xử lý vấn đề cơ bản là thực hiện một cuộc tiến công của Đức trong thực tế vào thời điểm đó.

    Von Rundstedt bắt đầu bằng cách nhấn mạnh rằng kế hoạch tấn công theo Phương án tác chiến ngày 19 và 29 tháng 10 không thể có chiến thắng quyết định đối với cuộc chiến. Mối tương quan giữa sức mạnh của các lực lượng của Đức và kẻ địch yêu cầu phải dốc toàn lực cho một chiến thắng toàn diện, không những chỉ bằng chiến dịch trực diện, mà có khả năng xoay chuyển vào bên sườn địch và vào hậu phương. Kết quả có thể xảy ra sẽ là một trận chiến trực diện trên Somme. Đồng thời v. Rundstedt đã chỉ ra những khó khăn trong việc sử dụng hiệu quả xe tăng và máy bay - quân át chủ bài của chúng tôi - vào mùa thu và mùa đông.

    Tuy nhiên, một cuộc tiến công vẫn phải được tiến hành, thành công của nó sẽ tạo ra các điều kiện tiên quyết cho hạm đội và không quân của chúng ta hành động chống lại Anh. Kinh nghiệm trong Thế chiến I đã chỉ ra rằng muốn chống lại Anh chúng ta không chỉ cần sở hữu một phần của bờ biển Channel mà còn cần phải kiểm soát toàn bộ bờ biển bắc Pháp cho đến tận Đại Tây Dương cho mục đích này.

    Phải phát huy tối đa khả năng của Quân đội Đức vào một chiến thắng nhanh chóng, vì ở sau lưng là Liên Xô sẽ không thể bảo vệ được. Yếu tố quyết định cho khả năng tấn công này là trên bộ, và tình hữu nghị của Liên Xô sẽ chỉ được đảm bảo miễn là chúng ta có một lực lượng có khả năng hành động.

    Hiện tại, khả năng tấn công của quân đội chúng tôi chỉ được tập trung vào các sư đoàn chính quy, và sẽ duy trì như vậy cho đến khi các lực lượng mới có được mức độ đào tạo và ổn định cần thiết. Tuy nhiên, một cuộc tấn công quan trọng không thể chỉ đặt trọng trách vào riêng các sư đoàn chính quy.

    Các cường quốc phương Tây có thể thực hiện cuộc tấn công do hậu quả áp lực của Luftwaffe lên phía Anh, mặc dù ngay cả khi Anh yêu cầu hành động như vậy thì cũng không chắc chắn liệu tinh thần chiến đấu của Pháp có đứng vững cho đòi hỏi phải đổ máu không?. Theo quan điểm của chúng tôi, phía Pháp muốn chúng tôi phải chịu gánh nặng của việc tấn công các vị trí kiên cố và vi phạm sự trung lập của Bỉ (và Hà Lan). Đồng thời, chúng tôi không thể chơi một trò chơi chờ đợi vô thời hạn và cho Anh thời gian để sàn bằng cách biệt trong quá trình tái vũ trang và sản xuất máy bay của mình.

    Cuộc chiến chống lại Anh chỉ có thể chiến thắng trên biển và trên không. Chiến thắng trên bộ có thể bị mất nếu khả năng tấn công của quân đội bị lãng phí trong các trận chiến thiếu quyết đoán.

    Do đó, bức thư của Von Rundstedt đã cảnh báo không được phát động hấp tấp bất kỳ cuộc tấn công nào của Đức - tức là vào những tháng mùa thu hoặc mùa đông. Về mặt này, Cụm tập đoàn quân A và O.K.H. đồng ý với nhau. Tuy nhiên, họ không đồng ý về phương pháp được thông qua, và Tư lệnh Cụm tập đoàn quân đã tập hợp lại các ý kiến phản đối lại việc tiến hành các hoạt động mà đó là hàm ý của O.K.H. Kết luận theo cách Phương án tác chiến không đảm bảo cho chúng tôi thành công .

    Lần liên lạc thứ hai của Cụm tập đoàn quân A với O.K.H., ngày 31 tháng 10, được gửi dưới dạng một lá thư của ban tham mưu, bổ sung các đánh giá của v. Rundstedt bằng cách đưa ra các khuyến nghị chắc chắn về cách chúng tôi quân đội Đức nên tiến hành một cuộc tấn công . Tài liệu này, vốn chứa các yếu tố cần thiết của kế hoạch 'mới', nhấn mạnh sự cần thiết của:
    (a) chuyển mũi chủ công của toàn bộ chiến dịch sang cánh phía nam;

    (b) đưa phần lớn các lực lượng cơ giới theo loại mà các lực lượng này có thể thọc sâu từ phía nam vào phía sau quân đội Đồng minh ở miền Bắc Bỉ;

    (c) tiếp tục với bổ sung một tập đoàn quân chịu trách nhiệm ngăn chặn, bằng cách tấn công, bất kỳ cuộc phản công quy mô lớn nào chống lại sườn phía nam của chúng tôi.

    Chúng tôi hầu như không có thể mong chờ lá thư này sẽ có được bất kỳ phản hồi nào trước ngày 3 tháng 11, ngày mà Tổng tư lệnh quân đội và Tham mưu trưởng của mình đến thăm, mặc dù tôi được phép - hành động theo chỉ dẫn từ Đại tướng v. Rundstedt - để trình bày các lí lẽ của chúng tôi trực tiếp. Tuy nhiên, Đại tướng v. Brauchitsch đã từ chối yêu cầu tôi đưa ra cho các lực lượng bổ sung (thêm một tập đoàn quân và phần lớn các lực lượng xe tăng) với nhận xét rằng v. Brauchitsch 'chỉ ước mình có thừa các lực lượng này'. Điều này đủ rõ ràng rằng v. Brauchitsch vẫn hoàn toàn từ chối chấp nhận quan điểm của chúng tôi. Tuy nhiên, cuối cùng, v. Brauchitsch đã hứa với chúng tôi sẽ có được một sư đoàn thiết giáp và hai trung đoàn cơ giới từ lực lượng dự bị của quân đội.

    Thật không may, hai vị trên cũng rõ rằng cho thấy họ có những e dè nhất định về cuộc tấn công dự kiến ở phía tây, đặc biệt là liên quan đến cơ hội giành chiến thắng quyết định. Có thể hiểu được điều này khi họ yêu cầu các tư lệnh tập đoàn quân và quân đoàn của chúng tôi báo cáo về tình trạng hiện tại của lực lượng của mình, nhưng cách than phiền mà họ nhận được - trong đó có rất nhiều - về tình trạng của các sư đoàn mới thành lập khiến cá nhân các chỉ huy cảm giác không có nguồn lực lượng dự bị dồi dào cho cuộc tấn công.

    Để giảm bớt điều này, Đại tướng v. Rundstedt đã tự mình nói chuyện với các tướng lĩnh của Cụm tập đoàn quân vài ngày sau đó. Bằng cách chia sẻ lập trường hoạt động ban tham mưu của mình, v. Rundstedt đã cho họ thấy rằng thực sự có nhiều khả năng thành công cho một chiến thắng quyết định ở phía tây, ngay cả khi không thích hợp để tấn công trước mùa xuân.

    Vào ngày 6 tháng 11, khi trả lời một yêu cầu của O.K.H. muốn một báo cáo về ý định của chúng tôi trong khi thực hiện Phương án tác chiến, chúng tôi đưa ra các đề xuất của mình một lần nữa, nhưng không nhận được câu trả lời…..

    (NGUỒN : LÊ TIỆP)
    caonam_vOz, tatpcitmeo-u thích bài này.

Chia sẻ trang này